thất phật thông giới kệ

Phật Quang Đại Từ Điển

(七佛通戒偈) Chỉ cho các bài kệ tụng về giới luật chung của 7 đức Phật quá khứ, cho đến nay vẫn còn được tín đồ Phật giáo truyền tụng. Về ý nghĩa của các kệ tụng này, phẩm Tựa trong kinh Tăng nhất a hàm quyển 1 (Đại 2, 551 thượng) nói: Nghĩa của Tứ hàm, trong 1 bài kệ đều có đủ lời dạy của chư Phật, lời dạy của Bích chi Phật và Thanh văn. Sở dĩ như thế là vì các điều ác chớ làm thì cấm giới đầy đủ, đạo hạnh thanh bạch; các điều thiện vâng làm thì tâm ý trong sạch; tự tịnh ý mình thì trừtà điên đảo; đó là lời chư Phật dạy, diệt trừ ngu hoặc. Vì chư Phật mới ra đời, các đệ tử đều thanh tịnh, cho nên các Ngài không cần đặt ra giới cấm riêng, mà chỉ dùng 1 bài kệ chung làm giới cấm, cho nên gọi là Thông giới, cũng gọi là Lược giới. Theo kinh Tăng nhất a hàm quyển 44 thì các bài kệ tụng của 7 đức Phật quá khứ là: 1. Kệ của Phật Tì bà thi: Nhẫn nhục vi đệ nhất, Phật thuyết vô vi tối; Bất dĩ thế tu phát, Hại tha vi sa môn. (Nhịn nhục là bậc nhất, Đạo vô vi (Niết bàn) cao tột; Xuất gia não hại người, Không phải là sa môn). 2. Kệ của Phật Thí kết (Thi khí): Nhược nhãn kiến phi tà, Tuệ giả hộ bất trước; Khí tổn ư chúng ác Tại thế vi hiệt tuệ. (Mắt thấy điều tà bậy, Người trí không dính mắc; Vứt bỏ các việc ác, Là bậc tuệ trong đời). 3. Kệ của Phật Tì xá la bà(Tì xá bà): Bất hại diệc bất phi, Phụng hành ư đại giới; Ư thực tri chỉ túc, Tòa sàng diệc phục nhiên; Chấp chívichuyên nhất, Thị tắc chư Phật giáo. (Không hại, không làm trái, Vâng giữ các đại giới, Ăn uống biết dừng đủ, Giườngchiếu cũng như thế; Phải giữ chí chuyên nhất, Là lời chư Phật dạy). 4. Kệ của Phật Câu lâu tôn: Thí như phong thái hoa, Kì sắc thậm hương khiết; Dĩ vị huệ thí tha, Đạo sĩ du tụ lạc, Bất phỉ báng ư nhân, Diệc bất quán thị phi, Đãn tự quán thân hành Đế quán chính bất chính. (Như ong hút mật hoa, Hương sắc hoa không tổn; Lấy vị ban cho người, Tỉ khưu vào làng xóm, Chớ nên dèm chê người, Không bàn chuyện phải quấy, Chỉ xét hành vi mình Xem chính hay bất chính). 5. Kệ của Phật Câu na hàm mâu ni: Chấp chí mạc khinh hí, Đương học tôn tịch đạo; Hiền giả vô sầu ưu, Đương diệt chí sở niệm. (Giữ tâm chớ bàn suông, Nên học đạo vắng lặng; Người trí không buồn sầu, Diệt trừ mọi tà niệm). 6. Kệ của Phật Ca diếp: Nhất thiết ác mạc tác, Đương phụng hành kì thiện; Tự tịnh kì chí ý, Thị tắc chư Phật giáo. (Phải tránh mọi việc ác, Vâng làm các điều lành; Giữ tâm ý trong sạch, Là lời chư Phật dạy). 7. Kệ của Phật Thích ca Mâu ni: Hộ khẩu ý thanh tịnh, Thân hành diệc thanh tịnh; Tịnh thử tam hành tích, Tu hành tiên nhân đạo. (Giữ miệng, ý trong sạch, Thân hành cũng trong sạch, Ba nghiệp đều trong sạch, Là tu đạo Như lai). Bài kệ Thông giới mà Phật giáo đời sau thường dùng là bài kệ của Phật Ca diếp, nhưng về mặt văn từ có hơi khác nhau, tức như 4 câu trong kinh Tăng nhất a hàm quyển 1 do tôn giả A nan dẫn: Chư ác mạc tác, Chúng thiện phụng hành; Tự tịnh kì ý, Thị chư Phật giáo.