TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT MA
Sa-môn Đạo Tuyên chùa Sùng Nghĩa ở Kinh Triệu đời Đường soạn

 

BÀI TỰA VÔ ĐỨC BỘ TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT MA

Sa-môn Đạo Tuyên chùa Sùng Nghĩa ở Kinh Triệu đời Đường soạn.

Đức Đại Hùng ngự ở thế gian, ý của Ngài đâu chỉ cứu giúp một người. Giáo lý của Ngài theo thời kỳ gom chung về để hiển bày một lý. Nhưng do chúng sinh tham đắm dục vọng. Gốc của dục gọi là tâm ta. Cho nên theo đó mà bị đau khổ. Đức Phật chỉ dạy cho pháp dừng tâm. Nhưng tâm là gốc sinh ra sự tham muốn. Nếu dứt được tham muốn thì chắc chắn sẽ dứt được tâm nguyện. Nhờ dứt tâm tham muốn nên trí tuệ được sáng suốt. Trí tuệ phát khởi là nhờ có định. Công năng phát định, nếu không nhờ giới thì không rộng lớn. Cho nên, chỉ cần tôn trọng giới, trong kinh nói: Giới là gốc của Bồ-đề vô thượng, phải phát tâm nghiêm trì tịnh giới.

Tâm trì giới quan trọng chỉ có hai loại:

– Chỉ trì: là giới bản được nêu lên trước nhất.

– Tác trì: là Yết-ma kết thành đại khoa, rồi sau tiến tới tu tập pháp nhiệm mầu của tông này.

Nếu người không làm pháp yết-ma, không tụng giới thì suốt đời không được lìa y chỉ. Cho nên, trong luật nói rằng: Từ khi Phật nhập Niết-bàn, dòng nước pháp chảy về phía Đông. Bấy giờ, người thông hiểu chánh pháp, tượng pháp rất ít. Thời đầu chia ra hai bộ rồi năm bộ, thời giữa chia ra mười tám bộ rồi năm trăm bộ, thời cuối cùng có rất nhiều vị tách ra để tranh nhau lập tông. Có người nương vào pháp thì không bị nghiêng đổ. Thế nhưng đạo do niềm tin phát khởi, sự mở mang đạo là nhờ con người. Con người mê muội, pháp làm sao lắng trong được. Do đó, pháp yết-ma Phật dạy trải qua nhiều đời dần dần có thêm nhiều chương quyển. Nếu xét kỹ lại sử chép thì các Ngài phần nhiều y cứ vào những điều thấy nghe ở trước. Lại xét kỹ về nguồn gốc của tông đó ghi chép thì không có gốc y cứ. Tâm thầy chế pháp không phải ít, người tách nó ra rồi thực hành đọc tụng thì rất nhiều. Khinh lời Phật dạy, thực hành như lưới pháp luật, đều theo đuổi kiến chấp dị đồng, cạnh tranh nhau sự mê lầm đúng sai, không suy nghĩ lại càng kết thêm sự mê mờ, đến nỗi làm cho chánh pháp bị lắng chìm.

Cho nên Phật dạy: Nếu tác pháp yết-ma không đúng với tác bạch, tác bạch không đúng với pháp yết-ma. Tác yết-ma như thế thì dần dần làm cho chánh pháp mau diệt. Nên phải thuận theo câu văn tác bạch chớ để cho thêm bớt, trái với pháp tỳ-ni, phải học những lời như thế. Nêu cái sai chỉ ra thật khó.

Xưa quan phụ có soạn bộ Hành Sự Sao, sách đó đã nói đầy đủ các tướng rồi. Nhưng vì cơ duyên dạy bảo nhau, tìm vội nên khó hiểu rõ. Cho nên nêu lược một pháp yết-ma, nêu riêng để chọn đề mục. Nếu khoa giảng chọn lựa thêm bớt, thạnh suy, đúng sai thì ở sau có nói rõ. Ở đây chỉ y cứ vào pháp sự nêu ra chứng cớ trong quyển Hành Dụng. Nhưng trong Tạp luận dư thiếu nghĩa là có sự thiếu sót thì bổ sung thêm. Cho nên đầu mối quan trọng của các bộ tóm lược chánh văn, luật tạng đều không có thì lý đều quyết định, đến thiên này thì hiển bày đầy đủ, bèn khác với dấu vết của tạng xưa, vả lại yết-ma tuy nhiều nhưng cốt yếu chia làm tám. Dầu từ tâm niệm, cuối cùng là bạch bốn lần Yết-ma. Mỗi phần có công năng giúp đỡ. Nên luật nêu chung một hiệu. Nay y cứ theo thời gian để hiển bày những điều cốt yếu, nhóm họp lại biên tập văn nêu ra mười thiên. Nghĩa chung cho cả bảy chúng, để tự rõ biết việc thường.

 

QUYỂN THƯỢNG

1/ Tập pháp duyên thành.
2/ Các giới kiết giải.
3/ Các giới thọ xả.
4/ Y được thọ tịnh.
5/ Các pháp thuyết giới.
6/ Các chúng an cư.
7/ Các pháp tự tứ.
8/ Các pháp chia y.
9/ Các pháp sám tội.
10/ Tạp pháp trụ trì.

THIÊN THỨ NHẤT: TẬP PHÁP DUYÊN THÀNH

Pháp sự chung cho cả Đại thừa, Tiểu thừa ngang nhau. Cho nên, trước nêu phần cốt yếu. Sau thỉnh lại các đề mục lặt vặt.

Lại duyên chung cho thành và hoại, giáo tướng mở rộng, đồng thời như văn sau có trình bày nghĩa không rối loạn.

Pháp Tăng yết-ma lược có một trăm ba mươi bốn.

Phật nói: Có ba thứ yết-ma, bao gồm tất cả các pháp yết-ma.

Đó là yết-ma đơn bạch, yết-ma bạch nhị, yết-ma bạch tứ.

Yết-ma đơn bạch có ba mươi chín pháp:

Trong ba mươi pháp đó có hai mươi bảy pháp là thọ pháp sám hối:

  1. Pháp đi khất thực
  2. Pháp nói lời khác
  3. Pháp làm xúc não
  4. Pháp cho cạo tóc
  5. Pháp cho xuất gia
  6. Pháp sai giáo thọ
  7. Pháp gọi nhập chúng
  8. Pháp đối chúng vấn nạn
  9. Pháp thuyết hòa hợp thuyết giới
  10. Pháp tăng sám hối
  11. Pháp tăng phát lồ
  12. Pháp hòa hợp phi thời
  13. Pháp tránh diệt thuyết giới
  14. Pháp hòa hợp tự tứ
  15. Pháp nạn sự lược tự tứ
  16. Pháp tu đạo Tăng tự tứ
  17. Pháp có tránh sự Tăng tự tứ
  18. Pháp tránh sự thứ hai Tăng tự tứ
  19. Pháp thọ y công đức
  20. Pháp xả y công đức
  21. Pháp bậc nhất thêm thuyết giới
  22. Pháp thứ hai thêm thuyết giới
  23. Pháp nhóm họp người có trí.
  24. Hai pháp đoán việc, đuổi người không tụng giới Tỳ-ni ra ngoài
  25. Pháp đuổi, đuổi người bỏ chánh nghĩa ra ngoài.
  26. Pháp cỏ che đất, sau đến thành Vương xá kết tập
  27. Pháp Ca-diếp luận nói về pháp Tỳ-ni
  28. Pháp hỏi pháp tỳ-ni với ngài Ưu-ba-ly Pháp ngài Ưu-ba-ly đáp.
  29. Pháp hỏi pháp tỳ-ni với ngài A-nan Pháp ngài A-nan trả lời.
  30. Pháp bạch trong một trăm luận. Pháp sai Tỳ-kheo luận về pháp bạch Pháp chánh luận pháp tỳ-ni bạch.
  31. Pháp bạch hỏi Thượng tọa Nhất Thiết Pháp, Pháp Thượng tọa đáp.
  32. Pháp bạch hành Xá-la lẽ ra có pháp bạch.

Yết-ma bạch nhị có năm mươi bảy pháp:

  1. Pháp làm phòng nhỏ
  2. Pháp làm phòng lớn
  3. Pháp sai người chia đồ nằm
  4. Pháp sai nói tội thô.
  5. Pháp hai mươi bảy trả y
  6. Pháp lìa y
  7. Pháp chưa đủ sáu năm may đồ nằm mới.
  8. Pháp hộ bát
  9. Pháp sai thầy Giáo thọ ni.
  10. Pháp ngăn và giải không đến nhà học gia
  11. Pháp nuôi chúng
  12. Pháp ni sai cầu Giáo thọ
  13. Pháp ni sai người đến trong tăng cầu tự tứ
  14. Pháp cho ngoại đạo ở
  15. Pháp kết tiểu giới, thọ giới và giải giới.
  16. Pháp kết chỗ thuyết giới và giải giới
  17. Pháp kết đại giới và giải giới
  18. Pháp kết giới tràng
  19. Pháp kết giới hai giới đồng
  20. Pháp kết đồng một giới
  21. Pháp kết giới thức ăn đồng. Ba giới trên đều có giải giới.
  22. Pháp cùng với người cuồng điên và giải giới.
  23. Pháp thọ nhật
  24. Pháp sai người thọ tự tứ
  25. Pháp kết tiểu giới tự tứ và giải giới.
  26. Pháp nhận vật của tăng bốn phương.
  27. Pháp thưởng người săn sóc bệnh
  28. Pháp phân vật của người đã mất
  29. Pháp kết kho chứa
  30. Pháp sai người giữ kho
  31. Pháp kết tịnh địa nên giải giới.
  32. Pháp sai người giữ y công đức
  33. Pháp trao y công đức
  34. Pháp người tại gia sai người sám hối
  35. Pháp sai người phát thẻ
  36. Pháp sai sứ bảo người đáng tin đi thọ giới.
  37. Pháp ni cùng tăng tác pháp không làm lễ và giải giới.
  38. Pháp sai Tỳ-kheo sửa sang phòng xá. Hai pháp đem phòng cũ cho người xuất gia, tại gia kinh doanh
  39. Pháp úp bát
  40. Pháp dùng gậy quảy bát.

