TỤC TRUYỀN ĐĂNG LỤC

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 33

Đời thứ 17, Sau đời Thiền sư Đại Giám

– Đệ tử nói dõi dòng pháp Thiền sư Khuê ở Long tường, có hai vị:

  1. Thiền sư Đức Thăng ở Vân cư.
  2. Thiền sư Tuệ Ôn ở Lang sơn (hai vị hiện có ghi lục).

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Ngộ ở Vân cư, có chín vị:

  1. Thiền sư Đức Dụng ở Song lâm
  2. Thiền sư Đạo Nhạn ở Vạn niên
  3. Thiền sư Thiện Năng ở Trung tế
  4. Thiền sư Tự Viên ở Vân cư (bốn vị hiện có ghi lục)
  5. Thiền sư Quảng ở Linh thuỵ
  6. Thiền sư Kiên ở Hoài ngọc tại Tín châu
  7. Thiền sư Long ở Đồng an tại Hồng châu
  8. Thiền sư Nghi Phương ở Linh nham
  9. Thiền sư Ấn – Huyển Trú ở Hoàng nghiệt (năm vị không ghi chép)

– Đệ tử nối dối dòng pháp Thiền sư Hạnh ở Ô cự, có sáu vị:

  1. Thiền sư Hưu ở Tiến phước
  2. Thiền sư Tuệ Quang ở Quy phong
  3. Thiền sư Thử Nhân ở Trường lô (ba vị hiện có ghi lục)
  4. Thiền sư Trung ở Tiến phước
  5. Thiền sư Ký ở Thiên ninh
  6. Thiền sư Tu ở Trí giả (ba vị không có ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng Pháp Thiền sư Thuận ở Bạch dương, có hai vị:

  1. Thiền sư Như ở nguyên (Hiện có ghi lục)
  2. Thiền sư Nham Như ở Nam an (Không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Như ở Vân cư, có hai vị:

  1. Thiền sư Ngạn Sầm ở Ẩn tỉnh
  2. Thiền sư Thành ở Báo ân (hai vị hiện có ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Biện ở Đạo tràng, có sáu vị:

  1. Thiền sư ở Giác báo
  2. Thủ tòa Nhiên ở Hà sơn (hai vị hiện có ghi lục)
  3. Thiền sư Tế ở Chánh pháp
  4. Thiền sư Bằng ở Năng nhân
  5. Thiền sư Cần ở Kim thằng
  6. Thiền sư Ngôn ở Đạo tràng (bốn không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Trung ở Hoàng long, có bốn vị:

  1. Thiền sư giới Tu ở Tín tướng (Hiện có ghi lục)
  2. Thiền sư Ấn Túc ở Từ hóa
  3. Thiền sư Đạo Huy ở Vô vi
  4. Thiền sư Đạo Vân ở Sùng hóa (03 vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng Pháp Thiền sư Liên ở Tây thiền, có 01 vị:

1. Thiền sư Hy Tú ở Tây thiền (Hiện có ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Ni Uẩn ở Tịnh cư, có 01 vị:

1. Thiền sư Ni Pháp Đăng ở Tịnh cư (Hiện có ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Quả ở Đại quy, có mười lăm vị:

  1. Thiền sư Tông Liên ở Ngọc tuyền
  2. Thiền sư Hạnh ở Đại quy
  3. Thiền sư Uyên ở Đạo lâm
  4. Thiền sư Tổ Chứng ở Đại hồng
  5. Thiền sư Đức Thuần ở Lặc đàm
  6. Thiền sư Khả Phong ở Bảo an
  7. Thiền sư Tổ Tuyền ở Thạch đình
  8. Thiền sư Tông Giám ở Thạch sương (tám vị có ghi lục)
  9. Thiền sư Xán ở Cát tường
  10. Thiền sư Lập ở Thạch môn
  11. Thiền sư Viễn ở Song lâm
  12. Thiền sư Giác Văn ở Phung lung
  13. Thiền sư Xiêm ở Hòa sơn
  14. Thiền sư Tư ở Pháp luân
  15. Thiền sư Nhất ở Tuyết phong (bảy vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hồi ở Thạch đầu, có một vị:

  1. Thiền sư Đức Hội ở Vân Cư (Hiện có ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Kham ở Dục Vương, có bảy vị:

  1. Thiền sư Đàm Bí ở Vạn niên
  2. Thiền sư Liễu Phác ở Thiên đồng
  3. Thiền sư Tông Hồi ở Tây nham
  4. Thiền sư Thản Nhiên ở Cao ly
  5. Thiền sư Bản ở Long hoa (năm vị hiện có ghi lục)
  6. Thiền sư Tiên ở Hoa tạng
  7. Thiền sư Diệu Trạm ở Tuyết đậu (hai vị không có ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Lâm ở Đạo tràng, có ba vị:

  1. Thiền sư Cát ở Đông sơn (Hiện có ghi lục)
  2. Thiền sư Ngô ở Lang sơn
  3. Thiền sư Liễu Túy ở Kính sơn (hai vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tuệ ở Đạo tràng, có một vị:

  1. Thiền sư Đạo Xu ở Linh ẩn (Hiện có ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Mẫn ở Quang hiếu, có hai vị:

  1. Thủ tòa Ngộ Sơ ở Quang hiếu (Hiện có ghi lục)
  2. Thiền sư Thiện Hạnh ở Sùng thắng (Không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Diệu ở Trung trúc, có hai vị:

  1. Thiền sư Thâm ở Quang hiếu (Hiện có ghi lục)
  2. Thiền sư Uẩn Chung ở Linh ẩn (Hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Bính ở Nam hoa, có bốn vị:

  1. Thiền sư Tông Triệu ở Tứ tổ
  2. Thiền sư Pháp ở Thiên ninh
  3. Thiền sư Nguyệt ở Chánh pháp
  4. Thiền sư Minh ở Nam hoa (bốn vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tịnh ở Tuyết đình, có một vị:

  1. Thiền sư Tăng Giới ở Thúy vân (Hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tư ở Nột đường, có ba vị:

  1. Thiền sư Hạnh Tề ở Trừng chiếu
  2. Thiền sư Lập ở nguyên
  3. Thủ tòa Trí (ba vị hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hải ở Đại trung, có một vị:

  1. Thiền sư Pháp Chu ở Báo ân (Hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Khanh ở Bồng lai, có một vị:

  1. Thiền sư Quảng ở Diệu phước (Hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Hiền ở Chân mục, có hai vị:

  1. Thiền sư Tự Hành ở Vĩnh phước
  2. Thiền sư Liễu Ngộ ở Vô vi (hai vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Viễn ở Khuếch am, có một vị:

  1. Thiền sư Nghi ở Tín tướng (Hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Phạm ở Cổ phật, có một vị:

  1. Thiền sư Hy ở Ô hồi (Hiện không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Trung ở Cầu đường, có một vị:

  1. Thiền sư Hoằng – Độc Tú ở Thượng lam (Không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Tín ở Mộng am, có bốn vị:

  1. Thiền sư Trác ở Năng nhân
  2. Thiền sư Diệu ở Hạc lâm
  3. Thiền sư Tủng ở Hiếu cảm
  4. Thiền sư Đạo Toàn ở Vĩnh ninh (bốn vị không ghi lục)

– Đệ tử nối dõi dòng pháp Thiền sư Giám ở Trúc Am, có một vị:

  1. Thiền sư Như Tịnh ở Thiên đồng (Hiện không ghi lục).

 

ĐỆ TỬ NỐI DÕI DÒNG THIỀN SƯ KHUÊ Ở LONG TUYỀN

1. Thiền sư Đức Thăng ở Vân cư.

Thiền sư Đức Thăng – Ngoan Am ở Vân cư tại Nam khương quán, vốn người dòng họ Hà ở Hán châu. Năm hai mươi tuổi được độ, Sư tập học các giảng tứ, lâu sau giã từ, đến bái yết Thiền sư Đạo ở Văn Thù, thưa hỏi tỉnh yếu Phật pháp. Thiền sư Đạo chỉ dạy với Kệ tụng rằng:

“Khiết Đan đánh phá trại Ba-tư,
Đoạt được châu báu trong thôn.
Đầu đường ngả tư trẻ khốn cùng
Co lưng mang cái đãy phong lưu”.

Sư định đối đáp. Thiện sư Đạo bảo: “Chớ sai nhầm”. Sư trở lui tham cứu suốt ba năm mới được chỉ thú, rồi đến bái kiến Thiền sư Phật Tánh nhưng cơ chẳng gieo, Sư lại vào đất Mân đến lễ cận ở Bành sơn, bèn hỏi: “Một câu Quốc Sư chẳng vượt Thạch môn, ý chỉ như thế nào?” Trúc Am (Thiền sư Khuê) hét một tiếng, bảo: “Nói rỗng rang”. Liền đó Sư bèn lãnh hội. Ở lâu sau, có vị tăng hỏi: “Với Ứng châu (A-la-hán) chẳng gá ba cõi, vượt cao xa tức chẳng hỏi. Còn thế nào là Vô vị Chân nhân?” Sư đáp: “Lúc nghe thì giàu sang, nhưng sau khi thấy lại nghèo túng”. Lại nói: “Lắc đầu phải bít tai, nghiêng tay liền vụt thân”. Sư bảo: “Vô vị Chân nhân ở phương nào?” Vị tăng ấy đáp: “Lão Đại Tông sư thoại đâu cũng chẳng biết”. Sư bảo: “Tha cho ông ba mươi gậy”.

2. Thiền sư Tuệ ôn ở Lang sơn.

Thiền sư Tuệ Ôn – La Am ở Lang sơn tại Thông châu, vốn người dòng họ Trịnh ở Phước châu. Sư vân du dự tham khắp các bậc lão túc, sau cùng, đến nương tựa Trúc Am (Thiền sư Khuê) ở Đông lâm. Sau đó không lâu, Thiền sư Khuê từ tạ mọi sự. Sư lại đến bái yết Thiền sư Ngộ – Cao Am, Thiền sư Bính ở Nam hoa, Thiền sư ở Thảo đường và đều được thưởng thức. Gặp lúc Thiền sư Khuê chuyển lời đến ở Càn nguyên tại đất Mân. Sư bèn trở về tỉnh xét, Thiền sư Khuê hỏi: “Tình sinh thì trí cách, tương biến thì thể khác, chẳng dùng đình dừng tù trưởng, trí đạo đem một câu lại”. Sư mới tỏ sáng, bèn thuật kệ tụng rằng:

“Ép ra thông thân là miệng,
Nào phòng mắng mưa trách gió,
Đêm qua Hổ dữ trước thôn,
Cắn chết Đại Phong Nam sơn”.

Thiền sư Khuê gật đầu chấp thuận. Ở lâu sau lên giảng đường, Sư bảo: “Thích-ca Lão Tử suốt bốn mươi chín năm ngồi tích màn che, Di-lặc Đại sĩ chín mươi mốt kiếp mang nước kéo bùn, phàm tình Thánh lượng chẳng thể vạch trừ, lý chiếu thấy biết còn ở trải đường, ý Phật ý Tổ như đem mắt cá làm minh châu, Đại thừa Tiểu thừa tợ nhận võ quýt làm lửa dữ. Các người phải là mở mang kho báu trong cõi lòng mình, chuyển ra nhà quý của chính mình, đến đầu ngả tư đường, ban cấp cho người nghèo khổ. Trong chúng nếu có gã nào lanh lợi hãy ra nói xem. Vật thực ngon chẳng trúng người no ăn. Sơn Tăng chỉ hưởng đến người ấy nói U châu còn tự có khả năng, rất khổ là Tân-la”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NGỘ Ở VÂN CƯ

1. Thiền sư Đức Dụng ở Song lâm.

Thiền sư Đức Dụng ở Song lâm tại Vụ châu, vốn người dòng họ Đái ở Bản quận. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Nắm dùi, dựng đứng phất trần, môn hạ Tổ sư dùng lá vàng để ngăn kêu khóc, nói diệu nói huyền, trước mặt nạp Tăng trông nhìn rừng mai mà bớt khát. Ngày nay Tế Sơn đi tức chi hồ giả dã, lại chẳng chỉ đông họa tây, hướng đến trong mạng mạch của chư Phật ba đời, trong cốt tủy của sáu đời Tổ sư, hết tình dốc đổ vì các người nói phá”. Ngưng giây lát, Sư bảo: “Khóc được máu chảy không nơi dùng, chẳng bằng ngậm miệng qua xuân tàn”.

2. Thiền sư Đạo Nhàn ở Vạn niên.

Thiền sư Đạo Nhàn – Vô Trước ở Vạn niên tại Đài châu, vốn người dòng họ Hồng ở Bản quận. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Toàn có đánh thắng còn tại nửa đường, gặm giấm đồng thời mây trắng muôn dặm, mới sinh điềm hiện đã lạc hai ba, chẳng bày mũi nhọn thành đạo lý gì? Hãy nói từ xưa trước lại, sự cấp làm sao sống? Tội của người lừa dối đem tội gắn thêm đó”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử: “Càn Phong chỉ dạy Đại chúng: “Nêu cử một chẳng được nêu cử hai, tha qua một trứ rơi lạc tại thứ hai”. Còn Vân Môn ra giữa Đại chúng bảo: “Đêm qua có người từ Thiên thai lại, tức theo hướng Kính sơn mà đi”. Tuyết Phong bảo: “Ngày điển tòa lại, không được thỉnh mời khắp cùng”. Xong, Sư bảo: “Cùng thấy chẳng phải sân, ông khổ ta cũng nghèo. Nghĩa là nói xâm lấn sớm dậy, lại có người đi đêm”.

