TỨ THIỀN 

Thích Đức Thắng

 

Tứ thiền là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tậpthực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ ThiềnNhị ThiềnTam ThiềnTứ thiền thuộc sắc giới, vì nghĩa này nên có nơi còn gọi là định sắc giới. Thiền là tên gọi tắt của Thiền-na (dhyāna), có nghĩa là tĩnh lự (yên lặng tư duy), là do nhờ yên lặng tư duy thẳm xét khéo léo mà đạt đến ý hiểu biết rõ rành như thật, cho nên Tứ Thiền còn gọi là Tứ Tĩnh lựTứ Định tĩnh lự. Ở đây, thể của Tứ thiền là “Nhất tâm tánhcảnh” còn dụng của chúng là “Thường tư duy suy xét ” Và đặc điểm của Tứ Thiền là ly cảm thọ của cõi dục mà cùng quán tướng của sắc giới tương ưng với cảm thọ. Từ Sơ thiền cho đến Tứ thiềnhoạt động tâm lý phát triển theo thứ tự từ thấp đến cao, thế giớitinh thần hình thành không đồng tùy theo thuộc tính của chúng theo quá trình tự tu chứng của hành giả mà nói, tức là ba thiền trước cần theo thứ tự phương tiện (đối tượng pháp tu), còn đệ tứ thiền mới chính là Thiền chân thật.

(1) Sơ Thiền (prathama-dhyāna), trước khi hành giả đi vào sơ thiền thì buộc chúng taphải trải qua thực hành trụ vào thô, tế, Dục giới định và Vị chí định. Trong thiền này phải có đầy đủ Bát xúc [động, dương (ngứa), khinh, trọng, lãnh, noãn, sáp (rít), hoạt (trơn)] và Thập công đức (nhập trí, khởi thông, đại vô lượngthập lợi ích thành tựungũ sự quả báothành tựu, tâm tự tạitu tập đối trịđối trị thành tựutu tập chánh đạochánh đạo thành tựu). Trước tiên hành giả ngồi yên, đoan thân nhiếp tâm, điều hòa hơi thở, biết tâm mình chìm lặng lắng trong, tịch tĩnh an ổn, tâm mình tùy duyên, an trụ trong duyên không cho chạy tán loạn, đó gọi là hành giả trụ vào thô. Nhờ tâm này hành giả sau đó tiếp tục làm tâm mình trở nên hoàn thiện hơn trước, đó gọi là trụ vào tế. Sau đó, từ một hai ngày cho đến hai tháng tâm địa hành giả hoát nhiên từ từ được khai sáng một phần, thân chúng talúc này nhẹ nhàn như mây khói, như ảnh trong sáng sạch không, tuy là không tịnh nhưng vẫn còn thấy có tướng thân tâm, chưa có công đức bên trong định, đó gọi là định dục giới theo Thành Thật luận, còn trong luận Câu xá thì gồm thâu ở trong Vị chí định. Từ trong định này, tâm lắng trong sau đó chuyển đổi không còn thấy thân đầu, y phục, giường chiếu trong định dục giới nữa, giống như hư không, đó gọi là Vị chí định (định này không có trong Thành Thật luận, mà có trong Câu Xá luận), lúc này vì tánh còn chướng ngại nên chưa vào được Sơ thiền. Ở đây Vị chí định, thân và tâm hư tịch, trong không còn thấy thân, ngoài không còn thấy vật trải qua từ một ngày cho đến một tháng hay một năm, tâm định không hoại và, ở trong định biết tự tâm vẫn còn một ít dao dộng nhỏ, hoặc vẫn còn bát xúc nổi dậy. Đó chính là tứ đại cực nhỏ của sắc giới được hình thành hoán đổi tứ đại cực nhỏ còn lại của dục giới tạo ra xúc tướng này, đó chính là bắt đầu nhập vào tướng của Sơ thiền.