Văn luận nên đầy đủ như trên; phải có pháp sai người chia cháo, chia tiểu thực, chia Khư-xà-ni, sau thỉnh trải đồ ngồi, chia áo tắm, y có thể chia, cho Tỳ-kheo, Sa-di.

YẾT-MA BẠCH TỨ CÓ BA MƯƠI TÁM PHÁP

  1. Pháp can ngăn phá Tăng
  2. Pháp can ngăn giúp phá Tăng
  3. Pháp can ngăn bị đuổi phỉ báng
  4. Pháp can ngăn người có tánh xấu ác
  5. Pháp can ngăn tà kiến xấu ác. Hai pháp can ngăn do tà kiến bị đuổi.
  6. Pháp can ngăn Tỳ-kheo-ni theo người bị cử.
  7. Pháp can ngăn khuyên gần gũi ở chung
  8. Pháp can ngăn vì tức giận bỏ Tam bảo
  9. Pháp can ngăn sự phát khởi tranh cãi
  10. Pháp can ngăn gần gũi con của Cư sĩ.
  11. Pháp học giới Thức-xoa
  12. Pháp thọ giới cụ túc
  13. Pháp học hối
  14. Pháp quở trách và giải bỏ pháp ấy
  15. Pháp đuổi ra và giải bỏ pháp ấy
  16. Pháp nương y chỉ và giải bỏ pháp ấy
  17. Pháp ngăn đến nhà người tại gia và giải bỏ pháp ấy
  18. Pháp không thấy nêu tội và giải bỏ pháp ấy
  19. Pháp không sám hối và giải bỏ pháp ấy
  20. Pháp không xã và giải bỏ pháp ấy
  21. Pháp cùng che giấu
  22. Pháp bản nhật trị.
  23. Pháp Ma-na-đỏa
  24. Pháp xuất tội
  25. Pháp ức niệm
  26. Pháp bất si
  27. Pháp tội nơi chốn

PHÁP ĐỐI THÚ YẾT-MA LƯỢC CÓ BA MƯƠI BA

Phật dạy: Ba lần nói thọ giới đã gọi là khéo làm yết-ma, trong pháp thuyết giới cũng giống như vậy.

Luận Thập Tụng nói: Tâm niệm đối thú phân y gọi là làm yết-ma.

Tỳ-kheo đến sau không cho phân, nghĩa là phân hai thứ riêng biệt:

  1. Pháp Đản đối thú
  2. Pháp chúng pháp đối thú

Văn chung cho các bộ đều như nêu ở dưới.

PHÁP ĐÃN ĐỐI THỦ CÓ HAI MƯƠI TÁM

  1. Pháp thọ ba y và xả ba y.
  2. Pháp thọ bát và xả bát
  3. Pháp thọ Ni-sư-đàn và xả Ni-sư-đàn
  4. Pháp thọ một trăm lẻ một y vật và xả một trăm lẻ một y vật.
  5. Pháp xả thỉnh
  6. Pháp xả giới
  7. Pháp thọ thỉnh y chỉ
  8. Pháp thuyết tịnh y
  9. Pháp thuyết tịnh bát
  10. Pháp thuyết tịnh thuốc
  11. Pháp thọ ba thứ thuốc
  12. Pháp thọ thuốc bảy ngày Pháp an cư.
  13. Pháp dự dục.
  14. Pháp sám hối tội Ba-dật-đề
  15. Pháp sám hối tội Đề-xá-ni
  16. Pháp sám hối tội Thâu-lan-già
  17. Pháp sám hối tội Đột-cát-la nặng
  18. Pháp chỉ rõ sáu nhóm
  19. Pháp phát lồ tội nặng của người khác
  20. Pháp xả hành tăng tàn
  21. Pháp bạch hành hạnh
  22. Pháp bạch tăng tàn và các hành pháp
  23. Pháp ni bạch vào chùa tăng
  24. Pháp ni thỉnh giáo thọ Làm pháp thức ăn dư.
  25. Chúng pháp đối thú có năm: Pháp xả đọa, pháp thuyết giới, pháp tự tứ, pháp thọ Tăng được cúng, pháp thọ vật của năm chúng qua đời.
  26. Tâm niệm yết-ma lược có mười bốn:

Nghĩa là chia ra ba phần riêng biệt

  1. Pháp đãn tâm niệm
  2. Pháp đối thú tâm niệm
  3. Pháp chúng pháp tâm niệm.

Đều chung cho các bộ, cho đến theo văn sẽ tự rõ, y cứ pháp tăng yết-ma riêng luật Tứ Phần:

Pháp Đãn tâm niệm có ba:

  1. Pháp sám hối tội Đột-cát-la nhẹ
  2. Pháp sáu niệm
  3. Pháp thuyết giới Trung tòa phát lồ các tội.

Pháp tâm niệm đối thú, có bảy:

  1. Pháp an cư
  2. Pháp thuyết tịnh
  3. Pháp thọ thuốc
  4. Pháp thọ thuốc bảy ngày
  5. Pháp thọ trì ba y
  6. Pháp xả ba y
  7. Pháp thọ trì bát.

Chúng Pháp tâm niệm pháp, có bốn:

  1. Pháp thuyết giới
  2. Pháp tự tứ
  3. Pháp thọ tăng được cúng dường
  4. Pháp thọ vật của người trong năm chúng qua đời.

Trước đã nói lược các duyên nhóm họp, phần sau nói về duyên thành hoại.

Trước nói pháp của tăng.

Trong luật, Phật dạy: Có bốn loại tăng:

  1. Tăng bốn vị: Trừ thọ giới, tự tứ, xuất tội, còn tất cả yết-ma đều làm được.
  2. Tăng năm vị: Trừ thọ giới, xuất tội ở Trung quốc.
  3. Tăng mười vị: Trừ pháp xuất tội.
  4. Tăng hai mươi vị: Tất cả yết-ma đều làm được, huống chi hơn hai mươi vị. Nếu thiếu một vị thì yết-ma phi pháp, phi Tỳ-ni, không thành.

THỨ NHẤT: XỨNG LƯỢNG VIỆC TRƯỚC

Luận Tỳ-ni Mẫu nói: Sự nghĩa là người và pháp.

Luật nói: Xớng lượng Tỳ-kheo và người tại gia.

Xớng lượng yết-ma và phạm việc.

Nhưng duyên đã làm không ngoài ba thứ, đó là nhân, pháp, và sự. Như thọ giới, sám hối, sai sứ, trị tẫn, v.v… là vì người cho nên làm. Như thuyết giới, tự tứ, v.v… là vì pháp cho nên làm. Như kết giới, nhiếp y, tịnh địa, kho tàng, vì pháp nên làm, hoặc cụ, hoặc đơn, khi ly khi hợp đều trước phải lượng xét căn cứ khiến cho duyên tông thành tựu đúng pháp.

THỨ HAI: CHỖ PHÁP KHỞI NƯƠNG GÁ

Luật Tăng-kỳ nói: Chẳng phải chỗ làm yết-ma không được nhận dục để làm việc tăng. Trong luật nói: Nếu tác pháp yết-ma thì trước phải biết giới. Nhưng chỗ nương gá có hai thứ: Như trong giới tự nhiên chỉ có một pháp yết-ma kiết giới, còn bao nhiêu pháp tăng đều tác pháp trong giới. Nếu hai pháp Đối thú và Tâm niệm thì chung cho cả hai giới.

THỨ BA: PHƯƠNG PHÁP NHÓM TĂNG

Trong luật nói: Phật dạy: Phải sửa soạn chỗ ngồi đánh kiền-chùy, nhóm chung một chỗ. Luật Ngũ Phần nói: Tùy theo chỗ có cây, ngói, đồng, sắt, khi đánh thì bảo tịnh nhân, Sa-di đánh. Nếu không có Sadi thì Tỳ-kheo đánh cũng được, không được đánh quá ba hồi. Trong truyện Phó Pháp Tạng dạy cách đánh kiền-chùy kéo dài. Trong kinh Tam Thiên oai nghi có nói tiếng số chùy đánh xuống.

Luật Tát-bà-đa nói: Pháp nhóm tăng đánh kiền-chùy phải có căn cứ. Thường lệ không được thay đổi.

THỨ TƯ: CĂN CỨ VÀO GIỚI NHÓM HỌP TĂNG.

Giới cuối có hai thứ, như giới tác pháp thì có ba loại: Nghĩa là đại giới, giới tràng, và tiểu giới.

Nếu nói về Tiểu giới, không được nhóm họp ở ngoài. Nếu là giới tràng, đại giới đều phải xướng trong chừng hạn mà nhóm họp. Nếu giới tự nhiên thì chia làm bốn thứ khác nhau: Nghĩa là giới xóm làng, giới lan-nhã; giới đi đường; giới dưới nước.

1. Nói về giới xóm làng có hai: Nếu giới xóm làng thì có phân biệt và không phân biệt. Theo luật Tăng-kỳ, lượng bảy cây tính chung sáu khoảng, có sáu mươi ba bước. Nếu không có chúng khác thì yết-ma được thành tựu. Nếu phân biệt được xóm làng, y theo Luật Thập Tụng đều nhóm họp trong xóm làng.

2. Nói về lan-nhã cũng có hai: Nếu không có nạn thì các bộ phần nhiều đều nói: Một câu-lâu-xá. Xét trong Kinh Tạp Bảo Tạng nói là: Năm dặm. Truyền cho nhau lấy đây làm quyết định; nếu lan-nhã có nạn sự, như luật Thiện Kiến nói: lượng bảy bàn-đà cách nhau bốn mươi tám thước, tức là bốn thước tám tấc thì được làm pháp yết-ma.

