thạch đào

Phật Quang Đại Từ Điển

(石濤) Danh tăng Trung quốc sống vào đời Minh, người ở Thanh tương, tỉnh Quảng tây, có thuyết nói người ở Quế lâm. Sư nổi tiếng về thư họa, là 1 trong 4 vị tăng trứ danh cuối đời Minh (Minh mạt tứ tăng) trong lịch sử hội họa Trung quốc. Sư vốn là Chu nhược cực, tôn thất (họ vua) của triều Minh. Từ nhỏ, thấy mầm mống nội loạn của nhà Minh, sư đã gửi mình nơi cửa Phật. Sư từng theo học ngài Bản nguyệt. Ngoài Phật học, sư còn theo học cả thư họa, thi văn(viết các kiểu chữ, vẽ tranh, làm thơ, soạn văn). Sau khi nhà Minh diệt vong, sư xuất gia làm tăng, lấy pháp danh là Nguyên tế, sau đổi thành Đạo tế, hiệu Đại địch tử, Thanh tương lão nhân. Về già, sư lấy các biệt hiệu là Hạt tôn giả, Lão đào, Chi hạ tẩu và tự xưng là Khổ qua hòa thượng. Sư bẩm tính ngay thẳng, không ưa bợ đỡ người khác, từng nuôi chí phản Thanh phục Minh(đánh đổ nhà Thanh, khôi phục nhà Minh). Sau thấy vận thế nhà Minh đã hết, sư bèn vân du các nơi Tiêu tương, Động đình, Lô sơn… Lúc trung niên, sư thường ở Tuyên thành thuộc tỉnh An huy và thường du ngoạn Hoàng sơn, tự cho rằng mình đã lãnh hội được tính Hoàng sơn, tranh sơn thủy của sư lấy Hoàng sơn làm cốt mạch, từ đó mở ra phái Hoàng sơn.Về già, sư định cư ở Dương châu, giao du rất rộng, tiếng tăm ngang với Thạch khê Khôn tàn, được gọi chung là Nhị thạch. Bình sinh, sư giỏi về hội họa, nhất là tranh sơn thủy, lan, trúc, hình thức trang nhã, cổ kính, người đương thời suy tôn sư là Giang Nam Đệ Nhất. Sư cũng giỏi về thư pháp, khắc ấn, nhất là kiểu chữ Lệ, thơ văn cũng hay. Những họa phẩm của sư phần nhiều mang đậm ý Thiền, ảnh hưởng rất lớn đối với đời sau. Sau có các tác phẩm: Đại địch tử đề