C.1. Tự phần:

Tự Phần lại chia làm hai: một là thông tự, hai là biệt tự.

Thông tự còn gọi là Chứng Tín Tự, các kinh đều có. Các ngài Thiên Thai, Gia Tường dựa theo sáu thứ thành tựu trong Pháp Hoa Luận để luận về Chứng Tín Tự.

Sáu thành tựu là như Tông Mật đại sư nói: ‘Một là tín, hai là văn, ba là thời, bốn là chủ, năm là xứ, sáu là chúng’. Sáu duyên chẳng đủ, giáo pháp chẳng hưng khởi được nên phải đủ cả sáu; do đó, bảo là thành tựu. Dùng sáu điều ấy để chứng thực kinh văn, xác quyết đây là lời Phật dạy chơn thật đáng tin, vì thế gọi là ‘chứng tín’. Hai phẩm đầu tiên của kinh này thuộc về thông tự phần.

Biệt tự còn gọi là phát khởi tự, tức là đầu mối phát khởi toàn kinh vì pháp chẳng thể tự khởi lên một mình. Phát khởi phải có duyên do. Duyên do phát khởi của các kinh khác nhau nên lại gọi là biệt tự.

Chẳng hạn như kinh Tiểu Bổn A Di Ðà chẳng hỏi tự nói, kinh này thì do Thế Tôn phóng quang hiện tướng tốt lành, A Nan thưa hỏi mà nói. Mỗi kinh chẳng giống nhau nên gọi là biệt tự. Phẩm thứ ba của kinh này thuộc về phần biệt tự.

1.1 Thông tự

1.1.1. Pháp hội thánh chúng

Chánh kinh:

Tôi nghe như thế này: Một thời, Phật tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, với các đại tỳ kheo chúng một vạn hai ngàn người câu hội. Hết thảy đại thánh đã đạt thần thông, tên các ngài là: tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Ðại Mục Kiện Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan v.v… làm thượng thủ. Lại có Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát và hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp đều đến nhóm hội.

Giải:

‘Tôi nghe như thế này’ (như thị ngã văn): các kinh đều dùng bốn chữ này để đặt ở đầu kinh là do di giáo của đức Thế Tôn.

Khi Thế Tôn sắp bát Niết Bàn, A Nan buồn rầu chẳng kìm nổi, A Nê Lâu Ðà khuyên ngài rằng: ‘Ðau buồn ích chi, trước hết phải nên hướng về Phật thưa hỏi bốn việc: Việc thứ nhất, là đầu hết thảy các kinh nên đặt chữ nào?’ Phật liền đáp rằng: ‘Nên để như thị ngã văn, Phật tại chốn mỗ, thời mỗ…’. (tức là sáu thành tựu vừa nói ở trên).

Ở đây, chữ ‘Ngã’ chỉ A Nan.

‘Như thị ngã văn’ ngụ ý pháp môn như thế ấy chính do A Nan tôi được nghe từ đấng Thích Tôn. Câu này phá được nỗi nghi ngờ của người đương thời vì lúc A Nan kết tập kinh điển, đại chúng khởi lên ba điều nghi: một là nghi Phật sống lại, hai là nghi A Nan thành Phật, ba là nghi Phật ở phương khác đến. Vì vậy, khi A Nan nói: ‘Như thị ngã văn’ các mối nghi được giải quyết hết.

Nếu nghi rằng: Phật thành đạo đã hai mươi năm A Nan mới xuất gia, lại đến mười năm sau đó, A Nan mới vâng mạng làm thị giả; như vậy, với những kinh Phật dạy trong ba mươi năm trước đó sao A Nan lại đều bảo là ‘tôi nghe’? Có ba cách giải thích: triển chuyển văn, Phật trùng thuyết, A Nan tự thông.

Triển chuyển văn:  Kinh Báo Ân nói những kinh nào A Nan không được nghe trước đó thì nghe từ các tỳ kheo khác hoặc nghe chư thiên nói.

Phật trùng thuyết: Kinh Báo Ân nói A Nan tuân lệnh Phật làm thị giả bèn xin ba điều, điều thứ ba là những kinh chưa được nghe xin Phật giảng lại. Phật chấp nhận.

A Nan tự thông: Kinh Kim Cang Hoa nói A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam muội nên với những kinh chưa nghe, ngài tự có thể ức trì.

  1. ‘Như thị’ là Tín Thành Tựu là điều đầu tiên trong sáu thứ thành tựu.

Trí Ðộ Luận nói: ‘Biển cả Phật pháp, tin thì vào được’. Kinh Hoa Nghiêm lại dạy:‘Tín làm tay như người có tay đến chốn trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Người nếu không tay không được thứ gì’. Rõ ràng, tín là cửa đầu tiên để nhập pháp, bỏ tín thì không cách nào nhập được. Tín là điều quan trọng nhất để lãnh hội được nên có câu: ‘Vừa vào cửa Tín liền lên địa vị Tổ’.

Chữ ‘Như thị’ còn chỉ cái thể của điều được nghe, tức là Lý Thể của Thật Tướng. Xưa nay chẳng biến đổi nên nói là ‘Như’. Ðúng như lý mà nói nên bảo là Thị.

Với bản kinh này, Ngẫu Ích đại sư bảo: ‘Nương theo lý Thật Tướng niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ quyết định chẳng sai nên bảo là Thị’ .

Do diệu lý Thật Tướng chỉ là tự tánh của một niệm tâm hiện tiền: chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đi, chẳng đến, trạm nhiên, thường trụ nên nói là Như. Nương tâm tánh ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ thì: năng niệm là tâm Thật Tướng, sở niệm (điều được niệm) là vị Phật của Thật Tướng, cái được sanh là cõi Thật Tướng, đều do Thật Tướng Chánh Ấn in vào. Vì vậy, đại sư nói: ‘Quyết định chẳng sai là Thị’.

  1. ‘Ngã văn’ là văn thành tựu. Lúc A Nan kết tập pháp tạng tự nói: ‘Như thị pháp môn, ngã tùng Phật văn’ (Pháp môn như thế tôi nghe từ đức Phật). Ngã là tự ngã, Văn là đích thân nghe, đem điều ấy bảo với đại chúng thì thật đủ để chứng tín.

Thánh nhân vô ngã sao A Nan lại tự xưng là Ngã? Vì chẳng hoại giả danh vậy!

Thật Tướng vô tướng nên chẳng giống như phàm phu có Ngã. Thật Tướng chẳng phải là bất tướng nên chẳng giống Vô Ngã của Tiểu Thừa. A Nan thuận theo thế gian giả gọi là Ngã chẳng trái nghịch Ðệ Nhất Nghĩa Ðế.

Lại nữa, như Quán Kinh Sớ nói: ‘Không Ngã thì không ai nghe, không ai nghe thì sự giáo hóa tuyệt. Vì để truyền dạy, hóa độ chẳng tuyệt, giả danh nói Ngã’.

‘Văn’ (nghe) là căn tai phát sanh nhĩ thức. Ở đây chẳng bảo là tai nghe mà lại nói là ‘ngã văn’ là do chữ Ngã bao trùm các căn. Dùng cái tổng thể thay thế cho cái riêng biệt, dùng Ngã thế cho tai nên nói Ngã Văn.

‘Như Thị’ biểu thị tín nguyện, ‘ngã văn’ biểu thị sư thừa: điều tôi được nghe đều từ kim khẩu đức Thế Tôn nói ra, truyền thừa có đầu mối, quyết định chẳng phải do người khác nói, hoặc tôi tự bịa ra, dùng đây để chứng tín.

  1. ‘Nhất thời’ (một thời) là Thời Thành Tựu. Thời chẳng phải là thật pháp, dài, ngắn tùy tâm, kéo dài hay thu gọn cùng một lúc, ba a tăng kỳ trong một niệm như Sớ Sao giảng:

‘Hoặc kẻ nói đắc đà-ra-ni: trong một sát na, trong một chữ, nói hết thảy pháp môn. Hoặc kẻ nghe do đắc nhĩ căn thanh tịnh: trong một sát na, lúc nghe một chữ, với hết thảy những thứ khác đều không chướng ngại. Hoặc kẻ nói trong chốc lát, người nghe lâu dài. Hoặc kẻ nói lâu lắc, người nghe thành chốc lát. Hoặc kẻ nói dùng thần lực kéo dài hay thâu ngắn tùy nghi, căn khí của kẻ nghe lợi, độn chẳng phải chỉ một loại.

Cổ đức bảo thánh, phàm trong tam thừa thấy báo thân, hóa thân của Phật, tuổi thọ dài ngắn, thành Phật lâu, mau đều chẳng giống nhau. Nay chỉ lấy khoảng thời gian Phật cùng đệ tử, thầy trò cơ cảm tương ngộ, nói, nghe xong xuôi thì gọi là Một Thời’.

Hơn nữa, kinh Phật Ðịa Luận dạy: ‘Nói nghe xong xuôi gọi chung là Một Thời’.

Bởi vậy, trong kinh chẳng nói là năm đó, tháng đó, chỉ căn cứ lúc thầy, trò căn cơ tương ứng hòa hợp, nói, nghe hoàn tất thì gọi là ‘một thời’. Hơn nữa, trong kinh chẳng nêu năm tháng vì lịch pháp mỗi nơi chẳng giống nhau.

Thêm nữa, cách phân chia thời gian trên thế giới chẳng giống nhau: Một ngày đêm trên trời Tứ Thiên bằng với năm mươi năm dưới trần.

Vả lại, khoa học hiện đại đã chứng minh rằng thời gian mặt trời đi trọn một vòng quanh trung tâm hệ Ngân Hà (tức là một năm thái dương) tương đương với thời gian hai vạn vạn năm trên địa cầu. Tốc độ chuyển động của vật thể càng gần với vận tốc ánh sáng thì thời gian cũng tùy theo vận tốc chuyển động của vật thể mà biến đổi chẳng có số lượng nhất định. Vì thế, trong kinh chỉ nói ‘một thời’ là hết sức thực tế vậy.

  1. ‘Phật’ là Chủ Thành Tựu. Phật là tông chủ của hết thảy chúng sanh nên gọi là Chủ. Hơn nữa, trong sáu thành tựu, Chủ Thành Tựu đóng vai trò trọng yếu nhất.

Phật, tiếng Phạn là Phật Ðà, nay chỉ nói Phật là nói gọn. Phật Ðà dịch sang tiếng Hán là Giác Giả. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên dung.

Tự giác là khác với phàm phu bất giác.

Giác tha là khác với Nhị Thừa chỉ giác ngộ riêng mình.

Giác mãn là khác với Bồ Tát còn đang tu nhân. Ba giác cùng viên mãn, là bậc tôn quý nhất trong thánh chúng nên xưng là Phật.

Lại còn dịch là Trí giả, trí chính là nghĩa của chữ Giác. Trí không gì chẳng biết nên nói: đắc nhất thiết chủng trí, đó là nghĩa của chữ ‘giác mãn’. Trong kinh này, chữ Phật ở đây chỉ cho đấng đại ân từ phụ: Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

  1. ‘Tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật’ là Xứ Thành Tựu.

Về thành Vương Xá, từ xưa cho rằng có hai thành: một là Thượng Mao Thành (hoặc là Thượng Ðệ thành, cựu thành), hai là Hàn Lâm Thành (tân thành), hai thuyết bất nhất. Theo Trí Ðộ Luận:

Sau khi Phật niết-bàn, vua A Xà Thế do thấy nhân dân ít đi bèn bỏ đại thành Vương Xá, dựng tiểu thành ở gần đó’.

Sách Bình Giải giảng: ‘Thành Vương Xá vốn là thành cũ Thượng Ðệ. Lại dựng thành nhỏ là thành Hàn Lâm. Ðấy là thành vua A Xà Thế đắp sau khi Phật diệt độ, Phật nào có trụ nơi thành mới? Rõ ràng chỗ Phật từng ở là Thượng Ðệ thành’.

Lời này chứng minh được rằng Phật nói kinh này tại cựu thành. Sách Từ Ân Truyện chép:

‘Vương Xá cựu thành ở nước Ma Yết Ðà, xưa kia nhiều vị quân vương sống trong ấy. Nơi thành ấy lại có mọc nhiều cỏ tranh thơm (hương mao) đẹp đẽ nên gọi tên như vậy’.

Lại nữa, sách Vọng Tây Sớ của Nhật viết: ‘Nếu theo ý tông gia, ta nên gọi [thành Vương Xá] là Thượng Mao’ (tông gia: chỉ ngài Thiện Ðạo đại sư), ý nói: thành Vương Xá nói trong kinh đó chính là cựu thành Thượng Mao. Thuyết này đáng tin nên chẳng nêu các thuyết khác.

Pháp Hoa Luận viết: ‘Như thành Vương Xá vượt xa hết thảy các thành khác, ngụ ý pháp môn này là tối thắng’:

Xứ Ngũ Thiên Trúc có mười sáu thành lớn, thành Vương Xá lớn nhất, cho nên Phật trụ ở thành này nói kinh là để hiển thị sự tối thắng của kinh này.

Lại nữa, sách Ðại Bảo Tích Kinh Luận ghi:

‘Hỏi: Vì sao pháp này chỉ nói ở thành Vương Xá mà không nói ở các thành quách khác?

Ðáp: Do bởi pháp môn này là trụ xứ của pháp vương. Ví như thành Vương Xá là chỗ cư ngụ của vua nên gọi là Vương Xá. Pháp môn này cũng giống thế, là chỗ cư ngụ của pháp vương. Ðể biểu thị nghĩa này nên nói là trụ thành Vương Xá’.

Núi Kỳ Xà Quật là một trong năm hòn núi ngoài thành Vương Xá. Tịnh Ảnh Sớ viết:

‘Núi Kỳ Xà, Tàu dịch là núi Linh Thứu. Núi này có nhiều bậc linh tiên cư trụ nên gọi là Linh. Cũng do có chim Thứu sống trong núi này nên gọi là Thứu’ và: ‘Ðảnh núi này hình giống đầu chim Thứu nên cũng gọi là Thứu Ðầu sơn’.

Sách Tây Vực Ký nói về núi này như sau: ‘Mặt Nam của phía Bắc núi đột nhiên cao vót lên như chim Thứu đậu, cũng giống như cái đài cao. Sắc núi biếc in lên không trung đậm nhạt rõ nét. Như Lai ngự trong đời năm mươi năm thường ở núi này thuyết nhiều diệu pháp’.

Trí Ðộ Luận giảng:

Núi Kỳ Xà Quật hơn hết trong năm ngọn núi vì:

* Tinh xá trong núi này gần thành nhưng khó lên được. Vì gần thành nên đi khất thực không vất vả, khó lên nên hạng người tạp nhạp chẳng tới. Vì vậy, ngự ở núi này chẳng trụ nơi chỗ khác.

* Núi Kỳ Xà Quật này là chốn phước đức xa xưa, là chỗ thánh nhân thích ở. Phật là chúa các thánh nên hay ngự ở đây.

* Núi Kỳ Xà là trụ xứ của tam thế chư Phật.

* Trong núi này thanh tịnh, là nơi có phước đức, vắng vẻ, thanh tịnh, là hành xứ của hết thảy chư Phật, là nơi được thập phương Bồ Tát cung kính, khen ngợi, tám bộ đại lực chúng thần thủ hộ cung kính, cúng dường. Các kinh Ðại thừa phần nhiều được nói tại núi này.

* Trong núi, mười phương vô lượng đại lực Bồ Tát vô lượng trí huệ, phước đức thường đến gặp Thích Ca Mâu Ni Phật, lễ bái, cung kính nghe pháp. Các kinh Ðại thừa phần nhiều giảng tại núi này’.

Sách Pháp Hoa Luận viết: ‘Núi Kỳ Xà Quật trỗi hơn các núi khác, Phật thường ngự ở đây thuyết pháp nhằm hiển thị pháp này là tối thắng’. Vì lẽ đó, kinh này được nói tại núi này.

  1. ‘Với các đại tỳ kheo chúng một vạn hai người câu hội’: Phẩm này chỉ nêu tỳ kheo chúng và Bồ Tát chúng. Cuối phẩm thứ ba sẽ nêu đủ các ba chúng đệ tử và các thiên chúng:

‘Lại có tỳ kheo ni năm trăm người, thanh tín sĩ bảy ngàn người, thanh tín nữ năm trăm người. Dục giới thiên, Sắc giới thiên, chư thiên Phạm chúng cùng nhóm trong đại hội’.

Cuối kinh cũng chép: ‘Chư Bồ Tát, Thanh Văn, thiên long bát bộ, hết thảy đại chúng, nghe lời Phật dạy đều hoan hỉ lớn, tin nhận, vâng làm’ cho thấy lúc Phật thuyết kinh, trong hội có các đại Bồ Tát, Thanh Văn, tỳ kheo, tỳ kheo ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, cho đến chư thiên Phạm chúng, thiên long bát bộ đều đến nghe pháp. Ðây chính là Chúng Thành Tựu trong sáu thành tựu.

Trong hội có Bồ Tát, Thanh Văn, các hạng trời, nguời và tứ chúng đệ tử cõi này: một vạn hai ngàn người cùng nghe, chẳng phải chỉ mình A Nan được nghe, điều ấy đủ để chứng tín vậy.

Câu ‘Với các đại tỳ kheo’ biểu thị Phật cùng đại chúng cùng ở trong hội.

‘Tỳ kheo’ là tiếng Phạn, danh từ này có đến ba nghĩa nên chẳng phiên dịch. Ba nghĩa là:

Khất sĩ: tức là khất thực, khất pháp. Khất thực là đã xuất gia rồi thì xin ăn để nuôi thân, chẳng làm ăn, không tích chứa, bỏ hết vạn duyên, một dạ thanh tu, nên nói: Xin ăn để nuôi thân. Khất pháp là tìm thầy hỏi đạo, nằm sương dãi gió, tìm cầu Phật pháp mong thành thánh quả, nên bảo: khất pháp để dưỡng tâm.

Phá ác: chánh huệ quán sát phá phiền não ác, hết kiến tư hoặc, siêu xuất tam giới.

– Bố ma (làm ma sợ hãi): Như kinh Niết Bàn nói: ‘Tánh ma cấu tệ (theo Trung Hoa Ðại Tự Ðiển, chữ Cấu có tám nghĩa, một nghĩa trong ấy là Ác), kỵ người hơn mình. Thấy ai hơn mình lòng sanh kinh hãi. Lại sợ người ấy giáo hóa nhiều chúng sanh cùng thoát khỏi sanh tử khiến cảnh giới ma trống rỗng nên sanh lòng sợ hãi’.

Nếu người xuất gia thọ giới, Yết Ma thành tựu thì được không hành dạ xoa và thiên hành dạ xoa lan truyền nhau khen ngợi. Tiếng đồn lên đến tầng trời thứ sáu của Dục giới, ma nghe thấy sanh tâm hoảng sợ.

‘Ðại’ tiếng Phạn là Ma ha, có ba nghĩa là đại, đa, thắng.

* Ðại là như A Di Ðà Sớ Sao giảng: ‘Thiên vương, đại nhân cùng kính ngưỡng, do đức chẳng nhỏ nên gọi là Ðại’. Tịnh Ảnh Sớ chép: ‘Ðức cao quý mênh mông hơn hẳn kẻ cận học khác nên gọi là Ðại’.

* Ða là nội điển, ngoại tịch không sách vở nào chẳng thông suốt rộng rãi, chẳng phải là kẻ hiểu biết ít ỏi, nên gọi là Ða.

* Thắng là vượt hơn những kẻ học khác, vượt lên trên cả chín mươi sáu thứ ngoại đạo.

Ngoài ra, Phật Ðịa Luận còn nêu ba nghĩa khác: Một là lợi căn tột bực, là chủng tánh ba la mật. Hai là đắc quả vị vô học. Ba là đắc tiểu quả rồi, tiến lên đại Bồ Ðề. Do ba nghĩa trên đây nên gọi là Ðại.

Ngài Gia Tường lại bảo: Ðại có ba nghĩa, một là sanh sự hiểu biết lớn lao, hai là phá ác lớn, ba là chứng đại quả.

Do những điều trên, ta thấy đại tỳ kheo là bậc tỳ kheo đức cao trọng vọng, từ Tiểu thừa hướng đến Ðại thừa, là bậc tôn túc trong các tỳ kheo.

‘Một vạn hai ngàn người câu hội’ là nói về số lượng các vị tỳ kheo. Bộ Hội Sớ của Nhật viết:

Các kinh thường nêu một ngàn hai trăm năm mươi người. Kinh này và kinh Pháp Hoa lại nói một vạn hai ngàn người. Ðó là do bổn hoài xuất thế, là pháp hội thù thắng cả một đời nên thập phương đại đức đều như mây nhóm đến’.

Thuyết trên rất đúng, hội chúng đông đảo biểu thị Thế Tôn thuyết pháp thù thắng. Chữ ‘câu’ lại có nghĩa là cùng nhóm đến.

Câu ‘Hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’ khen ngợi đức của các đại tỳ kheo. ‘Hết thảy’ là tiếng để bao gồm tất cả sự vật, ‘hết thảy’ còn có nghĩa là khắp cả. ‘Hết thảy đại thánh’ là lời khen ngợi. Gia Tường sớ giảng: ‘Tâm dạo nơi không lý; ẩn, hiển khó lường nên gọi là thánh nhân’.

Hội Sớ viết: ‘Từ Sơ Quả trở lên đều gọi là Thánh. Ðã cùng tột quả Ðại A La Hán thì gọi là Ðại Thánh. Cũng có thể hiểu là ngoài hiện làm Thanh Văn, trong ẩn giấu hạnh Bồ Tát nên gọi là Ðại Thánh’.

Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Ðại có hai nghĩa: một là địa vị cao lớn, hai là đức thù thắng, nên gọi là Ðại. Hiểu biết đúng đắn gọi là Thánh’.

Từ những điều trên, ta thấy: nếu từ đức mà nói thì khế hợp Không lý, hiểu đúng chánh đạo gọi là Thánh. Hoặc từ địa vị mà nói: từ Sơ Quả trở lên gọi là Thánh, nhưng phải hồi Tiểu hướng Ðại, hành Bồ Tát đạo, hướng thẳng đến Phật quả (mới gọi là tột cùng quả Ðại A La Hán), hoặc là bậc đại quyền thị hiện mới gọi là Thánh.

Ngài Tịnh Ảnh lại nói: ‘Thần thông’ đã đạt: khen ngợi đức của họ thù thắng. Việc làm thần dị nên gọi là Thần. Không bị úng trệ là Thông, tức là thân thông (thần túc thông), thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm và lậu tận. Vì vậy, Thần nghĩa là chẳng lường được, Thông nghĩa là vô ngại’.

Về chữ ‘đạt’, ngài Gia Tường giảng: ‘Ðạt là chứng, chính là chứng sáu thông, tam minh.’

Ðương thời, ngài A Nan tuy chưa đắc Lậu Tận, nhưng do là đương cơ nên cũng kể trong số các vị này. Ngài Tịnh Ảnh lại giải thích rằng:

‘A Nan lợi căn tăng thượng tuy còn ở địa vị Hữu Học (chưa được quả vị vô học) mà thành được vô thượng công đức thắng diệu nên gọi là Ðại Thánh. Ðã hiểu biết trọn vẹn thần thông nên cũng gọi là đã đạt’. Do vậy, ngài A Nan cũng được nêu tên trong ‘hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’.

‘Tên các ngài là: tôn giả Kiều Trần Như’: Tôn Giả, tiếng Phạn là A Lê Gia (Arya), dịch là thánh giả, tôn giả, tức là bậc trí đức đầy đủ đáng tôn trọng, cũng là tiếng tôn xưng A La Hán. Ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Có đức đáng tôn trọng nên gọi là Tôn Giả’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Tôn là tôn quý, có đức đáng quý nên gọi là Tôn Giả’.

Kiều Trần Như: tên gọi đủ trong tiếng Phạn là A Nhã Kiều Trần Như. A Nhã là tên, Kiều Trần Như là họ, dịch sang tiếng Hán là Liễu Bổn Tế, Tri Bổn Tế hoặc là Dĩ Tri (đã biết), Vô Tri (Vô Tri không có nghĩa là không biết gì mà có nghĩa là biết được cái không).

Ngài Tịnh Ảnh bảo: ‘A là không, Nhã là trí. Chứng Vô Thành Trí nên gọi là Vô Trí. Vô là bổn tánh của hết thảy các pháp nên gọi là Bổn Tế. Hiểu biết rõ ràng bổn tế ấy nên gọi là Liễu Bổn Tế’.

Lúc đức Thế Tôn chuyển pháp luân lần thứ nhất độ năm tỳ kheo, ngài Kiều Trần Như ngộ đạo đầu tiên.

Sách Pháp Hoa Văn Cú chép: ‘Ngài là đệ tử thứ nhất trong giáo pháp của Phật Thích Ca’.

Trong phẩm Ðệ Tử kinh Tăng Nhất A Hàm, Phật gọi ngài là ‘Tỳ kheo bậc nhất trong hàng Thanh Văn của ta: khoan dung, nhân từ, hiểu rộng, có  khả năng khuyến hóa khéo léo, dạy dỗ thánh chúng, chẳng mất oai nghi’.

Kinh này trước hết nêu tôn danh của ngài nhằm biểu thị: người có thể nghe nhận kinh pháp này đều là đệ tử bậc nhất. Phẩm ‘Chẳng phải là Tiểu thừa’ của kinh này chép:

‘Ðược nghe danh hiệu A Di Ðà Phật rồi có thể trong một niệm sanh lòng hoan hỷ, quy y chiêm lễ, đúng lời dạy tu hành… nên biết người ấy chẳng phải là Tiểu thừa, đáng gọi là đệ tử bậc nhất trong pháp của ta’.

‘Tôn giả Xá Lợi Phất’: chữ Xá Lợi trong tiếng Phạn là chim Thu Lộ, Phất là con. Do vậy, tên ngài dịch là Thu Tử. Tên ngài đặt theo mẹ, mẹ ngài thân hình đoan chánh, mắt trong như mắt chim Thu Lộ nên đặt tên ngài là Thu Tử, nghĩa là con của bà Thu Lộ. Ngài còn có tên là Châu Tử, cũng là do mắt mẹ ngài trong như ngọc. Ngài còn được gọi là Thân Tử vì mẹ ngài thân hình đoan chánh.

Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất trong các Thanh Văn đệ tử Phật. Lúc còn trong thai, ngài đã khiến cho mẹ nói năng hùng hồn hơn cả ông cậu Câu Hy La (ông này sau cũng chứng A La Hán). Tám tuổi đã lên tòa giảng, mười sáu tuổi đi các nước nghị luận vô song, trong vòng bảy ngày hiểu trọn Phật pháp.

Kinh này nói đến pháp hết thảy thế gian khó tin được, chỉ có bậc đại trí mới có thể tin tưởng sâu xa chẳng nghi ngờ. Vì vậy, tên ngài được kể ở đầu kinh ngay sau ngài Kiều Trần Như.

‘Tôn giả Mục Kiện Liên’ chính là ngài Ma Ha Mục Kiện Liên trong kinh A Di Ðà. Ma Ha nghĩa là lớn, Mục Kiện Liên là họ, dịch là Tán Tụng hay Thái Thúc hoặc Lai Phục Căn. Dòng họ này nhiều người xuất gia nên trước tên của tôn giả thêm chữ Ðại thành Ðại Thái Thúc (Ðại Mục Kiện Liên) để phân biệt. Tên ngài là Câu Luật Ðà. Cha tên Tướng Quốc, cầu con từ thần cây Câu Luật Ðà sanh được ngài nên đặt tên như thế. Trong các đệ tử Phật, ngài thần thông đệ nhất.

Trí Ðộ Luận viết: ‘Như Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất, Mục Kiện Liên thần túc đệ nhất’, ‘Xá Lợi Phất là đệ tử bên phải Phật, Mục Kiện Liên là đệ tử bên trái’.

Tôn giả thần thông rất rộng, chẳng hạn như: đem toàn bộ người họ Thích trong một thành bay lên trời Phạm thiên. Ngoại đạo dời núi, ngài chế ngự khiến núi chẳng lay động, hàng phục rồng độc v.v… những sự như vậy khó lòng thuật đủ.

‘Tôn giả Ca Diếp’: Ca Diếp là họ, Tàu dịch là Quy hoặc Ẩm Quang. Ngài tên Tất Ba La, cũng là tên một loài cây. Do cha mẹ cầu đảo nơi thần cây ấy sanh ra ngài nên lấy tên cây đặt tên. Tôn giả là con nhà trưởng giả đại phú, bỏ cả gia tài lớn lao, tu đại hạnh đầu đà, được mọi người biết đến nên gọi là Ðại Ca Diếp để phân biệt với ba vị Ca Diếp đồng thời: Thập Lực Ca Diếp, Ðồng Tử Ca Diếp, Ðồng Nữ Ca Diếp.

Ca Diếp còn dịch là Quy. Sách Pháp Hoa Văn Cú viết: ‘Ðời xưa học đạo, rùa thiêng đội bản đồ tiên ứng hiện. Tên dòng họ được đặt theo đức nên gọi là họ Quy’.

Ca Diếp còn dịch là Ẩm Quang vì thời Phật Tỳ Bà Thi, ngài làm thợ luyện kim cùng một cô gái nghèo dùng vàng ròng trang hoàng tượng Phật. Từ đấy trở đi, trong chín mươi mốt kiếp, thân như vàng ròng, quang sắc chói lòa che lấp các sắc khác nên gọi là Ẩm Quang (Ẩm nghĩa là nuốt mất, ánh sáng của ngài “nuốt” mất các sắc khác).

Tôn giả hành đầu đà bậc nhất. Ðầu Ðà là tiếng Phạn, Tàu phiên âm là Ðẩu Thấu hoặc Ðào Thải vì mười hai hạnh ấy đào thải trần lao phiền não.

Mười hai hạnh là: Ở chốn a lan nhã (chốn vắng lặng), thường hành khất thực; khất thực theo thứ tự; ngày chỉ ăn một bữa; ăn có chừng mực; sau giờ ngọ chẳng uống các thứ tương (11); mặc y phấn tảo; chỉ có ba y; ngồi nơi mồ mả; ngủ dưới gốc cây; ngồi nơi đất trống; chỉ ngồi không nằm. Dùng các khổ hạnh ấy tảo trừ thân tâm.

Ca Diếp tuổi già chẳng bỏ hạnh đầu đà. Phật thương ngài suy yếu khuyên hãy thôi nghỉ, Ca Diếp vẫn giữ hạnh đầu đà như cũ, Phật khen ngợi nồng nhiệt rằng: ‘Có hạnh đầu đà, pháp của ta trường tồn lâu dài’. Do vậy bảo ngài hành đầu đà bậc nhất.

Nói sơ lược, Ðại Ca Diếp là sơ tổ truyền tâm ấn Phật của Thiền tông. Quyển thứ ba kinh Ðại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi chép:

Ðại Phạm đến Linh sơn đem hoa kim sắc ưu bát la cúng Phật, trải thân làm tòa, thỉnh Phật vì chúng sanh thuyết pháp. Thế Tôn lên tòa, giơ cành hoa cho chúng xem. Trăm vạn trời người thảy đều ngơ ngẩn, chỉ có Kim Sắc đầu đà hé miệng mỉm cười, Thế Tôn nói:

– Ta có chánh pháp nhãn tạng Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng vi diệu pháp môn, phó chúc Ma Ha Ca Diếp”.

Ðây chính là công án ‘Thế Tôn niêm hoa’.

Thế Tôn truyền tâm ấn cho Ca Diếp làm sơ tổ Thiền tông. Ca Diếp lại truyền cho A Nan làm nhị tổ. Nay nêu tên ngài Ðại Ca Diếp ở đầu kinh chính là để biểu thị thâm ý Thiền, Tịnh bất nhị.