3. Nói về giới đi đường: theo luận Tát-bà-đa và luật Thập Tụng, thì bề rộng sáu trăm thước.

4. Nói về giới dưới nước: Như luật Ngũ Phần nói: ở trên thuyền, trong chúng có người nào có sức khỏe, lấy nước hoặc cát ném về bốn phía đến chỗ nào thì đó là giới. Sáu tướng này đều gọi là thân, mặt xoay về các hướng, trong chừng hạn đó nhóm tăng, không có người mới đúng pháp.

THỨ NĂM: ĐÚNG PHÁP HÒA HỢP

Luật nói: Người nên đến thì đến; người đáng gởi dục thì cho gởi dục; người hiện tiền đáng quở trách không quở trách, đó gọi là hòa hợp. Trái với ba việc trên thành riêng chúng.

THỨ SÁU: PHÂN BIỆT VỚI CHÚNG ĐÚNG SAI.

Trong luật nói: Người chưa thọ giới cụ túc thì đuổi ra v.v… Lại nói có bốn thứ đủ số.

1. Có người được đủ số không nên quở trách, hoặc cho làm pháp quở trách đuổi ra. Xuất y chỉ yết-ma, ngăn không đến nhà người tại gia yết-ma, đó là bốn hạng người.

2. Có người không được tính đủ số nên quở trách: Nghĩa là như người muốn thọ đại giới.

3. Người không được tính đủ số cũng không được quở trách: Nếu vì Tỳ-kheo làm pháp yết-ma cho đủ số Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, hoặc người nói phạm biên tội v.v… và người mắc mười ba nạn, hoặc bị cử tội ba lần, hoặc bị đuổi, hoặc đáng bị đuổi, hoặc biệt trụ, hoặc lên giới tràng, hoặc thần túc ở trên hư không, ẩn núp, lìa chỗ thấy nghe. Nếu người bị làm pháp yết-ma, v.v… hai mươi tám việc như thế là hai mươi tám thứ không được tính đủ số.

Lại nói: Thực hành che giấu, bản nhật trị, Ma-na-đỏa, giải tội cho người.

Luật Thập Tụng nói: Thực hành che giấu xong, bản nhật trị xong, sáu đêm xong, người có bảy thứ trên đây, Phật dạy: Không được tính đủ số.

Luật Thập Tụng nói: Người ngủ say, người nói loạn, người nói ồn ào, người nhập định, người câm, người điếc, người vừa câm vừa điếc, người cuồng, người loạn tâm, người bệnh hoại tâm. Tỳ-kheo, người tại gia ở trên cây, mười hai hạng người ấy không được tính thành đủ số thọ giới.

Luật Ma-đắc-Lặc-già nói: Người bệnh nặng, người biên địa, người si độn, ba tạng người ấy không được tính thành đủ số chúng.

Luật Tăng-kỳ nói: Nếu người gởi dục, hoặc ngăn cách, hoặc nửa che nửa trống, giữa ngăn cách, hoặc nửa che nửa trống, duỗi tay không đụng nhau.

Lại nói: Nếu chúng tăng đi mà làm pháp yết-ma ngồi thì trái pháp, cho đến đứng, ngồi, tác pháp lẫn nhau cũng như vậy.

Luận Tứ Phần nói: Ta đến chỗ thuyết giới không ngồi là làm pháp riêng chúng, Phật nói là trái pháp.

Luật Ngũ Phần nói: Người bệnh đều làm yết-ma thuyết giới, Phật nói là riêng chúng, nghĩa là như người say v.v… hoặc mình nói người trước không hiểu, tâm cảnh không xứng nhau v.v… đều gọi là phi pháp. Cho nên trong luật, trong pháp thọ giới, xả giới nói: Hoặc người ngủ say, người cuồng giận không hiểu nhau, như duyên trước đều không thành. Lại cần phải biết biệt chúng không đủ số v.v… bốn câu khác nhau gặp cơ hội nói rõ, lựa chọn hai duyên thành, hoại.

4. Có người được tính đủ số cũng được quở trách, như Thiện Tỳkheo đồng ở một giới không lìa chỗ thấy nghe, cho đến nói với người bên cạnh, những người như thế đều gồm đủ hai pháp.

THỨ BẢY: THUYẾT DỤC THANH TỊNH

Trong luật nói: Các Tỳ-kheo không đến thì thuyết dục và thanh tịnh.

Trong đây có ba pháp là: Gởi dục, nhận dục, và thuyết dục.

1. Pháp gởi dục: Nếu có việc Phật, Pháp, Tăng, người bệnh, việc nuôi người bệnh, đều cho pháp gởi dục, chỉ trừ pháp kiết giới. Có năm thứ gởi dục: hoặc nói gởi dục cho thầy, hoặc nói tôi thuyết dục, hoặc nói thuyết dục dùm tôi, hoặc hiện thân tướng, hoặc nói đầy đủ thuyết dục thành gởi dục. Nếu không hiện thân tướng, miệng không nói thì không thành, phải gởi dục lại cho người khác.

Lại nói: Gởi dục thanh tịnh, đều nói một lúc, không được nói riêng. Nếu muốn nói rộng thì phải sửa sang oai nghi đầy đủ, đến người đáng truyền dục nói như vầy:

Bạch Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Tỳ-kheo pháp danh … đúng như pháp tăng sự gởi dục thanh tịnh. (Nói một lần).

Phật dạy: Nếu nhớ được tánh, tướng, danh loại, tùy ý nhiều ít mà nhận dục. Nếu không thể ghi nhớ, chỉ cần nói rất nhiều Tỳ-kheo gởi dục thanh tịnh cũng được.

2. Nói về pháp nhận dục:

Phật dạy: Nếu người thọ dục, nhận dục rồi liền qua đời, hoặc ra ngoài giới, hoặc thôi tu, hoặc theo ngoại đạo, hoặc theo các bộ chúng khác, hoặc đến giới tràng, hoặc minh tướng xuất hiện v.v… là bảy duyên. Hoặc tự nói mười ba nạn phạm biên tội v.v…, ba lần cử tội hai lần diệt tẫn, ẩn núp trong hư không, lìa chỗ thấy nghe, các duyên như thế chung cho hai mươi tám duyên, đều không thành thọ dục, hoặc đi giữa đường, hoặc đến trong tăng cũng như vậy, phải gởi dục lại cho người khác.

Luật Tăng-kỳ nói: Có năm thứ mất dục: như trong chúng không đủ số. Lại nói: Người ở ngoài giới nhận dục, dự dục, ra ngoài giới (người gởi dục ra ngoài giới rồi). Gởi dục rồi tự đến trong tăng, lại ra ngoài chúng. Thứ năm là đem dục đến trong tăng, vì có nạn sợ hãi xảy ra không còn một người ở, những việc như thế đều gọi là mất dục.

Luật Thập Tụng nói: Cho người bị che giấu với ba hạng người mất dục.

Luật Ngũ Phần nói: Cho ni năm vị, người cuồng v.v… ba vị, hoặc người trở ra ngoài chúng đều không thành gởi dục.

Luật Thập Tụng nói: Người thanh tịnh nhận dục, nếu lúc nhận dục hoặc khi nhận xong, tự mình nói chẳng phải Tỳ-kheo, thì không thành dục thanh tịnh. Luật nói: Tỳ-kheo đem dục tự có việc xảy ra không kịp đến trong tăng, cho pháp trao dục cho Tỳ-kheo khác, nên nói như sau:

Bạch Đại đức một lòng nghĩ. Tôi là Tỳ-kheo pháp danh … cùng rất nhiều Tỳ-kheo thọ dục thanh tịnh kia và thân tôi, việc tăng đúng pháp, gởi dục thanh tịnh.

3. Nói rõ pháp thuyết dục:

Luật Tăng-kỳ nói: Không được hướng về người như vậy gởi dục, nên đến người có khả năng đem dục đến nói trong tăng. Nếu có người nói được, khi vị yết-ma đã hỏi như trước, người đem dục kia nên đáp như vầy:

Bạch Đại đức tăng nghe, tôi là Tỳ-kheo pháp danh … có nhận dục thanh tịnh. Nếu khi tự tự nên nói: Gởi dục tự tứ, còn bao nhiêu lời đồng như trên.

Phật dạy: Nếu người nhận dục, hoặc ngủ say, hoặc nhập định, hoặc quên, hoặc không cố làm đều thành. Nếu cố không nói thì mắc tội Đột-cát-la. Nếu người bệnh nặng nên đưa đến trong tăng, sợ bệnh nặng thêm, thì Tăng đến chỗ người bệnh, hoặc ra ngoài giới tác pháp, không được riêng chúng. Nếu đi giữa đường gặp nạn, ngoài giới đem dục đến trong tăng thì được thành.

THỨ TÁM: CHÍNH THỨC TRÌNH BÀY BẢN Ý

Nghĩa là trong tăng; riêng có hai duyên: Hoặc chỗ sáng lập pháp, thì dựng nêu xướng tướng; hoặc chỗ thường dùng để nhóm họp thì phải đưa thẻ, thưa bạch, v.v…

Việc riêng cũng có hai: Nếu trái với tình ý thì trị phạt, tác pháp xin nêu tội; nếu thuận theo tình ý thì cho phép thỉnh mời, phần nhiều phải có lời xin, lời văn đều rõ ràng.

THỨ CHÍN: HỎI VỀ VIỆC ĐẦU MỐI

Trong luật nói: Tăng nay hòa hợp để làm gì? Việc có, chung riêng, tạm thời chỉ hỏi chung một lần.

THỨ MƯỜI: PHÁP DO ĐÁP MÀ THÀNH

Trong luật nói: Phải đáp làm yết-ma gì, nhưng việc có trước có sau, duyên pháp có chung có riêng, lúc thuyết giới tự tứ nên ở sau, tác pháp thọ giới xả đọa, nghĩa là gồm cả chung và riêng, hoặc kết giới, xả giới, lẽ ra không đáp hai và trước phải rõ ràng xác thực, sau đó mới hỏi đáp.