3. Thiền sư Thiện Năng ở Trung tế.

Thiền sư Thiện Năng ở Trung tế tại Phước châu. Vốn người Nghiêm lăng. Qua lại nơi Hoàng long, Vân môn cả mấy năm nhưng chưa sở chứng. Một ngày nọ bảo khắp cả Đại chúng hái rau, Cao Am (Thiền sư Ngộ) bỗng nhiên đem con mèo ném vào bụng Sư, Sư định bàn nói. Thiền sư Ngộ lại cản ngăn ngay ngực đạp ngã té. Từ đó, Sư thấu suốt đại sự. Có lúc lên giảng đường, sư bảo: “Không trung muôn xưa một mai trăng gió, không thể đem một mai trăng gió làm khuất mờ ngày không trung muôn xưa, không thể vì không trung muôn xưa mà chẳng tỏa sáng trăng gió một mai. Hãy nói thế nào là một mai trăng gió? Mọi người sợ nóng đốt, ta thích ngày Hạ dài, gió ùa từ Nam lại, điện các sinh mát dịu. Hiểu cùng chẳng hiểu rất kỵ nhận lấy”.

4. Thiền sư Tự Viên ở Vân cư.

Thiền sư Tự Viên – Phổ Vân ở Vân cư tại Nam khương quán. Vốn người dòng họ Ung ở Miên châu. Năm mười chín tuổi, thi khảo kinh mà được độ, Sư ở lại trong Giáo uyển năm năm. Sau đó ra ải theo hướng Nam đi xuống tham vấn khắp các bậc Đại tôn túc. Mới đầu đến Hoàng long, một ngày nọ đến nơi hành lan, thấy tôn tượng vẽ họa người Hồ, mà có chút tỉnh ngộ, đêm đến bèn đem trình với Cao Am (Thiền sư Ngộ). Thiền sư Ngộ nêu cử bài kệ tụng của pháp nhãn rằng:

“Đầu trùm khăn chuột lớn,
Eo đeo dùi sừng dê,
Nói chẳng khiến người hiểu,
Phải được người chuyển dịch”.

Và lại gấp lửa chỉ cho Sư thấy mà bảo: “Ta đã vì ông mà chuyển dịch xong rồi vậy”. Từ đó Sư rõ suốt đại pháp, trình bài kệ tụng rằng:

“Lời tiếng nước ngoài chẳng thể cùng,
Mây nổi dưới sân một thời thông
Cửa miệng rộng lớn không ngẳn mé,
Nuốt hết bông gai thóc Dương kỳ”.

Thiền sư Ngộ bảo Sư đến nương tựa Thiền sư Phật Nhãn. Thiền sư Phật Nhãn nói cùng Sư: “Đạo ta lưu truyền về phương Đông vậy!” Có lúc lên giảng đường nêu cử, có vị tăng hỏi Vân Môn: “Thế nào là câu thấu suốt pháp thân?” Vân Môn đáp: “Trong Bắc đẩu ẩn tàng thân”. Sư nói: “Nam bắc đông tây muôn muôn ngàn, càn khôn trên dưới không hai bên. Cung gặp cùng thấy ha ha cười, cụp tay lắc đầu, trăng nửa trời”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HẠNH Ở Ô CỰ

1. Thiền sư Hưu ở Tiến phước.

Thiền sư Hưu – Thối Am ở Tiến phước tại Nhiêu châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Gió động ư hay phướng động ư? Gió kêu ư hay linh kêu ư? Chẳng phải gió linh kêu, chẳng phải gió phương động, xứ này cùng Tây vức, một đội thùng sơn đen, lừa dối người thế gian. Nhìn nhìn diệt giống Hồ, sơn Tăng biết làm sao. Lui sau cũng đánh cửa, trái bầu eo cong cong, bí đao thẳng thẳng mực”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Lúc kết hạ mắt trái nửa cân, lúc giải hạ mắt phải tám lạng. Dối bảo chín mươi ngày an cư, thừa được một da bụng vọng tưởng, ngay như bảy huyệt tám xuyên, chưa khỏi cây gậy của sơn Tăng. Tuy là như vậy. Chiếc nỏ ngàn cân chẳng vì con chuột nhắt mà bắn”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Tiên sư bình thường dùng một dùi sau đầu não, cắm ngay trong ngực người học lắm nhiều co quắp, ngay năm ấy, Khắc Tân Duy-na từng trúng phải độc ấy hưng hóa, luôn luôn các tùng lâm trong thiên hạ gọi làm mắt lạ vượt tông. Chẳng chỉ cô phụ Hưng hóa. Cũng là Khắc Tân nhận chịu nhục. Nếu là con cháu Lâm Tế trọn chẳng nương cỏ gá cây. Tư Phước mừng thấy đồng tham, ngày nay nghiêng lòng đổ bụng”. Sư gõ cây gậy một cái, tiếp bảo: “Lại có biết nơi rơi lạc của tiên sư chăng? Khéo chết Thiền Hòa như vừng tợ khóc”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Mở lời chẳng phải tiếng là cái gì? Trước sắc chẳng phải vật chớ loạn dùi châm, thấu qua muôn cửa sóng gió lại càng hiểm nguy. Ôi!”.

2. Thiền sư Tuệ Quang ở Quy phong.

Thiền sư Tuệ Quang – Hối Am ở Quy phong, tại Tín châu, vốn người xứ Kiến ninh. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Vài ngày khí nóng như đốt, một cái thân vẻn vẹn không nơi an đặt. Nghĩ lường được cũng là người phiền não. Cái ấy chưa là phiền não cũng có cái chính tự mình xuống việc chưa rành rẽ, bèn là phiền não. Do đó phiền não của Đại sư Đạt-ma cần vì các người nuốt ngay, lại bị nghẹn bởi cổ họng bé nhỏ, cần vì các người nhả ra, lại bị răng năng làm ngăn ngại. Lấy không được, bỏ không được, não phiền mất chín năm. Nếu không có Nhị tổ chẳng tiếc thân mạng, luôn luôn chuyển thân không đường, phiền não lạy chết. Đó gọi là Tổ uể chẳng rõ ương lụy đến cháu con. Sau lại am chủ núi Liên hoa đến trong đó, phiền não chẳng chịu ở, Tư Đại Nam Nhạc đến trong đó, phiền não chẳng chịu xuống núi. Lại có Đức Sơn, Lâm Tế dùng hết quả tra lê của chính mình, phiền não chịu bát không cán. Ngày nay Quy Phong vì nhân sự ấy thêm lớn vô minh, vì các người từ đầu điểm phá”. Sư gõ cây gậy xuống một cái, tiếp bảo: “Một người sau đầu não lộ bày gò má, một người ngay cửa miệng không răng lại có vài người lỗ mũi chìm nửa bên chẳng nhọc khám xét lại. Các người thổi hướng đến trong đó đứng đất ngủ gật. Rất không biết trong nhà nồi cơm nấm mật lúc mất rồi. Nếu không tin, chỉ về nhà xét lại xem”.

