tăng già bạt trừng

Phật Quang Đại Từ Điển

(僧伽跋澄) Phạm: Saôghabhùti. Hán dịch: Chúng hiện. Cao tăng nước Kế tân, Bắc Ấn độ, đến Trung quốc dịch kinh vào đời Đông Tấn.Sư học đủ 3 tạng, thông suốt các kinh, lại hiểu thấu diệu chỉ của luận A tì đàm tì bà sa. Vì có chí du phương, nên vào năm Kiến nguyên 19 (383) đời Phù Tần, sư đến Trường an, rồi cùng với các vị Đạo an, Đàm ma nan đề, Phật đồ la sát, Triệu chính (tự Văn nghiệp)… dịch luận A tì đàm tì bà sa. Năm Kiến nguyên 20 (384) sư lại nhận lời thỉnh của Triệu chính, cùng với các vị Đàm ma nan đề, Tăng già bà đề và Trúc phật niệm dịch bộ luận Tôn bà tu mật bồ tát sở tập 10 quyển. Không bao lâu, sư lại theo lời thỉnh của Triệu chính, dịch kinh Tăng già la sát sở tập 3 quyển ở chùa Thạch dương tại Trường an. Về sau, vì Quan trung loạn lạc nên sư lánh nạn ở Đông Tấn. Năm Hoàng sơ thứ 4 (397), đời Diêu Tần, sư trở về Y lạc, mùa thu năm sau, nhận lời thỉnh của Thái úy Diêu mân, cùng với ngài Trúc phật niệm, dịch kinh Xuất diệu 30 quyển. Sư có giới đức thanh cao, tinh thần an nhiên thoát tục, chúng tăng ở Quan trung phần nhiều kính ngưỡng sư là bậc mô phạm. [X. Xuất tam tạng kí tập Q.2, 10, 13; Lương cao tăng truyện Q.1; Lịch đại tam bảo kỉ Q.8; Khai nguyên thích giáo lục Q.3; Hán Ngụỵ Lưỡng Tấn Nam Bắc triều Phật giáo sử (Thạng dụng đồng)].