‘Tôn giả A Nan v.v…’: Bản Ðường, Tống dịch là A Nan Ðà, gọi tắt là A Nan, Hán dịch là Khánh Hỷ, Hoan Hỷ, còn dịch là Vô Nhiễm. Ngài là con của Bạch Phạn Vương, em họ của Phật, sanh trong ngày Phật thành đạo. Tịnh Phạn Vương nghe tin thái tử thành Phật, lại nghe trong cung sanh con trai càng thêm hoan hỷ, bèn phán: ‘Hôm nay đại cát, là ngày hoan hỷ’, bảo với sứ giả: ‘Ðứa trẻ ấy nên đặt tên là A Nan’.

Hơn nữa, tôn giả đoan chánh thanh tịnh như tấm gương trong vắt. Trông thấy hình dạng ngài, nghe tiếng ngài, xem uy nghi của ngài, không ai chẳng hoan hỷ, nên đặt tên như vậy.

Ngoài ra, tôn giả theo Phật vào long cung, thiên cung, tâm không ham đắm. Phật đã năm mươi lăm tuổi, A Nan mới xuất gia, hầu Phật hai mươi lăm năm, pháp Phật tuyên thuyết ngài đều nhớ giữ, chẳng quên một chữ. Kinh Niết Bàn gọi A Nan là bậc đa văn. Ca Diếp cũng khen rằng:  ‘Nước biển cả Phật pháp chảy vào tâm A Nan’ nên gọi ngài là đa văn bậc nhất.

Chữ ‘đẳng’ (vân vân…), bản Ngụy dịch kể tên ba mươi mốt vị, còn hội bản chỉ nêu trên năm vị thượng thủ nên viết là ‘A Nan v.v…’ để chỉ chung các vị còn lại.

‘Làm thượng thủ’: Hiện tại gọi thủ tọa là Thượng Thủ. Ðịa vị cao hơn hết trong đại chúng gọi là Thượng Thủ.

Số lượng các vị Thượng Thủ trong các kinh chẳng đồng, chẳng hạn như trong kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ, trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị đại bí sô, nêu tên bốn vị Xá Lợi Phất, Mục Kiện Liên, Ðại Ca Diếp, A Nê Luật Ðà là Thượng Thủ. Kinh này thì năm vị như Kiều Trần Như v.v… làm Thượng Thủ. Họ là Thượng Thủ trong các đại tôn giả ‘hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’.

Xét ra, câu ‘hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’ vốn là câu khen ngợi đức hạnh của Bồ Tát như kinh Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ chép: ‘Cùng chúng: bốn vạn hai ngàn đại tỳ kheo, tám vạn bốn ngàn Bồ Tát, hết thảy đại thánh thần thông đã đạt’.

Kinh đây dùng lời khen ngợi Bồ Tát để ca tụng Thanh Văn là ngụ ý các vị thánh chúng thường theo hầu Phật vốn là Pháp Thân Ðại Sĩ, ẩn bổn thùy tích, hoặc là thánh chúng phương khác giúp Phật hoằng hóa: đóng vai trò những người gây ảnh hưởng.

Câu ‘Hết thảy đại thánh’ chỉ bổn địa của họ: vốn là bậc Bồ Ðề rốt ráo. ‘Thần thông đã đạt’ là quyền tích: dùng du hý thần thông đến cõi này. Do vậy, biết được rằng các hàng Thanh Văn vừa được nêu trên đều là bậc đại quyền thị hiện hỗ trợ đức Thế Tôn ta khai hiển pháp môn Tịnh Ðộ.

Xét chung, năm vị thánh nói trên:

Liễu Bổn Tế biết rõ bổn tế lâu xa nên được nêu tên đầu tiên.

Thân Tử trí huệ bậc nhất biểu thị Phật trí, trí chẳng nghĩ bàn, trí chẳng thể nói, trí Ðại thừa rộng lớn, trí không gì bằng, không chi sánh, tối thượng thắng trí, sâu rộng không bờ bến của Phật Di Ðà.

Mục Kiện Liên thần thông đệ nhất, hiển thị thệ nguyện du hý thần thông.

Ðại Ẩm Quang hiển thị quang minh thù thắng của Phật Di Ðà không gì chẳng chiếu tỏ, là tôn quý nhất trong các quang minh, là vua của các đức Phật.

Khánh Hỷ biểu thị: nghe tên hoan hỷ đều được độ thoát.

Hơn nữa, Ca Diếp là sơ tổ của Tông môn, A Nan là nhị tổ, A Nhã Kiều Trần Như biểu thị bổn tế của đương nhân, Xá Lợi Phất biểu thị trí huệ vốn sẵn có của chúng sanh; Mục Kiện Liên chính là thần thông chúng sanh sẵn có; Ẩm Quang là linh quang độc diệu, thoát khỏi căn trần; Hoan Hỷ biểu thị sự vui sướng bình sinh, tâm tâm tiếp nối.

Vì vậy, một bộ Ðại kinh đúng là phó pháp truyền tâm; một câu danh hiệu phơi bày trực tiếp Như Lai diện mục. Lãnh hội được điều này mới đáng xưng là “hổ mọc thêm sừng”. Chỉ cần hăm hở mà niệm thời là vô thượng thâm thiền. Chẳng nệ định trì, tán niệm, quyết định chẳng phí uổng công lao.

Kinh này trước nêu Thanh Văn, sau kể Bồ Tát, thật đúng như cuốn mười hai của Phật Ðịa Luận viết:

Trước nói Thanh Văn, sau nêu Bồ Tát. Chúng Thanh Văn gần gũi Thế Tôn vì được Phật đích thân giáo hóa. Hơn nữa, các Thanh Văn thường theo đức Phật nên hình tướng giống với đức Phật’.

Vì vậy, phần nhiều các kinh thường nêu Thanh Văn rồi mới nói đến Bồ Tát.

‘Lại có Phổ Hiền Bồ Tát’: Bồ Tát là chữ Phạn nói tắt, nói đủ là ‘Ma-ha Bồ-Ðề Chất-đế-tát-đỏa’. Ma ha dịch là Ðại, ‘Bồ Ðề’ là Ðạo, ‘chất-đế’ là Tâm, ‘tát đỏa’ dịch là chúng sanh hoặc hữu tình. Gộp lại là ‘đại đạo tâm chúng sanh’, nói gọn là Bồ Ðề Tát Ðỏa, nghĩa là Giác Hữu Tình.

Chứng ngộ giống như Phật là Giác. Chưa hết vô minh nên gọi là Hữu Tình. Giác lại có nghĩa là Phật đạo mình đang mong cầu, hữu tình là chúng sanh mình đang hóa độ. Việc lợi sanh gấp rút, rộng độ chúng sanh cùng chứng Ðại Giác nên gọi là Giác Hữu Tình. Hai chữ Bồ Tát là cách nói giản lược nhất.

Vì sao là Ðại Ðạo Tâm Chúng Sanh? Vì đủ cả bốn điều lớn lao. Tịnh Ảnh Sớ giảng bốn điều lớn lao là:

‘Một là nguyện đại: vì cầu đại Bồ Ðề. Hai là hạnh đại: vì thành tựu hai lợi (lợi mình, lợi người). Ba là thời đại: vì trải qua ba vô số kiếp. Bốn là đức đại: vì đầy đủ các công đức Nhất Thừa’.

Bồ Tát cũng bao gồm lục đại của kinh Pháp Hoa: tín đại pháp, giải đại nghĩa, phát đại tâm, hướng đến đại quả, tu đại hạnh, chứng đại đạo. Do đầy đủ các thứ ‘đại’ nói trên nên gọi là Ðại Ðạo Tâm Chúng Sanh.

Phổ Hiền còn gọi là Biến Cát. Thanh Lương Sớ nói Phổ Hiền có ba loại: một là Vị Tiền (chỉ phát tâm Phổ Hiền), hai là Vị Trung (Ðẳng Giác Bồ Tát), ba là vị hậu Phổ Hiền (đắc quả nhưng chẳng xả nhân hạnh, tức là đã thành Phật nhưng chẳng bỏ hạnh khi còn tu nhân).

Thanh Lương Sớ giải thích chữ Phổ Hiền như sau: ‘Quả không gì chẳng cùng tận là Phổ, chẳng xả nhân địa là Hiền’. Ðấy chính là vị hậu Phổ Hiền do Như Lai hóa hiện.

Còn như sách Hội Sớ giảng: ‘Thể trọn khắp pháp giới là Phổ, địa vị gần với bậc cực thánh là Hiền’ thì đấy là vị trung Phổ Hiền, là Ðẳng Giác Bồ Tát.

Sách Hội Sớ lại nói: ‘Có thể dẫn dắt, chế ngự hết thảy chúng, phát mười đại nguyện vương, nguyện vãng sanh Tây phương, đặc biệt khen ngợi Di Ðà nên trong kinh này, ngài là thượng thủ’.

Lại như sách Thám Huyền Ký viết: ‘Ðức bao trùm pháp giới là Phổ, thánh thiện, nhu hòa đến cùng cực là Hiền’.

Quyển một của Ðại Nhật Kinh Sớ ghi: ‘Phổ Hiền Bồ Tát: Phổ là khắp hết thảy các chỗ, Hiền nghĩa là sự lành mầu nhiệm nhất; tức là nguyện hạnh do tâm Bồ Ðề khởi lên và thân, miệng, ý thảy đều bình đẳng, trọn khắp hết thảy các chỗ đều thuần nhất diệu thiện, đầy đủ các đức. Vì vậy, lấy đó làm tên’.

Phổ Hiền, Văn Thù là hai vị hiếp sĩ (12), hầu hai bên Phật Thích Ca, là Thượng Thủ trong hội của đức Thích Ca. Trong hội Hoa Nghiêm, họ cũng là Thượng Thủ.

Phổ Hiền Bồ Tát còn là trưởng tử của hết thảy chư Phật. Tứ Thập Hoa Nghiêm Tứ Thập Tụng ghi: ‘Hết thảy Như Lai có trưởng tử, danh hiệu của ngài là Phổ Hiền’ cho thấy Phổ Hiền chính là từ Pháp Thân của Như Lai xuất hiện, hóa thành vị Ðẳng Giác Ðại Sĩ khen ngợi Thích Tôn, xướng diễn thánh giáo.

Trong Mật giáo, Phổ Hiền chính là Kim Cang Tát Ðỏa, sơ tổ của Mật giáo. Kim Cang Tát Ðỏa chính là Kim Cang Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát. Kinh Thánh Vô Ðộng Tôn Ðại Oai Nộ Vương Bí Mật Ðà Ra Ni chép: ‘Ông Kim Cang Thủ đây là Pháp Thân Ðại Sĩ, vì vậy, tên là Phổ Hiền’.

Sách Ngũ Bí Tát Quyết của ngài Kim Cang Trí cũng ghi: ‘Kim Cang Tát Ðỏa chính là tên khác của Phổ Hiền Ðại Bồ Tát, ngài cũng được gọi là con trưởng của hết thảy Như Lai, cũng gọi là Ðại A Xà Lê’.

Phẩm thứ hai Ðức Tuân Phổ Hiền của kinh này cũng có câu ‘vì dạy Bồ Tát, làm a xà lê’.

Nay trong kinh này, Phổ Hiền Ðại Sĩ được kể tên là bậc thượng thủ cao nhất, chính là để hiển thị: Mật, Tịnh bất nhị. Vì vậy, tiên sư là Hạ lão cư sĩ nói:

‘Tịnh Ðộ chính là hiển thuyết của Mật giáo (Tổ sư Liên Hoa Sanh Ðại Sĩ của Hồng giáo Mật tông Tây Tạng chính là hóa thân của Phật A Di Ðà. Vì vậy, Hồng giáo tôn sùng A Di Ðà, sốt sắng khuyên sanh Cực Lạc hơn các tông phái khác. Trong bản giải thích kinh này, tạm chẳng bàn luận về chi tiết yếu chỉ Mật, Tịnh bất nhị).

‘Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát’ cũng gọi là Mạn Thù Thất Lợi, Tàu dịch là Diệu Thủ, cũng dịch là Diệu Cát Tường, còn dịch là Diệu Ðức, là thầy của chư Phật. Kinh Phóng Bát nói:

‘Nay tôi được thành Phật đều do ơn của Văn Thù Sư Lợi. Quá khứ vô ương số chư Phật đều là đệ tử của Văn Thù Sư Lợi. Các vị tương lai cũng cậy sức oai thần của ngài. Ví như trẻ nít trong đời có cha mẹ, Văn Thù là cha mẹ trong Phật đạo vậy’.

Kinh Tâm Ðịa Quán nói: ‘Mẹ giác ngộ của ba đời là Diệu Cát Tường’.

Sách Pháp Hoa Sớ của ngài Gia Tường giảng chữ Diệu Ðức như sau: ‘Văn Thù, Tàu dịch là Diệu Ðức, do thấy rõ ràng Phật tánh, đức không gì chẳng viên mãn, quả không gì chẳng cùng tột, nên xưng là Diệu Ðức’.

Hội Sớ chép: ‘Chứng ba đức vi diệu như Phật nên cũng gọi là Diệu Cát Tường. Ba thứ hoặc, nghiệp, khổ nếu còn có chút phần chẳng gọi là Cát Tường. Ðịa vị đạt đến rốt ráo, ba đức hiển lộ trọn vẹn, nên lại hiệu là Diệu Cát Tường’.

Trong chúng Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là bậc trí huệ bậc nhất. Ngài vốn là Long Chủng Tôn Vương Như Lai, hiện tại ở cõi Thường Hỉ phương Bắc thành Phật hiệu là Bảo Tích Như Lai. Ðời vị lai, ngài thành Phật hiệu là Phổ Kiến Như Lai. Như vậy, Ðại Sĩ Văn Thù thành Phật trong ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nay ngài thị hiện trong hội này làm bậc đại trí độc tôn, biểu thị pháp môn này chỉ có người đại trí mới tín nhập nổi.

Hơn nữa, Diệu Ðức là thấy rành rẽ Phật tánh nên kinh văn đặt ngài làm thượng thủ tiếp ngay theo Phổ Hiền chính là nhằm để biểu thị ý chỉ Thiền, Tịnh bất nhị.

‘Di Lặc Bồ Tát và hết thảy Bồ Tát trong Hiền kiếp đều đến nhóm hội’: Di Lặc, Tàu dịch là Từ Thị, là họ của Bồ Tát, tên ngài là A Dật Ða, Tàu dịch Vô Năng Thắng. Nói đầy đủ là Từ Vô Năng Thắng. Sách Di Ðà Sớ Sao viết:

‘Do khi ngài còn trong thai, mẹ liền có tâm từ, nên lấy đó làm họ. Lại trong đời quá khứ, gặp Ðại Từ Như Lai, nguyện cùng mang hiệu này liền được từ tâm tam muội. Lại nữa, xưa kia ngài làm bà la môn, hiệu là Nhất Thiết Trí, trong tám mươi năm tu tập hạnh từ. Trong thời đức Phật Phất Sa, lại cùng với Thích Ca Như Lai phát tâm Bồ Ðề thường tu tập từ định.

Kinh Tư Ích lại chép: ‘‘Chúng sanh trông thấy ngài liền đắc từ tâm tam muội’’. Kinh Bi Hoa lại chép: ‘‘Phát nguyện trong kiếp đao binh, ủng hộ chúng sanh’’ nên ngài từ bi giáng sanh trong đời, thương xót đến muôn kiếp sau, lòng từ đến cùng tột, vượt xa phàm tiểu nên không ai hơn được ngài (Vô Năng Thắng)’.

Ðại sĩ ở địa vị bổ xứ, hiện đang ở Ðâu Suất nội viện, bốn ngàn năm sau (bốn ngàn năm của trời Ðâu Suất, tương đương với năm mươi bảy ức sáu trăm vạn năm ở địa cầu) hạ sanh trong cõi này thành Phật, phước đức thù thắng, ba hội Long Hoa độ sanh vô lượng.

Kinh này lấy ba vị Ðại Sĩ trên làm thượng thủ của chúng Bồ Tát là vì ba vị Ðại Sĩ có duyên sâu xa với Tịnh Ðộ, thật khéo ảnh hưởng hải hội đại chúng cùng quy hướng Tịnh Ðộ. Trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện, Phổ Hiền Bồ Tát ở trong rừng Thệ Ða phát mười đại nguyện vương, rồi nói:

‘Kẻ ấy lúc mạng chung, trong sát na cuối cùng, hết thảy các căn đều tán hoại, hết thảy thân thuộc đều xa lìa, hết thảy oai thế đều thối thất. Phụ tướng, đại thần, cung điện, trong, ngoài, voi, ngựa, xe cộ, kho tàng quý báu, hết thảy các thứ như vậy đều chẳng theo mình nữa, chỉ có nguyện vương này chẳng rời bỏ, trong hết thảy thời nó dẫn đường trước mặt, trong một sát na liền được vãng sanh Cực Lạc thế giới. Ðến nơi rồi, liền thấy A Di Ðà Phật’.

Lại nói kệ rằng: ‘Nguyện tôi vào lúc mạng sắp dứt, trừ sạch hết thảy các chướng ngại. Tận mặt thấy Phật A Di Ðà, liền được vãng sanh cõi An Lạc. Tôi đã vãng sanh cõi ấy rồi, hiện tiền thành tựu đại nguyện này, viên mãn hết thảy chẳng còn sót, lợi lạc hết thảy chúng sanh giới’.

Lại nữa, trong kinh Văn Thù Phát Nguyện có câu: ‘Nguyện tôi lúc mạng chung, diệt trừ các chướng ngại, gặp mặt A Di Ðà, vãng sanh cõi An Lạc. Sanh cõi Phật ấy rồi, thành mãn các đại nguyện, A Di Ðà Như Lai hiện tiền thọ ký cho’.

Hai vị Ðại Sĩ phát nguyện cầu sanh Cực Lạc thù thắng như thế ấy nhằm khuyên nhủ hết thảy Bồ Tát đều tin kính đại trí của Văn Thù, nhập đại hạnh của Phổ Hiền, dẫn dắt khắp các chúng sanh cùng quy Cực Lạc. Vì vậy, kinh này nêu các ngài làm thượng thủ. Tiếp đó, nêu tên Bồ Tát Di Lặc.

Kinh Ðại Bảo Tích, pháp hội Phát Thắng Chí Lạc Hội, có chép:

‘Nếu có chúng sanh phát mười tâm, với mỗi mỗi tâm chuyên niệm hướng về A Di Ðà Phật, người ấy mạng chung sẽ được vãng sanh thế giới của đức Phật ấy. Bạch Thế Tôn! Những gì là mười thứ tâm, do những tâm ấy sẽ được vãng sanh thế giới của đức Phật ấy?’ đủ thấy Di Lặc Ðại Sĩ phụ trợ đức Thích Ca hoằng truyền diệu pháp Tịnh Ðộ.

Hơn nữa, trong phẩm thứ ba mươi hai ở phần sau kinh này, ngài Di Lặc là đương cơ. Trong phẩm bốn mươi sáu, Phật phó chúc Ðại Sĩ Di Lặc như sau:

‘Ta nay theo đúng lý tuyên thuyết pháp môn rộng lớn vi diệu được hết thảy chư Phật khen ngợi như thế, giao phó các ông thực hiện sự thủ hộ rộng lớn để pháp này được tồn tại lâu dài chẳng diệt’.

Di Lặc tuân lãnh lời Phật phó chúc, hoằng trì kinh này. Vì vậy Ðại Sĩ chẳng chỉ trong hội Long Hoa đời tương lai quyết nói kinh này mà còn suốt tột cùng đời vị lai cũng sẽ thường nói kinh này chẳng dứt.

‘Hiền kiếp’: Trụ kiếp hiện tại tên là Hiền Kiếp. Trong đại kiếp này có ngàn đức Phật xuất thế, vì vậy tên là Hiền kiếp. Quyển năm kinh Bi Hoa chép: ‘Thế giới Phật này sẽ có tên là Sa Bà… Khi ấy có đại kiếp tên là Hiền Thiện, trong đại kiếp ấy, có ngàn vị Thế Tôn thành tựu đại bi, xuất hiện trong đời’.

Theo Phật Tổ Thống Ký, trong kiếp này, đức Phật thứ nhất tên Câu Lưu Tôn Phật, kế đến là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, vị thứ ba là Ca Diếp Phật, vị thứ tư là đức Thích Ca Mâu Ni Phật hiện tại. Sau đấy có Di Lặc Phật v.v… chín trăm chín mươi sáu vị Phật nối tiếp nhau xuất thế. Nay trong hội này, Di Lặc Bồ Tát và chín trăm chín mươi lăm vị Ðại Sĩ khác sẽ thành Phật trong Hiền Kiếp đều đến nhóm hội, nghe Phật thuyết pháp.

Vì vậy, ta biết rằng hết thảy các đức Phật vị lai trong Hiền kiếp đều sẽ tuyên thuyết kinh này (nói thêm: trong Hiền kiếp có tất cả một ngàn lẻ năm vị Phật, một ngàn lẻ một vị từ Di Lặc trở đi đều chưa thành Phật, chẳng thường thấy đề cập đến nên chẳng chép chi tiết).

Trong phẩm thứ nhất, dùng tín, văn, thời, chủ, xứ, chúng, sáu thứ thành tựu để chứng tín kinh này. Giống như kinh Pháp Hoa, chúng đại tỳ kheo trong kinh này là một vạn hai ngàn vị trỗi vượt hẳn các kinh khác. Hơn nữa, giống như kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát là vị thượng thủ đầu tiên của kinh này. Rõ ràng, kinh này tương đồng hai kinh Viên Giáo vừa nói trên.

1.1.2. Ðức tuân Phổ Hiền

Phẩm thứ hai nói chi tiết thêm về các vị thánh chúng đã được phẩm trên đề cập. Ðầu phẩm này, trong hàng Bồ Tát, lại nêu lên mười sáu vị Chánh Sĩ thượng thủ như Hiền Hộ v.v… Cuối phẩm cũng nêu ba chúng kia và chư thiên đại chúng nhằm bổ túc chúng thành tựu trong sáu thứ thành tựu đã được nói trong phẩm đầu.

Ðập ngay vào mắt chúng ta là tên của phẩm này là Ðức Tuân Phổ Hiền, ngụ ý: vô lượng vô biên các đại Bồ Tát đến hội đều cùng tuân tu Phổ Hiền đức.  Phổ Hiền đức thật ra vô lượng, nhưng điểm cốt lõi lại chính là mười đại nguyện vương dẫn dắt về Cực Lạc. Ðó là điểm trọng yếu của phẩm này.

Chánh kinh:

Lại có bọn Hiền Hộ mười sáu vị Chánh Sĩ, tức là: Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trụ Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trụ Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát làm Thượng Thủ.

Giải:

‘Chánh Sĩ’: Kinh Ðộ Thế nói: ‘Khai Sĩ, Ðại Sĩ, Thánh Sĩ, Lực Sĩ, Chánh Sĩ v.v… đều là những danh xưng khác của Bồ Tát’.

Sách Bình Giải giảng: ‘Chánh là chánh đạo, Sĩ là sĩ phu, danh xưng của người tại gia. Các vị Ðại Sĩ này: ngoài hiện hình tướng phàm phu, trong thâm đạt chánh đạo, sống tại gia, gọi là vị Chánh Sĩ’.

Lại nữa, sách Hội Sớ viết: ‘Mười sáu vị Chánh Sĩ như kinh Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh nói: ‘‘Bồ Tát tám vạn bốn ngàn và mười sáu vị Chánh Sĩ’’ cho thấy danh xưng Chánh Sĩ chỉ hàng tại gia Bồ Tát. Chánh là chánh đạo, Sĩ là cư sĩ. Các vị Ðại Sĩ này tuy sống lẫn với phàm nhân nhưng đã thoát khỏi tà đạo từ lâu, thâm đạt chánh pháp nên gọi là Chánh Sĩ’.

Theo trên, ta thấy rằng Chánh Sĩ là tại gia Bồ Tát.

Ngoài ra, trong Mật tông, con số mười sáu biểu thị sự viên mãn vô tận. Sách Xuất Sanh Nghĩa nói: ‘Số lượng dẫu đến hà sa trần hải (13) cũng chỉ nêu mười sáu vị mà thôi, số nhiều đến trần sa cũng chẳng ra ngoài số này’.

Bọn ‘Hiền Hộ’ mười sáu vị Chánh Sĩ thường được thấy nhắc đến trong kinh, luận. Kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên và kinh Tư Ích có nêu tên mười sáu vị này.

Trí Ðộ Luận nhắc đến mười sáu vị, nhưng chỉ nêu tên sáu vị đầu. Luận chép: ‘Bọn Thiện Thủ (Hiền Hộ) mười sáu vị Bồ Tát là Bồ Tát tại gia’, rồi nêu tên năm vị, chẳng nêu đủ các tên.

Kinh Tư Ích chép: ‘Nếu có chúng sanh nghe tên họ rốt ráo đắc Tam Bồ Ðề. Vì vậy, gọi họ là Thiện Thủ’.

Lại nữa, kinh Ðại Phương Ðẳng Ðại Tập Hiền Hộ chép: ‘Ðại thành Vương Xá có ưu bà tắc tên là Hiền Hộ làm thượng thủ của chúng’.

 Trong pháp hội Hiền Hộ Trưởng Giả của kinh Ðại Bảo Tích, Phật nói về các điều vui của trưởng giả Hiền Hộ như sau: ‘Ông ta hưởng quả báo khoái lạc, dẫu đến đại vương Ðế Thích của trời Ðao Lợi còn chẳng bằng nổi, huống hồ nhân gian’.

Sách Danh Nghĩa Tập viết: ‘Bạt Ðà Bà La dịch là Hiền Hộ, tự gìn giữ hiền đức lại hộ trì chúng sanh. Hoặc dịch là Hiền Thủ, do ngài ở địa vị Ðẳng Giác là thượng thủ của các bậc hiền’.

Ðủ thấy Chánh Sĩ Hiền Hộ thị hiện sanh trong thành Vương Xá, là vị tại gia Bồ Tát ở địa vị Ðẳng Giác. Trong kinh Bát Châu Tam Muội, Bồ Tát Bạt Ðà Hòa (Hiền Hộ) là người phát khởi Niệm Phật Tam Muội, đích thân thấy được Phật Di Ðà. Xét ra, trong kinh này ngài đến trong pháp hội thù thắng đây để hỗ trợ hiển bày pháp môn Niệm Phật Tam Muội.

‘Thiện Tư Duy Bồ Tát’: bản Ðường dịch ghi là Thiện Tư Duy Nghĩa Bồ Tát, bản Ngụy dịch ghi là Thiện Tư Nghĩa Bồ Tát. Theo phẩm Hiện Sanh của kinh Tứ Ðồng Tử, các vị Chánh Sĩ như Thiện Tư Duy Bồ Tát từ thế giới phương khác đến cõi này thị hiện làm tại gia Bồ Tát:

‘Về phương Ðông, cách đây mười ngàn câu chi cõi Phật có một thế giới tên là Bảo Minh, Phật hiệu Sư Tử Minh Thanh Như Lai, có một vị Bồ Tát tên là Thiện Tư Nghị (tức là Thiện Tư Duy) thác sanh đến cõi này, hóa sanh trong cung vua A Xà Thế.

Nơi phương Nam cách đây năm trăm ức thế giới có một thế giới, Phật hiệu Bảo Tích Thiện Hiện Như Lai, có một Bồ Tát tên Tịch Tĩnh Chuyển (tức là Huệ Biện Tài) sanh vào nhà đại cư sĩ Tự Sư Tử trong thành Xá Vệ đây.

Ở phương Tây, cách khỏi đây tám ức trăm ngàn cõi Phật, chỗ đức Lạc Âm Như Lai có một vị Bồ Tát tên Vô Phan Duyên (tức Quán Vô Trụ) hóa sanh vào nhà đại cư sĩ Thiện Quỷ trong nước Ba La Nại.

Về phương Bắc, cách đây sáu vạn bốn trăm ngàn ức cõi Phật, chốn đức Trụ Bồ Ðề Phần Chuyển Như Lai có một Bồ Tát tên là Khai Phu Thần Ðức (tức là Thần Thông Hoa) sanh trong nhà đại tướng Sư Tử của thành Tỳ Gia Ly. Bốn đồng tử này với vô lượng đại chúng cùng đến rừng Sa La Song Thọ cung kính cúng dường’.

Thêm nữa, bốn vị Chánh Sĩ: Quang Anh Bồ Tát v.v… tiếp theo đó như quyển 7 kinh Phật Danh có nói: bốn vị Bồ Tát Quang Anh, Huệ Thượng (tức là Trí Thượng), Tịch Căn, Nguyện Huệ từ cõi Phật ở bốn phương nhóm đến.

Hơn nữa, kinh Văn Thù Sư Lợi Nghiêm Tịnh cũng nói bốn vị Chánh Sĩ này từ bốn phương đến, giống như  trong kinh Tứ Ðồng Tử nói. Hơn nữa, quyển ba kinh Nguyệt Ðăng Tam Muội chép: ‘Hương Tượng từ chỗ đức Phật A Súc ở phương Ðông và na do tha Bồ Tát cùng đến chào hỏi đức Thích Ca Mâu Ni Phật’.

Từ Hiền Hộ đến Hương Tượng Bồ Tát tổng cộng là mười vị Chánh Sĩ, còn sáu vị khác thì như sách Bình Giải chép: ‘Ngoài ra, Trí Tràng (tức là Bảo Tràng), Bảo Anh, Trung Trụ, Chế Hạnh, Giải Thoát v.v… tuy chưa thấy chứng cớ trong các kinh khác, nhưng cứ theo trên mà suy, họ cũng phải là Ðại Sĩ từ phương khác đến cõi này’.

Xét ra, sách Bình Giải dùng bản Ngụy dịch để chú giải, trong bản ấy chỉ nêu tên mười lăm vị Chánh Sĩ, thiếu tên Huệ Biện Tài Bồ Tát. Tên vị Bồ Tát này thấy trong bản Ðường dịch.

Sách Bình Giải cho rằng Tín Huệ chính là Huệ Biện Tài. Phải coi hai tên trên (Tín Huệ và Huệ Biện Tài) là tên của hai người thì mới phù hợp với con số mười sáu vị. Vì vậy, Tín Huệ Bồ Tát cũng giống như các vị Chánh Sĩ Bảo Tràng v.v.. đều từ phương khác đến. Sách Bình Giải có giảng rõ điều trên, nguyên văn:

‘Ðầu tiên nêu lên bọn Hiền Hộ mười sáu vị Chánh Sĩ để chỉ rõ pháp này chẳng lấy phát tâm xuất gia làm gốc. Kế đến, nêu tên các vị đến từ phương khác, ngụ ý: trong cõi Phật mười phương đều dùng pháp này làm đại sự xuất thế, cùng tinh tấn đến cầu pháp này’.

Lời bàn trên rất phù hợp yếu chỉ của kinh vì đối với kẻ tại gia tu hành, Trì Danh Niệm Phật là thích hợp nhất. Thập phương Ðại Sĩ đều đến nghe pháp biểu thị pháp này thù thắng, thật là đại sự nhân duyên vậy.

Hơn nữa, chữ Hiền Hộ ngụ ý Như Lai khéo hộ niệm các Bồ Tát. Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, độ khắp ba căn, thâu trọn vạn loại, đúng là ý nghĩa chữ Hiền Hộ.

Thêm nữa, Thiện Tư Duy biểu thị chánh trí minh liễu, tin sâu Phật huệ, lại còn biểu thị: Pháp Tạng lúc còn tu nhân năm kiếp tư duy kết thành thắng nhân đại nguyện.