PHÁP NÓI RẤT ĐÔNG NGƯỜI

Nếu làm pháp đãn đối thú, như đem y thuyết tịnh… chung cho cả hai giới chỉ có người là riêng. Nếu làm pháp chúng pháp đối thú, như xả đọa thuyết giới… hai giới đều nhóm họp hết, chẳng phân biệt chúng pháp thì hai giới khác nhau, và trước phải biết rõ nghĩa không lẫn lộn.

SAU NÓI VỀ PHÁP MỘT NGƯỜI.

Nếu pháp Đãn tâm niệm sự chung hai giới, người chỉ có một mình. Nếu đối thú tâm niệm và chúng pháp, tâm niệm, giới chung cho hai chỗ có người không được, đều sắp xếp như trong pháp nhóm họp. Ba tướng rõ rằng, không cho các duyên sắp đến dẫn đến sự sai lầm, pháp thức không thành.

Ở trước nói lược pháp thành tựu đầy đủ duyên, sau nói tướng phi pháp Tăng pháp yết-ma đủ bảy tội.

Phật dạy: Có bảy thứ yết-ma phi pháp không nên làm.

1. Yết-ma trái pháp trái Tỳ-ni:

Nghĩa là một người nêu tội một người, cho đến trong tăng nêu tội tăng. Một lần bạch nhiều lần bạch, một lần yết-ma nhiều lần yết-ma, đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ yết-ma, xen lẫn nhau mà làm. Nếu có bệnh không thuốc, có thuốc không bệnh, có sự có pháp, bố thí không tương đối.

Kinh Tỳ-ni Mẫu nói: Nếu thuyết yết-ma nói không rõ ràng, các tướng nhân, pháp, sự như thế đều chẳng phải sở nhiếp.

2. Yết-ma trái pháp riêng chúng:

Nghĩa là bạch yết-ma việc này mà làm việc kia, gọi là trái pháp, người đáng đến không đến, người đáng gởi dục không gởi dục, người hiện tiền đáng quở trách thì quở trách, gọi là riêng chúng.

3. Yết-ma trái pháp hòa hợp chúng:

Trái pháp đồng như trước, hòa hợp trái với ở trên.

4. Yết-ma đúng pháp mà riêng chúng:

Đúng pháp và trái pháp, riêng chúng đồng như trước.

5. Pháp yết-ma tương tự riêng chúng:

Nghĩa là trước làm yết-ma, sau tác bạch, gọi là pháp Tương tự, riêng chúng, đồng như trước.

6. Pháp yết-ma tương tự hòa hợp chúng:

Pháp tương tự như trên hòa hợp, đồng như trước.

7. Yết-ma quở trách không dừng:

Nghĩa là yết-ma đúng pháp, cần phải tăng đồng thưa bạch, nay người được quở trách thì quở trách, nếu trụ thì đúng pháp, trái lại quở trách không dứt thì gọi là trái pháp.

NGHĨA LẬP BẢY THỨ TRÁI

Nghĩa là luật y cứ theo việc chia là bảy thứ trái: Nay dùng nghĩa cầu xin thâu nhiếp hết pháp trái này, gọi là đơn bạch yết-ma ba mươi chín thứ. Mỗi thứ đều có tướng trái, nghĩa thì đồng, lỗi thì khác nhau. Bạch nhị, bạch tứ cũng giống nhau, nếu không phân biệt rõ thì thành trái, đâu thể hiển bày được. Nay vả lại y cứ đơn bạch thuyết giới, giải đủ bảy thứ trái, còn ba thứ khác so sánh ra rất dễ hiểu:

1. Người trái: Nghĩa là biết lỗi không sám hối, nghi tội không phát lộ, trong giới riêng chúng, không đúng pháp v.v…

2. Pháp trái: Nghĩa là ba người trở xuống, đơn bạch thuyết giới, xen lẫn với nhau, mà còn quở trách không dừng, nói không rõ ràng v.v…

3. Sự trái: Nghĩa là thời trái với chánh pháp, rộng lược không có duyên, các đồ cần dùng có thiếu, giới chẳng phải Phật chế.

4. Nhân, pháp trái: Nghĩa là đầy đủ hai pháp trái, chỉ có sự thì nương pháp.

5. Nhân, sự trái: Pháp tuy đúng với giáo pháp, nhưng nhân, sự trái vượt.

6. Pháp, sự trái: Người tuy đúng luật, hai pháp thì trái, gọi là Hoại.

7. Nhân, pháp, sự trái: Ba tướng đều trái, như loại trước mà nhận lấy, lẽ ra phải thông suốt các duyên, hiểu rõ thành bại. Cho nên khi Phật còn ở đời, một việc một chỗ làm đều thành khi pháp, huống chi nay đời Tượng mạt cuối cùng. Ôi đâu nên khinh thường ư. Nghĩa là không nên biếng nhác, ngã mạn.

YẾT-MA ĐỐI THÚ CŨNG CÓ ĐỦ BẢY THỨ SAI LẦM.

Y cứ trong đó chia làm hai phần, nếu pháp Đãn đối thú chỉ lấy ra một pháp trí y, để hiển bày tướng trái, còn các pháp thuyết tịnh khác giống như đây, cho nên biết đối với duyên có khác.

1. Nhân trái: Nghĩa là người thọ đối phạm tội trọng, già nạn có quở trách thì quở trách, hoặc đối với tăng, tục mà tác pháp.

2. Pháp trái: Nghĩa là trì pháp lẫn lộn, nói không hiểu rõ.

3. Sự trái: Nghĩa là phạm tội xả đọa khác với xả tài, không đúng với lời Phật dạy, hoặc năm mầu sắc chánh v.v…, thọ trì không thành.

4. Nhân, pháp trái

5. Nhân, sự trái . Sự, pháp trái . Đủ ba thứ trái.

Đều như các ví dụ trên mà biết văn, biết tướng, hoặc các pháp đối thú cũng đủ bảy thứ trái. Ở đây trích lấy một pháp xả đọa, điều hiểu rõ ràng, còn bao nhiêu lệ đồng có khác.

1. Nhân trái: Nghĩa là trong giới người riêng chúng là sai, người đúng pháp quở trách dù có quở trách, ngăn dứt tức là trái.

2. Pháp trái: Xả sám hối, trả lại tài vật, các pháp trái với chánh pháp.

3. Sự trái: Phạm lỗi y tài, như luật đã quyết đoán, sẽ trái với lời Phật dạy, lẽ ra không có sám hối và xả, đều biết tướng mà càng trái pháp, có trái với phần lỗi, càng không biết tội.

NHÂN, PHÁP TRÁI CHO ĐẾN THỨ BẢY ĐỦ BA THỨ TRÁI

Hiển bày tướng như trước.

Tâm niệm yết-ma cũng đủ bảy thứ trái.

Y cứ vào đó có ba: Đầu tiên là Đãn tâm niệm pháp, chỉ cho sám hối tội nhẹ, Đột-cát-la đều giải, bao nhiêu việc khác so sánh đồng.

1. Người trái: Nghĩa là đối với người sám hối, thể chẳng đúng như lời Phật dạy.

2. Pháp trái: Nghĩa là Đãn tâm niệm, mà miệng không nói, tuy nói mà không rõ ràng, hoặc thêm bớt, lộn quên.

3. Sự trái: Do sự duyên nên lầm phạm có nhẹ nặng, hoặc cảnh chung rất nhiều, không rõ tướng trước.

4. Người pháp trái cho đến thứ bảy đủ ba thứ trái.

Như Đối thú tâm niệm và các pháp tâm niệm, mỗi thứ đều có bảy thứ trái. Người chung chúng riêng, hai chỗ giới và duyên đều phải y theo phép tắc, tùy theo việc mà hiểu biết.

*****

THIÊN THỨ HAI: CÁC GIỚI KIẾT GIẢI

Giới riêng có ba nhiếp:

1. Tăng giới nhiếp, người vì đồng chỗ, khiến cho không có tội biệt chúng.

2. Y giới nhiếp, nhiếp y để thuộc về người, khiến cho không có tội lìa y ngủ.

3. Thực giới nhiếp, nhiếp thức ăn đế ngăn tăng khiến cho không có tội ngủ chung với thức ăn. Ý tông chỉ như đây.

PHÁP TĂNG GIỚI KẾT GIẢI THỨ NHẤT

Có ba thứ giới tăng: Một là đại giới; hai là giới tràng; ba là tiểu giới.

Nay y cứ vào đại giới lại có ba thứ: Nghĩa là hai thứ nhân, pháp là đồng; hai món pháp, thực là đồng; pháp đồng mà ăn riêng. Ban đầu y theo bản luật chế, sau tùy duyên khai riêng.

Ban đầu kiết đại giới:

Bấy giờ, tăng bốn phương nhóm họp mệt mỏi. Phật dạy cho phép tùy theo chỗ ở nào thì kiết giới ở đó, phải nhóm hết không được nhận dục. Trong đó Tỳ-kheo cựu trụ nên xướng tướng bốn phương của đại giới. Như có núi, cây, rừng, ao, thành, hào thành, thôn xóm, nhà cửa, tùy theo mà nói ra. Nghĩa là phải lập phương pháp. Như trước trong pháp Tăng, đủ bảy duyên rồi, một vị Tỳ-kheo bạch với tăng rằng:

Bạch Đại đức Tăng xin lắng nghe, con là Tỳ-kheo cựu trụ vì Tăng xướng tướng bốn phương Đại giới, từ góc Đông nam lấy chỗ nào làm nêu, đến góc Tây Nam lấy chỗ nào làm nêu. Từ đây đến góc Tây bắc chỗ nào làm nêu. Từ đây trở xuống đến góc Đông nam lấy chỗ nào làm nêu. Đây là tướng ngoài đại giới, một vòng xong.