Sơ thiền là đệ nhất trong Tứ thiền, nếu đạt được sơ thiền thì trong tâm trở nên thanh tịnh, các lậu bất động, đó là trạng thái của Sơ thiền. Khi hành giả vào Sơ thiền câu hữu với năm chi là tầm, tứ, hỷ lạc và, tâm nhất tánh cảnh, tức là được bát xúc và thập công đức, tâm có khả năng trở nên tịch tĩnh tư duy suy xétcảm thọ đến việc ly khai cái ác của dục giới mà sinh ra hỷ lạc; tâm cảm thọ hỷ, thân cảm thọ lạc, cho nên gọi là “Ly sanh hỷ lạc” có nghĩa là nhờ hành giả xa lìa ác của cõi dục nên sinh ra hỷ lạc trong thiền định; vì ở trạng thái này vẫn còn có sự hoạt động của tâm lý tầm và tứ, nên được gọi là Sơ thiền. Tầm còn dịch là giác (cựu dịch), tức là chỉ cho tâm sự phân biệt tác dụng còn thô của tâm; tứ còn dịch là quán (cựu dịch), là chỉ cho sự phân biệt tác dụng vi tế của tâm. Vì hành giả nào đạt được Thiền định này thì sẽ có tác dụng của hữu tầm và tứ, nên cò gọi là “hữu giác hữu quán”. Trong hiện tại nếu hành giả nào thành tựu được Sơ thiền thì, sẽ đạt được quả báo Sơ thiền thiên đối với sắc giới. Hơn nữa, khi hành giả ở trong thiền định này có thể đối trị tham nhuế, hại tầm, khổ, ưu, phạm giới là năm chủng loại làm chướng nạn trong tu đạoNgoài ra, ở trong định Sơ thiền dùng hoạt động tâm lý tầm tứ, cho nên có hoạt động của thấy, nghe, xúc lại có thể khởi lên ngữ nghiệp, đó là những giới hạn của sơ thiền có được trong lúc hành giả tu tập, nếu muốn vượt qua những trở ngại này thì hành giả phải bước sang Nhị thiền.

(2) Đệ Nhị thiền (dvitīya-dhyāna), là đệ nhị trong Tứ thiền, bên trong câu hữu với bốn chi là thanh tịnh, hỷ, lạc, nhất tâm tánh cảnh. Ở trong thiền định này xa lìa tâm lý hoạt động tầm, tứ của Sơ thiền, ở trong tâm tin vào tướng minh tịnh, cho nên gọi là “Nội đẳng tịnh”; do ở trong thiền định này sống trong trạng thái hỷ, lạc, nên gọi là “Định sinh ra hỷ lạc”. Hơn nữa ở trong thiền định này hành giả chúng ta có thể đối trị năm loại làm chướng ngại là tham, tầm, tứ, khổ, trạo cử trong lúc tu đạo. Vả lại, lúc hành giả ở trong Sơ thiền khi ngữ nghiệp còn khởi lên thì ở đây ngữ hành không còn nữa. Ngoài ra, sự tu tập đệ nhị thiền định có thể đưa hành giả đến quả báo sinh lên đệ nhị thiền thiên, ở tầng trời này có ba trời là Thiểu Quang (thiên chúng ở đây có ánh sáng tối thiểu), Vô lượng quang (thiên chúng ở đây ánh sáng từ từ tăng thêm cho đến vô lượng) và, Cực quang Tịnh (thiên chúng ở đây càng sáng hơn hai trời kia, từ dưới đất chiếu soi khắp, dùng ánh sáng làm ngữ âm, nên cũng gọi là Quang âm thiên). Ngoài ba trời này ra có quan hệ y xứquả báo thân lượng và thọ lượng của chư thiên đệ nhị thiền thiên; vì thiên chúng của trời này an trụ vào thiền định mà sinh khởi ra cảm thọ hỷ lạc, nên trời này còn gọi là “Định sinh hỷ lạc địa” Đó là trạng thái thiền của thiên chúng ở trong thiền định đệ nhị đạt đượctrong đệ nhị thiền.