Huệ Biện Tài biểu thị: tin Phật huệ, biện tài vô ngại như trong kinh nói: ‘Diễn từ biện, trao truyền pháp nhãn’, ‘thường dùng pháp âm giác ngộ các thế gian’.

Quán Vô Trụ (xem bản Ðường dịch. Bản Ngụy dịch là Không Vô) biểu thị ý nghĩa sau đây trong kinh này: ‘Ví như huyễn sư giỏi hiện các tướng khác lạ, nhưng trong các tướng ấy thật chẳng thể được’, cũng biểu thị ngài Pháp Tạng bao kiếp tu nhân hạnh, nói pháp không, vô tướng, vô nguyện.

‘Thần Thông Hoa’ biểu thị sức thần thông, muôn hạnh kết thành đức hoa để tự trang nghiêm, đầy đủ phương tiện thành tựu chúng sanh như kinh chép: ‘Du bộ thập phương, hành quyền phương tiện’.

Quang Anh biểu thị quang minh chiếu rực. Các chữ Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang v.v… tôn quý nhất trong các quang minh là ý nghĩa của chữ Quang Anh.

Bảo Tràng (bản Ngụy dịch ghi là Trí Tràng) biểu thị trí huệ thù thắng ví như tràng báu.

Trí Thượng (bản Ngụy dịch ghi là Huệ Thượng) biểu thị các ý nghĩa ‘trí thù thắng tối thượng, không gì bằng, không gì sánh’, ‘trí oai đức rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn’ trong kinh. Diệu trí vô thượng như vậy siêu xuất hết thảy nên gọi là Thượng Trí.

Về Tịch Căn, sách Hội Sớ giảng: ‘ Trí và cảnh đều vắng lặng, các căn thanh tịnh nên gọi là Tịch Căn’. Sách Bình Giải cho rằng: ‘Cảnh và trí đều tịch diệt, căn bổn nghiêm tịnh thì gọi là Tịch Căn’.

Theo như phẩm Chơn Thật Công Ðức của kinh này chép: ‘Rốt ráo các ba la mật của Bồ Tát mà thường an trụ các tam ma địa bất sanh bất diệt’ thì đúng là biểu thị: Tịch là căn bổn có công năng chiếu soi vô cùng, chiếu mà thường tịch. Vì vậy, Tịch Căn biểu thị thọ mạng vô lượng.

Sách Hội Sớ giảng ‘Tín Huệ’ như sau: ‘Tín tâm trí huệ, vĩnh viễn cắt đứt lưới nghi’. Sách Bình Giải giảng: ‘Tin rõ Phật trí là vô thượng trí huệ’.

Trong kinh này, theo như các câu: ‘Ðã từng cúng dường các Như Lai thì có thể hoan hỷ tin được sự này’, ‘Thân người khó được, Phật khó gặp, tín huệ, nghe pháp là điều khó nhất trong các điều khó’  thì Tịnh Ðộ Tông là pháp khó tin. Nếu ai tin nhận được đều là do huệ căn sẵn có từ trước.

Nguyện Huệ biểu thị: trí huệ rộng lớn, đại nguyện vương của Phật Di Ðà lại được hỗ trợ bằng tín huệ của bậc Chánh Sĩ, biểu thị: Tịnh Ðộ dùng ‘tín, nguyện, trì danh’ làm tông.

Hương Tượng là Bồ Tát từ cõi Phật A Súc ở phương Ðông đến, từng trong hội Duy Ma làm người cùng nghe pháp. Thân hương tượng tỏa ra mùi thơm, mùi nơi thân Bồ Tát này cũng thế. Sức hương tượng rất mạnh biểu thị Di Ðà nguyện lực vô biên.

Bảo Anh biểu thị Di Ðà nguyện hải trang nghiêm bằng vô lượng công đức diệu bảo có thể khiến cho phàm phu không có công đức được chóng thăng lên địa vị bất thối, chứng nhập Niết Bàn. Ðấy thật là thứ quý báu nhất trong các báu nên nói là Bảo Anh.

Trung Trụ: an trụ Trung Ðạo, chẳng rơi vào hai bên, ngay nơi tướng chính là đạo, ngay nơi sự tức là chơn, tịnh niệm nối tiếp, ngay nơi niệm lìa được niệm (đương niệm ly niệm) là ý nghĩa của Trung Trụ.

Chế Hạnh biểu thị nghiêm trì tịnh giới, ngừa ác làm lành. Hơn nữa, Niệm Phật chính là trì giới là ý nghĩa của Chế Hạnh.

Giải Thoát biểu thị trừ diệt kết phược nên gọi là Giải Thoát. Như kinh nói: ‘Riêng thân mình độ thoát đạt được phước đức, đắc đạo Nê Hoàn trường thọ’‘Gặp được kinh này, tùy ý mong muốn đều được đắc độ’.

Câu ‘Làm Thượng Thủ’ ngụ ý mười sáu vị Ðại Sĩ là Thượng Thủ của vô lượng vô biên tại gia Bồ Tát cùng lúc đến dự hội. Theo sách Hội Sớ và Bình Giải thì:

– Phổ Hiền, Văn Thù là thượng thủ trong pháp hội của Phật Thích Ca nên nêu tên hai vị Ðại Sĩ này để tổng nhiếp hết thảy Bồ Tát.

– Di Lặc là thượng thủ của các Bồ Tát tương lai thành Phật trong Hiền Kiếp.

– Mười sáu vị Chánh Sĩ: Hiền Hộ v.v… là thượng thủ của tại gia Bồ Tát.

Thuyết này hợp lý nên tôi chẳng chấp nhận thuyết của ngài Tịnh Ảnh. Ngài Tịnh Ảnh cho rằng Văn Thù, Phổ Hiền cũng thuộc số các Bồ Tát thành Phật trong Hiền kiếp.

Chánh kinh:

Ðều cùng tuân tu đức của Ðại Sĩ Phổ Hiền, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện, an trụ trong hết thảy pháp công đức, du bộ thập phương, hành quyền phương tiện, nhập Phật pháp tạng, rốt ráo đến bờ kia.

Giải: Trong phẩm này, từ câu ‘Ðều cùng tuân tu’ cho đến câu cuối cùng ‘chẳng thể nghĩ bàn’ đều là khen ngợi đức hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát và của hết thảy Bồ Tát trong hội.

‘Ðại sĩ’ tức là Bồ Tát, tức là đại đạo tâm hữu tình. Sĩ là sĩ phu. Ðại như trong phần giảng về Ðại Ðạo Tâm đã nói. Pháp hội kinh này lấy Phổ Hiền Bồ Tát làm thượng thủ của hết thảy Bồ Tát. Các vị khác như Văn Thù, Di Lặc, Hiền Hộ v.v… các vị xuất gia, tại gia Bồ Tát và mười phương vô lượng vô biên các đại Bồ Tát đến nhóm hội đều tuân hành theo đức của Phổ Hiền Ðại Sĩ.

Phổ Hiền Ðại Sĩ là Hoa Nghiêm trưởng tử. Cốt lõi cái đức của ngài là mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm nói mười đại nguyện rộng lớn của Ðại Sĩ như sau: một là lễ kính chư Phật, hai là khen ngợi Như Lai, ba là rộng tu cúng dường, bốn là sám hối nghiệp chướng, năm là tùy hỉ công đức, sáu là thỉnh chuyển pháp luân, bảy là thỉnh Phật ở lâu nơi đời, tám là thường học theo Phật, chín là hằng thuận chúng sanh, mười là đều hồi hướng về khắp tất cả. Mười nguyện như trên, nguyện nào cũng nói:

‘Ðại nguyện này của tôi chẳng có cùng tận. Niệm niệm nối tiếp chẳng có gián đoạn. Thân, ngữ, ý nghiệp chẳng có nhọc mỏi’.

Phẩm Hạnh Nguyện còn nói:

‘Nếu ai tụng nguyện này, người ấy lúc lâm chung, trong sát na cuối cùng, hết thảy các căn thảy đều tán hoại, hết thảy thân thuộc thảy đều lìa bỏ, hết thảy oai thế thảy đều thối thất. Phụ tướng, đại thần, cung thành trong ngoài, voi, ngựa, xe cộ, trân bảo, kho đụn, hết thảy các thứ như thế không còn theo mình nữa. Chỉ có nguyện vương này chẳng hề lìa bỏ, trong hết thảy thời luôn dẫn đường đằng trước. Trong một sát na liền vãng sanh Cực Lạc thế giới.

Ðến nơi rồi, liền thấy Phật A Di Ðà.. Người ấy tự thấy mình sanh trong hoa sen, được Phật thọ ký. Ðược thọ ký xong, trải vô số trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp, khắp trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới ở mười phương, dùng sức trí huệ tùy lòng chúng sanh mà làm lợi íchCó thể ở trong biển phiền não đại khổ cứu vớt chúng sanh khiến họ được ra khỏi, đều được vãng sanh thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà’.

Hơn nữa, nguyện thứ mười là ‘phổ giai hồi hướng’ hiển thị nghĩa chữ ‘Phổ’. Từ nguyện lễ kính ban đầu đến nguyện thứ chín ‘hằng thuận chúng sanh’ hiển thị ý nghĩa chữ Hiền.

Do đó, mười đại nguyện hiển thị ý nghĩa danh xưng Phổ Hiền. Phổ là theo chiều dọc tột cùng ba đời, Hiền là bao hàm trọn vẹn không sót.

Thanh Lương Sớ nói: ‘Với quả không gì chẳng đạt đến cùng tột là Phổ, chẳng bỏ tu nhân là Hiền’. Rõ ràng, Phổ Hiền trong kinh này là vị hậu Phổ Hiền, cũng tức là như Thiện Ðạo đại sư nói: là tướng từ quả hướng đến nhân.

Hơn nữa, bài kệ của Phổ Hiền có câu: ‘Tôi đã vãng sanh cõi kia rồi, hiện tiền thành tựu đại nguyện này… Nguyện tất cả các chúng sanh đang bị chìm đắm, chóng sanh về cõi Phật Vô Lượng Quang’, đúng là ngài Phổ Hiền tự nói: Tôi đã vãng sanh cõi Cực Lạc kia rồi, thành tựu mười đại nguyện đã phát, bèn dùng công đức hạnh nguyện thù thắng hồi hướng cho chúng sanh đều cùng sanh Cực Lạc.

‘Phổ giai hồi hướng’ thành tựu nghĩa Phổ. Bốn mươi tám nguyện của Phật Di Ðà thâu tóm hết thảy chúng sanh chính là bổn nguyện ‘phổ giai hồi hướng’.

Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền chính là sự diễn giảng rộng của đại nguyện thứ ba mươi lăm của Phật Di Ðà. Nguyện rằng: ‘Sanh trong nước ta ắt rốt ráo chứng nhất sanh bổ xứ, trừ những ai do bổn nguyện độ chúng sanh mặc giáp hoằng thệ, giáo hóa hết thảy hữu tình cho đều phát tín tâm, tu Bồ Ðề hạnh, hành Phổ Hiền đạo’.

Do đó thấy được rằng: đa số thánh chúng trong hội đã từng sanh Cực Lạc mặc giáp hoằng thệ, du hóa thập phương giúp Phật hoằng hóa. Lần lượt giáo hóa, lần lượt độ thoát như thế. Vì vậy, trong kinh này, vô lượng vô biên hết thảy các Bồ Tát đều tuân theo đức của Phổ Hiền Ðại Sĩ.

‘Ðầy đủ vô lượng hạnh nguyện, an trụ trong hết thảy các pháp công đức’: Hai câu này khen ngợi thật đức của Ðại Sĩ. ‘Vô lượng’ là lớn, nhiều, không cách nào đo lường nổi thì gọi là “vô lượng”. Nhiếp Ðại Thừa Luận Thích giảng: ‘Chẳng thể dùng thí dụ so sánh để biết nổi thì là vô lượng’.

‘Hạnh’ là các đại hạnh: lục độ, tứ nhiếp v.v… ‘Nguyện’ là các nguyện thù thắng: tứ hoằng thệ, mười đại nguyện v.v… Nguyện để dẫn dắt hạnh. Hạnh để viên mãn nguyện. Hạnh như chân, nguyện như mắt, nương dựa lẫn nhau.

‘Ðầy đủ’ là viên mãn không thiếu sót. Hạnh Nguyện Phẩm chép: ‘Nghe nguyện vương này, đọc, tụng, biên chép… thì những người ấy trong khoảng một niệm tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu’ chính là từ quả hướng nhân, dùng phương tiện thiện xảo của Phật Di Ðà gia trì hồi hướng thành tựu vô lượng hạnh nguyện siêu xuất các thánh vị của Thập Ðịa.

‘An trụ trong hết thảy pháp công đức’: ‘Hết thảy công đức’ chỉ công đức vô tận của Phật quả. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Công là công năng, các hạnh đều có công năng lợi ích nên gọi là Công. Công này là gia đức (đức vốn tự có sẵn) của thiện hạnh nên gọi là công đức. Thể của đức gọi là pháp’.

‘Pháp’: tiếng Phạn là Ðạt Ma, chỉ chung cho hết thảy các thứ chẳng luận là lớn hay nhỏ, hữu hình, vô hình, chân thật hay hư vọng, là sự vật hay là đạo lý… đều gọi là Pháp.

Duy Thức Luận nói: ‘Pháp là quỹ trì’. Quỹ là khuôn phép có thể giúp cho chúng sanh khởi lên kiến giải. Ví dụ: ‘vô thường’ khiến cho chúng sanh khởi lên kiến giải vô thường. ‘Trì’ là gìn giữ, chẳng bỏ tự tướng. Hết thảy các pháp mỗi thứ đều có tướng của nó.

Câu ‘An trụ hết thảy’ được Hội Sớ giảng như sau: ‘An trụ nghĩa là bất động. Ðức thành chẳng thối nên bảo là an trụ. Không đức nào chẳng đủ nên nói là hết thảy’.

Trong đoạn Hạnh Nguyện phẩm vừa dẫn ở trên, câu ‘Trong khoảng một niệm, tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu’ ý nói: Trong một niệm viên thành hạnh nguyện nên có thể an trụ trong hết thảy pháp công đức của Như Lai Phật quả.

‘Du bộ thập phương, hành quyền phương tiện’: hai câu này khen ngợi quyền đức của Ðại Sĩ.

‘Du bộ’ có nghĩa là du hành và du hóa. ‘Thập phương’ là bốn phương Ðông, Tây, Nam, Bắc và bốn góc Ðông Nam, Ðông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc hợp thành tám phương; kể cả hai phương trên, dưới thành ra mười phương. Chữ ‘thập phương’ biểu thị hết thảy nơi chốn trong không gian.

‘Du bộ thập phương’ là thần thông du hý của Ðại Sĩ, du hành tự tại, hóa độ hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới.

Trong câu ‘Hành quyền phương tiện’, chữ Quyền là đối với Thật mà nói.

Quyền có nghĩa là “quyền nghi” hay “quyền biến”, người đời hay nói: ‘Thông quyền đạt biến’. Quyền là tên khác của Phương Tiện. Sách Pháp Hoa Văn Cú giảng: ‘Phương là pháp, Tiện là dùng’.

Nói một cách thô thiển, Phương là phương pháp, Tiện là tiện lợi.

Xét trong Phật giáo, chữ Phương Tiện có nghĩa như kinh Ðại Tập dạy: ‘Có thể điều phục chúng sanh khiến cho họ đều hướng đến Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì gọi là Phương Tiện’.

Lại như sách Pháp Hoa Huyền Tán giảng: ‘Thực hành, tạo tác là Phương, khéo phù hợp cơ nghi là Tiện’.

Lại như Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Hóa hạnh khéo léo, thích nghi với từng chúng sanh mà hiện ra các thứ khác nhau thì gọi là Quyền phương tiện’.

Tổng hợp ý kiến của những kinh luận trên, ta thấy rằng: Dùng phương pháp khéo léo, ổn thỏa, tiện lợi, khéo khế hợp căn cơ của chúng sanh để dẫn dắt họ hướng đến Quả Giác Cứu Cánh thì gọi là ‘hành quyền’ hoặc ‘hành phương tiện’.

‘Nhập Phật pháp tạng, rốt ráo đến bờ kia’: Ngài Gia Tường giảng chữ Nhập là ‘Khế giải tông nguyên’, Tịnh Ảnh Sớ giảng:‘Chứng hội là nhập’. Có thể thấy được rằng Nhập là khế hội, chứng nhập, cũng chính là chữ Nhập trong câu ‘nhập Phật tri kiến’ của kinh Pháp Hoa.

Gia Tường sớ giảng chữ ‘Phật pháp tạng’ rằng: ‘Gọi Lý là Tạng’, nghĩa là: Phật pháp tạng là lý thể của pháp tánh. Pháp tánh hàm tàng vô lượng tánh đức nên gọi là Phật pháp tạng.

Hơn nữa, pháp tánh hàm chứa, bao gồm hết thảy Phật pháp nên gọi là Phật pháp tạng. Vì vậy, ý nghĩa câu‘nhập Phật pháp tạng’ giống như câu ‘khéo nhập Phật huệ, thông đạt đại trí’ của kinh Pháp Hoa.

Ngoài ra, sách Bình Giải căn cứ trên ý nghĩa từ nhân hướng đến quả giảng như sau:

‘Tạng báu hết thảy công đức của Như Lai là công đức của Phật quả. Biển báu lớn công đức ấy gọi là Phật pháp tạng, tức là Nhất Thừa mà Phật đã sở đắc’.

Luận thuyết của sách Bình Giải chỉ rõ: các Bồ Tát trong hội này đều là bậc đại quyền thị hiện từ quả hướng đến nhân, đã nhập Nhất Thừa quả hải của Như Lai, nhưng chẳng bỏ nhân hạnh nên đến hội này nhằm tán trợ đức Thích Ca.

‘Rốt ráo’ (cứu cánh) nghĩa là đạt đến cùng cực. Trí Ðộ Luận giảng chữ ‘bờ kia’ như sau: ‘Chữ ba-la Hán dịch là bỉ ngạn’. Lại nói: ‘Coi sanh tử là bờ bên này, Niết Bàn là bờ bên kia’. Kinh Niết Bàn cũng chép: ‘Bờ kia là dụ cho Như Lai’.

Vì vậy, sư Tịnh Ảnh giảng chữ ‘cứu cánh Niết Bàn’ như sau: ‘Hiển rõ quả tất cánh, đạt đến bờ kia Niết Bàn thì gọi là cứu cánh’ (ý lời sớ nói: Thể hiện rõ ràng giác quả cùng cực mà mình đã chứng đắc, đạt đến bờ kia Niết Bàn thì gọi là “cứu cánh”).

Theo sách Bình Giải thì lại là chứng nhập biển báu nhất thừa đại công đức, khế hợp với Niết Bàn mà Phật đã chứng đắc. Các vị Ðại Sĩ này đã viên chứng quả đức, từ quả hướng đến nhân, tuân theo Phổ Hiền đức hiện khắp mười phương, đến trong pháp hội để cùng hoằng dương Tịnh pháp.

Cư sĩ Bành Tế Thanh nói:

‘‘Hành quyền phương tiện, nhập Phật pháp tạng, rốt ráo đến bờ kia’, ý nghĩa của ba câu này bao trọn pháp môn Tịnh Ðộ. Hếtthảy sở hạnh của Bồ Tát chẳng rời phương tiện. Do phương tiện nên giữ lấy Tịnh Ðộ, thường được thấy Phật.

Do thấy Phật, nghe pháp, tu hành, nhập Phật pháp tạng nên viên mãn giác tâm, đạt đến bờ kia một cách rốt ráo. Nếu không có phương tiện thì vô lượng hạnh môn trọn chẳng thành tựu như kinh Ðại Bát Niết Bàn dạy:

‘‘Bồ Tát này do tương ứng với Bát Nhã ba la mật nên từ chốn này chết đi, sanh trong cõi Phật khác. Từ một cõi Phật này đến cõi Phật khác, nơi nơi, chốn chốn, thường được gặp gỡ chư Phật Thế Tôn để cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán, cho đến khi thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề trọn chẳng rời Phật’’.

Nên biết: muốn chẳng rời Phật, phải lấy Niệm Phật làm nhân như Thập Ðịa trong kinh Hoa Nghiêm, thủy chung chẳng rời niệm Phật’.

Theo ông Bành, Bồ Tát độ sanh cần phải có phương tiện. Phương tiện tối thắng là dạy người niệm Phật. Niệm Phật sanh Phật quốc, thấy Phật, nghe pháp, trọn chẳng rời Phật nên nhập được Phật pháp tạng, rốt ráo đến bờ kia. Ông Bành bàn như vậy chứng tỏ đã lãnh hội sâu xa ý chỉ kinh này.

Chánh kinh:

Nguyện trong vô lượng thế giới thành Ðẳng Chánh Giác. Bỏ Ðâu Suất, giáng hạ vương cung, bỏ ngôi vị, xuất gia, khổ hạnh học đạo. Thị hiện như thế để thuận theo thế gian. Dùng sức định huệ hàng phục ma oán, đắc vi diệu pháp thành tối chánh giác. Thiên nhân quy ngưỡng thỉnh chuyển pháp luân. Thường dùng pháp âm giác ngộ các thế gian, phá thành phiền não, hoại các hào dục, rửa sạch cấu ô, hiển minh thanh bạch. Ðiều chúng sanh, tuyên diệu lý, trữ công đức, bày phước điền. Dùng các pháp dược cứu chữa ba khổ. Lên địa vị quán đảnh, thọ ký cho Bồ Tát. Ðể dạy Bồ Tát làm a xà lê, thường tu tập vô biên các hạnh tương ứng, thành thục Bồ Ðề vô biên thiện căn, vô lượng chư Phật đều cùng hộ niệm.

Giải:

Hai câu cuối của đoạn trước: ‘Nhập Phật pháp tạng, rốt ráo đến bờ kia’ là lần thứ hai khen ngợi Thật Ðức của bậc Ðại Sĩ. Ðoạn kinh văn này và hai đoạn tiếp theo sau lại khen ngợi Quyền Ðức của Bồ Tát: trong khắp mười phương, thị hiện tám tướng thành đạo thù thắng. 

‘Nguyện trong vô lượng thế giới thành Ðẳng Chánh Giác’: Nguyện là thệ nguyện. Sách Pháp Quật viết: ‘Mong cầu đạo xuất thế là Nguyện’.

‘Thế giới’: Thế chỉ thời gian, Giới chỉ không gian. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: ‘Thế là dời chuyển, Giới là phương vị. Nay ông nên biết: Ðông, Tây, Nam, Bắc, Ðông Nam, Tây Bắc, thượng, hạ là Giới. Quá khứ, vị lai, hiện tại là Thế’.

‘Ðẳng Chánh Giác’ là chữ trong bản Ðường dịch, là cách dịch theo kiểu Tân dịch. Bản Ngụy dịch ghi là Ðẳng Giác, đó là Cựu dịch. Ðẳng Giác có hai nghĩa:

– Ðẳng Giác là địa vị cùng tột của Bồ Tát, sẽ đắc Diệu Giác Phật quả. Công đức, trí huệ của bậc này gần tương đương với Diệu Giác nên gọi là Ðẳng Giác. Ðại sư Ðàm Loan nói: ‘So với Diệu Giác còn kém một bậc nên gọi là Ðẳng Giác’.

– Ðẳng Giác là Phật quả. Sách Vãng Sanh Luận Chú nói: ‘Do các pháp bình đẳng nên các Như Lai bình đẳng. Vì vậy, chư Phật Như Lai gọi là Ðẳng Giác’.

Trí Ðộ Luận cũng viết: ‘Chư Phật bình đẳng nên gọi là Ðẳng Giác’. Sách Hội Sớ nói: ‘Ðẳng Giác có hai nghĩa: một là Như Lai gọi là Ðẳng Giác. Hai là địa vị nhất sanh bổ xứ’.

Do đó, các nhà chú giải kinh đối với đoạn kinh này cũng có hai cách giải thích:

– Một, Bồ Tát trụ địa vị Ðẳng Giác trong mười phương thị hiện tám tướng thành đạo.

– Hai, đấy chính là Phật quả: từ quả hướng nhân, thị hiện tám tướng cho đến lực dụng sau khi đã thành Phật.

Nói tóm lại, Ðại Giác diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn, chẳng nên với hai thuyết này cưỡng chấp một thuyết. Áp dụng cả hai thuyết chẳng trở ngại nhau vì chúng Bồ Tát đông đảo ắt hẳn cảnh giới của họ chẳng chỉ có một.

‘Bỏ Ðâu Suất, giáng hạ vương cung, bỏ ngôi vị, xuất gia, khổ hạnh học đạo…’ là tám tướng thành đạo. Do địa vị chẳng chỉ có một nên thành ra năm thứ. Sách Bình Giải viết:

‘a. Như phẩm Hiền Thủ kinh Hoa Nghiêm và Khởi Tín Luận có nói: Bồ Tát trọn vẹn địa vị Thập Tín, thị hiện tám tướng. Kinh Chiêm Sát nói trong bốn loại thành Phật, loại thứ nhất là tín mãn sẽ làm Phật.

  1. Như trong kinh Ðại Tập, quán đảnh trụ Bồ Tát (Bồ Tát đã viên mãn các địa vị thuộc Thập Trụ) có thể trong thế giới không có Phật thị hiện tám tướng. Kinh Chiêm Sát nói loại thứ hai thành Phật là giải mãn sẽ thành Phật.
  2. Phẩm Giáo Hóa Bồ Tát kinh Nhân Vương nói tám tướng của bậc Sơ Ðịa. Loại thứ ba thành Phật trong kinh Chiêm Sát là chứng mãn sẽ làm Phật.
  3. Kinh Nhập Như Lai Trí Ðức Bất Tư Nghị nói cứu cánh địa (nhất sanh bổ xứ) thị hiện tám tướng. Loại thứ tư thành Phật trong kinh Chiêm Sát là hết thảy công đức hạnh mãn sẽ thành Phật.
  4. Phẩm Bất Tư Nghị kinh Hoa Nghiêm nói đến trí xuất sanh trong mỗi niệm của chư Phật. Ðó là Hậu Ðắc Trí của Phật xuất sanh thị hiện tám tướng.

Trong năm loại này, bốn loại trước là từ nơi nhân thị hiện. Loại thứ năm là nghiệp dụng sau khi đã thành Phật.

Ða số các sư cho rằng tám tướng thị hiện được nói đến trong kinh này là loại thứ tư (bổ xứ) thành Phật. Nếu căn cứ theo tôngcủa kinh [Vô Lượng Thọ] đây thì tám tướng thành đạo không thể thuộc loại thứ tư. Do được tạo thành bởi phương tiện hồi hướng khéo léo của Phật Di Ðà nên nhân quả đều chẳng thể nghĩ bàn được. Nếu cưỡng luận, may ra chỉ có loại thứ năm (đã thành Phật) là phù hợp’.

Do những ý kiến trên, ta thấy: người thị hiện tám tướng thành đạo có đến năm địa vị. Một khuynh hướng cho rằng đấy là tướng thị hiện của bậc nhất sanh bổ xứ thành Phật, sách Bình Giải thiên trọng ý kiến ‘đã thành Phật’.

Các thuyết chẳng mâu thuẫn nhau, năm địa vị cùng tồn tại nào trở ngại đến nhau. Do có vô lượng vô biên Bồ Tát mười phương đến nhóm hội, nên xét về mặt bình đẳng, dẫu địa vị của họ sai biệt cũng nào có trở ngại gì.

Thêm nữa, ‘tám tướng thành đạo’ là lệ thường của bổn sư Thích Ca Mâu Ni và hết thảy chư Phật. Hiềm vì các kinh luận tách ra hay gộp lại khác nhau nên thành khác biệt: hoặc nói bảy tướng, cho đến chín tướng, mười tướng. Ở đây chỉ nói tám tướng là điều được đa số các kinh, luận đề cập.

Ngay cả trong tám tướng, nội dung tám tướng trong mỗi kinh, luận cũng chẳng giống nhau.

Ðại Thừa Khởi Tín Luận nói tám tướng là: từ trời Ðâu Suất giáng hạ, nhập thai, trụ thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn.

Nhưng trong Tứ Giáo Nghi, tám tướng lại là: từ trời Ðâu Suất giáng hạ, gá thai, sanh ra, xuất gia, hàng ma, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn.

So sánh hai thuyết này thì Tứ Giáo Nghi tách tướng ‘thành đạo’ của luận Khởi Tín ra làm hai: hàng ma và thành đạo, gộp hai tướng ‘nhập thai’ và ‘trụ thai’ của luận Khởi Tín thành ‘gá thai’. Rõ ràng, hai thuyết này chỉ vì tách ra hay gộp lại nên thành ra bất đồng chứ nội dung chẳng khác.

Gia Tường Sớ dựa theo Tứ Giáo Nghi phán định tám tướng thành đạo rất phù hợp với bản hội tập kinh này; do vậy, tôi dùng thuyết của Gia Tường Sớ:

‘Bỏ Ðâu Suất’ là tướng thứ nhất. ‘Giáng vương cung’ là tướng thứ hai và thứ ba. ‘Bỏ ngôi vị, xuất gia, khổ hạnh học đạo’ là tướng thứ tư. ‘Hàng phục ma oán’ là tướng thứ năm. ‘Thành tối chánh giác’ là tướng thứ sáu. ‘Thỉnh chuyển pháp luân, thường dùng pháp âm, giác ngộ các thế gian’ cho đến các câu tiếp theo đó là tướng thứ bảy. Trong đoạn kế tiếp, câu ‘trong hạng trung hạ căn hiện diệt độ’ là tướng thứ tám.

‘Bỏ Ðâu Suất’ là tướng thứ nhất: từ trời Ðâu Suất giáng hạ.

Ðâu Suất hoặc Ðâu Thuật, Ðổ Sử Ða vốn là một chữ, chỉ dịch âm sai khác, có nghĩa là Diệu Túc, Tri Túc, Hỷ Túc v.v… Ðó là tầng trời thứ tư trong Dục giới, nội viện hiện là Tịnh Ðộ của Di Lặc Ðại Sĩ. Ngoại viện là chốn dục lạc của thiên chúng. Phẩm Thuyết Pháp Môn của kinh Phổ Diệu nói:

‘Trời Ðâu Suất có đại thiên cung tên là Cao Tràng rộng lớn hai ngàn năm trăm sáu mươi dặm. Bồ Tát thường ngự ở đó vì các chúng trời phu diễn kinh điển’. Quyển thứ năm Phật Ðịa Luận chép: ‘Hậu thân Bồ Tát giáo hóa trên trời Ðổ Sử Ða’. Hậu thân Bồ Tát tức là nhất sanh bổ xứ Bồ Tát. Trong thế giới này, quá khứ, vị lai hiện tại, tam thế bổ xứ Ðại Sĩ đều từ cõi trời này giáng hạ.

‘Giáng vương cung’ là giáng sanh vào vương cung, gộp cả tướng thứ hai ‘gá thai’ và tướng thứ ba ‘xuất sanh’. Kinh Nhân Quả chép đức Bổn Sư Thích Ca gá thai như sau:

‘Khi ấy, Ma Gia phu nhân trong khi ngủ say thấy Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà từ trên không hạ xuống, chui vào hông phải. Thân hiện bóng ra ngoài như đang ở trong lưu ly’. Còn như khi sanh ra thì như kinh Niết Bàn tả: ‘Từ mẹ là Ma Gia mà sanh. Sanh xong, liền bước khắp nơi, mỗi nơi bảy bước’. ‘Bước khắp nơi’ là bước đủ cả mười phương: bốn góc, trên, dưới… 

Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trong thập phương, mỗi phương đều bước bảy bước thị hiện sức trượng phu phấn tấn, trong thập phương độc xuất vô úy’.