Chắc chắn có chỗ quanh co, tùy theo việc mà nói, đều phải chỉ riêng chỗ nào phạm vi và thước tấc. Bởi không biết hạn chế, kết đã không thành, mà yết-ma cũng, luống lập, các pháp thọ giới đều là làm suông, nên cần phải biết rõ ràng như trên, xướng tướng ba lần rồi. Phật dạy: Trong chúng người đáng sai làm yết-ma, hoặc bậc Thượng tọa hoặc thứ lớp, hoặc người tụng luật, người có khả năng làm yết-ma, hỏi đáp rồi bạch như vầy:

Bạch Đại Đức tăng lắng nghe. Tỳ-kheo ở trụ xứ này xướng tướng bốn phương đại giới. Nếu thời giờ của tăng dã đến, tăng bằng lòng cho. Tăng nay ở trong bốn phương này kiết đại giới, đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Xin bạch như vậy.

Bạch Đại đức Tăng nghe. Tỳ-kheo trụ xứ này xướng tướng bốn phương đại giới. Nay Tăng ở trong tướng bốn phương kết đại giới, đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Các Trưởng lão nào bằng lòng cho nay Tăng ở trong tướng bốn phương này kiết đại giới, đồng một trụ xứ, đồng một yết-ma thì im lặng. Vị nào không bằng lòng thì nói lên. Tăng đã bằng lòng ở trong tướng bốn phương này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, kết đại giới xong. Vì Tăng bằng lòng nên im lặng, việc này như thế mà thực hành.

PHÁP GIẢI ĐẠI GIỚI

Bấy giờ, các Tỳ-kheo, người muốn làm rộng, người muốn làm hẹp. Phật dạy: Muốn sửa đổi làm lại thì trước phải giải giới trước, sau đó rộng hẹp tùy ý mà làm, nên giải như vầy.

Bạch Đại đức tăng nghe, Tỳ-kheo trụ xứ này, đồng một trụ xứ đồng một thuyết giới. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho giải giới, bạch như vầy.

Bạch Đại đức tăng nghe! Tỳ-kheo ở trụ xứ này, đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Nay xin hỏi các trưởng lão nào bằng lòng cho tăng đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì nói ra. Tăng đã bằng lòng cho đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, giải giới xong, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên hành trì như thế.

Pháp yết-ma này giải chung đại giới có giới tràng. Do văn không hạn cuộc nên được phép như vậy.

PHÁP KẾT ĐỒNG PHÁP LỢI GIỚI.

Bấy giờ hai trụ xứ nọ có thuyết giới riêng, lợi dưỡng riêng, muốn được cùng thuyết giới, đồng lợi dưỡng. Phật dạy: Cho phép tự giải giới của mình. Nếu nhóm họp một chỗ không được thọ dục, phải xướng tướng của phương kết. Văn kết và văn lược ở trước đồng, chỉ có tăng ở hai chỗ kia, đây biết đại giới, đồng thuyết giới lợi dưỡng là khác.

PHÁP KẾT GIỚI ĐỒNG, PHÁP LỢI DƯỠNG RIÊNG

Bấy giờ, có hai trụ xứ, thuyết riêng giới, lợi dưỡng riêng, muốn đồng thuyết giới, lợi dưỡng riêng. Phật dạy: Cả hai phải giải giới rồi kết chung, văn lược đồng với trước. Lại có hai trụ xứ muốn thuyết giới riêng, lợi dưỡng chung, vì muốn giữ gìn trụ xứ. Phật dạy: Cho phép vật của tăng bốn phương được hòa hợp.

PHÁP KẾT GIỚI TRÀNG

Bấy giờ, các Tỳ-kheo phải có bốn vị, làm các việc yết-ma xây cất, chúng năm vị Tỳ-kheo, chúng mười vị, chúng hai mươi vị làm các việc yết-ma xây cất. Trong đây, đại chúng nhóm họp rất mệt mỏi. Phật dạy: Cho phép kết giới tràng gọi là tưởng bốn phương, hoặc đóng nọc, hoặc đá, hoặc bờ nêu, làm chừng hạn thôi.

Kinh Tỳ-ni Mẫu nói: Sẽ lấy phạm vi đại giới.

Luật Ngũ Phần nói: Các luật phải biết trước đại giới. Nếu muốn làm trước để ba lớp nêu bao trong một lớp, gọi là tướng ngoại giới tràng, khoảng giữa một lớp gọi là nội tướng đại giới, một lớp tột bên ngoài gọi là tướng ngoài đại giới. Lập ra ba tướng rồi đều ở trong giới tự nhiên. Tăng nhóm họp ở trong tướng nêu giới tràng. Trước bảo một vị Tỳ-kheo xướng tướng ngoài của giới tràng, nên tác bạch như vầy:

Bạch Đại đức tăng nghe, tôi là Tỳ-kheo ở trụ xứ này, vì tăng xướng tướng bốn phương của tiểu giới. Từ góc Đông nam này lấy mỗ làm nêu, đến góc Tây nam lấy mỗ làm nêu. Từ phía Bắc này cho đến góc Tây bắc lấy mỗ làm nêu. Từ phía Đông này đến góc Đông bắc lấy mỗ làm nêu. Từ phía Nam này đến góc Đông nam lấy mỗ làm nêu. Đây là tướng ngoài giới tràng một vòng đã xong.

Ba lần nói rồi nếu có quanh co, thì tùy theo việc nói đó, vị yết-ma nên biết như trên rồi bạch rằng:

Bạch Đại đức tăng lắng nghe. Tỳ-kheo ở trụ xứ này, xướng tướng bốn phương của tiểu giới. Nếu thời giờ làm việc của chúng tăng đã đến, Tăng bằng lòng cho, nay Tăng ở trong tướng bốn phương của tiểu giới này kết làm giới tràng, tác bạch như thế.

Bạch Đại đức Tăng lắng nghe. Tỳ-kheo ở trụ xứ này xướng tướng bốn phương của tiểu giới. Nay Tăng ở trong tướng bốn phương của tiểu giới này kết giới tràng. Các Trưởng lão nào bằng lòng tăng ở trong tướng bốn phương này kết giới tràng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì nói ra. Tăng đã bằng lòng ở trong tướng bốn phương nầy kết giới tràng rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này hành trì như vậy.

Kết rồi làm tấm bảng chỉ rõ chỗ, giúp cho người sau biết được chừng hạn các giới, còn bao nhiêu đều y theo đây.

PHÁP GIẢI GIỚI TRÀNG

Trong luật không có chánh văn, y cứ theo các pháp giải giới, đổi thành pháp kiết liền được, nay cũng nêu ra, lý thông văn thuận, nên tác bạch như vầy:

Bạch Đại đức tăng lắng nghe, nay Tăng nhóm họp ở trụ xứ này giải giới tràng. Nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho giải giới tràng, tác bạch như vậy.

Bạch Đại đức tăng lắng nghe! Nay Tăng nhóm họp ở trụ xứ này, giải giới tràng. Các Trưởng lão nào bằng lòng. Cho Tăng nhóm họp ở trụ xứ này để giải giới tràng thì im lặng. Ai không bằng lòng thì nói. Tăng đã bằng lòng cho tăng nhóm họp để giải giới tràng xong, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này hành trì như vậy.

PHÁP KẾT ĐẠI GIỚI CÓ GIỚI TRÀNG

Phật dạy: Không được hợp nước sông mà kết, trừ ra chỗ thường có ghe thuyền, cầu cống. Lại không được hai giới liền nhau phải để cách khoảng giữa.

Luật Ngũ Phần nói: không xướng tướng bốn phương thì kết giới không thành, văn luật nêu sơ lược, nên xướng tướng như thế.

Bạch Đại đức tăng lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo vì tăng xướng tướng bốn phương trong ngoài của đại giới, trước xướng tướng trong, từ tướng ngoài của giới tràng, góc Đông nam từ ngoài nêu khoảng hai thước lấy mỗ làm nêu. (Đây là y cứ về đương thời có thì nói, không cần văn tụng).

Đây là tướng trong của đại giới, góc Đông nam lấy mỗ làm nêu, từ phía Tây này cho đến góc Tây nam lấy mỗ làm nêu. Từ phía Bắc nầy đến góc Tây bắc lấy mỗ làm nêu. Từ phía Đông nầy đến góc Đông bắc lấy mỗ làm nêu. Từ phía Nam đây cho đến góc Đông nam lấy mỗ làm nêu.

Kế xướng tướng ngoài, từ góc Đông nam trụ xứ này đến chỗ đó lấy mỗ làm nêu, từ phương Tây đến góc Tây nam lấy mỗ làm nêu, từ phía Bắc này trở về đến góc Tây bắc lấy mỗ làm nêu, từ phía Đông nầy đến góc Đông bắc lấy mỗ làm nêu, từ phía Nam nầy đến góc Đông nam lấy mỗ làm nêu, kia là tướng trong, đây là tướng ngoài. Đây là tướng ngoài một vòng đã xong.

Ba lần xướng rồi, nếu muốn xướng tướng thì phải dẫn bốn, năm vị Tỳ-kheo ra ngoài giới tràng, tăng nhóm hết trong tướng nêu. Sau xướng hai lớp tướng nêu rồi, trong tăng mới thêm yết-ma, văn yết-ma đúng như pháp kiết đại giới, ban đầu không khác nên không trình bày nữa.

PHÁP KẾT BA TIỂU GIỚI

Ba tiểu giới này đều là việc nạn cho nên cho phép. Trong luật nói:

Người không đồng ý chưa ra khỏi giới, cho phép ở ngoài giới mau chóng nhóm lại một chỗ kiết tiểu giới thọ giới.

Lại nói: Nếu ngày Bồ-tát đi ở đường trống hay nơi không có làng xóm, chúng tăng không được hòa hợp, thì tùy theo bạn thân đồng thầy xuống đường, đều nhóm họp một chỗ kiết tiểu giới thuyết giới.