3. Thiền sư Thủ Nhân ở Trường lô.

Thiền sư Thủ Nhân – Thủ Am ở Trường lô tại Chân châu, vốn người ở Thượng ngô – Việt châu. Sư đến nương tựa Thiền sư Hạnh – Tuyết Đường ở Ô cự. Nghe chỉ dạy chung cả Đại chúng rằng: “Công phu ngày nay anh em làm chánh như tập bắn. Trước đặt vững chân mình, sau mới tập pháp ấy, về sau tuy vô tâm nhưng vì quen tập đã lâu nên mũi tên bắn ra đều trúng”. Thiền sư Hạnh hét một tiếng, tiếp bảo: “Chỉ mũi tên bắn ra ngày nay cũng phãi xem xem”. Bất chợt Sư ngã thân mình làm thế tránh né mũi tên, bỗng nhiên đại ngộ. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Trăm ngàn Tam muội, vô lượng diệu môn ngày nay Thủ Am – Thủ Nhân chẳng tiếc thân mạng, chỉ làm một câu nói cùng các người”. Xong, Sư gõ cây gậy một cái và xuống khỏi tòa. Sư thường tụng câu thoại Bà của Đài Sơn rằng: “Mở cái đèn tâm sừng đen bày, ngày cầu thăng cấp qua sớm tối, chỉ nhân mưa gió mãi dài lâu. Bản lợi một không sầu tựa cửa”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ THUẬN Ở BẠCH DƯƠNG

1. Thiền sư Như ở nguyên.

Thiền sư Như ở nguyên tại Cát châu, có vị Tăng hỏi: “Lúc Tổ sư Đạt-ma chưa lại thì thế nào?” Sư đáp: “Sinh sắt đúc Côn lôn”. Lại hỏi: “Sau khi đã lại thì thế nào?” Sư đáp: “Năm sắc họa cửa Thần”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NHƯ Ở VÂN CƯ

1. Thiền sư Ngạn Sầm ở Ẩn tỉnh.

Thiền sư Ngạn Sầm – Viên Cực ở Ẩn tỉnh tại Thái bình châu, vốn người xứ Đài thành. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Hàn Tín đánh cửa chưa khỏi tổn thương mũi nhọn phạm vào tay. Trương Lương đốt cầu rất tợ là đuôi linh quy. Đã vậy, cuốn chiếu ba tần, cốt yết vả lại trong đầy da cung tên, khói bụi tự lắng. Nước ta an nhiên, bốn biển chín châu đều kết quy về sự cảm hóa của Hoàng vương, tự nhiên trâu rảnh ngựa buông, gió theo thời mưa theo tiết. Ngụ cốc được mùa muôn dân an ổn, mọi người đều xướng khúc nhạc ruộng thôn, trăng rơi giăng ngang đêm đến nơi hành lan”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Ngày nay mồng 05 tháng 08, việc tốt rõ ràng vì nêu cử, đầu non mênh ông mây thu, cây rít gió chim cưu gọi mưa. Đêm qua ở biển đông cá chép nuốt ngay hổ dữ Nam sơn. Tuy là có chiếu, có dụng, rốt cùng không khác không chủ, chỉ có Phổ Hiền, Văn Thù đến ở. Ta biết được vậy”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử Hòa thượng Biện ở Chánh đường đang lúc trong thất hỏi Học giả rằng: “Con giun vì gì hóa làm trăm hợp?” Xong, Sư bảo: “Nhà khách Tinh châu đã mười nương, Quy tâm đêm ngày nhớ Hàm dương, không mối lại qua sông Tang càn, tức ngóng Tinh châu là quê cũ”.

2. Thiền sư Thành ở Báo ân.

Thiền sư Thành ở Báo ân tại Ngọc châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Mưa thu chợt lạnh. Các người ở châu mặc áo sam bằng vải đã thành tựu chưa?” Ngưng giây lát, Sư hét một tiếng, tiếp bảo: “Ngày nay nơi Vân khê lạnh đặt một bó lửa đốt”. Xong, Sư bèn xuống khỏi tòa.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ BIỆN Ở ĐẠO TRÀNG

1. Thiền sư ở Giác báo.

Thiền sư ở Giác báo tại phủ Bình giang. Có lúc lên giảng đường, nêu cử, có vị Tăng hỏi Vân Môn: “Thế nào là nơi chư Phật xuất thân?” Vân Môn đáp: “Đông sơn nước lớn thì đi”. Xong Sư bảo: “Nơi chư Phật xuất thân, Đông sơn nước lớn thì đi. Đá đè măng tre liệu ra, sườn treo hoa mọc ngược”.

2. Thủ tòa Nhiên ở Hà sơn.

Thủ tòa Nhiên ở Hà sơn tại An cát châu, vốn người xứ Cô tô. Theo hầu Thiền ni Biện – Chánh Đường qua thời gian lâu. Có lần vào thất, Thiền sư Biện hỏi: “Con mèo vì gì riêng thích bắt chuột già?” Sư đáp: “Vật thấy chủ mắt dựng đứng”. Thiền sư Biện vui mừng, nhân đó bảo Sư phân tòa.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TRUNG Ở HOÀNG LONG

1. Thiền sư Giới Tu ở Tín tướng.

Thiền sư Giới Tu ở Tín tướng tại phủ Thành đô. Có lúc lên giảng đường, nêu cử công án Mã Tổ bất an, xong Sư mới bảo: “Hai vòng cử xử khói mây nổi, điện chớp sao băng phỏng đâu dừng. Trước mắt không ngại có qua lại, chánh lệnh toàn bày chẳng trong ngoài. Ý khí trượng phu tự xung trời, ta là ta chừ, ngươi là ngươi”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ LIÊU Ở TÂY THIỀN

1. Thiền sư Hy Tú ở Tây thiền.

Thiền sư Hy Tú – Đệ Nhị Tổ ở Tây thiền tại phủ Toại ninh. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Khí thu qua nữa, hơi nắng dần tiêu, hồng nhạn bay ngang giữa không trung, điểm phá trời xanh tợ nước. Khỉ vượn treo cây, lay vút ngọc bày như châu. Ngay như đối đây rõ cơ, chưa khỏi nhận lầm rùa làm ba ba. Hãy nói một câu ứng thời ứng tiết làm sao sống? Nói. Sắc đồng nội lắng lại trăng ba đảo, ánh ngồi khe suối phân phá tiết thu Ngũ hồ”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ NI UẨN (ÔN?) Ở TỊNH CƯ

1. Thiền sư Ni Pháp Đăng ở Tịnh cư.

Thiền sư Ni Pháp Đăng – Vô Tướng ở Tịnh cư tại Ôn châu. Có lúc lên giảng đường, nắm cây gậy gõ xuống một cái, Ni sư bảo: “Quán Âm ra Phổ Hiền vào, Văn Thù trên nước mang giày đứng. Lắc đầu chim dao qua Tân-la, điện chớp lửa đá đuổi chẳng kịp. Ôi!”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ QUẢ Ở ĐẠI QUY