Bản Ngụy dịch còn chép: ‘Từ hông phải sanh’. Sách Thích Ca Phổ cũng chép: ‘Bồ Tát được dần dần sanh ra từ hông phải của mẹ’, .

‘Bỏ ngôi vị xuất gia, khổ hạnh học đạo’ là tướng xuất gia thứ tư. Bản Ngụy dịch chép tỉ mỉ, nguyên văn:

‘Thị hiện sống trong vương cung, trong khoảng sắc vị. Thấy già, bịnh, chết, hiểu đời vô thường, bỏ đất nước, của cải, ngôi vị, vào núi học đạo, cưỡi ngựa trắng. Mão báu, chuỗi ngọc sai người đem trả về. Bỏ áo quý đẹp để khoác pháp phục, gọt sạch râu tóc, ngồi đoan nghiêm dưới cội cây, khổ hạnh sáu năm, thực hành điều nên làm’.

Kinh Phổ Diệu chép: ‘Khi ấy, Thái Tử ngày ăn một hạt mè, một hạt đậu. Trong sáu năm, ngồi xếp bằng’ tu tập hạnh gian nan siêng khổ.

‘Thị hiện như thế để thuận theo thế gian’: Câu này xuất phát từ bản Ðường dịch, hiển thị sâu xa huyền chỉ kinh Pháp Hoa. Phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa chép:

‘Hết thảy thế gian trời, người, a tu la đều cho rằng Phật Thích Ca Mâu Ni nay bỏ cung họ Thích đến thành Già Gia chẳng xa, ngồi đạo tràng đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Nhưng này thiện nam tử! Thật ra, ta từ khi thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp… Từ đấy trở đi, ta thường trụ trong thế giới Sa Bà này thuyết pháp giáo hóa, cũng ở nơi khác, trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng kỳ cõi, dạy dỗ lợi ích chúng sanh…. Như Lai thấy các chúng sanh ưa thích pháp nhỏ, đức mỏng cấu nặng nên vì kẻ ấy nói: “Ta xuất gia không lâu đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”.

Nhưng thật ra từ khi ta thành Phật đến nay đã lâu xa dường ấy, chỉ vì phương tiện giáo hóa chúng sanh cho họ nhập Phật đạo mà nói như thế’.

Ðối chiếu hai kinh, tin chắc đức Bổn Sư thị hiện tám tướng thành đạo chỉ vì tùy thuận căn cơ của chúng sanh trong thế gian, hành quyền phương tiện khiến khắp tất cả đều được độ thoát mà thôi. Thật ra, đức Thích Tôn đã thành Phật từ rất lâu.

‘Dùng sức định huệ hàng phục ma oán’: câu này cũng trích từ bản Ðường dịch, là tướng hàng ma thứ năm.

Ma là tiếng gọi tắt của chữ Phạn ‘Ma La’, Tàu dịch là Chướng Ngại vì nó hay gây chướng ngại cho người tu đạo, cũng dịch là Sát Giả vì làm hại sự lành của người và cũng bởi do nó thường hành phóng dật, đoạn huệ mạng. Ma La còn dịch là Ác Giả vì lắm ái dục. Có bốn loài ma, ngài Tịnh Ảnh nói:

‘Một là phiền não ma tức là: tham, sân v.v… hay hại thiện pháp. Hai là ấm ma, tức là thân ngũ ấm hoại diệt lẫn nhau. Ba là tử ma hoại được mạng căn. Bốn là thiên ma thích hoại sự lành của người khác’. Loài ma bị hàng phục trong kinh này là Thiên Ma.

Bà Sa Luận chép: ‘Xưa kia, Bồ Tát ở dưới gốc Bồ Ðề, đầu đêm ma nữ đến quấy nhiễu, nửa đêm ma quân cùng đến bức não.. Trong khoảnh khắc, [Bồ Tát] quán sát thấy vậy liền nhập định khiến cho binh chúng của ma tan bại đọa lạc’.

Sách Tây Vực Ký cũng chép: ‘Nhóm các thần chúng, tề chỉnh ma quân, sắp bày quân ngũ kéo đến bức bách Bồ Tát. Bồ Tát ngay khi ấy nhập đại từ định. Binh khí của chúng đều biến thành hoa sen, quân ma hoảng loạn, thất bại, rùng rùng thua chạy’.

Các đoạn trích dẫn trên đều nói về định lực của Bồ Tát.

Lại như Trí Ðộ Luận chép: ‘Bồ Tát do sức trí huệ đại phá ma quân’ là nói về huệ lực của Bồ Tát. Vì vậy, kinh này chép: ‘Dùng sức định huệ hàng phá ma oán’. Chữ ‘oán’ chỉ oán gia.

‘Ðắc vi diệu pháp, thành tối chánh giác’: Hai câu này là tướng thành đạo thứ sáu.

‘Vi diệu’ là như kinh Duy Ma nói: ‘Vi diệu là Bồ Ðề vì các pháp khó biết’. Bồ Ðề là tri kiến của Phật, cũng chính là Thật Tế lý thể, là tự tánh của đương nhân. Kinh dạy: ‘Chẳng phải do ngữ ngôn, phân biệt mà biết được nổi’ nên nói là ‘vi diệu khó biết’‘vi diệu là Bồ Ðề’. Tịnh Ảnh Sớ cũng viết: ‘Lý là diệu pháp, do đắc pháp này nên thành Chánh Giác’. Lý chỉ cho Thật Tế lý thể nên ý câu này cũng giống với đoạn kinh vừa nêu trên. Thêm nữa, kinh Trường A Hàm nói: ‘Ðại trí của Như Lai vi diệu độc tôn’.

Gộp tất cả các ý trên thì ‘đắc pháp vi diệu’ là khế hợp với Phật trí của đức Thế Tôn, nhập diệu lý Thật Tướng, chứng Bồ Ðề chánh chơn nên thành Chánh Giác. Chánh Giác là Thật Trí của Như Lai. Vì vậy, thành Phật là thành Chánh Giác.

‘Tối chánh giác’ là sự giác ngộ vô thượng cứu cánh viên mãn của Phật như sách Thích Ca Phổ ghi: ‘Ðắc đạo vô thượng chánh chơn là tối chánh giác’. Sách Hội Sớ giải: ‘Giác ngộ tột bực nên nói là thành tối chánh giác’. Thành tối chánh giác là rốt ráo thành Phật.

 Câu ‘Thiên nhân quy ngưỡng, thỉnh chuyển pháp luân’ và các câu tiếp theo đó là tướng thứ bảy.

‘Thiên nhân’ là những kẻ thuộc thiên đạo. ‘Quy’ là quy kính, ‘ngưỡng’ là khâm ngưỡng.

Trí Ðộ Luận chép:

Ngay sau khi đức Phật Thích Ca Văn thành đạo, trong năm mươi ngày im lặng chẳng thuyết pháp, tự nhủ: ‘‘Pháp ta rất sâu, khó hiểu, khó biết, hết thảy chúng sanh bị pháp thế tục trói buộc nên chẳng hiểu nổi, chi bằng ta yên lặng nhập niềm vui Niết Bàn’’.

Ngay khi ấy, các Bồ Tát và Thích Ðề Hoàn Nhân, Phạm thiên vương, chư thiên chắp tay kính lễ, thỉnh Phật vì các chúng sanh chuyển pháp luân lần đầu. Khi ấy, đức Phật im lặng nhận lời thỉnh, đến rừng Nai nơi thành Ba La Nại chuyển pháp luân’.

Kinh Pháp Hoa cũng chép:

‘Khi ấy, các Phạm vương, và các trời Ðế Thích, Hộ Thế Tứ thiên vương, cùng Ðại Tự Tại thiên và các chúng trời khác, quyến thuộc trăm ngàn vạn, cung kính chắp tay lễ, thỉnh ta chuyển pháp luân’.

Chữ ‘Pháp luân’ chỉ giáo pháp của Phật. Diễn thuyết giáo pháp của Phật gọi là Chuyển Pháp Luân. ‘Luân’ chính là luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương xoay chuyển trong tứ thiên hạ đè bẹp các oán địch. Vì vậy, nó thường được ví với giáo pháp của Phật: cũng lưu chuyển trong hết thảy chúng sanh giới phá trừ các phiền não.

Sách Pháp Hoa Văn Cú viết: ‘Chuyển pháp hóa độ người khác: từ nơi tâm của Phật lọt vào tâm người khác gọi là Chuyển Pháp Luân’. Sư Gia Tường nói: ‘Từ mình đem đến người khác nên nói là Chuyển’. Ngoài ra, sách Thám Huyền Ký giảng chữ ‘pháp luân’ như sau:

‘Pháp nghĩa là Quỹ Trì, nói chung có bốn nghĩa là Giáo, Lý, Hạnh, Quả. Luân là cái được thành, cũng có bốn nghĩa:

  1. Viên mãn: do chẳng khuyết giảm. 
  2. Ðức đầy đủ: do các tướng: vành, đùm, căm… đều đầy đủ.
  3. Hữu dụng: do nghiến nát các hoặc chướng.
  4. Chuyển động: nghĩa là từ đây tới kia, tức là từ Phật chuyển tới chúng sanh. Cũng có nghĩa là từ kia hướng đến đây, tức là từ chúng sanh đạt đến Phật quả’.

Thường dùng pháp âm giác ngộ các thế gian’: Từ câu này trở đi, cho đến trước câu ‘trong hạng trung, hạ ấy mà hiện diệt độ’  đều nói về tướng chuyển pháp luân.

‘Pháp âm’ chỉ chung tất cả giáo pháp của Như Lai chẳng giới hạn trong thanh âm, ngôn ngữ. Ấy là vì đức Thế Tôn thuyết pháp thì vi trần nói, hoặc cõi nước nói, nói một cách mạnh mẽ, nói không gián đoạn, lúc nói là thuyết pháp mà lúc im lặng cũng là thuyết pháp, chẳng phải chỉ hữu tình nói mà vô tình cũng nói. Vì vậy, chẳng thể cho rằng pháp âm chỉ thu hẹp trong ngôn giáo của đức Thế Tôn.

Ðại sư La Thập giảng chữ ‘thế gian’ như sau:‘Thế gian là tam giới’, tức là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới. Thế Tôn sau khi nhận lời thỉnh, cả một đời diễn giảng đủ các pháp: Ðại, Tiểu, Quyền, Thật, Thiên, Viên để đánh thức hết thảy chúng sanh trong tam giới nên nói là: ‘Thường dùng pháp âm giác ngộ các thế gian’. Ðây chính là tổng tướng của chuyển pháp luân.

Câu ‘Phá thành phiền não’ trích từ bản Ðường dịch. Phiền Não là tham, sân, si v.v… phiền tâm não thân nên gọi là “phiền não”. Hơn nữa, mười thứ: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ được gọi là mười phiền não. Tông Thiên Thai gọi ba thứ hoặc: kiến tư, trần sa, vô minh là ba phiền não. Trí Ðộ Luận chép: ‘Phiền não khiến cho tâm phiền vì nó gây não loạn’.

‘Thành’ là thành trì. Phật diễn diệu pháp phá tan thành lũy phiền não trong thân tâm chúng sanh nên kinh nói: ‘Phá thành phiền não’.

Tịnh Ảnh Sớ giảng câu ‘hoại các hào dục’ như sau: ‘Tâm ái dục sâu thẳm khó vượt được nên gọi là Hào, dạy đoạn trừ [tâm ái dục] khiến nó tan nát’.

Sách Bình Giải viết: ‘Hoại các hào dục là bỏ dục tâm. Ái dục là gốc các khổ. Dòng dục sâu rộng chúng sanh chìm đắm trong ấy khó vượt qua được nên gọi là Hào. Sách Tự Uyển giảng: ‘‘Hào là mương nước lớn bao quanh thành’’. Gươm Phật pháp chặt nát tan hào lũy dục’.

Sách Hội Sớ giảng câu ‘Rửa sạch cấu ô, hiển minh thanh bạch’ như sau:

‘Coi ái phiền não dường như cấu ô, Không Huệ trừ được [phiền não] nên cũng như là “rửa sạch”. Trừ tà hiển chánh là “hiển minh”. Do gìn giữ pháp thành nên bảo là “thanh bạch”. Vượt khỏi các hủy báng nên nói là “thanh bạch”.

Chữ ‘pháp thành’ trong đoạn văn trên ám chỉ trí đoạn quả như sách Hợp Tán viết: ‘Trí đoạn quả gọi là “pháp thành”. Gia Tường Sớ ghi: ‘Trừ bỏ mê cấu nên nói là “rửa sạch”… Hiểu được vô tướng là vô lậu minh, vì vậy bảo là “thanh bạch”.

Sách Bình Giải cũng viết: ‘Rửa sạch cấu ô, hiển minh thanh bạch là đức tính của mưa xối. Mưa có khả năng rửa sạch bụi nhơ của các vật, có đức tính hiển hiện cái thể thanh bạch. Pháp luân của Như Lai rửa sạch bụi nhơ trần lao, khai hiển tịnh thể sẵn có’.

Tổng hợp các cách giải thích trên thì ‘thanh bạch’ là trí đoạn quả, là vô lậu minh, là tịnh thể vốn có. Nếu nhìn theo quan điểm Thiền môn, ‘rửa sạch cấu ô’ chính là ‘hồi thoát căn trần’, ‘hiển minh thanh bạch’ là ‘linh quang độc diệu’. Quy về Tịnh Tông: ‘cùng nhiếp sáu căn’ là ‘rửa sạch cấu ô’, ‘tịnh niệm tiếp nối’ và ‘tự được tâm khai’ là ‘hiển minh thanh bạch’. Vì ‘một tiếng Phật hiệu là một tiếng tâm’, Niệm Phật chính là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác vậy.

‘Ðiều chúng sanh, tuyên diệu lý’: “Ðiều” là điều hòa. “Chúng sanh” là hết thảy hữu tình. Tuyên là chỉ bày. “Diệu lý” là lý thể của Thật Tướng, cũng chính là ‘Phật tri kiến’ của kinh Pháp Hoa. Khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến chính là ‘tuyên diệu lý’ khiến cho hết thảy hữu tình ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri kiến là ‘điều chúng sanh’. Ðiều hòa dây đàn khiến nó phát ra đúng âm thanh, điều hòa chúng sanh khiến chúng khế hợp Trung Ðạo. Pháp môn Tịnh Ðộ là tri kiến Phật, trì danh niệm Phật là hòa hợp vào Trung Ðạo.

‘Trữ công đức, bày phước điền’: ‘Trữ’ là tích chứa. ‘Phước điền’: ruộng gieo lúa của thế gian gọi là ruộng lúa, dùng ngay hình ảnh ấy làm thí dụ chỗ để chúng sanh gieo phước thì gọi là “phước điền”. Tịnh Ảnh Sớ viết:

‘Tích chứa nhiều đức gọi là “trữ công đức”. Thị hiện nhận lãnh vật cúng dường nên gọi là Bày. Sanh phước thiện cho đời như ruộng sanh ra các vật nên gọi là Phước Ðiền’.

Sách Bình Giải viết: ‘Phước điền là cúng dường Như Lai, vật thí tuy nhỏ được phước rộng lớn; giống như ruộng tốt, tuy gieo ít giống, thâu hạt rất nhiều. Kinh Bồ Ðề Bổn Sanh nói: “Sở dĩ Phật là phước điền là vì chứa công đức vô thượng”.

Các cách giải thích trên đây đều phù hợp ý kinh này. Hơn nữa, luận Câu Xá nói có bốn thứ phước điền:

– Thú điền: tức là súc sanh.

– Khổ điền: người bần cùng khốn khổ.

– Ân điền như cha mẹ v.v…

– Ðức điền: thánh hiền trong tam thừa.

Ðấy là nghĩa rộng của phước điền.

‘Dùng các pháp dược, cứu chữa ba khổ’: Chư Phật độ sanh theo bịnh cho thuốc. Thuốc ví với diệu pháp của Như Lai, bịnh ví cho chúng sanh tật khổ như kinh Niết Bàn nói: ‘Vì độ chúng sanh nên nói pháp dược vi diệu vô thượng’.

‘Ba khổ’ là:

  1. Khổ khổ: do việc khổ xảy đến nên sanh phiền não.
  2. Hoại khổ: do pháp vui mất đi mà sanh khổ não.
  3. Hành khổ: hành nghĩa là dời chuyển. Do hết thảy đều dời chuyển, vô thường nên sanh khổ não.

Gia Tường Sớ viết: ‘Sự khổ trong ba cõi (tức là sanh tử trong ba cõi) gọi là ba khổ’. Sách Bình Giải cho rằng lời giải thích của sư Gia Tường thỏa đáng vì trừ diệt cái khổ sanh tử trong ba cõi thật phù hợp với tông chỉ của Tịnh tông.

Sách Bình Giải giảng đoạn văn trên như sau: ‘Như Lai đại y vương biết được bệnh, tùy theo bịnh cho thuốc, trị cái khổ trong ba cõi. Bịnh có nhiều loại nên pháp dược cũng nhiều. Vì vậy, nói là các pháp dược’.

Lên địa vị quán đảnh’: Quán Ðảnh là ở Ấn Ðộ vào thời cổ, khi quốc vương lên ngôi, lấy nước bốn biển rưới lên đảnh đầu vua. Mật giáo cũng giống thế, có pháp quán đảnh. Quán đảnh có nhiều loại, nói giản lược thì có hai thứ:

 

  1. Kết duyên quán đảnh: Ðể hành nhân cầu pháp được kết duyên với Phật, dẫn hành nhân vào đàn, truyền cho ấn và chơn ngôn của Bổn Tôn. Từ đấy trở đi, hành nhân có thể nương theo lời dạy, tùy sức tu tập. Ðó là “kết duyên quán đảnh”.

 

  1. Thọ chức quán đảnh: Ðể bậc tích chứa công hạnh đúng pháp được phép truyền thọ bí pháp nên làm pháp quán đảnh. Ðược quán đảnh xong, người ấy kham làm thầy dạy, làm bậc a xà lê trong Mật pháp. Ðấy là thọ chức (hoặc truyền giáo) quán đảnh.

 

Ðó chỉ là phân chia một cách đại lược. Nếu bàn tỉ mỉ thì với hai loại quán đảnh vừa nói trên, lại có bốn cách quán đảnh thường được sử dụng:

 

  1. Bình quán: được tùy ý tu tập cách sanh khởi theo thứ lớp.

 

  1. Mật quán: được tùy ý tu tập về các khí mạch, minh điểm (14).

 

  1. Huệ quán: được tự tại tu trì Bồ Ðề tâm quyết.

 

  1. Ðại Thủ Ấn quán: được tự tại tu trì pháp môn Ðại Thủ Ấn.

 

Mật giáo đặt nặng vấn đề truyền thừa: chưa qua quán đảnh chẳng được tự tiện tu tập; các nghi quỹ, kinh điển cũng chẳng được tự tiện đọc.

Ngoài ra, quán đảnh còn phân biệt giữa Sơ Vị và Hậu Vị như quyển thứ mười lăm Ðại Nhật Kinh Sớ viết:

‘Ví như dòng sát-lợi trong thế gian muốn kế tục ngôi vị để dòng vua chẳng dứt, phải quán đảnh cho đích tử: lấy nước bốn biển đựng vào bốn cái bình báu… giội lên đầu thái tử. Giội nước ấy xong, lớn tiếng xướng ba lần: ‘Mọi người nên biết: ‘‘Thái tử đã nhận lãnh địa vị xong. Từ nay trở đi, với tất cả mệnh lệnh của ngài đều phải phụng hành’’.

Nay đấng Như Lai pháp vương cũng giống như vậy, muốn cho dòng Phật chẳng đoạn nên dùng cam lộ pháp thủy rưới lên đảnh Phật tử… Từ đây trở đi, hết thảy thánh chúng đều phải kính ngưỡng, cũng phải biết rằng người này rốt ráo chẳng thối thất vô thượng Bồ Ðề, quyết định kế tục địa vị pháp vương của Như Lai’.

Cách giải thích trong đoạn sớ văn trên đây là xét theo người thuộc Sơ Vị.

Còn với hạng Hậu Vị thì như sách Bí Mật Ký giảng: ‘Bồ Tát từ Sơ Ðịa đến Ðẳng Giác lúc gần đạt quả Phật cứu cánh, chư Phật dùng nước đại bi quán đảnh, tự hạnh liền viên mãn, chứng đắc Phật quả là nghĩa của chữ Ðảnh’.

Quyển bảy của sách Bí Tạng Ký Sao viết: ‘Quán nghĩa là đại bi hộ niệm. Ðảnh nghĩa là Phật quả cao tột nhất. Chư Phật hộ niệm làm cho trụ nơi Phật đảnh đều gọi là Quán Ðảnh’.

Nay kinh này chép: ‘Lên địa vị quán đảnh’, nếu xét về các bậc Ðại Sĩ trong hội thì là Hậu Vị, còn về phía chúng sanh được dạy dỗ thì là Sơ Vị.

‘Thọ ký Bồ Ðề’: Thọ nghĩa là giao cho. Ký là ghi biết, cũng có nghĩa là huyền ký. Phật đối với chúng sanh đã phát đại tâm trao lời huyền ký tương lai quyết định thành Phật thì gọi là ‘thọ ký’.

Ngài Cảnh Hưng bảo: ‘Ðức thánh nói đương quả (quả trong tương lai) khiến cho biết được nhân lợi (cái lợi do tu nhân) thì gọi là thọ ký’.

Nghĩa là: đức Phật tiên đoán tương lai sẽ thành quả Phật khiến cho hành nhân ngay khi ấy biết được cái lợi của việc tu nhân của chính mình, làm cho hành nhân biết được rằng cái nhân Bồ Ðề hiện tại quyết định trở thành cái quả thành Phật nên gọi là thọ ký.

Ý của câu ‘thọ ký Bồ Ðề’ là các bậc Ðại Sĩ trong hội đều được thọ ký quyết định sẽ thành Phật. Lại còn hàm ý: các vị Ðại Sĩ này rộng vì chúng sanh thọ ký thành Phật.

‘Vì dạy Bồ Tát làm a-xà-lê, thường tu tập vô biên các hạnh tương ứng’: A Xà Lê (acarya) dịch là Giáo Thọ, cũng dịch là Quỹ Phạm Sư, là bậc khuôn phép về chánh hạnh, là tiếng tôn xưng bậc mô phạm cho chúng Tăng, thường dùng để chỉ bậc dạy dỗ pháp lành.

Trong kinh này, nếu nói theo ý câu ‘lên địa vị quán đảnh’ thì a xà lê là bậc a xà lê chỉ dạy chơn ngôn, cũng gọi là “kim cang a xà lê” do vị này kế tục địa vị tổ sư Kim Cang Tát Ðỏa. A xà lê là tiếng tôn xưng bậc truyền pháp quán đảnh.

‘Tương ưng’ nghĩa là khế hợp như: tam mật tương ưng, cảnh trí tương ưng v.v… Mật tông lấy ý chỉ tam mật tương ưng làm điều cốt lõi ngõ hầu thân, khẩu, ý của chúng sanh khế hợp với tam mật của Như Lai, cho nên: ngay nơi thân này thành Phật. Vì vậy, Mật tông còn gọi là Tương Ưng tông.

Câu này và câu ‘lên địa vị quán đảnh’ ở trên biểu thị sâu xa ý chỉ: Tịnh, Mật chẳng hai, ngụ ý: Các Ðại Sĩ trong hội do hoằng truyền Mật thừa, do dạy dỗ các Bồ Tát thành Kim Cang A Xà Lê nên bản thân luôn luôn tu tập vô lượng vô biên hạnh tương ưng.

‘Thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn. Vô lượng chư Phật đều cùng hộ niệm’: Thiện Căn là sự lành nơi ba nghiệp thân, miệng, ý. Vững chắc chẳng thể lay động nổi thì gọi là Căn. Thêm nữa, sự lành sanh ra diệu quả, sanh ra các điều lành khác nên gọi là ‘Căn’.

‘Hộ niệm’ là giữ gìn, ức niệm. Sách Hội Sớ giảng: ‘Hộ là che chở, gìn giữ. Niệm là nghĩ nhớ’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Giữ gìn (hộ) khiến cho lìa ác, niệm khiến cho tăng trưởng thêm lên’. Vì vậy, hai câu trên là lời khen ngợi chung các vị Ðại Sĩ trong hội tuân tu Phổ Hiền đức, khiến cho các Bồ Tát đều thành thục vô biên thiện căn. Do đó, chư Phật đều cùng hộ niệm.

Chánh kinh:

Trong các cõi Phật đều có thể thị hiện ví như huyễn sư giỏi hiện các tướng lạ. Trong các tướng ấy, thật không có gì để được. Các vị Bồ Tát này cũng lại như thế: thông các pháp tánh, đạt chúng sanh tướng, cúng dường chư Phật, khai đạo quần sanh, hóa hiện thân mình tựa như ánh chớp, xé rách lưới kiến hoặc của ma, cởi các trói buộc, vượt xa địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, nhập pháp môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, khéo lập phương tiện hiển thị tam thừa.

Giải:

Ðoạn kinh văn trên tiếp tục nói về tướng thứ bảy: chuyển pháp luân. Tên của phẩm này là Ðức Tuân Phổ Hiền thật phù hợp với ý nghĩa Bồ Tát Phổ Hiền được kể làm  thượng thủ. Kinh này là Viên giáo, từ quả khởi nhân, nên kế ngay sau ngài Phổ Hiền là Văn Thù. Phổ Hiền tượng trưng cho Hạnh, Văn Thù tượng trưng cho Trí.

Vô trí thì chẳng thể khởi hạnh nên lại phải kể rõ tên ngài Văn Thù, đúng như sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận nhận định:

Chẳng qua khỏi nổi biển trí Văn Thù thì khó nhập Phổ Hiền hạnh môn vì chẳng biết rõ: một niệm viên đốn, bình đẳng chánh tánh, phàm lẫn thánh cùng có, không sai khác chút nào. Do chẳng rõ nên tất cả hạnh nguyện đều chẳng đầy đủ. Vì sao vậy?

Từ ngoài tâm khởi tu nên thành hữu lậu. Do vô biên công đức chẳng ngoài tự tâm, tùy thuận Chơn Như tu hết thảy pháp thì đầy đủ được vô biên công đức’.

Vì vậy, từ câu ‘trong các cõi Phật, đều có thể thị hiện’ trở đi là nói về trí đức của Văn Thù, chẳng hạn như những câu ‘ví như huyễn sư giỏi hiện các tướng lạ. Trong các tướng ấy, thật không có gì để được’ v.v… đều biểu thị ý nghĩa: từ Văn Thù diệu trí tu tập viên mãn hạnh Phổ Hiền thù thắng.

Tám câu từ chữ ‘trong các cõi Phật’ trở đi đều hiển thị trí đức của các Bồ Tát trong hội. Câu ‘trong các cõi Phật đều có thể thị hiện’ biểu thị cái đức phổ môn thị hiện của các Ðại Sĩ: chẳng chỉ trong mình cõi nước này thị hiện tám tướng mà còn trong mười phương thế giới hiện trọn tám tướng.

 ‘Huyễn sư’ là thí dụ, Trí Ðộ Luận nói: ‘Phương Tây có nhà huyễn thuật có thể hóa hiện hết thảy cung điện, thành quách, nhà viện, thắt khăn thành thỏ, biến đai thành rắn… các thứ biến hiện’. Vì vậy, kinh này mượn tài huyễn hóa của nhà ảo thuật để ví cho Ðại Sĩ phổ môn thị hiện. Do đó, kinh chép: ‘Ví như huyễn sư hiện các tướng lạ’.

Rồi nói: ‘Trong các tướng ấy, thật không có gì để được’ vì thật sự biết là huyễn nên với huyễn chẳng mê như trong kinh Bảo Tích, Học Huyễn Thái Tử nói kệ khen ngợi Phật rằng: ‘Như huyễn sư huyễn hóa, tự chẳng mê nơi huyễn, vì biết huyễn hư vọng, Phật xem đời cũng thế’.

Ðây cũng chính là như kinh Viên Giác dạy: ‘Biết huyễn liền lìa, lìa huyễn chính là Giác’. Vì vậy, với huyễn tướng chẳng chấp, chẳng đắc. Kinh văn nhiều lần khen ngợi tỉ mỉ Thật Ðức và Quyền Ðức của Ðại Sĩ: ‘Ðều có thể thị hiện’ là Quyền Ðức, ‘thật chẳng thể được’ là Thật Ðức. Các Ðại Sĩ trong hội đều trọn vẹn hai đức Quyền, Thật này nên nói rằng: ‘Các Bồ Tát ấy cũng lại giống như thế’.

‘Thông các pháp tánh, đạt chúng sanh tướng’: Pháp Tánh cũng gọi là Thật Tướng, Pháp Giới, Niết Bàn, Thật Tế v.v… ‘Tánh’ là thể. Tự thể của hết thảy pháp gọi là “pháp tánh” như Khởi Tín Luận Nghĩa Ký giảng: ‘Pháp tánh nghĩa là hiểu rõ chơn thể này phổ biến… thông với hết thảy pháp làm tánh’.

Lại nữa, sách Duy Thức Thuật Ký viết: ‘Tánh là thể. Thể của hết thảy pháp gọi là pháp tánh’. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương cũng viết: ‘Thể tánh của pháp gọi là pháp tánh’.

Vì vậy, pháp tánh là thể của vạn pháp, dù trong pháp nhiễm hay tịnh, dù nơi hữu tình hay nơi vô tình, tánh của nó chẳng hề biến đổi nên gọi là Pháp Tánh.

Lại nữa, Pháp Tánh chính là Chơn Như, cũng chính là Thật Tướng. Quyển thứ 5 của Gia Tường Pháp Hoa Sớ viết: ‘Pháp tánh chính là Thật Tướng, tam thừa đắc đạo không ai chẳng do nó’.

Quyển một sách Chỉ Quán cũng chép: ‘Pháp tánh gọi là Thật Tướng, còn chẳng phải là cảnh giới của Nhị Thừa huống hồ phàm phu’.

Hoa Nghiêm tông cho rằng Chơn Như có hai nghĩa là bất biến và tùy duyên. Về mặt tùy duyên, do nó tạo ra hết thảy các pháp nên gọi Chơn Như là pháp tánh. Lại do chẳng bất biến nên tuy tùy duyên tạo ra nhiễm hay tịnh, hữu tình hay vô tình vạn pháp mà Chơn Như chẳng đổi, chẳng biến. Ví dụ: nước biến thành sóng mà chẳng biến mất tánh nước. Pháp tánh Chơn Như thuần thiện chẳng nhiễm, chỉ do duyên mà có nhiễm hay tịnh, nhưng pháp bị biến đổi thì lại có nhiễm hay tịnh khác biệt.

Sách Hội Sớ lại viết: ‘Bồ Tát có hai thứ trí làm căn bổn cho hết thảy hạnh tu. Những gì là hai?

Một là Như Lý Trí chiếu soi bổn tánh các pháp chẳng một, chẳng khác, chẳng sanh, chẳng diệt thì gọi là thông các pháp tánh.

Hai là Như Lượng Trí chiếu soi tướng khác biệt của chúng sanh, mê, ngộ, phàm, thánh đều khác. Ðây gọi là đạt chúng sanh tướng’.

Như vậy, ‘thông các pháp tánh’ là Căn Bổn trí, ‘đạt chúng sanh tướng’ là Sai Biệt trí.

‘Cúng dường chư Phật’: Cúng dường có hai loại:

– Một là tài cúng dường: cúng dường hương hoa thức ăn, tài vật….