Lại nói: Nếu ngày tự tứ đi ở giữa đường chốn A-lan-nhã không có làng xóm, nếu không được hòa hợp thì tùy theo bạn thân, đồng thầy dời ở chỗ khác, kiết tiểu giới tự tứ. Cho nên biết chẳng phải nạn, không duyên kết loại liền, các nạn khai cho, nếu trái lời Phật dạy thì phạm.

Lại nữa: Đều không có tướng ngoài, tức là lấy ngồi chỗ của thân làm giới thể. Nên trong thiên Thọ Giới nói: Tăng nhóm họp ở chỗ này kiết tiểu giới. Trong thiên Tự Tứ nói: Chỗ ngồi của các Tỳ-kheo đã đủ, chỗ ngồi của Tỳ-kheo như thế, tăng ở trong đó kết tiểu giới, v.v… Nên biết đều không có tướng ngoài vì ngăn người quở trách, tức là trong pháp kết tiểu giới thọ giới nói: Người ngoài giới quở trách không thành quở trách, văn đây giải thích thành không có tướng ngoài. Nay có lập giới tướng kết ở trong phòng viện thì yết-ma không thành. Vì lập tướng đại giới không xướng là trái pháp, tiểu giới không có tướng, nên lập ra trái pháp.

Trong văn yết-ma có nhắc lại: Tiểu giới đã không có pháp xướng, yết-ma tự hiển bày tướng nêu, nên nói lại chỉ rõ bày rõ ràng, để không còn nghi ngờ lẫn lộn, nếu tùy theo mà kết thì phần nhiều thành phạm, một chẳng phải là khai duyên, hai là liền lập tướng, ba nơi chỗ không lâu bền. Trong văn nói: Không nên không giải giới mà đi, v.v…, bốn là vọng thông các pháp còn lại, tức là chẳng đúng với chế. Văn yết-ma đó như thường lệ.

PHÁP KẾT, GIẢI GIỚI Y

Có ba thứ tăng-già-lam, như đại giới bằng với chùa, hoặc đại giới nhỏ hơn chùa đều không cần kiết; hoặc giới lớn hơn chùa y theo pháp mà kết, thì tùy theo giới mà nhiếp y. Nhưng có lập ra yết-ma, không có thôn mà kiết, nếu y theo văn luật, trước hết giới y, nhiếp y trong thôn, sau do việc xảy ra mới trừ thôn. Nay lập chung một pháp bất luận có thôn hay không có thôn, pháp phải nên trừ như vậy.

Luận Tát-bà-đa nói: Chính là lập nghĩa này, do có năm ý thôn đến cho nên trừ, nếu trước không thôn tác pháp kết rồi. Chỗ ở của tịnh nhân ngoài thôn cho đến vào thôn, hễ ở chỗ nào thì đều chẳng phải là giới y. Nếu thôn dở đi, giới y vẫn nhiếp lại, nếu trước đã có thôn ở thì không nhiếp, thôn đi đất trống, giới y trở lại đầy đủ. Bởi vì thôn có đến có đi không cần kết giải. Trong luật Ngũ Phần đều có ý này.

PHÁP KẾT GIỚI NHIẾP Y

Bấy giờ, có Tỳ-kheo tu hạnh nhàm chán xa lìa, thấy chốn A-lannhã có một cái hang đẹp, tự nghĩ rằng: Ta nếu được ngủ lìa y, thì có thể nương vào hang này mà ở. Phật dạy: Cho kết giới không mất y, trừ dòng nước chảy mạnh, nên bạch rằng:

Bạch Đại đức tăng lắng nghe! ở chỗ này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Nếu thời giờ làm việc của chúng tăng đã dến, tăng bằng lòng cho kiết giới không mất y, trừ thôn trừ ranh giới ngoài thôn bạch như vầy:

Bạch Đại đức tăng lắng nghe, ở chỗ này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, nay Tăng kiết giới không mất y, trừ thôn, ranh giới ngoài thôn. Các vị trưởng lão nào bằng lòng cho tăng ở chỗ này đồng một trụ xứ đồng một thuyết giới, kết giới không mất y, trừ thôn, giới ngoài thôn thì im lặng. Ai không bằng lòng thì nói. Tăng đã bằng lòng chỗ này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, kết giới không mất y, trừ thôn, ranh giới ngoài thôn đã xong. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này thực hành như vậy.

Kết xong y cứ chỉ rõ chỗ nơi.

PHÁP GIẢI GIỚI NHIẾP Y

Phật dạy: Trước nên giải giới không mất y, rồi lại giải đại giới, nên tác pháp giải như vầy:

Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, ở đây đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng nay giải giới không mất y, tác bạch như vậy.

Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe. Ở đây đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới. Nay Tăng giải giới không mất y, các trưởng lão nào bằng lòng. Tăng đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, giải giới không mất y thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, giải giới không mất y. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này thực hành như thế.

PHÁP KIẾT GIẢI GIỚI THỨC ĂN

Phật dạy có bốn thứ tịnh địa.

1. Đàn việt tịnh: Nếu vì tăng xây chùa, chưa cúng cho tăng.

2. Tướng (viện) chùa không khắp thanh tịnh: Nếu trụ xứ của tăng phân nửa có hàng rào ngăn, hay phần nhiều không có hàng rào ngăn, hoặc đều không có rào ngăn, hoặc tường thấp, hoặc tường cao, hoặc rãnh, hoặc hàng rào tre cũng giống như thế.

3. Phân xử thanh tịnh: Lúc đầu xây chùa nếu là người kinh doanh phân xử lời như thế này, chỗ v.v… vì tăng làm tịnh địa.

4. Bạch nhị yết-ma mà kết: Nếu nghi trước có tịnh địa thì nên giải rồi lại kết.

PHÁP KẾT GIỚI NHIẾP THỨC ĂN

Bấy giờ, có Tỳ-kheo bệnh ói, các Tỳ-kheo chưa kịp đem cháo đến đã chết. Phật dạy: Cho ở trong chùa, bên chỗ phòng vắng, kết tịnh trù, nên xướng phòng, hoặc nhà sưởi ấm, hoặc ở trong giảng đường, kinh hành, hoặc phòng năm chúng xuất gia làm được, trừ phòng Tỳ-kheo. Luật Ngũ Phần nói: Nếu ở trong một phòng lấy một góc hay nửa phòng, hoặc nửa góc, hoặc trong sân, hoặc kết chung trong phòng tăng làm tịnh địa đều được. Luật dạy xướng tướng khi làm pháp kết, tăng ở ngoài viện xa xướng xa kết, nên xướng tướng rằng:

Bạch Đại đức Tăng lắng nghe cho, tôi là Tỳ-kheo v.v… vì Tăng xướng chỗ làm tịnh địa. Trong chùa này, phía Đông trong chùa mái hiên nhà trù, hoặc dưới các góc cây trái, đều làm tịnh đia. Xướng ba lần như vậy.

Nếu khi xướng lại các chỗ nào khác tùy ý, cứ lượng theo việc hạn cuộc chung chỗ yết-ma mà tác bạch rằng:

Bạch Đại đức tăng lắng nghe! Nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng nay kiết phía Đông mái hiên nhà trù trong chùa hoặc dưới các gốc cây đều làm tịnh địa, tác bạch như thế.

Bạch Đại đức tăng lắng nghe. Nay Tăng kết phía Đông mái hiên trong chùa và dưới góc cây đều làm tịnh địa. Các vị trưởng lão nào bằng lòng cho tăng kết phía đông mái hiên trong chùa và dưới gốc cây đều, làm tịnh địa thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng kết phía Đông mái hiên nhà trù trong chùa và dưới gốc cây đều, làm tịnh địa, Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này thực hành như vậy.

PHÁP GIẢI TỊNH ĐỊA

Luật nói: Nếu có duyên giải rồi kết lại, không trình bày văn giải, lệ theo pháp giải nên bạch rằng:

Bạch Đại Đức tăng lắng nghe! Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng nay giải tịnh địa chỗ mỗ, tác bạch như vậy.

Bạch Đại đức tăng lắng nghe, nay tăng giải tịnh y địa chỗ mỗ, các vị trưởng lão nào bằng lòng cho tăng giải tịnh địa chỗ mỗ thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng giải tịnh địa chỗ mỗ.

Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này thực hành như vậy.

****

THIÊN THỨ BA: CÁC PHÁP THỌ GIỚI

Giới pháp lý chung, nghĩa bao gồm xuất gia, tại gia, do người thọ năm giới có phạm thì giới cụ túc thành già nạn, nên phải hiểu suốt từ đầu đến cuối, thể tướng rõ ràng, bảy chúng đã thọ, thứ lớp nêu như sau:

PHÁP THỌ TAM QUY

Luận Tát-bà-đa nói: Lấy Tam bảo làm chỗ nương về, muốn được cứu giúp, không được xem thường.

Quy y Phật là trở về với Pháp thân, nghĩa là tất cả trí tuệ công đức vô học, năm Phần đã thành tựu.

Quy y pháp là quay về chỗ cùng tận của mình và người, nghĩa là đoạn dục, vô dục, diệt đế, Niết-bàn.

Quy y Tăng là trở về với Tăng Đệ nhất nghĩa, là ruộng phước công đức tốt lành của hàng Thanh văn hữu học và vô học.

Luật Thiện Kiến nói: Đều cần có thầy truyền trao, tiếng nói thuận nhau, nếu nói không ra tiếng, hoặc không đầy đủ, không xưng danh, không hiểu thì không thành, cho nên nói:

Con tên…………… suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (nói ba lần như vậy đã thuộc về pháp).

Con tên……………. suốt đời quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi (ba lần kết rồi, luật không có pháp thọ). Các văn luận có nêu ra đầy đủ, ở đây chỉ thọ ba quy y không có truyền giới. Nên luận nói ba quy y rồi, sau có thêm quy y và thọ giới. Nếu không có thêm thì chỉ có quy y, không có thọ giới.

