tang diên tự

Phật Quang Đại Từ Điển

(桑鳶寺) Tạng: Bsam-yas. Gọi đủ: Bsam-yas mi-#gyur Ihungyis grupa#i gsug-lag-khaí. Cũng gọi Tang y tự, Tang da tự. Chùa ở ngoại ô, phía đông nam thủ do Lạp tát (Tạng: Lhasa), mạn bắc sông Nhã lỗ tạng bố (Tạng:Tsaí-po), là ngôi chùa đầu tiên ở Tây tạng, do vua Khất lật song đề tán (Tạng:Khri-sroí-lde-btsan) xây dựng vào năm 766. Có thuyết nói chùa này được sáng lập vào năm 779, với sự giúp đỡ của ngài Tịnh hộ (Phạm: Zàntiraksita) và Liên hoa sinh (Phạm: Padmasambhava). Chùa này được xây cất phỏng theo chùa Âu đan đa phá lê (Phạm: Udaịđapura), một tổng hợp các phong cách kiến trúc Tây tạng, Trung quốc và Ấn độ, cho nên cũng gọi là Tam dạng tự. Cách bố cục, chính giữa là núi Tu di, phía ngoài có 4 đại châu, 8 tiểu châu và 2 vầng nhật nguyệt, ngoài cùng có tường bao chung quanh, 4 góc đều có xây 4 ngôi tháp Xá lợi, 4 cửa đều dựng 4 tấm bia. Chùa gồm một tòa Đại điện, 4 viện Đại học và các kiến trúc khác, chung quanh xây tường cao, dài khoảng 2,4km, trên tường có 1030 ngôi tháp gạch. Tượng Đại Phật thờ ở chính điện cao 16m, các tượng Phật được tôn trí trong chùa phần nhiều được đúc bằng vàng ròng và trang sức bằng châu báu, các đồ thờ trước Phật đa số cũng được làm bằng vàng bạc. Tấm bia đá hình trụ vuông trước chùa được dựng vào thời vua Ngật lật song đề tán (742-797), có khắc bài minh tiếng Tây tạng. Hiện nay chùa đã bị phá hủy, các di vật văn hóa đều bị mất. Chùa có thiết lập Viện Dịch kinh (Tạng: Sgra-bs-gyur lha-khaí), bên trong tàng trữ các nguyên điển Ấn độ, nhưng rất tiếc phần lớn đã bị thiêu hủy vào năm 1810. Các vị tăng học giả người Ấn độ như Tang đề ca nhĩ phạ (Phạm: Zàntigarbha), Duy hưu đạt hân ha (Phạm: Vizuddha= siôha)… và các vị tăng dịch kinh người Tây tạng như Khúc kì nam ba (Tạng: Choskyi naí-pa), Bàng đức nạp mục ca (Tạng: Bande nammkha#)… từng phiên dịch kinh điển Phật bằng tiếng Phạm sang tiếng Tây tạng tại chùa này dưới sự giúp đỡ của vua Khất lật song đề tán, đồng thời, vâng sắc biên tập bộ Kinh tạngmục lụcđược cất giữ trong cung Điền ca nhĩ (Tạng: Denkar).Vào thế kỉ IX, người Thổ phồn cấm truyền bá Phật giáo, chùa này từng bị đóng cửa. Đến nửa sau của thế kỉ X, Phật giáo mới được khôi phục. Hiện nay chùa này do các vị tăng Lạt ma thuộc phái Tát ca cai quản, nhưng phần lớn trong số 1000 vị tăng hiện tu học ở đây lại thuộc phái Ninh mã (Tạng: Rĩií-ma-pa). [X. The Buddhism of Tibet (L. A. Waddell); The Tibetan Book of the Great Liberation (Evans-Wentz); Tibet and the Tibetans (Tsung-Lien Slen and Shen Chi Liu); Pag Sam Jon Zang (S.Candra Das); Die Religionen Tibet (H.Hoffmann); Mk’ yen Brtse’s Guide to the Holy places of Central Tibet (A. Ferrari)].