– Hai là pháp cúng dường: đúng như lời dạy tu hành, lợi ích chúng sanh.

Lại có ba loại cúng dường:

  1. Lợi cúng dường: dùng hương, hoa, thức ăn v.v..
  2. Kính cúng dường: khen ngợi, cung kính
  3. Hạnh cúng dường: thọ trì, tu hành diệu pháp.

Sách Bình Giải viết: ‘Có thể đi qua vô lượng cõi Phật, khởi lên cúng dường nhiều như mây nên bảo là cúng dường chư Phật’.

‘Khai đạo quần sanh’ là như kinh Duy Ma chép: ‘Tuy biết các cõi Phật và chúng sanh là không mà thường tu Tịnh Ðộ giáo hóa chúng sanh’ thì gọi ‘khai đạo quần sanh’.

‘Hóa hiện thân mình như ánh chớp’: Duy Thức Luận quyển mười chép: ‘Thần lực khó lường nên có thể hóa hiện’. Các Ðại Sĩ trên cúng dường, dưới hóa độ, bình đẳng phổ chiếu; cũng chẳng phân biệt: ưu, liệt, thân, sơ, vật, ngã, kia, đây…

Sách Hội Sớ chép:

‘Ánh chớp gồm bốn ý nghĩa: một là rất nhanh chóng, hai là phá tối tăm, ba là chẳng trụ, bốn là chẳng phân biệt.

Bồ Tát trong một niệm, một thời, đến khắp tất cả mười phương thế giới, trên cúng dường chư Phật, dưới lợi ích quần sanh, chẳng có tướng xuất nhập, trước sau lẹ làng như ánh chớp.

Bồ Tát có thể chiếu các Phật hội, phá tối tăm cho chúng sanh như ánh chớp trừ tối.

Bồ Tát hiện ra vô lượng thân ứng hiện trong các cõi nước nhiều như vi trần, chẳng có trụ xứ, chẳng có dấu vết như ánh chớp nháng trên không: chẳng biết từ đâu đến, đi, cũng không dấu tích nhất định.

Bồ Tát bình đẳng, không có phân biệt trước, sau, đây, kia… như ánh chớp soi vật chẳng phân biệt trước, sau, đây, kia’.

‘Xé lưới kiến hoặc của ma’: ‘Xé’ là phá hoại. Ma thì như Trí Ðộ Luận giảng: ‘Ðoạt huệ mạng, hoại đạo pháp và gốc lành công đức nên gọi là Ma’.

‘Kiến’ là suy nghĩ, tìm cầu, quyết định v.v… bao hàm cả chánh lẫn tà. Sách Chỉ Quán, quyển năm viết: ‘Hết thảy phàm phu chưa đạt thánh đạo hễ khởi lên một niệm nhỏ nhiệm thì đều là Kiến’. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 5 lại giảng: ‘Suy cầu gọi là Kiến’. Trên đây là nghĩa rộng: phàm có suy nghĩ, so sánh, phân biệt, suy cầu v.v… đều gọi là Kiến.

Sách Chỉ Quán, quyển mười lại viết: ‘Có tri giải quyết định thì gọi là Kiến’, nghĩa này khá hẹp vì chỉ xét tới tri giải có tánh quyết định. Kiến có chánh, tà, các loại kiến: hữu, vô, tạm, thường… đều là tà kiến.

‘Lưới kiến hoặc của ma’ là tà kiến bời bời đan rối vào nhau khiến người khó thoát ly, giống như lưới rập nên gọi là lưới tà kiến. Kinh Hoa Nghiêm dạy: ‘Ngã mạn tưới tắm, lưới kiến tăng trưởng’.

 Trí Ðộ Luận, quyển mười một cũng viết: ‘Vào trong lưới tà kiến, phiền não phá chánh trí’.

‘Lưới kiến hoặc của ma’ chính là lưới tà kiến. Trí Ðộ Luận, quyển 8 viết: ‘Hữu niệm đọa lưới ma, vô niệm thì thoát được’ cho thấy: khởi tâm động niệm đều đọa lưới ma, chỉ có tịnh niệm nối tiếp, vô niệm mà niệm mới xuất ly được.

‘Cởi các triền phược’: Triền là vấn vít. Phược là trói buộc.

Theo đại sư Cảnh Hưng, ‘triền phược chính là tám triền ba phược’ (các vị khác đa số cho rằng có mười triền, bốn phược. Ở đây, tôi theo thuyết của sư Cảnh Hưng). Tám triền là: vô tàm, vô quý, ganh ghét, keo kiệt, làm việc ác, ham ngủ, lao chao, hôn trầm. Ba phược là tham, sân, si.

Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Cũng có thể hiểu rằng các phiền não kết gọi chung là triền phược. Bồ Tát dạy người đoạn lìa chúng thì bảo là Cởi’. Hai câu trên đây ý nói các Bồ Tát trong hội do ‘thông các pháp tánh, đạt chúng sanh tướng’, đầy đủ Căn Bổn Trí và Sai Biệt Trí nên có thể vì chúng sanh phá lưới ma kiến khiến họ lìa bỏ tà nghiệp, có thể vì hữu tình giải trừ các triền phược cho họ được thoát phiền não.

‘Vượt xa địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật, nhập pháp môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện’: Hai câu này lại khen ngợi Thật Ðức của các vị Ðại Sĩ trong hội: sở giác thù thắng vượt xa địa vị Thanh Văn, Bích Chi Phật.

‘Thanh Văn’ là đệ tử theo pháp Tiểu thừa của Phật, nghe giáo pháp của Phật ngộ lý Tứ Ðế, đoạn hai hoặc: kiến và tư, thoát khỏi phần đoạn sanh tử nhập Niết Bàn. Tịnh Ảnh Sớ nói: ‘Ngôn giáo của đức Phật thuyết gọi là Thanh. Nghe tiếng giải ngộ nên gọi là Thanh Văn’.

‘Bích Chi Phật’: Bích Chi là tiếng Phạn, Tàu dịch là Nhân Duyên. Phật nghĩa là Giác. Vì vậy, cựu dịch Bích Chi Phật là Duyên Giác, tân dịch là Ðộc Giác. Theo Ðại Thừa Nghĩa Chương, Duyên Giác có hai cách hiểu:

– Một là quán mười hai nhân duyên, đoạn hoặc chứng chơn, từ duyên mà giác ngộ nên gọi là Duyên Giác.

– Hai là do các duyên sự tướng của ngoại giới như gió thổi cây động v.v… mà được giác ngộ nên bảo là Duyên Giác.

Tông Thiên Thai lại phân chia hai danh từ này như sau:

– Ra đời gặp nhằm lúc Phật xuất hiện, quán mười hai nhân duyên được giác ngộ là Duyên Giác.

– Ra đời nhằm lúc không có Phật, thấy ngoại duyên: gió thổi cây động, lá rụng, hoa bay mà thành đạo thì là Ðộc Giác.

Hai thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật nói trên đều là bậc hạ căn trong hàng đệ tử Phật.

Nay các Ðại Sĩ đây vượt xa hơn bọn họ như sách Bình Giải nói:

‘Nhị Thừa tuy đắc ba Không môn, nhưng chìm đắm nơi Thiên Không. Bồ Tát chẳng như vậy, thấu đạt lưới huyễn đắc pháp bình đẳng. Vì vậy, tuy trụ ba Không môn mà chẳng trụ vô vi, cho nên dẫu làm Thanh Văn, làm Duyên Giác lại siêu việt địa vị Thanh Văn, Duyên Giác’.

Hơn nữa, kinh Ðại Bảo Tích, pháp hội Thiện Ðức Thiên Tử có chép:

Dùng pháp Thanh Văn giáo hóa chúng sanh nên ta là Thanh Văn. Dùng pháp Bích Chi Phật giáo hóa chúng sanh nên ta là Bích Chi Phật. Dùng pháp đại bi giáo hóa chúng sanh nên ta là Bồ Tát.

Trong hết thảy pháp được giải thoát vì hết thảy vô ngại. Với chúng sanh mình hóa độ, hoặc dùng pháp Thanh Văn giáo hóa để làm lợi ích, hoặc dùng pháp Bích Chi Phật giáo hóa để làm lợi ích, hoặc dùng pháp Bồ Tát giáo hóa để làm lợi ích nên ta là Thanh Văn, ta là Duyên Giác, ta là Bồ Tát’.

Câu này nói đến phương tiện khéo léo của các Ðại Sĩ: tùy cơ độ sanh thị hiện làm Nhị Thừa, chẳng bỏ hình tướng Thanh Văn, Bích Chi Phật nên bảo là ‘vượt xa’. Chữ Ðịa trong chánh kinh là địa vị, là cảnh giới.

Chữ ‘Không, Vô Tướng, Vô Nguyện’ được Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: ‘Chúng sanh và pháp đều không có tự tánh nên gọi là Không. Cho đến nhân duyên cũng chẳng có tướng nên bảo là Vô Tướng. Do vượt khỏi cái bị lấy, xa lìa tâm chấp lấy nên bảo là Vô Nguyện’.

 Trí Ðộ Luận lại nói: ‘Vô Nguyện nên chẳng tạo nghiệp sanh tử, nên cũng gọi là Vô Tác’.

Lại viết: ‘Quán các pháp không gọi là Không. Trong cái Không đó chẳng thể giữ lấy tướng, ngay khi ấy, chuyển được cái Không nên gọi là Vô Tướng.

Trong Vô Tướng, chẳng có thứ gì được làm ra để sanh trong tam giới nên ngay khi ấy, chuyển được Vô Tướng nên gọi là Vô Tác (tức là vô nguyện).

Ví như cái thành có ba cửa, một thân người chẳng thể cùng lúc vào được ba cửa. Nếu muốn vào thành, phải theo một cửa mà vào. Thật tướng của các pháp là Niết Bàn thành. Thành có ba cửa: Không, Vô Tướng, Vô Tác.

Nếu người theo cửa Không mà vào, chẳng thấy là không, cũng chẳng chấp tướng thì người ấy ngay khi đó đã xong việc, chẳng cần đến hai cửa kia nữa.

Nếu ai vào cửa Không lại chấp tướng cho rằng mình đắc cái Không ấy, cho nên người ấy chẳng qua nổi khỏi cửa, đường thông hóa nghẽn. Nếu trừ được tướng Không thì theo cửa Vô Tướng mà vào.

Nếu tâm chấp trước tướng Vô Tướng sanh hí luận thì để trừ tướng Vô Tướng phải vào cửa Vô Tác’.

Ý nói: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện ví như ba cái cửa. Do pháp môn này khế nhập thành Niết Bàn Thật Tướng của các pháp.

Nếu ai từ cửa Không đi vào nhưng chẳng thấy Không tướng liền vào thẳng ngay tòa thành Niết Bàn.

Nếu thấy có tướng Không thì chẳng vào nổi. Nếu trừ được tướng Không thì liền có thể theo cửa Vô Tướng mà vào.

Nếu như chấp tướng của Vô Tướng thật là tướng của Vô Tướng thì cũng chẳng vào được. Ðể trừ tướng Vô Tướng này, cần phải từ cửa Vô Tác (tức là Vô Nguyện) vào thẳng trong thành. Vì vậy, kinh dạy: ‘Nhập pháp môn: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện’.

‘Khéo lập phương tiện, hiển thị tam thừa’: Phương là phương pháp, Tiện là tiện dụng. Pháp Hoa Văn Cú giảng: ‘Phương là phương pháp, Tiện là dùng’. Sách Pháp Hoa Huyền Tán ghi: ‘Tạo tác, thực hành thì là Phương. Khéo thích ứng căn cơ là Tiện’.

Sách Pháp Hoa Nghĩa Sớ viết: ‘Phương tiện là tên khác của thiện xảo. Thiện xảo là công dụng của trí’.

Kinh Ðại Tập dạy: ‘Ðiều phục được chúng sanh khiến chúng quy hướng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì gọi là Phương Tiện’.

Hội Sớ cũng nói: ‘Kinh Niết Bàn chép: ‘‘Trí độ (bát nhã ba la mật) là mẹ của Bồ Tát, Phương Tiện là cha’’. Hiểu thấu Không, Vô Tướng là đại trí. Tùy nghi sắp bày, thi hành là phương tiện.

Phương tiện có hai thứ: một là hiểu sâu Không mà chẳng chấp tướng thọ chứng. Hai là do lý Thật Tướng thẳm sâu không ai tin nhận nổi nên phải dùng phương tiện dụ dẫn quần sanh khiến cho giác ngộ dần dần.

Ðức ấy rộng lớn chỉ có Bất Nhị Thừa (tức là không thuộc hàng Nhị Thừa) mới làm nổi. Vì thế, bảo là khéo lập’.

Chữ Thừa trong ‘tam thừa’ là cỗ xe. Sách Tứ Giáo Nghi Tập Chú giảng: ‘Thừa có nghĩa là chuyên chở, chở ra khỏi tam giới trở về Niết Bàn’. Hơn nữa, Thừa ví như công cụ chuyên chở khiến người ngự trên thừa ấy đều đạt tới quả địa.

Kinh Pháp Hoa dùng ba loại xe dê, nai và trâu để ví cho ba thừa: tiểu, trung, đại. Tiểu là Thanh Văn thừa. Trung là Duyên Giác thừa. Ðại là Bồ Tát thừa. Phẩm Thí Dụ kinh Pháp Hoa chép:

‘Như Lai có vô lượng trí huệ, lực, vô sở úy, các pháp tạng, có thể ban cho hết thảy chúng sanh pháp Ðại Thừa (chỉ cho nhất Phật thừa), nhưng chúng chẳng thể lãnh nhận hết nổi.

Này Xá Lợi Phất! Bởi nhân duyên đó, phải biết rằng: chư Phật do sức phương tiện nơi một Phật thừa phân biệt thành ba’.

Sách Pháp Hoa Văn Cú cũng nói: ‘Phương tiện là cửa… Thể nhập được chơn thật, hiển lộ được chơn thật toàn là do công của phương tiện.

Theo cách giải thích này, Tiểu Thừa là cái cửa để vào được Ðại Thừa nên Tiểu Thừa được gọi là giáo pháp phương tiện.

Hơn nữa, tam thừa thông với Nhất Thừa nên tam thừa cũng gọi là Phương Tiện Giáo’.

Những đoạn kinh, luận trên thật đã tỏ rõ được yếu chỉ ‘khéo lập phương tiện, hiển thị tam thừa’ (Tướng thứ bảy: chuyển pháp luân đến đây đã xong).

Chánh kinh: Trong hạng trung, hạ căn ấy, thị hiện diệt độ.

Giải:

Ðây là tướng thứ tám của tám tướng thành đạo: bát Niết Bàn.

Niết Bàn, cựu dịch là Diệt Ðộ, tân dịch là Viên Tịch. ‘Diệt độ’ là diệt nhân quả sanh tử, diệt hết dòng lũ sanh tử. Kinh Niết Bàn dạy: ‘Diệt các phiền não gọi là Niết Bàn. Lìa các hữu cũng là Niết Bàn’.

Sách Tâm Kinh Lược Sớ của ngài Hiền Thủ ghi: ‘Niết Bàn, Tàu dịch là Viên Tịch, ý nói: không đức gì chẳng đủ nên bảo là Viên, không chướng nào chẳng tận nên nói là Tịch’.

Sách Bình Giải cũng viết: ‘Nghĩa đầy ắp pháp giới, đức đầy đủ như cát sông Hằng là Viên. Thể cùng tột chơn tánh, dứt tuyệt hoàn toàn sự vướng mắc vào hình tướng là Tịch’.

Các kinh luận trên đây đều nói về bậc Pháp Thân Ðại Sĩ chuyên chí Phật quả, chẳng trụ vào diệt tận, nhưng vì để nhiêu ích hai thừa: trung và hạ nên dùng phương tiện khéo léo thị hiện tướng diệt độ. Như phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa chép:

‘Nếu Phật trụ lâu dài trong đời thì kẻ đức mỏng chẳng gieo trồng căn lành, bần cùng, hạ tiện, tham đắm ngũ dục, bị vướng vào lưới ức tưởng vọng kiến nếu thấy Như Lai thường trụ bất diệt sẽ khởi ý kiêu ngạo, phóng túng, sanh lòng mỏi lười biếng, chẳng thể sanh nổi ý tưởng khó gặp Phật và tâm cung kính được… Vì vậy, Như Lai tuy thật chẳng diệt lại nói là diệt độ’.

Chẳng phải là diệt độ lại hiện có diệt độ nên bảo là ‘thị hiện’. Thị hiện như vậy là để độ căn cơ trung, hạ. Nếu là thượng căn thì thấy Như Lai chẳng từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Vốn đã thoát khỏi sanh diệt thì nào có Niết Bàn?

Vì vậy, Trí Giả đại sư đời Tùy khi đọc đến phẩm Dược Vương của kinh Pháp Hoa thấy một hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan.

Chánh kinh:

Ðắc các tam ma địa vô sanh vô diệt và đắc hết thảy đà ra ni môn, tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội, đầy đủ tổng trì, trăm ngàn tam muội, trụ thiền định sâu, đều thấy vô lượng chư Phật. Trong khoảng một niệm qua khắp hết thảy cõi Phật.

Giải:

Tam-ma-địa là tiếng Phạn, xưa phiên âm là tam-muội, tam-ma-đề, tam-ma-đế v.v… dịch nghĩa là Ðịnh, Chánh Ðịnh, Chánh Thọ, Ðiều Nghi Ðịnh, Chánh Tâm Hạnh Xứ, Ðẳng Trì v.v…

Trí Ðộ Luận giảng: ‘Tâm khéo trụ một chỗ chẳng động gọi là tam muội’ và:

‘Hết thảy thiền định cũng gọi là định, cũng gọi là tam muội’, và: ‘Các hạnh hòa hợp đều gọi là tam muội’, ‘hết thảy thiền định nhiếp tâm đều gọi là tam ma đề, Hán dịch là chánh tâm hạnh xứ’.

Thêm nữa, sách Pháp Hoa Huyền Tán viết: ‘Tiếng Phạn là tam ma địa, Tàu dịch là Ðẳng Trì. Bình đẳng gìn giữ cái tâm để tiếp xúc với cảnh thì chính là định’.

Ngài Thiên Thai giảng: ‘Dùng Không huệ chiếu soi các pháp môn thiền định, xuất sanh cho đến vô lượng tam muội’.

Trong kinh đây, tiếp ngay theo câu ‘mà hiện diệt độ’ là câu ‘đắc các tam ma địa vô sanh vô diệt’ là ý nói: Các Ðại Sĩ tuy thị hiện tướng Niết Bàn nhưng thật chẳng sanh chẳng diệt, bình đẳng thường trụ Như Như Pháp Thân. Các vị Ðại Sĩ này đều tuân theo Phổ Hiền đức từ quả hướng đến nhân.

‘Ðà ra ni’ là tiếng Phạn, Tàu dịch là Trì, Năng Trì, Năng Giá. Trí Ðộ Luận giảng:

‘Ðà ra ni, Hán dịch là Năng Trì hoặc Năng Giá.

Năng Trì là nhóm họp các thiện pháp, gìn giữ khiến cho chúng chẳng tan, chẳng mất; ví như đồ đựng hoàn hảo đem đựng nước, nước chẳng rò rỉ mất.

Năng Giá là có thể ngăn chặn khiến cho ác tâm bất thiện chẳng sanh. Nếu toan gây tội ác thì khiến cho chẳng thực hiện được. Do vậy, gọi là đà ra ni’.

Luận còn viết: ‘Bồ Tát đắc hết thảy các tam muội: tam thế vô ngại minh v.v… ấy thì với mỗi một tam muội sẽ đắc vô lượng a tăng kỳ đà ra ni. Các thứ ấy hòa hợp thành ra năm trăm đà ra ni môn. Ðấy là tạng thiện pháp công đức của Bồ Tát’.

Như vậy, tam muội là định. Sở đắc do định lực phát huệ gọi là đà ra ni như sách Trí Ðộ Luận giảng: ‘Tu hành tam muội này phải tu hành lâu rồi mới thành được đà ra ni. Các tam muội ấy cùng trí huệ thật tướng của các pháp sanh ra đà ra ni’.

Sách còn nói: ‘Tam muội chỉ là pháp tương ứng với tâm. Ðà ra ni lại chẳng tương ứng với tâm, tâm chẳng tương ứng với đà ra ni. Tâm chẳng tương ứng với đà ra ni là nếu như có người đắc văn trì đà ra ni, tuy tâm có sân giận, đà ra ni cũng chẳng tan mất, thường theo hành nhân như bóng theo hình’.

Như vậy theo Trí Ðộ Luận, tam muội phải do tâm tương ưng mới hiện hữu như bình, chén chưa nung, tuy có hình dạng bình, chén mà chẳng đựng được nước. Ðà ra ni như bình, chén đã qua lửa nung nên gìn giữ được vô lượng công đức của Bồ Tát. Tuy có lúc tâm chẳng tương ưng (chẳng hạn như khi tâm sanh phiền não), đà ra ni vẫn thường theo hành nhân như bóng theo thân.

Trí Ðộ Luận còn viết: ‘Ðà ra ni đời đời thường theo Bồ Tát, còn các tam muội chẳng được vậy, hễ đổi thân liền bị mất’. Vì vậy, đà ra ni một phen đã được là vĩnh viễn được, hơn hẳn tam muội.

Hoa Nghiêm Tam Muội là tên gọi khác của Phật Hoa Nghiêm Tam Muội: dùng nhất chân pháp giới vô tận duyên khởi làm lý thú. Thấu đạt lý thú ấy thì liền từ tri giải khởi ra vạn hạnh, trang nghiêm Phật quả nên gọi là Hoa Nghiêm. Do nhất tâm tu nên gọi là tam muội.

Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Như kinh Hoa Nghiêm nói, tam muội này thống nhiếp hết thảy Phật pháp trong pháp giới vào trong bản thân nó’.

Kinh Bát Thập Hoa Nghiêm chép: ‘Lúc ấy, Phổ Hiền Bồ Tát nhập tam muội rộng lớn tên là Phật Hoa Nghiêm’

Lục Thập Hoa Nghiêm lại chép: ‘Phổ Hiền Bồ Tát chánh thọ tam muội, tam muội ấy tên là Phật Hoa Nghiêm’.

Sách Pháp Giới Ký viết:

‘Hoa Nghiêm tam muội được giải thích như sau: Hoa là vạn hạnh của Bồ Tát, vì sao? Do công dụng của hoa là có thể kết trái(chỉ quả đức), hạnh có khả năng cảm được quả. Tuy là pháp nội, ngoại khác nhau, nhưng lực dụng sanh cảm tương tự.

Dùng sự để tỏ bày pháp nên gọi là Hoa. Nghiêm là hạnh thành, quả mãn, khế hợp tương ưng, cấu chướng vĩnh viễn tiêu trừ, chứng lý viên mãn. Dựa trên dụng để khen ngợi đức nên gọi là Nghiêm.

Tam muội là lý trí vô nhị, triệt để dung hội, đây, kia đều chẳng còn, năng, sở dứt bặt nên nói là tam muội’.

Kinh Hoa Nghiêm lại chép: ‘Hết thảy tự tại khó nghĩ bàn là do thế lực của Hoa Nghiêm tam muội vậy’.

Sách Hợp Tán lại viết: ‘Pháp giới duy tâm gọi là Phật Hoa Nghiêm. Dùng hoa nhân hạnh trang nghiêm khiến cho tướng trạng của quả đức được hiển hiện. Nhập tam muội này hiển hiện thập phương Phật và cõi Phật’.

Gia Tường Sớ lại viết: ‘Tam muội này dùng để trang hoàng Pháp Thân nên gọi là Hoa Nghiêm’.

Các thuyết như trên đều tỏ rõ ý nghĩa của Hoa Nghiêm tam muội.

Thuyết ‘pháp giới duy tâm gọi là Phật Hoa Nghiêm’ của sách Hợp Tán ngụ ý: nhất chơn pháp giới chỉ là tự tâm. Thấu đạt được điều này thì đó chính là Hoa Nghiêm tam muội. Còn thuyết ‘tam muội này dùng để trang hoàng Pháp Thân’ của Gia Tường Sớ ngụ ý: tam muội đều dùng để trang nghiêm Pháp Thân, Pháp Thân chính là tâm diệu minh vốn có, cũng chính là tự tâm. Vì vậy, hết thảy các pháp không pháp nào chẳng tự pháp giới lưu xuất, lại cũng quy về pháp giới ấy.

‘Tổng trì’ là đà ra ni. ‘Ðầy đủ’ là trọn vẹn, ý nói: hết thảy đà ra ni, không môn nào chẳng đầy đủ. Ðà ra ni có bốn loại:

 

  1. Pháp đà ra ni: Còn gọi là văn đà ra ni, tức là với giáo pháp của Phật, nghe, giữ chẳng quên.

 

  1. Nghĩa đà ra ni: với nghĩa của các pháp, tổng trì chẳng quên.

 

  1. Chú đà ra ni: với các chú tổng trì chẳng quên. Chú là câu nói bí mật, có oai lực thần dị không lường nổi do Phật, Bồ Tát từ trong thiền định phát ra, nên gọi là chú đà ra ni. Dịch theo ý nghĩa thành ra bốn tên: minh, chú, mật ngữ, chơn ngôn.

Sách Bí Mật Ký viết: ‘Phàm phu, nhị thừa chẳng biết được nổi nên gọi là Mật Ngữ. Chơn ngôn của Như Lai thật chẳng hư vọng, nên gọi là Chơn Ngôn’.

 

  1. Nhẫn đà ra ni: an trụ trong thật tướng của pháp gọi là Nhẫn. Giữ cái Nhẫn đó là nhẫn đà ra ni.

 

Sách Hội Sớ giảng câu ‘Trăm ngàn tam muội’ rằng:

‘Trăm ngàn tam muội là chúng sanh vô lượng, tâm hạnh bất đồng: có lợi căn, có độn căn. Với các kiết sử, có kẻ sâu dày, có kẻ mỏng nhẹ. Vì vậy, Bồ Tát thực hành trăm ngàn các tam muội để đoạn trừ trần lao cho họ.

Giống như muốn làm cho những kẻ nghèo được giàu có lớn thì phải chuẩn bị đủ các tài vật. Ðủ hết thảy vật dụng rồi, sau đấymới có thể cứu giúp những kẻ nghèo. Lại như muốn trị các bịnh, phải chuẩn bị đủ các thứ thuốc, sau đó mới trị nổi’.

Lại như Trí Ðộ Luận nói: ‘Từ Thủ Lăng Nghiêm tam muội cho đến hư không tế vô sở trước giải thoát tam muội, lại như Kiến Nhất Thiết Phật tam muội cho đến Nhất Thiết Như Lai Giải Thoát Tu Quán Sư Tử Tần Thân v.v… vô lượng a tăng kỳ tam muội của Bồ Tát.

Với các tam muội như thế ấy, không môn nào chẳng đầy đủ nên nói là: đầy đủ thành tựu trăm ngàn tam muội’.

Trong luận còn viết: ‘Trong mỗi một tam muội đắc vô lượng đà ra ni’. Ðà ra ni chính là tổng trì. Vì vậy, kinh dạy: ‘Ðầy đủ tổng trì trăm ngàn tam muội’.

‘Trụ thiền định sâu, đều thấy vô lượng chư Phật’: Trụ thiền định sâu là an trụ thiền định thâm diệu. Sách Hội Sớ giảng: ‘Thiền định sâu là trụ trong tam muội vi diệu, sâu xa, u huyền, chẳng phải là pháp Nhị Thừa và sơ tâm Bồ Tát thực hành nổi’.

Sách Bình Giải lại viết: ‘Bản Ðường dịch ghi là ‘‘nhất thiết chủng thậm thâm thiền định’’. Nhất thiết chủng là Nhất Thiết Chủng Trí. Do hết thảy sự là lý nên bảo là thậm thâm’. Vì vậy, thâm định thật ra là lý định, chẳng phải chỉ là sự định.

Tịnh Ảnh Sớ lại viết: ‘Trụ thâm định môn làm chỗ y cứ để khởi hạnh. Tâm không có đến đi, dùng ngay sức của pháp môn tam muội để khởi hạnh nên phải trụ định. Tiếp đó, nói đến khởi hạnh: ‘‘Ðều thấy hiện tại vô lượng chư Phật’’ nghĩa là nhiếp hạnh rất rộng’.

Ý của ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Ðều thấy chư Phật’ là hạnh môn. Khởi hạnh môn này nương thiền định sâu, chẳng đợi phải khởi tâm động niệm, trực tiếp từ sức của pháp môn tam muội mà khởi hạnh. Vì vậy, cần phải trụ thiền định thậm thâm.

Xét trong kinh này, việc hành giả được thấy Phật trong khi nhập định chính là đại nguyện thứ bốn mươi lăm của Phật Di Ðà: ‘Trong định cúng Phật’. Nguyện văn như sau:

‘Các chúng Bồ Tát trong các cõi Phật mười phương nghe danh tự của ta rồi đều đạt được Phổ Ðẳng tam muội thanh tịnh, giải thoát, các tổng trì sâu, trụ tam ma địa. Cho đến khi thành Phật, trong định thường cúng vô lượng vô biên hết thảy chư Phật, chẳng mất định ý’.

Sách Bình Giải giảng: ‘Phổ Ðẳng tam muội là thâm định môn. Tam muội này do trí nguyện của Phật Di Ðà tạo thành, rất sâu không bờ đáy, nên gọi là thâm thiền định. ‘‘Ðều thấy tất cả’’ là nói đến nghiệp dụng của nó’.

Dựa theo lời nguyện trên có thể thấy rằng các Bồ Tát trong hội đều cậy vào sức trí nguyện của Phật Di Ðà, do nghe được danh hiệu Di Ðà nên đều đắc Phổ Ðẳng tam muội v.v… được nguyện lực gia trì: trong định cúng dường vô lượng chư Phật. Do đến cúng Phật nhất định thấy Phật nên nói là ‘đều thấy vô lượng chư Phật’.

Kinh Bát Châu lại nói: ‘Bồ Tát này chẳng dùng thiên nhãn thấy tỏ, chẳng dùng thiên nhĩ nghe suốt, chẳng dùng thần túc đến cõi Phật kia, chẳng từ nơi đây chết sanh về cõi kia, mà ngay nơi chỗ này được thấy rõ.

Phật dạy: “Bồ Tát nơi cõi nước thế gian này niệm A Di Ðà Phật. Do chuyên niệm nên được thấy”.

Liền hỏi: “Trì pháp gì được sanh cõi ấy?”

A Di Ðà Phật bảo rằng: “Muốn sanh về đó thì thường niệm danh ta”.

Do vậy, Niệm Phật tam muội được gọi là Bảo Vương tam muội. Vì thế, cái Thiền Ðịnh thậm thâm thấy được chư Phật ấy đều hoàn toàn quy trọn về Niệm Phật tam muội. Vì lẽ đó, công đức trì danh niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn, Nhất Thừa nguyện hải chẳng thể nghĩ bàn.

‘Trong khoảng một niệm, qua khắp hết thảy cõi Phật’: Một niệm chỉ cho khoảng thời gian thật ngắn ngủi, nhưng lâu chừng bao nhiêu thì các thuyết chẳng đồng nhất. Như quyển thượng kinh Nhân Vương Bát Nhã bảo: ‘Chín mươi sát na là một niệm. Một sát na trong một niệm trải qua chín trăm lần sanh diệt’. Vãng Sanh Luận Chú quyển thượng lại chép: ‘Trăm lẻ một lần sanh diệt là một sát na. Sáu mươi sát na là một niệm’.