PHÁP THỌ NĂM GIỚI

Trong kinh nói: Có thiện nam, tín nữ bố thí khắp cả chúng sinh trong bốn thiên hạ, cúng dường bốn thứ cần dùng suốt trong một trăm năm, không bằng công đức trì giới một ngày một đêm, do loại giới pháp chung cho cả tình cảnh và phi tình cảnh.

Luận nói: Vì giới nên bố thí thanh tịnh, phải hỏi già nạn trước khi thọ giới cụ túc.

Kinh Thiện Sinh nói: Ông có trộm vật của tăng hiện tiền hay không? Đối với sáu thân, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni có làm hạnh bất tịnh hay không? Cha mẹ, sư trưởng bệnh có bỏ đi hay không? Có giết chúng sinh phát tâm Bồ-đề hay không? Như thế v.v… hỏi đủ rồi. Nếu người không phạm nên bảo rằng:

Giới này là rất khó, có công năng làm cội gốc cho giới Thanh văn và Bồ-tát.

Nầy người thiện nam, giới có năm thứ; ban đầu từ không giết hại cho đến giới không uống rượu. Nếu thọ một giới, gọi là nhất phần Ưubà-tắc; giữ đủ năm giới, gọi là Mãn phần Ưu-bà-tắc. Nay ngươi muốn thọ giới nào thì được tùy ý mà thọ. Bấy giờ, người trí nên tùy theo lời nói mà cho thọ.

Các kinh như Kinh A-hàm v.v… nói: Trước khi thọ giới, phải sám hối tội, sau đó mới thọ. Nên dạy nói như vầy:

Con………. quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (một ngày một đêm, suốt đời). Hay là (một giới là nhất phần, năm giới là mãn phần) Ưu-bà-tắc. Như Lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là Thế tôn của con (ba lần truyền rồi bảo rằng: hướng về truyền ba quy y, chính là giới thể, nay lại chỉ bày ba kết là giới đã quy y).

Con … đã quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi (một ngày một đêm, suốt đời). Hay là (một giới gọi là nhất phần, năm giới là mãn phần) Ưu-bà-tắc. Như lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là Thế tôn của con (ba lần kết rồi bảo rằng: nay tôi sẽ chỉ bày giới tướng cho người, người hãy nghe kỹ mà lãnh thọ).

Trọn đời không sát sinh là giới của Ưu-bà-tắc, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không trộm cắp là giới của Ưu-bà-tắc, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được tà dâm là giới của Ưu-bà-tắc, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Hoặc nói dối hoặc uống rượu, đều y cứ theo trên hỏi đáp đủ rồi, ngoài ra còn có sáu giới trọng và hai mươi tám giới khinh, các hành tướng linh tinh, rộng như trong kinh Thiện Sinh và Hành Sự Sao, nói sự phát nguyện đồng với thực hành tám giới.

PHÁP THỌ TÁM GIỚI

Kinh Thiện Sinh, Tăng Nhất A-hàm nói: Phật dạy: Ưu-bà-tắc vào ngày mồng tám ngày mười bốn, ngày rằm, phải đến các chỗ Trưởng lão Tỳ-kheo, mỗi tháng thọ tám giới, mỗi tháng thọ, chớ không mất thứ lớp.

Trong luận cho phép năm chúng truyền tám giới.

Luận Thành Thật nói: Nếu lúc không có người, chỉ cần tâm nghĩ miệng nói, cho đến nói con giữ tám giới cũng được thành thọ.

Luận Câu-xá nói: Nếu trước đã khởi ý vào ngày trai thọ, thì tuy ăn rồi cũng được. Trước thọ giới rồi, sau nhất tâm chắp tay, nói theo người truyền giới, chớ nói trước, chớ nói cùng một lượt, nếu trái thì không thành.

Luận nói: Nếu thọ tám giới thì phải nói một ngày một đêm, chớ để lẫn lộn với giới trọn đời.

Luận Thành Thật nói: Năm giới, tám giới, tùy theo ngày tháng dài, ngắn hoặc một năm hay một tháng, cho đến nửa ngày nửa đêm, thọ thêm hay thọ bớt đều được. Nên truyền lời như thế này:

Con…………. quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (một ngày một đêm (bảy đêm) hoặc một năm một tháng). Làm Ưu-bà-tắc tịnh hạnh (ba lần truyền như vậy).

Con … quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi (một ngày một đêm hoặc một năm, một tháng). Làm Ưu-bà-tắc tịnh hạnh xong (ba lần kết rồi kế truyền giới tướng).

Như Chư Phật trọn đời không sát sinh, ông……….. trong một ngày một đêm không sát sinh, có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Như Chư Phật suốt đời không trộm cắp, ông…………… trong một ngày một đêm không trộm cắp, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Như chư Phật trọn đời không dâm, ông…………….. trong một ngày một đêm không dâm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Như chư Phật suốt đời không nói dối, ông…………… trong một ngày một đêm không nói dối, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Như Chư Phật suốt đời không uống rượu, ông trong một ngày một đêm không uống rượu, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Như Chư Phật trọn đời không đeo tràng hoa thơm chuỗi anh lạc, dầu thơm xức vào thân, ông trong một ngày một đêm, không đeo tràng hoa thơm, chuỗi anh lạc, dầu thơm xức vào chân, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Như Chư Phật suốt đời không ngồi trên giường cao tốt và ca múa hát xướng, cố đến xem nghe, ông trong một ngày một đêm, không ngồi giường cao tốt và ca múa hát xướng, cố đến xem nghe, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Như Chư Phật suốt đời không ăn phi thời, ông trong một ngày một đêm không ăn phi thời, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Thứ lớp như trên truyền rồi, phải dạy phát nguyện rằng:

Nay Con nhờ công đức thọ bát quan trai này, không rơi vào đường ác, tám nạn, biên địa, đem công đức này nhiếp lấy tất cả nghiệp ác của chúng sinh, có bao nhiêu công đức thì bố thí cho người đó, khiến thành đạo vô thượng chánh chân, cũng khiến cho đời tương lai Đức Phật Dilặc ra đời, ba hội được vượt qua sinh, già, bệnh, chết.

Trong kinh nói: Ví như có người thiện nam tín nữ, không phát nguyện này mà giữ tám giới trai, được cho chút ít ruộng phước, dẫn lời xưa để làm chứng.

PHÁP TRUYỀN THỌ GIỚI XUẤT GIA

Được chia làm bảy phần:

  1. Nói công đức xuất gia do Bồ-tát.
  2. Có lợi ích vượt hơn thế gian.
  3. Ngăn trở người xuất gia là rất tổn hại.
  4. Nói đã xuất gia rồi thì hành tội hạnh.
  5. Nói đã xuất gia rồi thì làm việc phước của phàm phu.
  6. Nói về pháp cốt yếu xuất gia tu học.
  7. Nói về chánh hạnh Đại thừa, Tiểu thừa, ba môn học làm gốc. Trong Sự Sao có nói rộng.

PHÁP XIN ĐỘ NGƯỜI

Bấy giờ, các Tỳ-kheo, liền độ người, không biết dạy bảo vì mình ngu si nên đệ tử không được dạy bảo, không biết oai nghi, mặc y không ngay ngắn, khất thực không đúng pháp, ở chỗ nào cũng thọ thức ăn bất tịnh, vào bữa ăn sáng, bữa ăn trưa lớn tiếng kêu to, như pháp Bà-la-môn nhóm họp, các Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Đức Phật:

Phật dạy: Cho phép tăng và vị truyền giới cụ túc, bạch nhị yếtma, vì kia muốn độ người phải đến trong chúng, vén y bày vai phải, cởi giày dép, lễ dưới chân chúng Tăng, gối phải sát đất, chắp tay tác bạch xin như vầy:

Bạch Đại đức tăng lắng nghe, Tỳ-kheo…………….. cầu chúng tăng xin độ người, truyền giới cụ túc. Xin tăng cho Tỳ-kheo………. độ người truyền giới cụ túc, xin thương xót cho.

Nói xin ba lần. Trong luật y theo văn yết-ma, cho người truyền giới cụ túc, phải xin pháp nuôi chúng. Nếu xét trong Kiền-độ thọ giới ở trước nêu đầy đủ, đức của Hòa-thượng rồi. Văn tổng kết nói: Nuôi chứa Sa-di cũng giống như vậy. Nên biết vì không có công đức nên không hợp.

PHÁP CHO ĐỘ NGƯỜI

Phật dạy: Phải quán sát người này, nếu không thể dạy bảo, lại không dùng hai việc nhiếp lấy: Một là pháp, hai là cơm ăn áo mặc, phải nói rằng: Đại đức thôi đi chớ độ người. Nếu người có trí tuệ, có khả năng dạy bảo, lại dùng hai việc nhiếp thủ, thì nên cho tác pháp yết-ma bạch rằng:

Bạch Đại đức Tăng lắng nghe, Tỳ-kheo……….. này, nay đến chúng tăng xin phép độ người và truyền giới cụ túc. Nếu thời giờ của chúng tắng đã đến, tăng bằng lòng nay Tăng cho Tỳ-kheo……… độ người thọ giới cụ túc. Tác Bạch như thế.

Bạch Đại đức Tăng lắng nghe, Tỳ-kheo…….. nầy nay đến chúng tăng xin pháp độ người và truyền giới cụ túc. Tăng nay cho Tỳ-kheo………. độ người và truyền giới cụ túc, các vị Trưởng lão nào bằng lòng. Tăng cho Tỳ-kheo ……… độ người và truyền giới cụ túc thì im lặng. Vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo……… độ người và truyền giới cụ túc, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên hành trì như vậy.

PHÁP ĐỘ SA-DI

Trong luật đầu tiên độ La-hầu-la.

Tăng-kỳ nói: Nếu bảy tuổi hiểu biết tốt xấu thì cho xuất gia, quá bảy mươi tuổi đi đứng phải nhờ người dìu đỡ, thì không được độ. Nếu tu tập được các nghiệp thì cho xuất gia. Lúc người muốn xuất gia, phải nói cho biết những việc khổ về ăn, ở, ngủ, học hỏi nhiều, nếu đáp làm được thì độ.