(3) Đệ Tam thiền (tṛtīya-dhyāna), là đệ tam trong Tứ thiền câu hữu với năm chi là hành xảchánh niệm, chánh tri (chánh tuệ), thọ lạc, tâm nhất tánh cảnh. Hành giả ở trong thiền định này đã lìa thoát trạng thái hỷ, lạc của nhị thiền, trụ vào chánh niệm, chánh tri, tiến lên một bước nữa là vui cầu được thắng pháp thuộc cảnh giới cao hơn mà luôn thực hành tu tập trong tinh tấn. Nhờ đã xa lìa hỷ, lạc của nhị thiền định, song hành giả, cái vui vi diệu của tự địa vẫn còn tồn tại, cho nên trạng thái lúc này được gọi là “Ly hỷ diệu lạc”. Hơn nữa, ở trong định này có khả năng đối trị được bốn loại tham, hỷ, hớn hở, định hạ liệt tánh làm chướng nạn lúc tu đạo của đệ nhị thiền định. Khi hành giả tu tập thiền định này, có thể được quả báo đối với đệ tam thiền thiên. Ở trong mười tám trời cõi sắc gồm có ba trời Thiểu Tịnh (thiên chúng trời này dùng cảm thọ lạc của ý địa nên gọi là “Tịnh”, nhưng cảm thọ lạc của họ ở trong đệ tam thiền thiên là tối thiểu, nên gọi là “thiểu”), Vô lượng tịnh (cảm thọ lạc của thiên chúng trời này từ từ tăng trưởng khó mà đo lường, cho nên gọi là vô lượng tịnh) và, Biến tịnh (cảm thọ lạc của thiên chúng trời này rất là thù thắng biến đầy khắp nơi, cho nên gọi là biến tịnh). Ngoài ba cõi trời này ra có quan hệ y xứ quả báo thân lượng và thọ lượng của chư thiên đệ tam thiền; vì thiên chúng của trời này xa lìa cảm thụ hỷ của đệ nhị thiền định mà trụ vào cảm thọ lạc của tam thiền, nên gọi là “Ly hỷ diệu lạc địa” Đó là trạng thái thiền của thiên chúng ở trong thiền định đệ tam đạtđược trong đệ tam thiền.

(4) Đệ Tứ thiền (caturtha-dhyāna), là đệ tứ trong Tứ thiền. Theo Đại thừa A-tỳ-đạt-ma Tạp tập luân 9 thì, Thiền định này câu hữu với bốn chi là xả thanh tịnh, niệm thanh tịnh, bất khổ bất lạc thọ, tâm nhất tánh cảnh. Hành giả ở trong thiền định này đã lìa thoát trạng thái diệu lạc của tam thiền, cho nên gọi là “Xả thanh tịnh”; vì chỉ có thể tu dưỡngcông đức, nên được gọi là “Niệm thanh tịnh” và, cũng vì vậy nên trụ vào trong cảm thọkhông khổ không vui. Hơn nữa, ở trong định này có khả năng đối trị được năm loại là hơi thở ra vào, tham, lạc, tác ý lâc, định hạ liệt tánh của đệ tam thiền định, làm chướng nạncho việc tu đạo của hành giả.

Khi hành giả tu tập thiền định này, có thể được quả báo sanh về đệ tứ thiền thiên. trời này thuộc nơi tối cao của tứ thiền thiên sắc giới. Ở đay gồm có tám trời là Vô Vân (vị trítrời này ở trên tầng mây hợp kín, trời này từ khi khai thỉ mây địa nhẹ nhàng, giống như sao tán), Phước Sanh (trời này câu hữu với thắng phước của chúng sanh phàm phu, mới được sinh vào trời này), Quảng Quả (ở trong chư thiên sắc giới, trời này từ chỗ chúng sanh phàm phu nếu sanh về nơi đó là chỗ tối vi thù thắng), Vô Phiền (ở trong trời này không có bất cứ sự vật hay hiện tượng phiền tạp phân loạn nào và. vì thiên chúng trời này không cầu sinh về vô sắc giới, nên trời này còn gọi là Vô Cầu), Vô Nhiệt (thiên chúngtrời này đã hàng phục mọi chướng ngại của phẩm trung và thượng, ý vui nhu nhuyến, lìa các nhiệt não, nên gọi là Vô Nhiệt), Thiện Hiện (thiên chúng trời này đã đạt được định tạp tu thiện phẩm, nhờ quả đức hiện rõ, nên gọi là thiện hiện), Thiện Kiến (thiên chúng của trời này đã lìa được chướng tu định, đạt đến chỗ vi tế, phàm những gì thấy được đều cực trong suốt, nên gọi là thiện Kiến), Sắc Cứu Cánh (thiên chúng trời này đã đạt đến chỗ cùng cực của khổ qua thân tối hậu sau cùng, tức là là thân tối hậu hữu sắc, qua trời này là Vô Sắc giới).

Ngoài tám trời này ra có quan hệ y xứ quả báo thân lượng và thọ lượng của chư thiên đệ tứ thiền; vì thiên chúng của trời này đã lìa thoát diệu lạc của đệ tam thiền thiên mà chỉ có thể tu dưỡng công đức, nên trời này gọi là “Xả niệm thanh tịnh địa”. Đó là trạng thái thiền của thiên chúng ở trong thiền định đệ tứ đạt được trong đệ tứ thiền.