Cả hai thuyết cùng cho rằng trong một niệm có nhiều sát na, nhưng Trí Ðộ Luận cho rằng ‘trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi niệm’. Quyển 18 sách Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký ghi: ‘Sát na, Tàu dịch là niệm, trong khoảng khảy ngón tay có sáu mươi sát na’. Hai thuyết này cùng cho rằng một niệm chính là một sát na.

Thuyết này giản dị dễ nhớ nên đời sau hay dùng thuyết này: một niệm là một sát na.

Còn như trong một sát na hay một niệm mà có thể qua khắp các cõi Phật thì chính là nguyện thứ mười một của Phật Di Ðà: ‘Trong khoảng một niệm, chẳng thể vượt qua ức na do tha trăm ngàn cõi Phật, đi giáp khắp tất cả các chốn cúng dường chư Phật thì chẳng lấy Chánh Giác’.

Ðoạn kinh ở phần trước đã nói: các vị Ðại Sĩ này ‘tùy thời ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội’.

Xét về quả, tam muội ấy còn được gọi là Hải Ấn tam muội.

Gọi là Ấn là vì dùng ấn chương của thế gian làm thí dụ. Văn tự khắc trên ấn có thể ngay lập tức cùng lúc hiện ra, chẳng có sai biệt trước sau; toàn thể cùng phơi bày, chẳng có điểm nào ẩn giấu.

Gọi là Hải vì giống như biển cả: đồng thời hiện bóng hết thảy các tướng sai biệt. Hình tượng sai khác dẫu muôn ngàn, thể của nước nào khác. Muôn tướng khởi lên đầy dẫy nhưng nước vẫn trong lặng. Có vạn tướng thì nước vẫn thế. Không có tướng thì nước vẫn thế. Không có thời gian trước sau, nên kéo dài hay rút gọn đều cùng một lúc. Ba đời xưa nay chẳng ngoài cái niệm hiện tiền, cùng hiện trong nước nên rộng, hẹp tự tại, mười phương thế giới chẳng ngoài ngay chốn này.

Kinh Hoa Nghiêm dạy: ‘Hết thảy tự tại khó nghĩ bàn là do thế lực của Hoa Nghiêm tam muội’.

Lại nữa, sách Bình Giải viết: ‘Trong khoảng một niệm đi khắp trọn vô lượng cõi Phật là đã đạt đến thế giới Vô Lượng Thọ Nhất Thừa thanh tịnh, quy kết về Niệm Phật tam muội’.

 Thuyết này rất sâu sắc! Do bởi niệm Phật được sanh Cực Lạc, liền có thể nương vào sức gia bị phát xuất từ nguyện thứ mười một trong Nhất Thừa nguyện hải của Di Ðà Như Lai mà xuất hiện thần thông diệu dụng chẳng thể nghĩ bàn như vậy, trong khoảng một niệm qua khắp các cõi Phật. Ðó chẳng phải là điều Nhị Thừa thấu hiểu được nổi.

 

Chánh kinh:

 

Ðắc Phật biện tài, trụ Phổ Hiền hạnh, khéo có thể phân biệt ngữ ngôn của chúng sanh, khai hóa, hiển thị Chơn Thật Tế, vượt xa các pháp sở hữu của thế gian, tâm thường trụ chắc chắn nơi đạo độ thế.

Với hết thảy vạn vật tùy nghi tự tại, vì các thứ loại làm bạn chẳng thỉnh, thọ trì pháp tạng thậm thâm của Như Lai, hộ trì Phật chủng tánh khiến thường chẳng đoạn tuyệt. Hưng đại bi, mẫn hữu tình, diễn từ biện, trao pháp nhãn, lấp nẻo ác, mở cửa lành.

Với các chúng sanh, xem như chính mình, cứu vớt, gánh vác khiến đều vượt lên bờ kia, đều gìn giữ vô lượng công đức của chư Phật, trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn.

Các đại Bồ Tát như vậy vô lượng vô biên, cùng lúc nhóm đến.

 

Giải: ‘Ðắc Phật biện tài’: Biện tài là tài năng tuyên nói pháp nghĩa một cách khéo léo. Ðây chính là điều được đề cập trong Tịnh Ảnh Sớ: ‘Ngôn thì biện luận rành rẽ, ngữ thì khéo léo’.

Trong cuốn Pháp Hoa Sớ, ngài Gia Tường giảng chữ biện tài như sau: ‘Ðáp ứng nhanh chóng từng căn cơ là Biện, lời lẽ bóng bảy là Tài’.

Như vậy, có thể nhanh chóng thích ứng với từng căn cơ mới được gọi là “biện tài”.

Sách Hội Sớ giảng: ‘Ngôn âm dứt hoặc là Biện, tùy cơ hay khéo là Tài, không điều gì chẳng phát xuất từ thánh trí’. Trong ba thuyết vừa nói, thuyết này hay nhất.

Tịnh Ảnh Sớ lại bảo Như Lai đắc bốn trí vô ngại, Như Lai dùng trí vô ngại hưng khởi bốn thứ biện tài:

  1. Nghĩa vô ngại biện: biết rõ nghĩa lý của hết thảy các pháp vì thông đạt chẳng úng trệ.
  2. Pháp vô ngại biện: thấu đạt danh tự của hết thảy các pháp vì phân biệt chẳng úng trệ.
  3. Từ vô ngại biện: Với danh từ, nghĩa lý của các pháp, thuận theo ngôn ngữ khác biệt của hết thảy chúng sanh ở các nơi khác nhau mà vì họ diễn nói khiến ai nấy đều được hiểu.
  4. Nhạo thuyết vô ngại biện: tùy theo căn tánh và pháp muốn được nghe của hết thảy chúng sanh mà vì họ diễn thuyết viên dung chẳng trệ.

Thuyết trên cho rằng các bậc Ðại Sĩ khế hợp thánh trí, đắc vô ngại biện tài, khéo thích ứng căn cơ, giảng giải rộng rãi, bàn luận khéo léo nên bảo: ‘đắc Phật biện tài’.

Sách Bình Giải lại còn giải thích rộng thêm như sau:

‘Nếu y vào căn bổn giáo, chỉ nói một chữ cũng là đắc Phật biện tài vì truyền lời chơn thật của Như Lai vậy. Chẳng phải chỉ những Bồ Tát này được thế mà lời của phàm phu nói cũng đồng như biện tài của chư Phật. Tán dương công đức Phật huệ chỉ để khai hóa kẻ hữu duyên trong mười phương mà thôi’.

‘Trụ Phổ Hiền hạnh’: ở phần trước, kinh nói các Ðại Sĩ ‘đều cùng tuân tu đức của Phổ Hiền Ðại Sĩ’. Ở đây, kinh chép ‘trụ Phổ Hiền Hạnh’  ý nói các Ðại Sĩ đều an trụ đại hạnh của Phổ Hiền Ðại Sĩ. Mỗi vị đều dùng mười đại nguyện vương dẫn dắt quy về Cực Lạc. Trong kinh Hoa Nghiêm chỉ có một mình ngài Phổ Hiền xướng xuất, dắt dìu như vậy, còn trong kinh này có vô lượng vô biên Pháp Thân Ðại Sĩ có đức hạnh như Phổ Hiền đều đến nhóm hội, cùng hoằng truyền Tịnh tông.

‘Khéo hay phân biệt ngữ ngôn của chúng sanh’: Ðây là câu trích từ bản Ðường dịch, bản Ngụy dịch ghi ‘nhập các ngôn âm, khai hóa hết thảy’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Nhập có nghĩa là hiểu, hiểu biết các ngôn âm của chúng sanh, dùng đó để khởi thuyết’.

Hội Sớ dẫn lời kinh Mật Tích như sau: ‘Tam thiên đại thiên thế giới này có tám mươi tư trăm ngàn cai loại chúng sanh, ngôn từ đều khác biệt.

Xét ra, hết thảy đều quy về việc ban cho chúng sanh một nghĩa chí chơn. Bồ Tát thuận theo các loại chúng sanh mà nói ra những lời khác nhau để thuyết pháp, khai hóa’.

Kinh Mật Tích cũng chép: ‘Bồ Tát này nhập được các thứ ngôn âm nên có thể thuyết pháp khai hóa’.

Kinh Xưng Tán Ðại Thừa Công Ðức lại chép: ‘Các loài bàng sanh, quỉ v.v… cũng được nghe đức Như Lai dùng ngôn âm của từng loại mà thuyết pháp’.

Do những điều trên, chúng sanh vô biên nên ngôn ngữ của chúng sanh cũng có nhiều thứ, nhưng Pháp Thân Ðại Sĩ đều hiểu rành rẽ, theo ngôn ngữ của từng loại mà thuyết pháp, ứng cơ tùy duyên làm lợi cho khắp tất cả. Chúng sanh trong đường ác cũng được Như Lai dùng ngôn âm đúng với chủng loại của mình mà giảng khiến họ được nghe pháp đắc độ. Ðoạn kinh này chỉ rõ: các Ðại Sĩ trong hội đều có trí huệ biện tài và công đức oai lực như thế.

‘Khai hóa hiển thị Chơn Thật Tế’: Khai hóa chính là ý ‘khai Phật tri kiến’ của kinh Pháp Hoa. ‘Hiển thị’ là ‘thị Phật tri kiến’. ‘Tế’ là bờ mé rốt ráo. ‘Chơn Thật Tế’ chính là tri kiến của Phật.

Toàn thể một bộ diệu pháp Tịnh Ðộ đều là Phật tri kiến, chỗ nào cũng là cảnh giới Hoa Nghiêm. Vì vậy, trong kinh này, câu nào cũng là khai hóa, hiển thị Chơn Thật Tế, đều là ‘khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật’.

Trí Ðộ Luận viết: ‘Như, Pháp Tánh, Thật Tế cả ba đều là tên gọi khác nhau của Thật Tướng các pháp’. Sách Bình Giải viết: ‘Diệu xứ Thật Tướng tận lý chí cực gọi là Tế’. Chuẩn theo hai thuyết trên, ‘Chơn Thật’ chính là tên khác của Thật Tướng.

Chơn Thật Tế là diệu lý Thật Tướng cứu cánh chí cực mà cũng chính là tri kiến Phật vậy. Sách Hội Sớ nói: ‘Khai hiển chơn thật là hiển thị, nghĩa là đem mười pháp giới quy về Nhất Thừa quyết định thành Bồ Ðề. Chơn thật tế là dùng nhất Phật thừa để làm pháp tối hậu vậy’.

Sách Bình Giải lại viết:

‘Nếu y theo Tiểu Thừa thì thiên chơn là thật tế. Nếu xét theo Tiệm giáo thì ly nhị biên là thật tế. Nếu xét theo Thánh Ðạo Thật Giáo thì thật tướng của các pháp là chơn thật tế.

Nếu xét theo Tịnh Ðộ, quang xiển đạo giáo là quyền phương tiện, thệ nguyện nhất Phật thừa là chơn thật tế, là biển nhất thật chơn như vậy. Thánh đạo thủ lý nhưng không duy lý, Tịnh Ðộ dùng sự nhưng chẳng chỉ biết có sự (đây chính là sự tức lý, sự sự vô ngại).

Nếu theo cách hiểu của chúng sanh thì có sự, lý, không, hữu sai khác, nhưng nếu đứng trên quan điểm chư Phật ngợi khen tấm tắc thì chỉ có thệ nguyện nhất Phật thừa, biển nhất thật chơn như này là chơn thật tế’.

Rõ ràng sách Hội Sớ và Bình Giải cùng xem Nhất Phật thừa của Tịnh Tông là chơn thật tế và cũng là tri kiến của Phật vậy. Nay các Ðại Sĩ vì các chúng sanh tuyên diễn thệ nguyện nhất Phật thừa được chư Phật mười phương cùng khen ngợi, nên nói:‘Khai hóa hiển thị chơn thật tế’.

Vì vậy, Chơn Thật Tế chính là tự tâm. Minh bổn tâm của mình, thấy được bổn tánh của chính mình thì là ‘khai hóa, hiển thị Chơn Thật Tế’, nhưng trong pháp môn Niệm Phật cũng lại bất nhị: tâm này là Phật, tâm này làm Phật. Vì vậy, tâm mình niệm Phật chính là chơn thật tế nên nói rằng: ‘Một tiếng Phật hiệu, một tiếng tâm’. Kinh cũng dạy: ‘Nếu ai chỉ niệm A Di Ðà thì gọi là vô thượng thâm diệu thiền’.

Ngoài ra, phẩm ba kinh này nói Như Lai ‘muốn cứu vớt quần manh ban cho cái lợi chơn thật’. Trong phẩm thứ tám, Pháp Tạng tỳ kheo ‘trụ chơn thật huệ, dũng mãnh tinh tấn, một dạ chuyên chí trang nghiêm diệu độ’.

Ba thứ chơn thật sau đây: chơn thật tế, chơn thật lợi, chơn thật huệ chính là cương lãnh của kinh này; trong phẩm kế tiếp sẽ giảng tường tận.

‘Vượt xa các pháp vốn có của thế gian’: Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Nghĩa là vượt khỏi hết thảy các pháp phần đoạn, biến dịch của thế gian’.

Sách Hợp Tán giảng: ‘Vượt khỏi hai thứ chết: phần đoạn và biến dịch, an trụ trí nhị không xuất thế. Ðó chính là thành tựu trí đoạn nhị đức’.

Sách Hội Sớ giảng: ‘Tam giới hư dối đều chẳng thường trụ, gọi chung là thế gian. Chúng sanh, cõi nước muôn vàn sai khác thì gọi là các pháp sở hữu. Bồ Tát do đại trí huệ thấu đạt tánh không vô tướng một cách sâu xa nên bảo là vượt khỏi’.

Thuyết của sách Bình Giải hơi khác với hai thuyết trước: ‘Các pháp sở hữu của thế gian là hữu vi, bị phá hoại thì gọi là thế gian. Y, chánh, thiện, ác, nhân, quả v.v… hết thảy các pháp hữu vi gọi là pháp sở hữu. Bồ Tát biết được hết thảy tam giới là hư vọng, nhưng chẳng bỏ hạnh thế gian nên gọi là vượt xa’.

Các thuyết nói trên đều đúng, nhưng thuyết của sách Bình Giải phù hợp với kinh này nhất.

‘Tâm thường trụ chắc chắn nơi đạo độ thế’: Ðộ là ra khỏi. Câu này ý nói: tâm thường an trụ trong đạo vô vi xuất thế.

Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Chắc là yên ổn, vững vàng, ý nói: thường an trụ đạo độ thế vô vi chơn thật’.

Sách Bình Giải nói: ‘Xuất hữu vi, chứng vô vi, nhưng không chấp vào vô vi nên bảo là trụ chắc. Bồ Tát này tâm thường trụ nơi vô trụ xứ Niết Bàn nên bảo là tâm thường trụ’.

Lại nữa, sách Hội Sớ viết: ‘Bi, trí in vào nhau để làm chỗ nương náu thần trí nên gọi là trụ chắc’.

‘Với hết thảy vạn vật tùy ý tự tại’: Chữ ‘vạn vật’ chỉ vạn pháp. ‘Tự tại’ là thông đạt vô ngại. Phẩm Tự kinh Pháp Hoa nói: ‘Tận các hữu kết, tâm được tự tại’. Tự tại còn là việc làm không bị úng tắc, thần thông tự tại. Hễ tâm vướng mắc thì bị vật chuyển, thành ra bị phiền não trói buộc. Phàm phu chấp có, Nhị Thừa trệ không đều là đọa trong tình chấp, đều là tâm bị vật chuyển, cho nên với vạn vật chẳng được tự tại. Ðại sĩ thâm đạt pháp tánh, ngay nơi tướng lìa được tướng, chẳng bị vật chuyển nên không bị trói buộc. Nhà Thiền nói: ‘Chỉ cần vô tâm với vạn vật, nào ngại vạn vật thường vây quanh’.

Tiến lên bước nữa thì vật bị tâm chuyển nên có thể tùy ý tự tại như Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Do thành tựu thần thông thù thắng, với hết thảy vật có thể biến hóa tùy ý nên có thể lợi vật, ấy là tự tại’. Ðại sĩ thần thông tự tại, với hết thảy vạn vật tâm chẳng bị câu thúc, tùy duyên biến hóa nhiêu ích chúng sanh: bỏ núi Tu Di vào trong hạt cải, chuyển bốn biển vào trong một đầu lông, tùy ý lợi người nên bảo là ‘tự tại’.

‘Vì các thứ loại làm bạn chẳng thỉnh’: Thứ là loại, phẩm loại. ‘Thứ’ còn có nghĩa là chúng. ‘Thứ loại’ chỉ chúng sanh. Hội Sớ giảng chữ ‘bạn chẳng thỉnh’ (bất thỉnh hữu) như sau:

‘Chúng sanh quay lưng với giác ngộ, trầm mê trôi nổi, sanh manh không có mắt, không có lòng mong được thoát. Bồ Tát thương xót họ, không có ý nghĩ mỏi nhàm, thường làm bạn chẳng thỉnh, tùy duyên yêu thương, che chở.

Vì vậy kinh Niết Bàn có bài kệ rằng:Thế gian muốn được cứu phải cầu xin rồi sau mới được. Như Lai chẳng được thỉnh mà thường làm chỗ về nương”.

Kinh Duy Ma lại giảng chữ ‘bạn chẳng thỉnh’ thế này: ‘Mọi người chẳng thỉnh mà làm bạn để giúp cho an ổn’. Ngài Tăng Triệu nói: ‘Bạn thật chẳng đợi thỉnh như từ mẫu luôn hướng đến con trẻ’.

Ngài Tịnh Ảnh nói: ‘Do chúng sanh cần được hóa độ không có căn cơ cảm được chư thánh cho nên gọi là ‘chẳng thỉnh’. Bồ Tát cưỡng hóa nhân duyên, xưng là bạn để an ổn chúng sanh. Chúng sanh được hóa độ tuy có đạo cơ, nhưng không ưa thích, chẳng biết cầu thánh nên gọi là ‘chẳng thỉnh’. Bồ Tát tùy cơ cưỡng hóa, gọi là ‘an’.

‘Thọ trì pháp tạng rất sâu của Như Lai’: Câu này có hai cách giải thích:

  1. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘‘Tu cho  hiểu được rành rẽ rằng Như Lai tạng tánh là ‘pháp tạng rất sâu của Như Lai’. Ám chướng đã trừ, tâm mình hiện rõ nên gọi là thọ trì’. Thuyết này cho rằng minh tâm là ‘thọ trì pháp tạng rất sâu’.
  2. Sách Bình Giải nói: ‘Nghe, trì pháp tạng của hết thảy Như Lai trong ba đời, đa văn quy về nhất văn, nhất văn chính là nghe một danh hiệu này’. Thuyết này cho rằng nghe Phật danh hiệu chính là ‘thọ trì pháp tạng rất sâu’. Thuyết này rất phù hợp với Tịnh tông.

          ‘Hộ Phật chủng tánh khiến thường chẳng tuyệt’: Hộ là giữ gìn, duy trì. Giải thích chữ ‘Phật chủng tánh’ có nhiều thuyết: Sách Thám Huyền Ký, quyển 11 viết: ‘Sở hạnh của Bồ Tát gọi là Phật chủng’. Tịnh Ảnh Sớ lại bảo: ‘Pháp giới các độ là Phật chủng tánh’.

Thật ra, hai thuyết này giống nhau, đều lấy lục độ, vạn hạnh của Bồ Tát tu hành làm Phật chủng tánh. Chữ ‘độ’ ở đây là vượt thoát dòng sanh tử, lên bờ Niết Bàn. Vì vậy, ‘độ’ là Phật chủng tánh.

Sách Hội Sớ dựa vào các kinh, luận cho rằng Phật chủng tánh có đến bốn nghĩa, ở đây chỉ nêu lên ba nghĩa:

  1. Phật tánh chúng sanh cùng có: Trong tâm chúng sanh sẵn có Như Lai tánh, bổn lai bất biến, sanh ra các công đức còn nhiều hơn cát sông Hằng, nhưng bị vô minh che lấp, nên dẫu có mà cũng như không. Vì họ, Bồ Tát khởi sự giáo hóa, khai phát Như Lai tạng họ sẵn có. Ðó gọi là thiệu long Phật chủng.
  2. Lấy Bồ Ðề tâm làm Phật chủng: Kinh Hoa Thủ dạy: ‘Ví như không có bò, chẳng có đề hồ. Nếu không có Bồ Tát phát tâm, không có Phật chủng. Nếu có bò thì có đề hồ. Cũng vậy, nếu có Bồ Tát phát tâm thì Phật chủng chẳng đoạn’.
  3. Lấy xưng danh làm Phật chủng: Kinh Bảo Tích dạy: ‘Ví như trồng cây, có hạt giống không bị mục nát của cây ấy, đầy đủ nhân duyên mọc mầm. Này thiện nam tử! Nghe danh hiệu Phật là được hạt giống, đầy đủ nhân duyên lại được thọ ký’. Ðoạn kinh trên ý nói: các thứ hạt giống nếu chẳng mục nát ắt có khả năng sanh rễ, nảy mầm, lớn thành cây to. Nghe danh hiệu Phật như được hạt giống, tín nguyện trì danh chính là đầy đủ nhân duyên, ắt được thọ ký thành Phật nên bảo rằng trì danh là Phật chủng.

          Theo Hội Sớ, Bồ Ðề tâm và xưng danh hiệu Phật là Phật chủng tánh; đủ chứng minh rằng kinh này lấy ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’ làm tông, đúng là ‘hộ Phật chủng tánh khiến thường trụ chẳng tuyệt’.

Gia Tường Sớ giảng chữ ‘thường trụ chẳng tuyệt’ là: ‘Muốn làm cho pháp chủng của Như Lai chẳng dứt vậy’.

Tịnh Ảnh Sớ nói: ‘Giữ gìn cho ly chướng, khởi thiện không gián đoạn thì gọi là thường chẳng tuyệt’.

Sách Bình Giải lại viết: ‘‘Ðại Luận chép: ‘Nơi không Phật, khen ngợi danh từ Tam Bảo (tam bảo âm)’’. “Tam Bảo âm” là thọ trì, tuyên nói Phật pháp tạng. Chúng sanh do đấy gieo căn lành, phát sanh trí, thành đức khế lý, nên hạt giống Tam Bảo được liên tục lưu truyền, thường chẳng bị dứt mất’.

Cả ba thuyết trên đều hợp lý cả.

          Cả mười câu từ ‘Hưng đại bi’ cho đến câu ‘cứu vớt, gánh vác cho họ đều vượt lên bờ kia’ đều nói về đức hạnh đồng thể đại bi, vô duyên đại từ của Ðại Sĩ.

‘Hưng đại bi, mẫn hữu tình’: Mẫn là thương xót nghĩ đến. Bồ Tát thương xót chúng sanh làm cho tất cả được thoát khổ, chẳng phải như lòng bi do ái kiến của Nhị Thừa, phàm phu nên gọi là “đại bi”.

Sách Hội Sớ lại viết: ‘Dẹp khổ là bi, cho đến bi là chơn thật bình đẳng bi, nên gọi là đại bi’.

Lại như kinh Niết Bàn, quyển 11 dạy: ‘Tam thế chư Thế Tôn lấy đại bi làm căn bổn’.

Quyển 1 kinh Ðại Nhật của Mật bộ ghi: ‘Bồ Ðề tâm là nhân, đại bi là căn bổn’. Vì vậy, các Ðại Sĩ đều cùng phát tâm đồng thể đại bi.

‘Diễn từ biện’: do từ tâm mà thốt lên. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Nương lòng từ mà nói ra thì gọi là diễn từ biện’.

Trao pháp nhãn’: Pháp nhãn là một trong ngũ nhãn của Như Lai. Ngũ nhãn là: nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Pháp nhãn là trí huệ soi thấu hết thảy pháp môn để độ sanh của Bồ Tát. Hội Sớ giảng: ‘Phật đạo chánh kiến gọi là pháp nhãn’. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Trí soi chiếu pháp nên gọi là pháp nhãn’.

Do đó, pháp nhãn là liễu đạt các thứ căn khí của chúng sanh, khéo biết hết thảy pháp cứu độ, ứng theo căn cơ mà ban pháp để độ thoát họ. Trí huệ như vậy gọi là pháp nhãn. Ngài Tịnh Ảnh lại viết: ‘Truyền dạy pháp khiến hiểu biết thì gọi là trao pháp nhãn’. Dạy dỗ chúng sanh khiến họ với Phật pháp sanh hiểu biết đúng đắn thì cũng giống như đem pháp nhãn trao cho chúng sanh vậy.

‘Lấp’ là làm nghẽn. ‘Nẻo ác’ là ba đường ác: súc sanh, quỉ, địa ngục. Ðường ác rất khổ, muốn cho họ được thoát khỏi nên dạy người lìa ác thì chính là đóng lấp con đường dẫn đến nẻo ác. Trong kinh này, đức Di Ðà có đại nguyện: ‘Sanh về cõi ta, chẳng bị đọa trong đường ác nữa’ thật đúng là ý ‘lấp nẻo ác’.

Sách Hội Sớ lại giảng chữ ‘mở cửa lành’ như sau: ‘Là đại bi đức. Cửa lành là cửa Bồ Ðề Niết Bàn’. Phẩm Thọ Lượng Vô Cực của kinh này chép: ‘Ắt được siêu tuyệt, vãng sanh cõi Phật vô lượng thanh tịnh của A Di Ðà Phật’ thật chính là mở cửa lành một cách chân thật vậy.

‘Với các chúng sanh, xem như chính mình’ nghĩa là: đồng thể đại bi. Cái được người đời yêu mến nhất không gì bằng thân mình. Vì xem chúng sanh như thân mình nên có thể cứu độ quần sanh, tâm chẳng tạm bỏ. Kinh Niết Bàn có bài kệ rằng: ‘Hết thảy chúng sanh thọ các khổ khác nhau cũng như chính bản thân Như Lai chịu khổ’. Vì vậy, phổ nguyện ‘cứu vớt, gánh vác cho đều vượt lên bờ kia’.

Chửng (tạm dịch là cứu) là cứu trợ, tế (tạm dịch là vớt) là độ, làm cho hoàn thành, làm lợi ích. Do đó, “chửng tế” có nghĩa là cứu độ. Trong kinh Ðại Pháp Cự Ðà Ra Ni, Phật dạy:

‘Trách nhiệm của Bồ Tát là thệ nguyện gánh vác hết thảy chúng sanh xuất ly thế gian… Ví như trưởng giả trong nhà giàu có dư dật, nhiều của cải, chỉ có một con. Vì thương yêu con nên của cải, vật yêu thích đều trao hết cho con, chẳng hề chán nhọc.

Bồ Tát cũng lại giống như vậy: hết thảy vật yêu thích đều trao hết cả cho, cho đến khiến chúng sanh nhập vô dư Niết Bàn. Vì vậy, gọi là “gánh vác gánh nặng”.

Ðoạn kinh vừa dẫn trên đã hiển thị sâu sắc ý nghĩa ‘cứu vớt, gánh vác’.

‘Vượt lên’ là đến nơi. ‘Bờ kia’ (bỉ ngạn) là Niết Bàn. Ðại Luận, quyển mười hai viết: ‘Nếu có thể thẳng tiến chẳng lui, hoàn thành Phật đạo thì gọi là “đến bờ kia”, ý nói: Ðại Sĩ phổ độ làm cho hết thảy chúng sanh chứng nhập Vô Dư Niết Bàn rồi mình mới chứng Niết Bàn.

‘Ðều hộ trì vô lượng công đức của chư Phật, trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn’: Hai câu trên đây nói rõ các Ðại Sĩ đầy đủ phước trí nhị nghiêm, là bậc Bồ Tát có địa vị ngang với quả vị, nhưng từ quả hướng nhân, đều đã đắc phước đức trang nghiêm của Như Lai.

‘Trí huệ thánh minh chẳng thể nghĩ bàn’ là trí huệ trang nghiêm của Như Lai mà các Ðại Sĩ đều đã chứng đắc (Tịnh Ảnh Sớ và sách Bình Giải, Hợp Tán cùng chấp nhận thuyết này).

‘Thánh’ là chánh. Ngài Tăng Triệu nói: ‘Trí huệ là thể. Thánh minh là dụng. Không sự gì chẳng chiếu là Thánh. Bồ Tát quyền thật linh chiếu, chẳng thể dùng ngôn ngữ, suy nghĩ, bàn luận để hình dung nổi nên bảo là ‘chẳng thể nghĩ bàn’.

Ý của Triệu công là:

Trí huệ là bổn thể, thánh minh là diệu dụng, đều chiếu rõ, thông đạt được hết thảy sự nên gọi là Thánh. Thật trí và Quyền trí của Bồ Tát phát sanh diệu dụng sáng tỏ vằng vặc để chiếu soi, chúng sanh phàm tình  trọn chẳng thể hiểu nổi nên bảo là ‘chẳng nghĩ nổi’. Vì hết thảy ngôn ngữ chẳng diễn đạt nổi nên nói: chẳng thể bàn nổi. Do ngôn ngữ, phân biệt chẳng thể diễn đạt được nên không cách chi mô tả, bàn luận, hình dung nổi trí huệ ấy.

Hơn nữa, ‘chẳng thể nghĩ bàn’ có hai loại:

– Một là lý không: do hoặc tình chẳng thể thấu đạt nổi.

– Hai là thần kỳ: kẻ trí cạn chẳng suy lường được.   

Trí Ðộ Luận lại viết: ‘Trong pháp Tiểu Thừa chẳng hề có việc chẳng thể nghĩ bàn, chỉ trong pháp Ðại Thừa mới có, [ví dụ] như trong mười sáu kiếp nói kinh Pháp Hoa mà tưởng như trong khoảng bữa ăn’.

‘Các vị đại Bồ Tát như thế vô lượng vô biên, cùng lúc đến hội’ là câu tổng kết: các vị đại Bồ Tát đức tuân Phổ Hiền, do nghe giảng, khen ngợi diệu pháp Tịnh Ðộ, do hoằng truyền rộng rãi nguyện vương Phổ Hiền, vì phổ độ thập phương tam thế hết thảy hữu tình vãng sanh Tịnh Ðộ, cứu cánh Niết Bàn, đồng đức đồng tâm nên cùng lúc nhóm đến. Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Vì pháp tâm giống nhau nên cùng lúc nhóm đến’.

 

Chánh kinh:

 

Lại có tỳ kheo ni năm trăm người, thanh tín sĩ bảy ngàn người, thanh tín nữ năm trăm người, trời Dục giới, Sắc giới thiên, chư thiên Phạm chúng đều cùng tới trong đại hội.

 

Giải:

‘Thanh tín sĩ’ là ưu bà tắc. ‘Thanh tín nữ’ là ưu bà di. Ðoạn kinh trên chỉ thấy trong bản Hán dịch, bản Ngụy dịch chỉ chép chúng Bồ Tát, và tỳ kheo. Cuối bản Tống dịch chép: ‘Cùng trời, rồng, tám bộ hết thảy đại chúng, nghe lời Phật dạy đều hoan hỉ lớn’ , như vậy đều là phần nói rộng bản Ngụy dịch vậy.

(Hết phần thông tự)

 

 

1.2. Biệt Tự

 

Phẩm tiếp theo đây là Biệt Tự, cũng là Phát Khởi Tự. Trong phần này, Như Lai hiện tướng lành, phóng quang, A Nan hoan hỷ thưa hỏi, Thế Tôn chánh đáp điều nghi, diễn xuất một bộ pháp bảo quảng đại, viên mãn, giản dị, nhanh tắt, phương tiện rốt ráo, hy hữu bậc nhất, khó được gặp gỡ là kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác.

