Cưu-ma-la-thập

Từ điển Đạo Uyển

鳩摩羅什; S: kumārajīva; dịch nghĩa là Ðồng Thọ ; 344-413;

Một dịch giả Phật học nổi tiếng, chuyên dịch kinh sách từ văn hệ Phạn ngữ (sanskrit) ra tiếng Hán. Cưu-ma-la-thập xuất phát từ một gia đình quý tộc tại Dao Tần (kucha), thuộc xứ Tân Cương ngày nay. Sư bắt đầu tu học Tiểu thừa (s: hīnayāna) nhưng về sau lại trở thành pháp khí Ðại thừa (s: mahāyāna). Năm 401 Sư đến Trường An và bắt đầu công trình dịch thuật với sự góp sức của hàng ngàn nhà sư. Năm 402, Sư được phong danh hiệu “Quốc sư”.

Những kinh sách quan trọng được Cưu-ma-la-thập dịch là: A-di-đà kinh (s: amitābha-sūtra, năm 402), Diệu pháp liên hoa kinh (s: saddharmapuṇḍarīka-sūtra, 406), Duy-ma-cật sở thuyết kinh (s: vimalakīrtinirdeśa-sūtra, 406), Bách luận (s: śataśāstra, 404) của Thánh Thiên (s: āryadeva) cũng như Trung quán luận tụng (s: madhyamaka-kārikā, 409), Ðại trí độ luận (s: mahāprajñā-pāramitā-śāstra, 412), Thập nhị môn luận (s: dvādaśadvāra-śāstra, 409) của Long Thụ (s: nāgārjuna), người thành lập tông Trung quán (s: mādhyamika). Nhờ ba công trình cuối kể trên Sư đã truyền bá giáo pháp của Trung quán tông rộng rãi tại Trung Quốc.

Mới lên bảy, Cưu-ma-la-thập đã cùng mẹ là một công chúa gia nhập Tăng-già. Hai mẹ con đến Kashmir và học giáo lí Tiểu thừa với các vị sư nổi tiếng nhất. Sau đó hai người lưu lại tại Kashgar một năm và Sư học thêm ngành thiên văn, toán và khoa học huyền bí. Cũng nơi đó, Sư bắt đầu tiếp xúc với Ðại thừa và sau đó chuyên tâm tìm hiểu giáo pháp này. Dần dần danh tiếng của Sư là luận sư xuất sắc lan xa, đến tới triều đình Trung Quốc. Năm 384 Sư bị bắt trong một cuộc chiến tranh tại Dao Tần (ku-cha) và bị một viên tướng Trung Quốc giam giữ 17 năm. Năm 402 Sư được thả về Trường An và được triều đình Trung Quốc ủng hộ trong công tác dịch kinh.

Công lớn của Sư trước hết là thay đổi phương pháp phiên dịch. Bản thân Sư nói được tiếng Trung Quốc và cộng sự viên cũng đều là người giỏi Phật giáo và Phạn ngữ (sanskrit). Cách dịch kinh của Sư như sau: giảng kinh hai lần bằng tiếng Trung Quốc, sau đó các tăng sĩ Trung Quốc thảo luận và viết lại bằng tiếng Hán. Sau đó Sư lại kiểm soát và so sánh nguyên bản cũng như bản dịch để ra bản chung quyết. Khác với các nhà dịch thuật khác tìm cách dịch từng chữ, Sư là người đưa được nội dung sâu xa của kinh sách vào chữ Hán và – nếu thấy cần thiết – cũng mạnh dạn cắt bỏ một vài đoạn kinh không hợp và biến đổi văn từ cho hợp với người Trung Quốc.