2. Thiền sư Tông Liêu ở Ngọc tuyền.

Thiền sư Tông Liêu – Cùng Cốc ở Ngọc tuyền tại Kinh môn quân, vốn người dòng họ Đổng ở Hợp châu. Nhân ngày khai đường giảng pháp. Hỏi đáp đã xong Sư mới bảo: “Nạp Tăng hướng đến chúng trời người, một hỏi một đáp, một bắt một thả, một cuốn một buông, một đẩy một ép, phải là có đủ tròng mắt Kim cang mới được. Nếu là hàng nghỉ nhớ câu thoại, thì ông đến Tây Tần, ta đến Đông Lỗ, ở trong Tông môn không ích lợi gì. Một việc ấy không Hữu ngôn chẳng ở Vô ngôn, chẳng ngại Hữu ngôn chẳng ngại Vô ngôn. Người xưa duỗi bảo một lời nửa câu, chánh như binh khí của Quốc gia chẳng đặng đừng mà sử dụng đó. Nói ngang nói dọc, chỉ cầu khống chế nơi người vào. Kỳ thật chẳng ở trên ngôn cú. Người thời nay không thể một đường thẳng tắt thấu triệt chứng đắc cội nguồn. Chỉ dùng ngữ ngôn văn tự mà làm chí Đạo. Một câu lại một câu đi kêu làm Thiền đạo, kêu làm hướng thượng hướng hạ. Gọi đó là Bồ-đề Niết-bàn, gọi đó là lỗ mũi Tổ sư. Chánh tợ như Trịnh Châu ra tào môn. Từ xưa trước Tông sư trong hội hiện luôn dùng cái hành cước thật làm việc đến cùng, mới có điều nghi bèn đối trước Đại chúng quyết trạch chỉ dưới một câu kiến đế rõ ràng, tạo tông của Phật tổ chẳng truyền, cùng các loài hữu tình suốt tận ngằn mé trong tương lai đồng đắc đồng chứng, còn chưa là nơi ghé đầu. Đâu phải không mở môi da lời Hồ tiếng Hán lại. Do đó Nam Viện chỉ dạy Đại chúng rằng: “Các phương chỉ đủ mắt đồng thời gặm giấm không đủ mắt đồng thời dùng gặm giấm. Khi ấy có vị Tăng hỏi: “Thế nào là mắt đồng thời dùng gặm giấm?”. Nam Viện đáp: “Tác gia không gặm giấm. Gặm giấm đồng thời mất”. Lại hỏi: “Vậy còn nơi người học hỏi?” Nam Viện bảo: “Thế nào là nói ông hỏi?” Vị tăng ấy đáp: “Mất”. Nam Viện bèn đánh. Vị tăng ấy không khế ngộ, sau đó đến trong pháp hội của Vân môn. Nhân có hai vị tăng nêu cử câu thoại ấy, một vị bảo: “Bấy giờ cây gậy của Nam Viện bị gãy ư?” Vị tăng ấy bỗng nhiên tỏ ngộ, liền trở về Nam Viện, khi đó Nam Viện đã thị tịch, mà Phong Huyệt đang làm Duy-na hỏi vị tăng ấy rằng: “Có phải ông là người hỏi tiên sư về câu thoại gặm giấm đồng thời chăng?” Vị Tăng ấy đáp: “Phải”. Phong Huyệt hỏi: “Lúc ấy ông như thế nào?” Vị tăng đáp: “Lúc đó tôi như trong bóng đen”. Phong Huyệt bảo: “Ông đã hiểu vậy”. Xong, Sư mới gọi Đại chúng mà bảo: “Tối xâu chỉ ngọc, kím luồn kim vàng, như nước vào nước, tợ vàng đánh vàng. Dám hỏi cùng Đại chúng: Gặm giấm đồng thời là nơi thân thiết, nhân gì bèn mất? Nếu hiểu được thì có khả năng báo được ân không thể báo đáp, cùng giúp cảm hóa vô vi, bèn có thể giăng ngang thân giữa vũ trụ riêng bước phương lớn, nếu nhảy chẳng ra tức y như trước chỉ ở dưới cái giá”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư gõ cây gậy một cái mới bảo: “Phá tối vô minh cắt dòng sinh tử, vượt thành Tam hữu, lướt biển vô vi, phải là biết cái ấy mới được”. Sư mới gọi Đại chúng và tiếp bảo: “Kêu làm cây gậy thì xúc chạm, không kêu làm cây gậy thì trái ngược, nếu cũng biết được thì buông tay trong rừng gai góc, giăng ngang thân trong biển phải quấy. Nếu chưa như vậy thì Phổ Hiền cưỡi Bạch tượng, Thổ Tú vượt trâu đất. Tham”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Hết thảy số câu chẳng rõ câu, cùng với Linh giác tôi sao có giao thiệp?” Xong, Sư tiếp bảo: “Vĩnh Gia nghĩ gì nói? Rất sợ như trên điện Hàm nguyên lại tìm kiếm Trường an, rất không biết các nơi có nước đều ngậm trăng. Không núi chẳng trệ bởi mây. Tuy là như vậy, ba mươi năm sau Triệu Bà bán rượu giấm”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Tông thừa một lúc xướng, đường khác dứt tuyệt, muôn sai ngàn khác đều hết sạch, thông thân là miệng khó phân tuyết, sau đầu não kim cang ba cân sắt. Khéo thay Đại ca!” Có vị Tăng hỏi: “Lúc Bảo Thọ khai đường giảng pháp, Tam Thánh đưa đẩy ra một vị Tăng, Bảo Thọ bèn đánh ý chỉ ấy như thế nào?” Sư đáp: “Quân tử lợi động”. Lại hỏi: “Làm lại đầu gậy có mắt, hay làm lại thấy có mà làm?” Sư đáp: “Con khỉ buộc nơi Lộ trụ”. Lại hỏi: “Chỉ như Tam Thánh nói: Ông nghĩ gì vì người, mù tức mắt người một thành Trấn châu”. Lại làm sao sống?” Sư đáp: “Trên gấm thêu hoa thêm một lớp”. Lại hỏi: “Lúc hành cước gặp người thì thế nào?” Sư đáp: “Một chẳng thành hai chẳng phải”. Lại hỏi: “Lúc hành cước không gặp người thì thế nào?” Sư đáp: “Hổ cắn trùng lớn”. Lại hỏi: “Chỉ như Từ Minh nói “Dây tơ cần câu vắt nước”, ý làm sao sống?” Sư đáp: “Nước xâm lấn trứng sắt đá”. Lại hỏi: “Tam Thánh nói: “Ta gặp người thì ra, ra thì chẳng vì người”, ý chỉ như thế nào?” Sư đáp: “Binh lính đi trác đường”. Lại hỏi: “Hưng Hóa nói: “Ta gặp người thì chẳng ra, ra thì bèn vì người”, lại làm sao sống?” Sư đáp: “Dùi cân trong gấm”. Lại hỏi: “Chẳng lạc nhân quả, vì gì đoạ làm thân Dã hồ”. Sư đáp: “Lô sơn năm núi già”. Lại hỏi: “Chẳng mê mờ nhân quả, vì gì thoát khỏi thân Dã hồ?” Sư đáp: “Nam nhạc ba sinh tàng”. Lại hỏi: “Chỉ như chẳng rơi lạc chẳng mê mồ, chưa xét rõ là đồng hay khác?” Sư đáp: “Kiếm dài tựa trời bức ép người lạnh”. Lại hỏi: “Chỉ như ngày xưa Hòa thượng Dương Kỳ nhân có vị Tăng hỏi: “Thế nào là Phật ?” Hòa thượng đáp: “Con lừa ba chân đùa nhảy đi”. Ý chỉ như thế nào?” Sư đáp: “Qua Bồng Châu rồi tiện đến Ba Châu”. Ôi thôi! Sư đàm nói tâm yếu, chánh như dấu chim bay giữa không trung, tăm có bơi lội đáy nước, đâu dễ ghi hợp thay!