 

* Ðại Giáo duyên khởi

 

Chánh kinh:

 

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn oai quang rạng rỡ như khối vàng nung, lại cũng như gương sáng trong ngoài sáng tỏ, hiện quang minh lớn, biến hiện ra hơn trăm ngàn thứ. Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ: “Hôm nay Thế Tôn sắc thân, các căn vui sướng thanh tịnh, quang nhan vòi vọi, bảo sát trang nghiêm, từ xưa đến nay ta chưa từng thấy”, mừng rằng mình được chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu.

Ngài liền từ tòa đứng dậy, trật áo vai phải, quì dài, chắp tay, mà bạch Phật rằng:

– Thế Tôn ngày nay nhập đại tịch định, trụ pháp kỳ đặc, trụ hạnh đạo sư của chư Phật trụ, là đạo tối thắng. Quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật nghĩ đến nhau. Ngài nghĩ đến quá khứ vị lai chư Phật hay chăng? Ngài nghĩ đến chư Phật hiện tại ở phương khác hay chăng? Vì sao ngài lại oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu? Xin tuyên thuyết cho.

 

Giải:

Ðức Thích Tôn muốn diễn thuyết pháp môn Tịnh Ðộ vô thượng thù thắng nên hiện tướng lành, phóng quang để tạo đầu mối cho A Nan thưa hỏi để khiến cho kẻ được nghe liền sanh ý tưởng hy hữu, sanh ý tưởng khó gặp gỡ, y giáo phụng hành cầu sanh Tịnh Ðộ.

Xét ra, các kinh Viên Ðốn đều có nói tướng Bổn Sư Thích Tôn phóng quang, nay kinh này cũng như vậy. Bản Hán dịch ghi:

‘Khi ấy, Phật đang ngồi nghĩ đến chánh đạo, mặt ngài có ánh sáng năm màu biến hiện hơn trăm ngàn thứ. Ánh sáng thật sáng rực. Hiền giả A Nan liền từ tòa đứng dậy, chỉnh đốn y phục, dập đầu lễ chân Phật, bạch trước đức Phật rằng:

– Nay vẻ mặt của Phật rạng rỡ, cớ sao mỗi lúc lại biến đổi sáng rực đến thế? Nay vẻ mặt đức Phật rạng ngời tinh thuần có hơn trăm ngàn sắc, trên dưới sáng tỏ, đẹp đẽ đến thế. Con từ khi hầu Phật đến nay, chưa từng thấy thân thể Phật rực sáng, sáng vằng vặc bội phần đến thế ấy. Con chưa từng thấy đấng Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác quang minh oai thần giống như hômnay’.

Bản Ngô dịch cũng dịch giống vậy, chỉ có dùng chữ hơi khác. Các bản dịch khác có đề cập đến điểm này, nhưng không ghi tỉ mỉ.

Bản Ngụy dịch hai lượt nói: ‘Quang nhan vòi vọi’, lại còn ghi: ‘Oai thần rạng rỡ’. Bản Ðường dịch chép: ‘Oai quang rạng rỡ như khối vàng nung, lại như gương sáng tĩnh lặng tỏa chiếu sáng ngời’. Bản Tống dịch ghi: ‘Sắc mặt viên mãn, bảo sát trang nghiêm’.

So sánh năm bản dịch, bản Hán dịch mô tả tường tận nhất, các bản dịch khác chỉ nói giản lược. Câu ‘bảo sát trang nghiêm’trong bản Tống dịch có nghĩa là trong quang minh hiện ra cõi nước. Câu này có thể dùng để bổ túc chỗ thiếu sót của các bản dịch cũ. Do điểm này, đủ thấy việc hội tập các bản dịch là điều tất yếu.

Hơn nữa, đa số các nhà chú thích kinh thời xưa cho rằng khi đức Bổn Sư nói kinh này chưa từng phóng quang. Ðó là bởi họ chưa đọc kỹ tường tận các bản dịch cổ đời Ngô, Hán vậy.

Chữ ‘Thế Tôn’ chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Phật đủ các đức, được đời tôn trọng, nên hiệu là Thế Tôn’. Phật là đấng tôn quí nhất của thế gian nên xưng là Thế Tôn.

‘Oai’: có oai đáng nể thì nói là ‘oai’. Chữ Oai ở đây chỉ cho oai thần. Sách Thắng Man Bảo Quật chép: ‘Bề ngoài khiến muôn vật kính nể là Oai. Bên trong khó đo lường nổi thì gọi là Thần’.

‘Quang’ là quang minh: tự tỏa sáng là Quang, chiếu soi vạn vật là Minh, cũng có nghĩa là phóng quang chiếu rạng ngời. Quang minh có hai công dụng: một là phá tối, hai là biểu thị pháp. Ấy là vì quang minh của Phật chính là tướng trí huệ.

‘Hách’ là sáng. ‘Biến’ là đông nhiều. Vì vậy, câu ‘oai quang hách biến’ (tạm dịch là “oai quang rạng rỡ”) hàm ý quang minh do Phật phóng ra hùng mãnh có oai thế, sáng chói, số lượng rất nhiều. Tiếp theo đó, dùng ngay hình ảnh vàng được nung chảy để ví von. Sắc vàng vốn đã chói sáng, khi bị nung chảy còn chói lọi hơn nữa. Ví quang minh của Phật như vàng bị nung chảy ra đọng lại, cho nên nói ‘như khối vàng nung’.

‘Lại như gương sáng chiếu suốt trong ngoài’ (hựu như minh kính, ảnh sướng biểu lý): Ảnh là ánh sáng. Sướng là thông đạt.

Ngài Hải Ðông Cảnh Hưng giảng: ‘Ánh sáng của gương chiếu ra ngoài gọi là “ảnh biểu”, giống như thân Phật có quang minh tỏa ra ngoài. Hình ảnh bên ngoài được chiếu rõ bởi ánh sáng lại hiện rõ trong gương, cũng giống như quang minh đã phóng ra soi ngược lại khiến vẻ mặt rạng rỡ. Do vậy, bảo là “biểu lý”.

Ngài Tịnh Ảnh giảng: ‘Ánh sáng chiếu ra ngoài gọi là “ảnh biểu”. Ánh sáng chiếu ra ngoài rồi lại hiện rõ trong gương gọi là “ảnh lý”. Thân Phật giống như vậy: quang minh chiếu ra ngoài là biểu, chiếu rạng thân Phật là lý’.

Theo hai thuyết trên, thân Phật trong ngoài rạng ngời ví như tấm gương sáng sạch. Do gương phóng quang chiếu ra ngoài thì gọi là ‘ảnh biểu’. Quang minh phóng ra ấy lại chiếu vào trong gương thì gọi là ‘ảnh lý’.

Trong hai bản Hán dịch và Ngô dịch chép rằng Phật quang ‘hơn trăm ngàn sắc’ và ‘hơn trăm ngàn biến hiện’, ‘quang minh rất mực sáng rực’, ‘trên dưới sáng ngần’, ‘càng sáng vằng vặc bội phần’ đều chỉ nhằm nói rõ ý nghĩa ‘ảnh sướng biểu lý’.

Câu ‘sắc mặt viên mãn, bảo sát trang nghiêm’ trong bản Tống dịch chỉ rõ trong quang minh của Phật hiện bóng mười phương cõi báu như gương báu to tròn hiện bóng mười phương.

Sách Bình Giải giảng rằng: ‘Trong ánh quang minh vằng vặc, hiện bóng tướng trang nghiêm các cõi báu mười phương, giống như trong gương châu báu hiện ra tướng sum la vạn hữu!’ Thuyết trên đây thật đúng là đang nói về cảnh giới Hoa Nghiêm.

Câu‘hiện đại quang minh biến hiện hơn trăm ngàn thứ’ ý nói: Trong pháp hội, Phật phóng quang minh lớn, trong chớp mắt biến hiện muôn thứ, quang sắc chen lẫn, trang nghiêm thù thắng tự nhiên như trong phẩm Tự của kinh Pháp Hoa chép: ‘Từ tướng bạch hào giữa mày có ánh sáng lớn chiếu khắp’.

Do vậy, ‘hiện quang minh lớn’ chính là ‘đại quang phổ chiếu’. Vì vậy, câu ‘oai thần rạng ngời’ trong bản Ngụy dịch cũng tương đồng với câu này, cùng biểu thị quang minh oai thế chiếu rạng ngời của Phật rất rộng lớn, không gì sánh nổi.

Còn như câu ‘biến hiện hơn trăm ngàn thứ’ thì cũng như câu ‘tự nhiên quang sắc xen lẫn nhau, chuyển biến tối thắng’ trong phẩm Thọ Lạc Vô Cực của kinh này, cùng biểu thị Phật quang tự nhiên xen lẫn nhau, xoay chuyển, quang sắc biến hóa, càng biến hiện càng thù thắng chẳng cùng cực.

‘Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ’: Tôn giả A Nan là đương cơ của kinh này. Xét về Bổn (15), ngài là vị Pháp Thân Ðại Sĩ từ quả hướng nhân. Trong kinh Pháp Hoa, Phật bảo các Bồ Tát rằng:

Ta cùng bọn ông A Nan ở chỗ Không Vương Phật đồng thời phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, A Nan thường tu đa văn, ta thường siêng tinh tấn. Vì vậy, ta đã đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà A Nan hộ trì pháp của ta, cũng sẽ hộ trì pháp tạng của chư Phật trong tương lai, giáo hóa thành tựu các Bồ Tát’.

Xét về Tích, A Nan là người kết tập Kinh tạng, được truyền Phật tâm ấn (tổ thứ hai của Thiền tông), truyền thọ Mật thừa, là nhân vật cốt lõi trong việc truyền thừa Ðại giáo. Kinh Liên Hoa Sanh Ðại Sĩ Ứng Hóa Nhân Duyên nói: ‘Từ ngài A Nan, sơ tổ Mật giáo là Liên Hoa Sanh Ðại Sĩ nhận lãnh mật pháp do đấng Thích Tôn phó chúc truyền trao lại’. Sách Thai Tạng Giới Mạn Ðà Ra Ni Sao, quyển 3 nói: ‘A Nan mật hiệu là Tập Pháp Kim Cang’. Ðiều này chứng tỏ rằng về Bổn, A Nan chính là ‘kim cang tức Phật’ vậy.

Vì vậy, truyền trì Phật pháp là bổn nguyện của ngài A Nan, hiện đang thị hiện làm thị giả của Phật, tiếp nối huệ mạng của Phật, tiếp nối quá khứ dẫn đến tương lai. Vì vậy, trong kinh này, ngài là đương cơ, lại có thể tự khéo suy nghĩ phát ra lời hỏi hay khéo ấy.

‘Sắc thân các căn, vui vẻ thanh tịnh’: Chữ ‘các căn’ chỉ cho năm căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân của thân sắc tướng. Gia Tường Sớ giải thích chữ ‘thanh tịnh’ là ‘quang hiển’. Kinh Bảo Tích lại chép:

‘Thân Như Lai tự tánh trong trẻo, vì cớ sao? Vì Như Lai từ lâu đã xa lìa hết thảy phiền não và các cấu uế. Thân Như Lai vượt khỏi thế gian. Vì cớ sao? Chẳng bị pháp thế gian làm nhiễm ô… Thân Như Lai như hình ảnh vi diệu trong tấm gương sạch, như vầng trăng tròn sáng [hiện bóng] trong nước sạch’.

Tổng hợp những điều vừa dẫn trên, ta có thể giải thích kinh văn như sau: Lúc ấy, đức Thế Tôn nơi năm căn như mắt v.v… đều hiện vẻ vui sướng, trong tâm an lạc, diệu tướng trong trẻo như ảnh hiện trong gương, như trăng in nước, quang minh viên mãn, thanh tịnh như không có hình chất, hoan hỷ sung sướng, thanh tịnh trang nghiêm.

Lại nữa, vì sao Phật vui? Tịnh Ảnh Sớ chép: ‘Vui vì có hai lý do:

– Nghĩ đến hạnh đức đáng ưa đã thành tựu của A Di Ðà Phật cho nên vui.

– Nghĩ đến chúng sanh đã đến lúc được ích lợi cho nên vui’.

‘Quang nhan vòi vọi’: Quang là quang minh. Nhan là vẻ mặt. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Tiên Chú viết: ‘Vẻ mặt của Phật có ánh sáng nên gọi là quang nhan’.

‘Vòi vọi’ là ý nói vẻ mặt cao quý, vĩ đại, đáng tôn trọng nhất. Gia Tường Sớ giảng: ‘Vòi vọi là ý nói đức rộng lớn, cao quý, rạng ngời’. Nói chung, câu này diễn tả vẻ mặt của Phật viên mãn các đức, rạng ngời quang minh hơn hẳn hết thảy các thứ.

‘Bảo sát trang nghiêm’: Câu này trích từ bản Tống dịch, phía trước câu này có bốn chữ ‘diện sắc viên mãn’ ý nói: trong quang minh vi diệu phóng ra từ khuôn mặt đức Phật, hiện bóng cõi nước báu (bảo sát) trang nghiêm của cõi Phật mười phương.

Sách Pháp Hoa Văn Cú Ký, quyển 2 giảng chữ ‘Sát’ như sau: ‘Sát, Hán dịch là “điền”, tức là vương thổ của một đức Phật’. Vì vậy, Sát nghĩa là một Phật độ, một nước Phật.

Tiếp ngay theo câu ‘bảo sát trang nghiêm’, bản Tống dịch ghi thêm: ‘Công đức như vậy là chưa từng có’, ý nói: quang minh hiển hiện thập phương, Phật sẽ khai diễn pháp hy hữu bậc nhất. Vì vậy, Phật hiện tướng lành chưa từng bao giờ thấy như thế.

Do đó, kinh chép tiếp rằng: ‘Từ xưa đến nay, chưa từng được thấy, mừng rằng mình được chiêm ngưỡng, sanh tâm hy hữu’. Ý câu này là ngài A Nan tuy hầu bên cạnh Phật đã lâu, nhưng các tướng lành như thế ấy từ trước đến nay ngài chưa được thấy. Ngày nay mừng được dịp ngắm nhìn, khâm phục, thấy quang minh này trong tâm hoan hỉ, liền khởi lên ý tưởng hy hữu, khó gặp.

Do vậy, A Nan liền từ chỗ ngồi đứng lên, kéo áo ca sa đắp thân để lộ vai hữu. Câu ‘trật áo vai hữu’ trong kinh chính là cách tỏ lòng cung kính cùng cực của tỳ kheo. ‘Quỳ dài’ là cả hai đầu gối cùng đặt sát đất. ‘Chắp tay’ là áp cả mười ngón của hai tay trái và phải vào nhau nên còn gọi là ‘hợp thập’. Ở Ấn Ðộ, chắp tay biểu thị kính lễ, biểu thị cung cách nhất tâm chuyên chú, cung kính. ‘Bạch’ là thưa bày. A Nan quỳ dài, chắp tay, hướng về đức Phật tỏ bày, cung kính thốt lời thưa hỏi.

Nhập đại tịch định’: lìa hết thảy tán động, tịch tĩnh rốt ráo là “đại tịch”. Ðại tịch định là thiền định được đức Như Lai nhập. Quyển 30 kinh Niết Bàn chép:

‘Ta ở Sa La song thọ nơi cõi này, nhập đại tịch định. Ðại tịch định có tên là Ðại Niết Bàn’.

Sách Bình Giải lại nói: ‘Phổ Ðẳng tam muội và Ðại Tịch Ðịnh chỉ là tên khác của Niệm Phật Tam Muội… Nay đức Phật vì để nói pháp môn niệm Phật nên trụ Niệm Phật tam muội’.

Như vậy, Ðại Tịch Ðịnh nói chung là một thứ thiền định của Phật mang tên Ðại Niết Bàn. Còn xét trong kinh này, Ðại Tịch Ðịnh chỉ Niệm Phật Tam Muội. Niệm Phật Tam Muội được gọi là Bảo Vương Tam Muội là vua trong các tam muội. Giờ đây, đức Thế Tôn khai diễn pháp môn Tịnh Ðộ nên ngài nhập Niệm Phật Bảo Vương Tam Muội.

‘Trụ pháp kỳ đặc’: Tịnh Ảnh Sớ giảng: ‘Phật đắc pháp thù thắng hơn những kẻ khác, trong đời chẳng ai có pháp như vậy nên gọi là kỳ đặc’. Sách Hợp Tán chép: ‘Bí thuật để cứu tế phàm phu hiện giờ sẽ nói nên bảo là trụ kỳ đặc’.

Sách Bình Giải lại giảng:

‘Pháp kỳ đặc là chánh giác quả hải của Như Lai nên gọi là “kỳ đặc”. Kỳ đặc đến cùng cực thì như phần giảng về Hoa Quang Xuất Phật sẽ nói rõ.

Lại nữa, như trong phẩm Tánh Khởi của kinh Hoa Nghiêm: “Trong thân hết thảy chúng sanh có chánh giác trí, do khen ngợi nên nói là kỳ thay!” [Ðiều này] kỳ thì kỳ lạ thật, nhưng chưa đặc biệt. Lại như trong phẩm Ðề Bà Ðạt Ða kinh Pháp Hoa, long nữ thành Phật mới thật là đặc biệt. Ðặc biệt thì đặc biệt thật, nhưng chưa kỳ lạ.

Chỉ có một pháp môn này kỳ lạ nhất, đặc biệt nhất, vì sao? Kinh dạy: “Các hoa sen báu khắp đầy thế giới”.

Hoa sen ấy nếu bảo là y báo thì ngoài hoa nào có Phật Chánh Giác, nếu bảo là Chánh, thì sao lại nói là trăm ngàn ức cánh? Nếu cho là Nhân thì hoa ấy chính là công đức của Như Lai quả. Nếu cho là Quả, hoa ấy chính diệu hoa trong thập phương. Nếu cho là Chủ thì hoa hàm chứa nổi vô lượng huệ của mười phương tam thế. Nếu bảo là Bạn, lại chỉ là Chánh Giác của Như Lai. Nếu cho là một pháp thì trong ấy lại xuất sanh vô lượng pháp. Nếu cho là vô lượng, hoa ấy cũng là một câu danh hiệu. Kỳ kỳ đặc đặc! Pháp chẳng thể nêu, chẳng thể nói, chẳng thể nghĩ bàn nên cưỡng gọi là pháp kỳ đặc’.

Nghĩa trên đây rất sâu, ở đây tôi chỉ lược nói: Quả đức của Như Lai được xưng tụng là kỳ đặc, tối cực kỳ đặc như đoạn kinh nói về ‘ánh sáng của hoa hiện ra đức Phật’ trong kinh có nói rõ.

Vả như kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Trong thân hết thảy chúng sanh có Chánh Giác Trí’, điều này rất kỳ lạ, nhưng chúng sanh ai cũng có, chẳng phải là hiện tượng đặc biệt, nên cho rằng: “kỳ lạ nhưng chưa đặc biệt”. Trong kinh Pháp Hoa, long nữ thành Phật: Long nữ tám tuổi, ngay lập tức thành Phật, thật là rất đặc biệt. Nhưng là đặc biệt mà không kỳ lạ do vì chúng sanh bổn lai là Phật, ai cũng có phần, ai cũng hiện thành được. Vì vậy, long nữ thành Phật cũng chẳng được coi là kỳ lạ!

Chỉ có một pháp Tịnh tông trong kinh đây đã là đặc biệt nhất, lại cũng là kỳ lạ nhất. Phần sau, trong phẩm Bảo Liên Phật Quang sẽ nói rõ về phương diện y chánh, chủ, bạn, nhân quả, một, nhiều….

Nếu luận theo thường tình, do hoa sen ở trong ao nên là y báo. Nhưng nếu bảo là Y báo, thì mỗi một hoa có ba mươi sáu trăm ngàn ức ánh sáng, trong mỗi một ánh sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật; đủ thấy Phật từ hoa hiện ra, nên nói: ngoài hoa không có Phật. Do vậy, chẳng thể bảo hoa là y báo.

Nếu cho là chánh báo, trong kinh nói hoa có trăm ngàn ức cánh, rõ ràng là cánh hoa chẳng phải là thân Phật, nên chẳng được nói là chánh báo.

Nếu xem là nhân, do hoa ấy từ quả đức của Như Lai thành tựu, nên chẳng phải là nhân.

Nếu xem là quả, hoa ấy lại là vật sanh trong mười phương thế giới, chẳng đợi đến khi hành nhân đạt đến cái quả giác ngộ, viên mãn công phu.

Vì vậy, hoa sen chẳng thể là quả. Nếu xem là chủ thì hoa hàm chứa được mười phương tam thế vô lượng huệ, dung chứa hết thảy, bạn của hoa quá nhiều!

Nếu xem là bạn, thì ngoài tâm không có pháp, chỉ là chánh giác của Như Lai. Y, chánh, chủ, bạn, hết thảy mọi vật trong Cực Lạc đều chỉ do tự tâm của Di Ðà Như Lai hiện ra.

Muốn bảo là một pháp thì một hoa có vô lượng quang, trong mỗi quang xuất sanh vô lượng pháp. Nếu nói là vô lượng, lại chỉ là một câu danh hiệu. Ba thứ trang nghiêm vào trong một pháp cú.

Vì vậy, bảo đây là pháp kỳ lạ nhất trong các sự kỳ lạ, pháp đặc biệt nhất trong những chuyện đặc biệt, pháp chẳng thể nêu, chẳng thể nói, chẳng nghĩ bàn, cũng chẳng đặt tên nổi, chỉ đành cưỡng gọi là ‘pháp kỳ đặc’.

Nay đức Thế Tôn muốn tuyên nói hoằng nguyện Nhất Thừa của Phật Di Ðà là pháp kỳ đặc nhất nên trụ vào sở trụ của Phật Di Ðà, là điều Phật nào cũng nghĩ đến, nên nói là ‘trụ pháp kỳ đặc’.

‘Trụ hạnh đạo sư của chư Phật trụ là đạo tối thắng’: Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ ‘Phật sở trụ’ như sau: ‘Chỗ Phật trụ là Niết Bàn thường quả, chư Phật cùng trụ. Nay đức Thế Hùng (chỉ đức Thích Ca) trụ nơi chỗ trụ ấy là trụ đại Niết Bàn để khởi lên diệu dụng hóa độ’.

Sách Hội Sớ giảng: ‘Chỗ Phật trụ chẳng phải là điều Nhị Thừa, Bồ Tát đạt đến nổi, chỉ có Phật với Phật mới trụ nổi’. Lại viết:‘Phật giảng tam thừa, hễ khi nói các các giáo pháp khác đều trụ trong pháp tam thừa. Nay ngài trụ vào chỗ trụ của chính mình nên nói là trụ chỗ Phật trụ’.

Thuyết sau hay hơn vì hiện tại pháp được Phật sẽ nói là Quả Giác của Phật, là cảnh giới của Phật, cho nên phải trụ vào pháp chư Phật tự trụ để tỏ bày diệu pháp thù thắng này ngõ hầu làm nhân tâm (cái tâm phát khởi để làm nhân, hầu đạt đến cái quả là sự giác ngộ hoàn toàn) cho chúng sanh.

Sách Bình Giải lại giảng: ‘Trụ chỗ trụ của Phật là trụ Phổ Ðẳng tam muội. Phổ Ðẳng tam muội và Ðại Tịch Ðịnh đều là tên khác của Niệm Phật tam muội. Tam thế chư Phật đều trụ vào niệm Phật này nên bảo là chỗ trụ của Phật. Nay Phật vì chúng sanh nói pháp môn Niệm Phật nên trụ Niệm Phật tam muội’. Thuyết của sách Bình Giải phù hợp với yếu chỉ của kinh này nhất.

‘Ðạo sư’ là bậc dẫn dắt người khác nhập Phật đạo. Kinh Thập Trụ Ðoạn Kết nói: ‘Gọi là đạo sư vì chỉ bày chánh đạo cho chúng sanh’. Kinh Hoa Thủ chép: ‘Có thể vì người khác nói đạo chẳng sanh tử nên gọi là đạo sư’. Kinh Phật Báo Ân nói: ‘Ðại đạo sư là bậc dùng đường chánh chỉ bày đường đến Niết Bàn, khiến cho được vô vi thường lạc’ (Vô vi là pháp vô vi, thường lạc là thường lạc ngã tịnh).

Sách Bình Giải lại viết: ‘Hạnh đạo sư chính là Di Ðà Thế Tôn bình đẳng dẫn dắt không để sót vậy’ và: ‘Ðại đạo sư chính là Di Ðà Thế Tôn dùng bổn nguyện nhiếp dẫn năm thừa’. Do đó, đức Bổn Sư diễn thuyết kinh này chính là ngài đã trụ vào hạnh của Phật Di Ðà vậy.

Chữ ‘đạo tối thắng’ được Tịnh Ảnh Sớ giảng rằng: ‘Vô Thượng Bồ Ðề là đạo tối thắng’.

Sách Hội Sớ lại giảng như sau: ‘Là pháp mà hết thảy pháp thế gian, xuất thế gian chẳng sánh được’.

Sách Bình Giải giảng: ‘Ðạo tối thắng là một đạo Niệm Phật Vãng Sanh vì trong hết thảy phương tiện nó là vô thượng tối thắng’.

Lại còn viết: ‘Ðạo tối thắng là giải thoát đức. Kinh Niết Bàn dạy: ‘‘Vô thượng thượng, chơn giải thoát’’. Vì vậy, vô thượng thượng nghĩa là tối thắng’.

Ấy là vì Niệm Phật chính là đạo tối thắng vô thượng thượng: khi vãng sanh ắt chứng Niết Bàn.

Hơn nữa, ngay lúc đang niệm Phật, tâm là Phật, tâm làm Phật, ngay khi ấy chính là Phật chính là lúc vô thượng thượng giải thoát. Ngày nay đức Thích Tôn sắp khai diễn diệu pháp Di Ðà nên trụ nơi Phật Di Ðà trụ, hành hạnh của Phật Di Ðà hành, niệm điều Phật Di Ðà niệm. Do vậy, ngài A Nan bảo Phật ‘trụ đạo tối thắng của chư Phật trụ’.

Với các câu ‘quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật nghĩ đến nhau’ v.v… Gia Tường Sớ giảng: ‘Ðiều mà vị quá khứ, vị lai, hiện tại Phật nào cũng nghĩ nhớ là tam thế chư Phật đều có ý niệm hóa độ chúng sanh. Ánh sáng của mỗi vị chiếu lẫn nhau, trí từng vị chiếu soi lẫn nhau nên bảo là nghĩ nhớ lẫn nhau’.

Sách Bình Giải viết: ‘Các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, lấy điều cả ba đời nghĩ nhớ để suy lường điều đức Phật đang tâm niệm’.

Sách Hợp Tán lại viết: ‘Ta được tam thế chư Phật nghĩ đến, suy ra lẽ nào đức Phật hiện tại chẳng nghĩ đến chư Phật. Nhưng nay ngài lại hiện ra tướng lạ lùng này vượt hơn hẳn chư Phật là có nguyên cớ gì?’

Kinh chép: ‘Oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu’ là ý nói: hiện ra sắc tướng, quang nhan vòi vọi, oai thần khó lường, phóng quang hiện điềm lành, tướng đẹp thù thắng: mười phương bảo sát hiện bóng trong quang minh. Do vậy, sách Hợp Tán khen ngợi là ‘vượt hẳn chư Phật’.

Ngài A Nan do thấy hiện các quang minh, tướng tốt lành mình chưa hề được thấy như vậy, hoan hỷ, mừng rỡ, nên lại tự suy nghĩ: Ngày hôm nay đức Thế Tôn hiện quang minh hy hữu như thế, hiển lộ tướng tốt lành khó thấy biết trọn vẹn như thế, ắt hẳn đức Thế Tôn phải nhập đại tịch định, trụ pháp kỳ đặc. Pháp ấy, định ấy chính là Niệm Phật Tam Muội, hạnh đạo sư, đạo tối thắng.

Do tam thế Như Lai, mỗi vị Phật nghĩ đến nhau; suy ra đức Thích Tôn nay ắt hẳn đang nghĩ đến Phật khác, chỉ chưa biết rằng ngài nghĩ đến vị Phật nào, cho nên thưa hỏi: ‘Ngài nghĩ đến chư Phật quá khứ, vị lai chăng? Ngài nghĩ đến chư Phật phương khác trong hiện tại chăng?’ Nếu chẳng phải là nghĩ đến đức Phật, vì sao ngày nay Phật lại ‘oai thần hiển diệu, quang thụy thù diệu đến thế’.

Oai là dũng mãnh. Thần là chẳng thể nghĩ lường. Hiển diệu là sáng đẹp. Trong quang minh của Phật hiện bóng mười phương bảo sát trang nghiêm, hiển hiện Hoa Nghiêm huyền môn nhiệm mầu chẳng thể nghĩ bàn. Tướng tốt lành trong ánh sáng ấy (quang thụy) mầu nhiệm tuyệt luân, cho nên A Nan thỉnh Phật giảng cho.

 

Chánh kinh:

 

Khi ấy, đức Thế tôn bảo A Nan rằng:

– Lành thay! Lành thay! Ông vì thương xót, lợi lạc các chúng sanh nên có thể hỏi nghĩa vi diệu như vậy. Ông nay hỏi như thế hơn cả công đức cúng dường một thiên hạ A La Hán, Bích Chi Phật, bố thí suốt nhiều kiếp cho chư thiên, nhân dân, các loài ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn đến trăm ngàn vạn lần. Vì cớ sao? Vì chư thiên, nhân dân, hết thảy hàm linh trong tương lai đều do lời hỏi của ông mà được độ thoát!

 

Giải:

Ðoạn kinh trên là lời đáp của đức Bổn Sư. ‘Lành’ là tốt. ‘Lành thay!’ (sadhu) là lời khen ngợi. Trí Ðộ Luận chép: ‘Lành thay, lành thay, nói đến hai lần là tỏ sự vui mừng vậy’.

Sư Tịnh Ảnh bảo lời hỏi của A Nan ‘xứng cơ, đương pháp, hợp thời’ nên đức Phật khen ngợi. Sách Bình Giải cho rằng ‘vì lời hỏi đó tương xứng tâm Phật’. Những câu tiếp đó là lời đức Như Lai tự giải thích lời khen ngợi của mình.

‘Ông vì thương xót, lợi lạc các chúng sanh nên có thể hỏi nghĩa vi diệu như thế’: Thương xót là bi tâm dẹp khổ. ‘Lợi lạc’ là từ tâm ban vui. Phật khen A Nan: Ông nay nguyện dẹp tan nỗi khổ của hết thảy chúng sanh nên mới hỏi nghĩa như vậy. ‘Vi diệu’: pháp thể u huyền nên nói là ‘vi’, dứt bặt nghĩ lường nên gọi là ‘diệu’. Ấy là do bổn thể của pháp u thâm, diệu huyền, chẳng thể dùng ngữ ngôn, phân biệt biết được nổi, vì vậy, gọi là ‘vi diệu’.

Từ câu ‘ông nay hỏi như thế’ cho đến hết đoạn kinh đều nói về công đức của lời hỏi của A Nan.

‘Một thiên hạ’ chính là một trong tứ thiên hạ. Tứ thiên hạ chính là bốn đại châu quanh bốn phía núi Tu Di. Một là Nam Thiệm Bộ Châu (tức là địa cầu), hai là Ðông Thắng Thần Châu, ba là Tây Ngưu Hóa Châu, bốn là Bắc Uất Ðan Châu. Vì vậy, một thiên hạ là một đại châu.

Phật dạy: Công đức của lời hỏi ấy của ngài A Nan còn hơn cả công đức cúng dường A La Hán, Bích Chi Phật và bố thí chư thiên, nhân dân trong nhiều kiếp và các loài trùng ‘ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn’ trong cả một đại châu đến trăm ngàn vạn lần.