Như chúng ta đã biết qua Tứ thiền thì Tứ thiền có thể nhiếp thu cả tầm, từ, hỷ, lạc các chi Tịnh lự, trong đó chúng được phân bố theo thuộc tính cần thiết trong tu tập cho chính chúng mà hành giả phải theo tùy theo trình độ căn cơ mà thâm nhâp tuần tự vào định của mỗi hành giả.

Theo Tạp A-hàm 17 (Đ. 2, tr. 121b) thì thứ tự lúc hành giả vào chánh thọ Sơ thiền là đình chỉ ngôn ngữ, vào chánh thọ nhị thiền thiền thì đình chỉ giác quán (tầm, tứ), vảo chánh thọ tam thiền thì đình chỉ tâm hỷ, vào chánh thọ tứ thiền thì đình chỉ hơi thở ra vào; đó là những hình thức có được từ hành tướng hình thức của tứ thiền, còn nội dung ý nghĩa tư tưởng như các chánh định của tứ thiền như chu81ng tôi đã nói ở trên. Ở đây vì có sự sai biệt về hình thức cũng như ý nghĩa nội dung của chúng, nhất là sự thâu nhiếp của tịnh lựcó sự khác biệt nên chúng được phân ra làm bốn loại: Sơ thiềnNhị thiềnTam thiền và Tứ thiền như trên; và cũng theo Tứ thiền này được phân ra mỗi loại thiền gồm có ba loại chi theo giá trị kết quả có được từ sự thực hành của hành giả đưa đến: Đối trị chi, Lợi íchchi và Tự tánh chi.

Theo Câu Xá Luận 28 (Đ. 29, tr. 145b) Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận 9 thì đem Tứ thiền phân ra ba loại gồm mười tám chi thiền: Ba loại thuộc Đối trị chi, Lợi ích chi và, Tự tánh chi, còn mười tám chi thiền gồm cóSơ thiền có năm chi, Nhị thiền có bốn chi, Tam thiền có năm chi và, Tứ thiền có bốn chi theo sơ đồ sau đây:

Sơ Thiền theo đối trị chi có hai chi là tầm (giác) tứ (quán), theo ích lợi chi có hai chi là hỷ và lạc, theo Tự tánh chi có một chi là tâm nhất tánh cảnh, tất cả bao gồm năm chi.

Nhị thiền theo đối trị chi có một chi là nội đẳng tịnh, theo lợi ích chi có hai chi là hỷ và lạc, theo tự tánh chi có một chi là tâm nhất tánh cảnh, tất cả gồm bốn chi.

Tam thiền theo đối trị chi có ba chi là hành xảchánh niệm và chánh tri, theo lợi ích chi có một chi là lạc, theo tự tánh chi là tâm nhất tánh cảnh, tất cả gồm năm chi.

Tứ thiền theo đối trị chi có nai chi là xả thanh tịnh và niệm thanh tịnh, theo lợi ích chi có một chi là chẳng có cảm giác khổ vui, theo tự tánh chi có một chi là tâm nhất tánh cảnh, tất cả gồm năm chi. Trong ba loại chi này mang ý nghĩa của từng thuộc tính theo giá trịkết quả đưa đến cho hành giả sau khi thực hành mà rút ra từ từng loại có được:

Đối trị chi, có khả năng dùng để đối trị hay đoạn trừ các thứ phiền não hoặc nghiệp bất thiện thuộc dục giới và, cũng nhờ đối trị này mà đạt được những trạng thái tâm lý tịch tĩnhhơn có lợi cho mọi tư duy về ly dục và các pháp bất thiện.

Lợi ích chi, chúng có liên hệ đến tiến trình hội nhập tương ưng với cảm thọ chủ quan của cảnh giới đối với hành giả. Như sơ thiền tuy đã ly dục pháp ác bất thiện của dục giới, nhưng cảm thọ đưa đến hỷ lạc khi hành giả đã thoát ly dục giới, chỉ còn có tâm lý hoạt động phân biệt thô tế của tầm tứ và, còn cần phải nổ lực trong vấn đề đối trị hơn; khi nào đến lúc nhị thiền tầm và tứ đã đoạn diệt hết thì sẽ hình thành tín căn cho hành giả, gọi là nội đẳng tịnh.