3. Thiền sư Hạnh ở Đại quy.

Thiền sư Hạnh ở Đại quy tại Đàm châu. Có lúc lên giảng đường, Sư cầm ngang cây gậy và bảo: “Các người hướng đến trong ấy hiểu đi, như Kỷ Tín lên kiệu chín rồng, chẳng hướng đến trong đó hiểu đi, tợ Hạng Vũ mất ngựa ô ngàn dặm. Ngay như các ông chẳng nghĩ gì, rơi lạc trong áo giáp vô sự. Nếu hướng đến trong đó đánh mở được một đường, chuyển được thân, nhả được khí. Sơn tăng cho các người cây gậy”. Xong, Sư bèn tựa cây gậy và xuống khỏi tòa. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật , chẳng phải vật. Hãy nói là cái gì? Chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa, rốt cùng ở nơi nào? Khổ! Khổ! Có miệng nói không được. Không nhà về nơi nào”.

4. Thiền sư Uyên ở Đạo lâm.

Thiền sư Uyên ở Đạo lâm tại Đàm châu. Có vị Tăng hỏi: “Chuông chưa khua, trống chưa giáng, nâng Bát hướng nơi nào đi? Đức sơn bèn cuối đầu về phương trượng, ý chỉ như thế nào?” Sư đáp: “Sấm xẹt lửa tuông”. Lại hỏi: “Nham đầu nói: Lão này chưa hiểu ở câu cuối cùng, lại làm sao sống”. Sư đáp: “Cùng theo lại vậy”. Lại hỏi: “Nham đầu kín mở ý ấy, chưa xét rõ trong nào là nơi kia kín mở?” Sư đáp: “Tùng muôn năm ở núi Chúc dung”. Lại hỏi: “Tuy là như vậy, chỉ được ba năm, sau ba quả nhiên sẽ chết, lại có đích xác không?” Sư đáp: “Ma ni đát ri Hồng phấn tra”. Đến lúc sắp tịch, lên giảng đường, nắm cây gậy, Sư chỉ dạy Đại chúng: “Lìa ngay sắc ngôn ngữ, nói đem lại một câu?” Trong Đại chúng không ai trả lời. Sư tiếp bảo: “Động tĩnh ngoài sắc, người lúc này chẳng chịu đáp, thế gian và xuất thế gian, rốt cùng khiến ai hiểu”. Nói xong, sư tựa cây gậy mà tịch.

5. Thiền sư Tổ Chứng ở Đại hồng.

Thiền sư Tổ Chứng – Lão Nạp ở Đại hồng tại Tùy châu, vốn người dòng họ Phan ở Đàm châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Trong vạn tượng, riêng lộ bày thân. Thế nào nói cái đạo lý riêng lộ bày?” Sư dựng đứng cây phất trần tiếp bảo: “Đến cùng tận đất Giang ngô, cách bờ vượt nhiều núi”. Có vị Tăng hỏi: “Vân Môn hỏi một vị Tăng: “Quang Minh tịch chiếu khắp hà sa, há chẳng phải tú tài Trương Chuyết nói ư?” vị Tăng ấy đáp : “Phải!” Vân Môn bảo: “Nói rơi lạc vậy”. Chưa xét rõ trong não là nơi vị Tăng ấy nói rơi lạc”. Sư đáp: “Cá niêm trên cán tre”. Lại hỏi: “Lìa ngay ngôn cú, xin Sư chỉ thẳng?” Sư dựng đứng cây phất trần. Vị Tăng ấy lại hỏi: “Lại có việc hướng thượng không?” Sư đáp: “Có”. Lại hỏi: “Thế nào là việc hướng thượng?” Sư bảo: “Lạy nhanh ba lạy”.

6. Thiền sư Đức Đức Thuần ở Lặc đàm.

Thiền sư Đức Thuần – Sơn Đường ở Lặc đàm tại phủ Long hưng. Có lúc lên giảng đường, Sư Bảo: “Câu-chi một chỉ đầu, một sợi lông nhổ chín năm. Hoa nhạc liền trời biếc, Hoàng hà suốt đáy chảy. Cắt ngay chỉ gấp tròng ngươi xoay chuyển, trước nón lá xanh việc vô hạn, đáy áo tơi biếc một thời nghĩ”.

7. Thiền sư Khả Phong ở Bảo an.

Thiền sư Khả Phong – Phục Am ở Bảo an – Nghi hưng tại Thường châu. Vốn người dòng họ Lâm ở Phước châu. Có lúc lên giảng đường Sư bảo: “Trời cao đất rộng gió mát trăng . Đây là thời tiết Hải vũ bình. Đẳng nhàn nhà nạp Tăng hỏi nhằm, mười cái có năm đôi biết có. Chỉ như nửa đêm ao Hoa nghiêm nuốt ngay sông Dương tử. Cầu Khai minh khua đỗ ngã tháp Bình sơn, là các người có biết chăng? Nếu cũng biết thì hưởng đến trời khi phi tưởng nói đem lại một câu. Còn như chưa biết. “Sư ném cây phất trần xuống một cái tiếp bảo:” Phải là cái phất trần của sơn Tăng mới được”.

8. Thiền sư Tổ Tuyền ở Thạch đình.

Thiền sư Tổ Tuyền – Dã Am ở Thạch đình tại phủ Long hưng. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Ăn cháo xong hay chưa? Triệu Châu không húy kỵ, lại bảo rửa chén bát, rất giết ngập lỗ mũi. Ngộ đi nguyên do chẳng trượng phu. Các vị Tăng ấy nào khỏi chịu bôi xoa hồ. Có chỉ bày hay không chỉ bày, thiều thạch bốn lăng đều, đất trũng vào địa ngục, như mũi tên bắn mây vút cao, gió trong lành sinh toả nơi đại hạ, cùng gặp nắm tay lên núi cao. Tác giả nêu phải biện rành thật giả, thật giả phân rành, nếu vì luận bàn, đêm bò lạnh con cóc ra cửa biển”.

