thập nhị cung

Phật Quang Đại Từ Điển

(十二宮) Chỉ cho 12 cung của các vì tinh tú trong pháp xem thiên văn. Tên gọi và hình tượng 12 cung được liệt kê trong viện Ngoại kim cương bộ của Mạn đồ la Thai tạng giới Mật giáo, hơi khác với tên gọi các cung nêu trong kinh Tú diệu. Mười hai cung này là quyến thuộc của Nguyệt thiên, tức Thái dương được chia làm 6 cung: Sư tử cung, Nữ cung, Xứng cung, Yết cung, Cung cung và Ma yết cung; Thái âm được chia làm 6 cung: Bảo bình cung, Ngư cung, Bạch dương cung, Kim ngưu cung, Nam nữ cung và Giải cung. Mỗi cung đều phân định chủ quản một việc để phán định tốt xấu, như 6 cung Thái dương theo thứ tựchủvề quân lữ, cung phòng, kho tàng, bệnh hoạn, tướng tướng, hình sát; 6 cung của Thái âm theo thứ tự chủ quản về việc học, quan chức, bếp núc, chuồng ngựa, cửa nẻo và ngục tụng. Thập nhị cung phối trí với phương vị thuộc 4 phương thì phương Đông là Nam nữ cung, Bạch dương cung và Kim ngưu cung; phương Tây là Xứng cung, Yết cung và Cung cung; phương Nam là Bảo bình cung, Ngư cung và Ma yết cung; phương Bắc là Giải cung, Sư tử cung và Nữ cung. Trong đó, Nam nữ cung, Xứng cung và Bảo bình cung, nếu đi về hướng Đông thì rất tốt; Cung cung, Sư tử cung thì đi về hướng Tây cũng rất tốt, Bạch dương cung đi về hướng Tây thì rất xấu; Giải cung, Nữ cung, Yết cung và Ngư cung đi về hướng Nam thì rất tốt, Ma yết cung đi về hướng Nam thì rất xấu; Kim ngưu cung đi về hướng Bắc cũng rất xấu. [X. kinh Tú diệu Q.thượng, hạ; kinh Đại phương đẳng đại tập Q.42].