Pháp Tính Tông

Từ Điển Đạo Uyển

法性宗; C: făxìngzōng; J: hōshōshū; K: pŏpsŏngjong.
Tên gọi có tính co giãn được dùng sau sự kiện một hệ thống nghiên cứu học thuật Hàn Quốc quan tâm đến đề tài Như Lai tạng (如來藏, s: tathāgatagarbha) và A-lại-da thức (阿頼耶識, s: ālayavijñāna), nhưng là những vấn đề được tiếp cận từ quan điểm “duyên khởi tính” hơn là phát xuất từ những đặc tính riêng. Do vậy, dạng nghiên cứu những vấn đề ngược lại những gì được gọi là “Pháp tướng” (法相, k: pŏpsang). Sự thành lập tông nầy thường được xem là ảnh hưởng của Nguyên Hiểu (元曉, k: wŏnhyo).