9. Thiền sư Tông Giám ở Thạch sương.

Thiền sư Tông Giám ở Thạch sương tại Đàm châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Tiễn đưa năm cũ nghinh đón năm mới, động dụng chẳng lìa trong sắc thái ánh sáng, lắng trong ngời sáng đêm nhà lạnh. Nhờ hỏi các người hiểu hay không? Nếu cũng hiểu thêm vết loại, nếu chẳng hiểu y như trước mịt mờ. Cho ông chỉ cái máy cắt dông, mây trắng lại tại ngoài núi xanh”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ HỒI Ở THẠCH ĐẦU

1. Thiền sư Đức Hội ở Vân cư.

Thiền sư Đức Hội – Bồng Am ở Vân cư tại Nam khương luân. Vốn người dòng họ Hà ở phủ Trùng khánh. Có lúc lên giảng đường, Sư nêu cử: “Trong giáo điển nói: “Nếu thấy các tướng phi tướng tức thấy Như Lai”. Làm sao sống là đạo lý phi tướng? Giả vờ chạy dối thẹn trộm mắt nhìn, cửa tre liệu đóng nữa cành hoa”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ KHAM Ở DỤC VƯƠNG

1. Thiền sư Đàm Bí ở Vạn niên.

Thiền sư Đàm Bí – Tâm Văn ở Vạn niên tại Đài châu. Vốn người xứ Vĩnh nga. Ở tại Giang tâm, cảm bệnh dậy, lên giảng đường Sư bảo: “Duy-ma bệnh nói hết đạo lý, Long Tường bệnh khạc nhổ không thôi. Khạc nhổ không thôi nói hết đạo lý, nói hết đạo lý, khạc nhổ không thôi. Các người có biết ý chỉ trong đó hay chưa? Vốn là Trường giang nhóm gió lạnh tức khiến Lộ trụ cảm mắc gió đầu”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Một thấy bèn thấy, tám góc bàn mài chuyển trong không, một được trọn được, trải gấm châu sa như mực đen, gió thu thổi Vị thủy, đã rơi lạc trong ba câu Vân môn, lá vàng rơi đầy Trường an mấy cái mà nay bị mắt lừa dối:” Sư dựng đứng cây phất trần, tiếp bảo: “Lừa dối được hay lừa dối không được tất cả đều ở trong tay Vạn niên. Lại có thấy chăng? Hoa đảnh trăng lồng vẩy tay đá, cắt cầu nước lạc bỏ thân hang”. Có vị Tăng hỏi: “Bách trượng cuốn chiếu, chỉ chỉ như thế nào?” Sư đáp: “Sau khi giặc qua mới trượng cung”. Tứ minh Thái thú lấy Tuyết đậu thỉnh mời Sư đến ở, Sư viết kệ tụng mà chối từ rằng: “Chợ náo mới mừng được rút đầu, lui trống mà nay đánh chưa thôi, chớ vỗ nhũ phong tuyết ngàn trượng, trở lại kéo ta đôi tròng ngươi”.

2. Thiền sư Liễu Phác ở Thiên đồng.

Thiền sư Liễu Phác – Từ Hàng ở Thiên đồng tại phủ Khánh nguyên. Vốn người xứ Phước châu. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Nắng gắt như thêu đốt chẳng dễ cấm, rực rực rỡ rỡ muốn cháy vàng, đêm sáng ngoài rèm không người đến, gỗ linh xa vời chuyển xanh râm”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Mưa lâu chẳng tạnh nữa ngủ nữa tỉnh, có thể gọi là đất trời hợp cái đức, nhật nguyệt hợp cái sáng, bốn mùa hợp cái thứ tự, quỷ thần hợp cái tất xấu”. Sư bèn hét một tiếng, tiếp bảo: “Dừng, dừng. Trong quẻ đã thành lại cầu ngoài tượng”. Sư lại gõ cây gậy một cái, tiếp bảo: “Vừa rồi ném được sấm trời lớn mạnh, mà nay biến làm lửa đất sáng cùng”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Da trâu căng lộ trụ, lộ trụ kêu ti tỉ, lồng đèn vờ không biết, rỗng sáng lại tự chiếu. Cột điện mọt già gặm, nghe được cười ha ha. Tam môn nghiêng tai nghe, đến trên đánh chạy quanh, thí như cúc mồng mười, nở hết nào ai cần. A ha, ha, chưa hẳn hương thu một đêm tàn, chồm đấu nối trà chẳng đồng niêu”. Có lúc ở trong thất, Sư hỏi một vị Tăng: “Giặc lại phải đánh, khách lại phải trông, chỉ như nữa đêm canh ba, mặt người tợ giặc, mặt giặc tợ người, lại làm sao sống biện rành?”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Hang Quán Âm linh linh lung lung. Đá Thái Bạch đinh đinh đông đông. Vườn tây rau sâu tợ chẳng kham ăn, cúc đông hoa nở tức không nhờ hồng. Hãy nói là ý Tổ hay ý kinh giáo? Giữa đường thọ dụng, thế đế lưu bố, nếu biện không ra thì Tuyết phong che phủ ngay thùng cơm, nếu biện ra được thì chịu dâng lễ bái đốt lồng tham”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Đức Sơn có người vào cửa liền đánh, Lâm Tế có người vào cửa liền hét. Nói Lâm Tế hét, đầu gậy của Đức Sơn điếc tai, lúc Đức Sơn đánh dưới tiếng hét cửa Lâm Tế mù mắt. Tuy là một bóp một lay, trong đó gần cả toàn sống toàn chết”. Sư bèn hét một tiếng, gõ cây gậy một cái, tiếp bảo: “Dám hỏi cùng các người: Là sống hay là chết?” Ngưng giây lác Sư bảo: “Quân tử đáng tám”.

3. Thiền sư Tông Hồi ở Tây nham.

Thiền sư Tông Hồi ở Tây nham tại Nam Kiếm châu. Vốn người xứ Vụ châu. Qua thời gian lâu nương tựa mà không chỉ bày, chứng đáp nhẫn sâu xa. Nhân trong chùa có vị Tăng dùng trà cấm nghe câu có, kẻ lại bắt lên Tri sự. Sư nói cùng Đại chúng: “Việc này chẳng ngay đó thì tội bị nơi tôi. Nếu tự ngay kia bị tội, chẳng nhẫn làm vậy” và Sư bảo đánh trống, lên toà Sư nói kệ tụng rằng: “Huyện lại đuổi kêu chẳng tạm dừng, sao như đi vài việc rẽ rành, từ trước có khúc nhạc vô sinh, tạm mừng ngày nay điệu đã thành”. Nói xong Sư bèn thị tịch.

4. Thiền sư Thản Nhiên ở Cao ly.

Thiền sư Thản Nhiên là Quốc sư nước Cao Ly. Từ thủa thiếu thời kế thừa vương vị, do khâm trọng khát ngưỡng tông thừa, nhân khách buôn đường biển phương cảnh nhân đến Tứ Minh, ghi lục lời dạy của Vô Thị (Thiền sư Kham?) đem về, Sư đọc xem đó mà mở ngộ, liền bỏ ngôi vị cho Viên Lô, viết thư nói lời cốt yếu và kệ tụng “Tứ oai nghi” bảo Cảnh Nhân đưa sang trình cùng Vô Thị. Vô Thị đáp: “Phật tổ xuất hiện nơi đời, không một pháp trao cho người , thật khiến mọi người tự tin tự ngộ tự chứng tự đến, đầy đủ Đại tri kiến, như chỗ thấy mà nói, như điều nói mà thực hành, núi sông Đại địa. Cây cỏ tùng lâm cùng vì chứng minh cho từ lâu vậy”. Về sau Sư lại gởi thư bảo lại và nói dối dòng pháp; đại khái là: “Biển sinh tử nhiều kiếp hết khắp cùng, được gặp bản phần Tông sư dùng Ấn tam yếu kiểm định pháp ấy, thật đáng gọi là rùa mù nổi thẳng lên ngay bộng cây nổi vậy”.