‘Kiếp’ là cách gọi tắt chữ kiếp ba của tiếng Phạn, dịch là Trường Thời. Trí Ðộ Luận nói: ‘Núi đá to bốn mươi dặm, có người trường thọ, cứ mỗi trăm năm lại đến một lần dùng chiếc áo mềm mại phất qua. Khi hòn đá to ấy đã bị phẩy đến mòn nát hết cả mà kiếp vẫn chưa tận’.

‘Ngọ nguậy’ (quyên) chỉ cho loài trùng nhỏ. ‘Bay’ là loại trùng nhỏ biết bay. ‘Bò trườn’ (nhu động) là loài trùng không chân, chỉ  loài trùng đi bằng cách bò. Lời hỏi của A Nan vì sao có công đức đến thế? Là vì ‘chư thiên, nhân dân, hết thảy hàm linh trong tương lai đều nhân lời hỏi của ông mà được độ thoát’.

‘Hàm linh’ chỉ loài có linh tánh, tức là chúng sanh. Bản Hán dịch ghi: ‘A Nan, nay ông đều độ thoát chư thiên, đế vương, nhân dân và các loài ngọ nguậy, bay lượn, bò trườn’. Ấy là bởi vì từ lời hỏi này dẫn ra pháp môn Tịnh Ðộ: thâu trọn phàm thánh, lợi độn cùng được độ, hoành siêu tam giới, chóng lên bốn cõi Tịnh Ðộ, được chư Phật cùng khen ngợi, được các kinh luận cùng nêu; Nhất Thừa liễu nghĩa, vạn thiện đồng quy chẳng thể nghĩ bàn. Hết thảy chúng sanh trong tương lai đều do pháp này mà được độ thoát. Vì vậy, đức Phật khen ngợi công đức của lời hỏi ấy.

 

Chánh kinh:

 

A Nan! Như Lai do vô tận đại bi, xót thương tam giới, cho nên xuất hiện trong đời: quang xiển đạo giáo, muốn cứu vớt quần manh, ban cho cái lợi chơn thật khó gặp, khó thấy, như hoa Ưu Ðàm ít khi xuất hiện. Lời hỏi của ông trong hiện tại gây lợi ích rất nhiều.

 

Giải: ‘Vô tận đại bi’: Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện chép: ‘Chư Phật Như Lai dùng đại bi mà làm thể’‘Dùng nước đại bi nhiêu ích chúng sanh thành tựu hoa quả trí huệ của chư Phật, Bồ Tát’.

‘Vô tận’ chính là ý nghĩa ‘chẳng có cùng tận’ trong kinh Hoa Nghiêm. Như Lai do tâm đại bi chẳng cùng tận nên thương xót tam giới. ‘Thương xót’ (căng ai) là thương yêu, xót thương. ‘Tam giới’ là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Phật vì thương xót hết thảy chúng sanh trong tam giới ‘cho nên xuất hiện trong đời’.

Câu này chỉ rõ bổn hoài xuất hiện trong thế gian của Như Lai. Kinh Pháp Hoa nói: ‘Chư Phật Thế Tôn do một đại sự nhân duyên nên xuất hiện trong đời’. Ðức Thế Tôn vì một đại sự nhân duyên nên tuyên nói nguyện lực của Phật Di Ðà để phổ độ chúng sanh.

Quang xiển đạo giáo, muốn cứu vớt quần manh’: Quang là sáng sủa, to lớn, rộng rãi. Xiển là mở ra. ‘Ðạo giáo’ chỉ chánh đạo thật giáo, tức là giáo hóa của chư Phật, chỉ chung cho giáo pháp cả một đời của đức Thế Tôn: tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì vậy, ‘quang xiển đạo giáo’ nghĩa là rộng tuyên kinh pháp của Như Lai.

Chửng (cứu vớt) là cứu giúp. ‘Manh’ là mầm mộng, ‘quần manh’ chỉ quần sanh. Chư Như Lai dùng đại bi làm thể muốn cứu hết thảy chúng sanh nên nói: ‘Muốn cứu vớt quần manh’.

 Sách Hội Sớ giảng:‘Tiệm, Ðốn đều xứng với căn cơ, tùy duyên đều được độ thoát, nên bảo là cứu vớt quần manh’.

Sách còn viết:

‘Chữ Muốn chỉ cho sở nguyện đại bi của đức Thích Ca. Nhưng một chữ này thông với cả đoạn trên lẫn đoạn dưới, bao hàm hai nghĩa:

– Một là, khi nói ‘muốn cứu vớt quần manh’ thì chư Phật Như Lai dùng đại bi làm thể muốn làm cho kẻ chưa độ được độ, kẻ chưa an được an, đó là ‘quang xiển đạo giáo’. Vì vậy, ý câu này thông với câu kinh văn trước đó.

– Hai là muốn thí cho lợi lạc chơn thật, tức là Như Lai muốn cho chúng sanh nhập Di Ðà nguyện hải’.

Sách Bình Giải kết luận thuyết trên bằng câu:

‘Chư Phật sở dĩ xuất hiện trong đời là vì muốn giảng Di Ðà nguyện lực cứu giúp muôn chúng sanh để ứng với bổn hoài vậy’.

‘Ban cái lợi chơn thật’: Ban là ban cho, cũng có nghĩa là ân tứ (thưởng cho). Theo Thiện Ðạo đại sư, ‘cái lợi chơn thật’  là cái lợi chơn thật phát xuất từ thệ nguyện của Phật Di Ðà. Bài kệ của đại sư có câu:

‘Như Lai sở dĩ xuất hiện trong đời là chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật A Di Ðà’.

Sách Bình Giải khen ngợi rằng:

‘Nay riêng mình kim gia (người Nhật gọi đại sư Thiện Ðạo là kim gia) giải thích khéo léo, những người khác chẳng bàn được như vậy. Thuận theo cách giải thích của Tổ, lấy Di Ðà bổn nguyện làm cái lợi chơn thật thì ý nghĩa dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn để quang xiển đạo giáo đã được minh bạch’.

Sách Bình Giải lại dẫn sách Lục Yếu: ‘Lợi chơn thật chỉ cho danh hiệu này, tức là Phật trí’.

Sách Bình Giải viết thêm: ‘Nay chơn thật là Phật trí danh hiệu. Ngài Thiện Ðạo cho rằng Pháp Tạng trong lúc tu nhân thành tựu chơn thật nên bảo là bổn nguyện chơn thật. Nói rộng ra thì là năm nguyện chơn thật. Nói gọn lại thì chỉ là một câu danh hiệu. Vì vậy, ta biết rằng cái chơn thật này bao gồm giáo, hạnh, tín, chứng’

Như vậy, ‘Lợi’ là cái lợi lớn lao của danh hiệu. Cứu cánh của cái lợi lớn lao ấy chính là Niết Bàn vô thượng diệu quả. Sách Bình Giải còn viết:

‘[Gọi là] lợi chơn thật là vì so sánh với phương tiện quyền giả. Vì vậy, đem pháp thế gian so với Tiểu Thừa thì Tiểu Thừa là chơn mà pháp thế gian là giả. Dùng Tiểu Thừa sánh với Quyền Ðại Thừa, Quyền Ðại Thừa là chơn mà Tiểu Thừa là giả. Dùng Quyền Ðại Thừa sánh với Thật Ðại Thừa Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v… thì Thật Ðại là chơn, Quyền Ðại là giả. Dùng Thật Ðại thừa Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v… sánh với nguyện thứ mười chín của Phật Di Ðà (Nguyện mười chín trong bản Ngụy dịch như sau: ‘phát Bồ Ðề tâm, tu các công đức, chí tâm phát nguyện, muốn sanh cõi ta’) thì nguyện mười chín là chơn, mà Hoa Nghiêm, Pháp Hoa… là giả.

Vì cớ sao? Hoa Nghiêm, Pháp Hoa lấy vãng sanh làm mặt lợi ích của kinh, các kinh ấy vẫn chưa ra khỏi nguyện mười chín. Ðem nguyện mười chín sánh với nguyện hai mươi (bản Ngụy dịch: nghe danh hiệu ta, hệ niệm cõi ta, trồng các cội đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh cõi ta) thì nguyện hai mươi là chơn, nguyện mười chín là giả.

Ðem nguyện thứ hai mươi sánh với nguyện mười tám (mười niệm vãng sanh) thì nguyện hai mươi là giả, nguyện thứ mười tám là chơn, là viên đốn nhất trong pháp viên đốn’.

Viên đốn tột bực không gì hơn kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, mà nay còn chê là quyền giả, chỉ khen ngợi Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh của kinh này là viên nhất trong pháp viên, pháp đốn nhất trong pháp đốn, chơn thật nhất trong các thứ chơn nhất là vì cớ gì? Sách Bình Giải giải thích:

‘Nay bàn về mặt lợi ích, pháp kia là giả, pháp này là chơn. Vì sao?

Pháp kia (chỉ cho Pháp Hoa, Hoa Nghiêm) nói đến nhanh chóng thành Phật đạo, nhưng chẳng thấy có người nhanh chóng thành Phật, nên thành ra biệt thời ý (16)

Pháp thể há có biệt thời ý, chỉ do căn cơ của con người hèn kém. Nay những kẻ tin tưởng chẳng nghi ngờ thì mười người tu cả mười được sanh, vãng sanh rồi sẽ tiến đến Bồ Ðề chẳng lui sụt: ngay nơi đầu tiên mình được sanh về đã là Bồ Ðề vì dẫu Phật tại thế hay diệt độ, cũng chỉ có một pháp này.

Do vì hết thảy phàm thánh thực hành pháp này không phân biệt, do về mặt lợi ích chơn thật thì không có gì hơn nổi pháp này’.

 Ðoạn văn trên ý nói: Nếu luận về pháp thể, các kinh đều là chơn, nhưng nếu bàn về mặt lợi ích: các kinh khác đều là giả, chỉ có pháp này là chơn. Vì sao thế? Do các pháp như Pháp Hoa v.v… tuy nói có đạo thành Phật nhanh chóng, nhưng chẳng thấy có người y pháp tu trì ngay đời sau thành Phật, nên đó chỉ là cái nhân để thành Phật một cách biệt thời (tức là trong tương lai lâu xa sau này sẽ thành Phật).

Luận về pháp thể, vốn chẳng phải đợi đến biệt thời mới thành Phật; hiềm vì căn cơ hành giả kém cỏi nên chẳng thể nhanh chóng thành Phật. Chỉ có Nhất Thừa nguyện hải của Tịnh Tông đây, sáu chữ hồng danh: mười người tu mười người được sanh, vạn người tu vạn người vãng sanh, nên vượt trỗi hơn các kinh khác. Vả lại:

– Vãng sanh ắt chứng Bồ Ðề.

– Khi pháp diệt rồi chỉ còn kinh này để độ sanh

– Phàm thánh niệm Phật bình đẳng. Sách Sớ Sao nói: ‘Một câu ngang với chư thánh’

Vì vậy, ta bảo là ‘lợi chơn thật’ không có chi hơn được pháp này.

Hơn nữa, kinh này có thể ban cho cái lợi chơn thật là do những điều được giảng trong kinh đều là chơn thật tế. Cõi mầu nhiệm Cực Lạc chính là do A Di Ðà Phật trụ vào chơn thật tế biến hiện ra như Vãng Sanh Luận viết: ‘Ba thứ (chỉ cõi Phật, Phật, Bồ Tát) thành tựu nguyện tâm trang nghiêm… vào trong một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú là chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân’. Chơn thật tế là vô vi Pháp Thân. Y báo, chánh báo của Cực Lạc là do chơn thật trí huệ hiện ra. Do vì hết thảy chơn thật nên có thể ban cho lợi chơn thật.

Vô vi Pháp Thân chính là Thật Tướng, cho nên sách Yếu Giải nói:

‘Năng thuyết, sở thuyết, năng độ, sở độ, năng tín, sở tín, năng nguyện, sở nguyện, năng trì, sở trì, năng sanh, sở sanh, năng tán, sở tán, không thứ gì chẳng do Thật Tướng chánh ấn in vào’.

Ðủ thấy: nhập được pháp môn này rồi thì mỗi mỗi việc đều là nhập Thật Tướng. Vì vậy, trong những pháp ban bố cái lợi chơn thật thì không pháp gì hơn được pháp này.

‘Khó gặp, khó thấy như hoa Ưu Ðàm ít khi xuất hiện’: Gặp (trị) là gặp gỡ. Sách Hội Sớ giảng: ‘Phật pháp khó nghe nên nói “khó gặp”. Phật thân khó được trông thấy nên là “khó thấy”.

Hoa Ưu Ðàm có chỗ dịch là Linh Thụy Hoa. Lá nó như lá cây lê, quả to bằng nắm tay, vị ngọt, không hoa mà kết trái, tuy có hoa nhưng rất ít khi thấy được hoa.

Kinh Bát Niết Bàn chép: ‘Có loại thọ vương tôn quý tên là Ưu Ðàm Bát, có trái, không hoa. Nếu nó sanh kim hoa, trong đời bèn có Phật’.

Kinh Văn Thù Hiện Pháp Tạng lại chép: ‘Ðời không Phật, cây ấy chỉ có trái không có hoa’.

Kinh Xuất Diệu lại chép: ‘Hơn mấy ngàn vạn kiếp, thỉnh thoảng mới trổ hoa. Chúng sanh thấy hoa bảo rằng Như Lai sắp ra đời’.

Theo các kinh trên, hoa này khó gặp ít có, khi nào có Phật ra đời nó mới xuất hiện. Vì vậy, nó được dùng để ví với giáo pháp chơn thật của Phật khó gặp gỡ.

Nay do lời hỏi của A Nan, bổn hoài của đấng Thích Tôn được mở toang, hoằng nguyện của Phật Di Ðà được tỏ rõ nên bèn đem pháp chơn thật này giãi bầy hết cả ra để lợi ích khắp quần sanh. Vì vậy, Phật khen A Nan rằng: ‘Lời hỏi hiện nay của ông gây nhiều lợi ích’.

 

Chánh kinh:

 

A Nan nên biết: Như Lai chánh giác là trí khó lường chẳng có chướng ngại, có thể trong một niệm trụ vô lượng ức kiếp, thân và các căn chẳng bị tăng, giảm. Vì cớ sao thế? Ðịnh, huệ của Như Lai đã trọn vẹn cùng tột đến vô cực. Do với hết thảy pháp được tự tại tối thắng. A Nan nghe kỹ, khéo nghĩ nhớ lấy, ta sẽ vì ông phân biệt giải nói.

 

Giải:

Chánh Giác là giác trí chơn chánh chứng ngộ hết thảy các pháp, tức là Chơn Trí của Như Lai. Vì vậy, ta bảo thành Phật là thành Chánh Giác như Tịnh Ảnh Sớ viết: ‘Như Lai chánh giác gọi chung là Phật trí’. Ðủ thấy bốn chữ ‘Như Lai chánh giác’ biểu thị Phật trí một cách hoàn toàn. Trí ấy rất sâu nên bảo là ‘khó lường’.

Vì Phật chứng pháp Niết Bàn rất sâu đến cùng cực nên Gia Tường Sớ viết rằng: ‘Nói trí Chánh Giác của Như Lai khó lường là ý nói: chơn trí mầu nhiệm đến cùng tuyệt, chiếu soi tột cùng pháp giới, chẳng phải là điều kẻ hạ căn, phàm tình biết được nổi’.

Sách Bình Giải lại viết: ‘Như Lai Chánh Giác là nương vào Nhất Như của Phật Di Ðà để thành Chánh Giác, ứng thân ấy chính là bổn địa thân. Trí ấy khó lường…. Niệm Phật tam muội là sở trụ, do trụ vào đấy phát sanh được diệu trí thù thắng’.

Câu này ý nói: Chánh Giác của Thích Ca Như Lai là do nương theo Nhất Như thừa của Di Ðà mà thành Chánh Giác. Vì vậy, ngài với Phật Di Ðà là cùng một Chơn Như, mà cũng là cùng một Pháp Thân.

Ứng thân Phật [của Phật Thích Ca] hiện tướng lành ngay trong pháp hội đây thật ra chính là Pháp Thân (bổn địa thân) của Như Lai. Nhất Như thừa của Phật Di Ðà trụ vào Niệm Phật Tam Muội. Do trụ vào tam muội ấy phát sanh trí huệ thắng diệu nên ‘trí ấy khó lường’.

Do vậy, điều này chẳng phải là điều các Ðại Sĩ địa thượng và Ðẳng Giác có thể tính kể, suy lường nổi. Dùng chơn trí thắng diệu hiểu thấu suốt được Chơn Như, lại thông đạt hết thảy các pháp chẳng có chướng ngại nên bảo là ‘chẳng có chướng ngại’.

Câu ‘có thể trong một niệm, trụ vô lượng ức kiếp mà thân và các căn chẳng bị tăng giảm’ hiển thị cái đức của Bổn Ðịa Pháp Thân. Câu ‘trụ vô lượng ức kiếp’ ngụ ý Phật có thọ mạng vô lượng. Phẩm Thọ Lượng của kinh Tối Thắng Vương có bài kệ rằng: ‘Nếu ai trụ ức kiếp, tận lực thường tính toán, cũng chẳng biết được nổi thọ lượng của Thế Tôn’. Nay kinh này dạy trong khoảng một niệm trụ vô lượng kiếp thì đây chính là môn ‘thập thế cách pháp dị thành môn’ trong mười huyền môn sự sự vô ngại pháp giới của kinh Hoa Nghiêm.

Bản dịch kinh Hoa Nghiêm đời Tấn có câu: ‘Biết vô lượng kiếp là một niệm, biết một niệm chính là vô lượng kiếp’. Sự kéo dài hay rút ngắn đồng thời nói trên giống với kinh này. Ðiều trên đủ chứng minh rằng kinh này chẳng khác gì kinh Hoa Nghiêm! Thích Tôn là Tỳ Lô, Ứng Thân Giáo Chủ nơi thế giới của chúng ta cũng chính là Pháp Thân Vô Lượng Thọ Phật. Thích Ca và Tỳ Lô, Di Ðà chẳng hai chẳng khác.

Tiếp theo đó, kinh nói: ‘Thân và các căn chẳng có tăng giảm’ ngụ ý Phật thân tốt đẹp phi thường. Do ngài trụ vào bổn địa Pháp Thân thị hiện ứng thân nên đầy đủ đức của viên mãn báo thân.

‘Ðịnh, huệ của Như Lai đã trọn vẹn cùng tột đến vô cực’ (Như Lai định huệ cứu sướng vô cực): ‘Ðịnh’ là thiền định. Huệ là trí huệ. Giới, Ðịnh, Huệ gọi là tam vô lậu học. Hội Sớ viết: ‘Cứu là cùng tột, rốt ráo. Sướng là thông suốt. Ðể phân biệt với sở đắc của hạng còn tu nhân nên bảo là vô cực’.

Vì vậy, ý của câu kinh trên là thiền định, trí huệ của Phật đã được thông suốt trọn vẹn cùng cực, đó chẳng phải là điều hết thảy các vị Ðại Sĩ còn ở địa vị tu nhân đạt được nổi.

‘Với hết thảy pháp được tự tại tối thắng’: Tâm thoát khỏi sự trói buộc của phiền não, thông đạt vô ngại, đó là “tự tại”. Hơn nữa, chẳng toan tính mà đạt được, hết thảy vô ngại nên gọi là tự tại. Như trong kinh Hoa Nghiêm, có mười tự tại:

  1. Mạng tự tại: Bồ Tát đắc huệ mạng trường thọ, trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp trụ trì thế gian chẳng có chướng ngại.
  2. Tâm tự tại: Bồ Tát dùng trí huệ phương tiện điều phục tự tâm, nhập được vô lượng đại tam muội, du hí thần thông không chướng ngại.
  3. Tư cụ tự tại: Bồ Tát có thể dùng vô lượng trân bảo, các thứ vật dụng để trang nghiêm hết thảy thế giới một cách thanh tịnh vô ngại.
  4. Nghiệp tự tại: Bồ Tát có thể tùy theo các nghiệp để ứng thời thị hiện, thọ các quả báo không chướng không ngại.
  5. Thọ sanh tự tại: Bồ Tát theo tâm niệm có thể ở trong các thế giới thị hiện thọ sanh không chướng không ngại.
  6. Giải tự tại: Bồ Tát thành tựu kiến giải thù thắng, thị hiện các thứ sắc thân, diễn thuyết diệu pháp không chướng không ngại.
  7. Nguyện tự tại: Bồ Tát tùy lòng mong muốn, ở trong các cõi, ứng thời xuất hiện thành Ðẳng Chánh Giác không chướng không ngại.
  8. Thần lực tự tại: Bồ Tát thần thông quảng đại oai lực khó lường, trong các thế giới thị hiện biến hóa không chướng không ngại.
  9. Pháp tự tại: Bồ Tát đắc đại biện tài, trong các pháp diễn thuyết rộng rãi vô biên pháp môn một cách không chướng không ngại.
  10. Trí tự tại: Bồ Tát trí huệ đầy đủ, trong một niệm hiện ra thập lực vô úy của Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác không chướng không ngại.

Nay kinh đây nói ‘tự tại tối thắng’ là như kinh Pháp Hoa nói: ‘Ta làm pháp vương, tự tại trong pháp’. Viên mãn mười tự tại của Hoa Nghiêm một cách rốt ráo nên bảo là ‘tối thắng’. Tiếp theo đó, đức Thế Tôn hứa nói, truyền dạy A Nan lắng nghe kỹ (chú tâm nghe pháp), khéo tự suy nghĩ nghĩa lý được nghe. Cuối cùng bảo: ‘Ta sẽ vì ông, phân biệt giải nói’.

(Tới đây, phần biệt tự đã hết)

 

Biệt Tự còn gọi là Phát Khởi Tự vì nó dẫn phát chánh văn của toàn bộ kinh. Hiện tại, do A Nan phát ra câu hỏi, Thế Tôn hứa nói, diễn giảng pháp môn Tịnh Ðộ là phương tiện rốt ráo, cực viên, cực đốn, thù thắng này. Nhưng do đây là pháp siêu tình ly kiến chẳng thể nghĩ bàn, khó tin, chúng sanh tình chấp sâu nặng chẳng thể tin nổi nên trong phần phát khởi, thâm nhập chứng tín, tổng cộng có đến năm tầng:

– Thứ nhất, Thế Tôn phóng quang, hiện tướng lành để chứng tín.

– Thứ hai, A Nan hoan hỷ thưa hỏi. Lời hỏi của A Nan có hai nghĩa trọng yếu: một là, A Nan thấy Phật phóng ra quang minh hy hữu, biết là ngài ắt hẳn trụ pháp kỳ đặc, hạnh đạo sư, đạo tối thắng. Nhưng pháp ấy, hạnh ấy, đạo ấy ắt là những điều đều được chư Phật nghĩ đến chứ không phải là pháp nào khác. Hai là A Nan do đâu hỏi nổi diệu nghĩa ấy? Chính điểm này chỉ rõ A Nan vốn là vị đại Bồ Tát đức tuân Phổ Hiền, từ quả hướng nhân. Trong hội thuần nhất chẳng tạp, diễn nói viên âm, nay chính là đúng lúc. Hội chúng thù thắng chính là ngụ ý diệu pháp hy hữu.

– Lần chứng tín thứ ba là Thế Tôn khen ngợi công đức của lời hỏi đó khó nghĩ nổi. Phật nói: Hết thảy hàm linh trong tương lai đều do lời hỏi này được độ thoát. Chỉ một lời đã phô trọn chánh nhân hưng khởi pháp môn Tịnh Ðộ. Vì vậy tên của phẩm này là Ðại Giáo Duyên Khởi.

-Thứ tư, Phật lại bảo A Nan: Như Lai sở dĩ xuất hiện trong đời chỉ vì muốn cứu vớt quần manh, ban cho lợi ích chơn thật. Ban cho điều gì? Chính là chỉ nên cậy vào sáu chữ hồng danh Di Ðà Nguyện Hải. Chính bởi lời hỏi của A Nan mà Phật khải thị diệu pháp khó gặp hy hữu đến thế như hoa Ưu Ðàm. Hết thảy chúng sanh trong tương lai toàn là nhờ vào lời hỏi của A Nan mà được độ thoát. Vì thế, Phật khen A Nan để chứng tín.

– Thứ năm, Thế Tôn biết một cách sâu xa rằng đây thật là pháp hết thảy thế gian khó tin nổi nên hiểu dụ chúng sanh rằng: Giác trí của Như Lai khó lường, thần thông vô ngại, định huệ thông suốt rốt ráo, tự tại nơi pháp. Lời Thế Tôn nói chơn thật chẳng dối, muôn vàn chớ khinh nghi, chỉ nên tín ngưỡng. Kinh lại còn dùng thí dụ chỉ cho chúng ta: Phật là Quả Giác, ta là phàm phu, lẽ nào ta lại dùng cái tâm phàm phu phân biệt ngu muội để đo lường Như Lai trí một cách hư vọng? Chỉ nên tin nhận ắt sẽ mãn nguyện.

Do những điều trên, ta thấy được rằng Tự phần của kinh toàn là chứng tín. Ngẫu Ích đại sư chỉ ra tông của Tiểu Bổn kinh này là ‘tín, nguyện, trì danh’. Ba thứ tư lương ấy khuyết một chẳng được, nhưng lấy Tín làm đầu đủ thấy sự trọng yếu của Tín. Trong tự phần, trước hết nói đến cái gốc của kinh này là ‘chơn thật tế’ cho nên pháp này đáng tin. Diệu dụng của kinh này rộng ban cho chúng sanh cái lợi chơn thật cho nên phải tin.

Chơn Thật Tế là gì? Chính là như Liên Trì Ðại Sư trong Sớ Sao đã dạy rằng: ‘Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng, chẳng trược, chẳng thanh, không lui, không tới. Lớn thay chơn thể, chẳng thể nghĩ bàn được, chỉ có mỗi tự tánh [mới được như thế mà] thôi!’ Vì vậy, chơn thật tế chính là tự tánh của đương nhân.

Cái lợi chơn thật là gì? Sớ Sao lại nói: ‘Lắng trược thành thanh tịnh, quay lưng [bõ cõi Sa Bà], hướng về [Tịnh Ðộ], siêu việt ba a tăng kỳ trong một niệm, ngang với chư thánh trong một lời. Diệu dụng cùng cực thay, cũng chẳng thể nghĩ bàn nổi. Chỉ là Phật Thuyết A Di Ðà Kinh mà thôi!’.

Kinh A Di Ðà chính là tiểu bổn của kinh này, cho nên biết được rằng: diệu dụng đến cùng cực chỉ là kinh này thôi! Tông của kinh này là ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’. Phát Bồ Ðề tâm bao hàm trọn vẹn ‘tín nguyện’. ‘Nhất hướng chuyên niệm’ chính là trì danh.

Hai bổn Ðại, Tiểu có cùng một cương tông. Diệu pháp như thế cùng thâu trọn vẹn ba hạng khiến cho phàm phu chóng cùng được bổ xứ. Diệu dụng lớn lao, chẳng thể nghĩ bàn chính là việc phát tâm niệm Phật dạy trong kinh này. Ðấy chính là cái lợi chơn thật. Do diệu dụng chơn thật như thế nên trong khoảng một niệm, vượt qua ba đại a tăng kỳ kiếp một cách nhanh chóng. Xưng danh một tiếng, địa vị bằng với chư thánh. Chúng ta may mắn được nghe, thật đúng là một dịp hy hữu trong vô lượng kiếp đến nay

 

Hết quyển một

(Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa kính dịch xong ngày 17 tháng 01 năm 2002)

 

(1) Hội bổn, tiết bổn: hội bổn là bản kinh soạn được bằng cách so sánh những bản dịch khác nhau của cùng một bản kinh gốc, chọn lấy những điểm tinh yếu, gạt bỏ những điểm rườm rà, trùng lặp, không quan trọng để có được bản kinh hoàn thiện nhất. Tiết bản là chia bản kinh thành từng tiểu đoạn, mỗi tiểu đoạn có một tiểu đề để nói lên ý chính của đoạn kinh đó.

(2) Khóa bổn: kinh đọc tụng trong các thời khóa công phu hằng ngày.

(3) Quả Giáo: Giáo pháp nêu ngay cái quả đức để làm nhân phát khởi tu hành chúng sanh, nương theo công đức viên mãn của quả toàn giác để tu trì. Ðây là cách phán giáo của Mật tông. Theo họ, Tịnh Ðộ, Mật tông là quả giáo. Các tông khác là nhân thừa.

(4) Ðịa Thượng Bồ Tát: Các vị Bồ Tát từ Sơ Ðịa trở lên.

(5) Ðịa tiền Bồ Tát: các vị Bồ Tát chưa dự vào hàng Thập Ðịa, tức là thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng.

(6) Mài gương: Thời xưa, dùng đồng làm gương nên phải mài cho gương sáng bóng mới soi mặt được.

(7) Bách giới thiên như: Theo tông Thiên Thai, có mười giới: từ ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục.. cho đến chư Phật. Trong mỗi giới lại có đủ mười giới, nên 10×10 = 100 giới. Trong mỗi giới lại có mười môn như thị; như thị tướng, như thị thể, như thị tánh.. (xem kinh Pháp Hoa) nên thành ra một ngàn như. Tông Thiên Thai dùng chữ bách giới thiên như để chỉ tất cả các pháp

(8) Lưới Ðế Thích (đế võng): Lưới của Ðế Thích mỗi mắt lưới là một hạt ngọc.

(9) Chủ bạn giao tham: Pháp này là chủ thì các pháp kia là bạn, lấy pháp khác làm bạn, thì pháp này cùng các pháp còn lại là bạn.

(10) Cơ nghi: căn cơ thích ứng với pháp được giảng.

(11) Tương: ở đây chỉ cho các thứ nước được chế biến từ thực phẩm như nước trái cây ép, súp..

(12) Hiếp sĩ: chỉ cho vị Bồ Tát đứng hầu hai bên Phật, như Quán Âm, Thế Chí là hiếp sĩ của Phật Di Ðà.

(13) Hà sa, trần hải: cát trong sông, bụi trần nhiều như biển cả.

(14) Khí mạch (dhuti), minh điểm là các thuật ngữ dùng trong Mật tông Tây Tạng. Dhuti là đường dẫn sinh lực dọc theo cột sống, có những pháp tu riêng để khai mở đường này (gần giống như cách khai mở luồng hỏa hầu kundalini của Yoga). Minh điểm (thigle) theo Mật tông Tây Tạng là một điểm nhỏ như hạt gạo được thừa hưởng từ cả cha lẫn mẹ, được coi là tinh túy của toàn bộ cơ thể. Những hành giả tu các pháp như Kalachakra sẽ được hướng dẫn các pháp quán tưởng, hô hấp, trì tụng chân ngôn để biến điểm này thành hình tượng tương ứng của bổn tôn.

(15) Bổn, Tích: hai khái niệm của tông Thiên Thai. Bổn là Pháp Thân, Tích là ứng hiện. Theo đó, đức Phật Thích Ca thọ 80 năm là ứng tích của bổn Phật Pháp Thân Thích Ca thọ mạng vô lượng. Nói cách khác, tích như bóng trăng in trong nước, bổn như mặt trăng.

(16) Biệt thời ý: quan niệm cho rằng không thể thành Phật hay vãng sanh ngay trong đời hiện tại, niệm Phật trong đời hiện tại chỉ tạo nhân lành vãng sanh cho các kiếp tương lai.

(*) Ý nghĩa câu này rất sâu xa, sẽ được tác giả tự giải thích chi tiết trong phần bốn của bản Chú Giải này.