5. Thiền sư Bản ở Long hoa.

Thiền sư Bản-vô trú ở Long hoa tại phủ Lâm an, vốn người ở Quảng phước. Có lúc lên giảng đường, nêu cử: “Đại sư Vân Môn nắm cái bánh hồ lên và bảo: “Ta chỉ cúng dường người Lưỡng chế, chẳng cúng dường người hướng Bắc”. Trong chúng im lặng, Vân Môn tự thay thế, tiếp bảo: “Trời lạnh ngày ngắn, hai người cùng chung một chén”. Xong, Sư bảo: “Trong lời nói của lão Thiều Dương có vọng hưởng, nơi đau nhức nhằm dùi. Kiểm điểm đem lại vụt thành thuốc độc. Các người cần hiểu chăng? Một nửa tại Hà nam, một nửa tại Hà bắc. Một mảnh rỗng ngưng tợ mực đen, đất lạnh nghĩ lường buồn chết người. Không thể chịu nỗi lão giặc Vân Môn! Giặc! Giặc”. Xuống tòa lại chẳng tuần đường.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ LÂM Ở ĐẠO TRÀNG

1. Thiền sư Cát ở Đông sơn.

Thiền sư Cát ở Đông sơn tại Lâm giang quân. Nhân Lý Triều thỉnh mời cùng người cậu là Cư sĩ Hương Lâm Hướng công tử Nhân đến bái yết, bèn hỏi: “Lúc giặc nhà làm não hại người thì thế nào?” Sư bảo: “Ai là giặc nhà?” Lý Triều dựng đứng nắm tay. Sư bảo: “Thân giặc đã lộ bày”. Lý Triều nói: “Chớ bôi hồ người tốt” Sư đáp: “Bằng chứng đúc lót đang thấy rõ”. Lý Triều im lặng không nói gì. Sư bèn dùng kệ tụng chỉ dạy rằng: “Giặc nhà hại người ai làm sao, ngàn Thánh xoay có chì vì kia. Khắp cùng mọi nơi không dấu vết, không nương không ở tuyệt lưới lồng. Giặc, giặc. Tướng dữ binh hùng gom chẳng được, nghi giết lão Thiền trong thiên hạ, cười ngã chợ náo Di-lặc xưa. Dưng, dừng, chớ dùng đun tâm hướng ngoài tìm, xoay đầu nhìn đó thân giặc bày. Đút lót bắt được, đời không bạn. Đời không bạn đảng đáng kính ngưỡng. Từ đây chẳng lại khoe kỹ lưỡng. Cậy nhờ nhà an lúc lạc nghiệp, muôn tượng sum-la đồng vỗ tay”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ TUỆ Ở ĐẠO TRÀNG

1. Thiền sư Đạo Xu ở Linh ẩn.

Thiền sư Đạo Xu – Lại Am ở Linh ẩn tại phủ Lâm an, vốn người dòng họ Từ ở Tứ an – Ngô hưng. Mới đầu, Sư ở Hà sơn, sau chuyển dời đến Hoa tạng. Khoảng đầu niên hiệu Long Hưng (1163), Sư có được sắc chiếu mời đến ở Linh ẩn. Hiếu Tông Hoàng đế (Thiệu Thuận 11631190 thời Nam Tống) mời Sư vào nội điện thưa hỏi cốt yếu của Thiền đạo. Sư đáp: “Đem việc này ở nơi bệ hạ rành rẽ thường ngày sử dụng ứng cơ. Vốn không rối bang thấy biết khởi diệt, không riêng các phàm Thánh mê ngộ. Thứ lớp hộ trì chánh niệm thì cùng đạo tương ưng, tình tức vật thì nghiệp chẳng thể buộc, dứt hết bệnh trầm trác, tự quên ý hỏi đáp. Huống gì nay bổ xứ hiện trong ánh sáng Bát-nhã của Phật, việc gì chẳng thành hiện ư?”. Vua nghe thế gật đầu vài ba phen. Có lúc Sư chỉ dạy Đại chúng rằng: “Tiên nhân Trương Quả Lão, cưỡi lừa xuyên qua chợ, chỉ nghe đạp đánh gai, ai biết là giấy làm”.

Về sau Sư lui ở Lan nhã Vĩnh an – Minh giáo, tiêu dao tự tại, có đề bài tụng nói vách tường rằng:

“Hoa mai trong tuyết tin tức xuân,
Ánh trăng giữa hồ đêm tinh thần
Năm lại có thể không chim thú,
Chớ nắm gia phong cử tợ người”.

Đến tháng 08 năm Bính Thân (1176) thuộc niên hiệu Thuần Hy (1174-1190) thời Nam Tống, Sư hiện tướng cảm chút bệnh, viết kệ lưu lại mà thị tịch. An táng dựng tháp tại Vĩnh An.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ MẪN Ở QUANG HIẾU

1. Thủ Toà Ngộ Sơ ở Quang hiếu.

Thủ Toà Ngộ Sơ ở Quang hiếu tại Quảng đức quân. Ngày phân

toà giảng pháp, Sư nêu cử câu thoại gió và phướng chỉ Đại chúng, đến : “Tâm nhân giả động”. Sư mới bảo: “Tổ sư nghĩ gì, nói? Dối giết một số người , ngày nay nạp Tăng cũng không thể nghĩ gì hiểu. Đã chẳng nghĩ gì hiểu, lại làm sao sống?” ngưng giây lát Sư bảo: “Tháng sáu khéo hợp tương, rất kỵ thân nhiều muối”.

ĐỆ TỬ NỐI DÕI THIỀN SƯ DIỆU Ở TRUNG TRÚC

1. Thiền sư Thâm ở Quang hiếu.

Thiền sư Thâm – Kỷ Am ở Quang hiếu tại Ôn châu, vốn người ở Bản quận. Có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Rồng sinh rồng, phụng sinh phụng, chuột già nuôi con men theo xà nhà. Đại sư Đạt-ma chẳng hiểu Thiền, giẫm trải qua đất Nguỵ đến Nam Lương, còn đánh cửa”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Một lần chín, hai lần chín cùng gặp chẳng ra tay, ba lần chín là hai mươi bảy đầu tháng nhậu thổi kèn lá, chợt nhớ tiểu Thích-ca hai tay ôm cụm đầu gối. Biết là không biết, thật là không thật, Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Duy-ma im lặng, Phổ Hiền rộng nói, nhiều đời Thánh nhân cùng trình xấu vụng. Há ông không thấy tháng ba hoa rơi con nhìn khóc, một tiếng, tiếng là một chấm máu”. Lại có lúc lên giảng đường, Sư bảo: “Giò vùn vụt, lá lay lay, mây từng mảnh, nước mênh mông giang can riêng đứng nhìn ai nói, ngoài trời chim hồng bay vài ba hàng”.

TỤC TRUYỀN ĐĂNG LỤC Quyển 33

(Hết)