PHÁP CHO CẠO TÓC

Bấy giờ, các Tỳ-kheo liền độ người, vì có độ người chúng tăng không biết, Phật dạy: Ông nếu muốn ở trong chùa cho cạo tóc phải bạch tất cả tăng, nếu không được hòa hợp, thì mỗi phòng nói cho biết rồi cho cạo tóc, nếu hòa hợp tác bạch rồi thì cho cạo tóc. Tác bạch như vầy:

Bạch Đại đức tăng lắng nghe, người kia muốn xin Tỳ-kheo………cạo tóc. Nếu thời giờ của tắng đã đến, tăng bằng lòng cho, Tỳ-kheo…….. cạo tóc, tác bạch như thế.

Tác bạch rồi gọi vào trong chúng cho cạo tóc, pháp thức độ người trong Sự Sao có nói rộng.

Luật Ngũ Phần nói: Trước cho thọ năm giới, sau cho thọ mười giới.

PHÁP THỌ MƯỜI GIỚI

Phật dạy: Nếu ở trong chùa, độ cho xuất gia, phải bạch tất cả tăng, Tăng cho rồi thì xuất gia, nên tác bạch như vầy:

Bạch Đại đức tăng lắng nghe, người nầy đến Tỳ-kheo……… xin xuất gia.

Nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, Tăng bằng lòng, cho…………

xuất gia, tác bạch như thế.

PHÁP TRUYỀN GIỚI THỂ

Luật Thiện Kiến nói: A-xà-lê bảo rằng: ông nói theo tôi, tôi dạy người thọ ba quy y.

Đáp: Dạ.

Lại hỏi già nạn người ấy, duyên khởi phát giới, y theo như kinh luật, theo lệ phải hỏi cho đủ, mới truyền giới rằng:

Con………. quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nay Con theo Phật xuất gia, vị ấy làm Hòa-thượng. Như Lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là Thế Tôn của con (ba lần rồi thì).

Con……….. đã quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi. Nay Con theo Phật xuất gia rồi. Tỳ-kheo mỗ làm Hòa-thượng. Đức Như lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là Thế tôn của con (ba lần kết rồi, trao cho giới tướng).

TRUYỀN GIỚI TƯỚNG

Trọn đời không được sát sinh, là giới của Sa-di, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được trộm cắp, là giới của Sa-di, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được dâm dục là giới của Sa-di, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được nói dối là giới của Sa-di, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được uống rượu là giới của Sa-di, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được đeo tràng hoa, xức dầu thơm, là giới của Sadi, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được ca múa hát xướng và cố đến xem nghe, là giới của Sa-di, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được ngồi giường cao rộng lớn, là giới của Sa-di, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được ăn phi thời, là giới của Sa-di, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Trọn đời không được cầm giữ sinh tượng, vàng bạc, vật báu, là giới của Sa-di, ông có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Đây là mười giới Sa-di, suốt đời không được phạm.

Như kinh Thỉnh Tăng Phước Điền nói: Sa-di phải biết năm đức:

  1. Phát tâm xuất gia vì tâm đeo mang đạo pháp.
  2. Hủy bỏ hình tướng tốt đẹp vì thích ứng với pháp phục.
  3. Cắt bỏ hẳn thân ái, không còn thân thích.
  4. Hủy bỏ thân mạng, tôn sùng đạo pháp.
  5. Chí cầu Đại thừa, vì để độ người.

Theo luật Tăng-kỳ nên nói mười số:

  1. Tất cả chúng sinh đều nương vào sự ăn uống.
  2. Danh sắc.
  3. Nghĩ về sự đau khổ.
  4. Bốn đế.
  5. Năm ấm.
  6. Sáu nhập.
  7. Bảy giác chi.
  8. Tám chánh đạo.
  9. Chín chỗ ở của chúng sinh.
  10. Mười tất cả nhập.

Nêu lên số ấy giải thích đối trị nhau, hiển bày chánh pháp đồng thời như trong Hành Sự Sao có nói rộng:

PHÁP TỲ-KHEO TRUYỀN GIỚI

Phật nói: Thiện Lai Tỳ-kheo; phá kiết sử Tỳ-kheo; tam ngữ Tỳkheo; biên địa năm người trì luật, thì được truyền giới Tỳ-kheo; ở Trung quốc mười người được truyền giới Tỳ-kheo.

Ở trên trình bày năm thứ thọ giới, đều chính trong văn luật, nói ba lần thiện lai, chỉ hạn cuộc khi Phật còn tại thế. Ba thứ còn lại là chung cho sau khi Phật diệt độ.

DUYÊN TRUYỀN GIỚI TỲ-KHEO

Giới là thuyền bè đưa qua biển sinh tử, là cội gốc của chánh pháp, chắc chắn phải có duyên hợp tương ưng, nếu có sai trái thì tuy truyền nhưng không đắc giới. Nay giải hai thứ yết-ma phải đầy đủ năm duyên mới thành.

I. Người có khả năng thọ, có năm thứ:

1. Loài người: Luật nói: Chư Thiên, A-tu-la, phi nhân, súc sinh không đắc giới. Luận nói: Ba quy y, năm giới cấm chỉ có trong loài người, còn các đường khác thì không có.

2. Các căn đầy đủ. Luật nói: Hoặc người cuồng, hoặc điếc, hoặc câm, hoặc thân tướng không đầy đủ, người mắc trăm già nạn. Tất cả người ấy có thể làm ô nhục chúng tăng, đều không được.

3. Thân khí thanh tịnh. Luận Tát-bà-đa nói: Trước thọ năm giới, tám giới, người từng phá giới trọng, thì không được lại thọ mười giới.

Luật nói: Trước thọ giới rồi phá giới trọng, lại xin thọ nữa gọi là nạn biên tội. Lại người tại gia, Sa-di gây ra các nghiệp nặng, đều thuộc về mười ba nạn.

4. Tướng xuất gia đầy đủ. Luật nói: Phải cạo tóc mặc cà-sa, đồng với người xuất gia. Nếu mặc y phục thế tục, mặc áo ngoại đạo, các đồ trang sức lõa hình, v.v… thì không gọi là thọ giới Cụ túc.

5. Được chút phần pháp. Luật nói: Không cho thọ giới Sa-di và thọ giới Cụ túc, thì chúng tăng mắc tội.

II. Sở đối có bảy thứ:

1. Kết giới thành tựu, vì kết giới không thành, vì yết-ma không có chỗ nương.

2. Có vị Tăng bỉnh pháp, vì bạch bốn yết-ma theo lời Phật dạy, những chúng trái pháp thì không nên tác pháp (không hợp với bỉnh pháp).

3. Số Tăng đầy đủ, chẳng phải là đầu số đủ mười vị. Kinh Tỳ-niMẫu nói: Hòa-thượng, hai vị A-xà-lê, đều phải đúng pháp, bảy vị tăng làm tôn chứng, đều thanh tịnh hiểu rõ. Luật nói: Nếu không có Hòathượng hoặc mười vị không đủ, thì như trong thiên không đủ số đã nói rõ, đều được thành tựu.

4. Trong giới đều nhóm hòa hợp. Luật nói: Lại không có phương tiện gì làm yết-ma riêng chúng.

5. Trong giáo pháp có bạch bốn lần yết-ma. Kinh Tỳ-ni Mẫu nói: Yết-ma đúng pháp.

6. Duyên giúp đỡ đầy đủ. Luận nói: Nếu người không có y bát, hoặc mượn y bát người khác đều là trái pháp.

7. Về thời Phật pháp. Luận Tỳ-đàm nói: Đến thời pháp diệt, tất cả thọ giới kết giới, đều mất hết.

III. Phát tâm xin giới:

Luật nói: Nếu người thọ giới không tự xưng tên mình, không xưng tên Hòa-thượng, dạy xin mà không xin, hoặc ngủ say, tức giận, hoặc không có tâm thọ, đều không đắc giới.

IV. Tâm cảnh tương ưng:

Nếu tâm không thích hợp cảnh, hoặc cảnh không xứng với tâm, hoặc tâm cảnh đều không tương xứng, đều là trái pháp. V. Việc thành tựu rốt ráo:

Đầu tiên từ thỉnh sư đến sau cùng thọ giới xong, trước sau không trái được gọi là biện sự.

CHÍNH TRƯỚC KHI TRUYỀN GIỚI THỂ CÓ ĐỦ TÁM PHÁP

I. Đầu tiên là nói pháp thỉnh sư:

Luật nói: Đệ tử không có thầy dạy bảo, làm việc trái pháp.

Phật dạy: Phải lập Hòa-thượng, đệ tử phải tưởng Hòa-thượng như cha mẹ, kính trọng lẫn nhau. Lại Tỳ-kheo bệnh không có người săn sóc, nên để cho qua đời. Phật dạy: Phải nuôi đệ tử, phải cùng cung kính tôn trọng, săn sóc nhau, chánh pháp mới được lâu dài, tăng thêm lợi ích rộng lớn. Hòa-thượng phải xem đệ tử như con. Luật Thiện Kiến nói: Vì ban đầu không thỉnh, nên sau trái với lời dạy bảo, Phật dạy cho thỉnh.

Nếu theo bản luật thì pháp thỉnh không phải ở trong tăng, nay y theo Thập Tụng và Tăng-kỳ, dạy người thọ giới trước vào trong tăng, dạy bảo thứ lớp, mỗi việc đều đầu mặt lễ dưới chân chúng Tăng, sau đó mới thỉnh, phải vén y bày vai phải, cởi giày dép, gối phải sát đất, chắp tay thỉnh như vầy:

Bạch Đại đức một lòng nghĩ, nay con………… thỉnh Đại đức làm Hòa-thượng. Xin Đại đức vì con làm Hòa-thượng. Con xin nương theo Đại đức được thọ giới Cụ túc. Xin thương xót cho con.

(Nói thỉnh ba lần).

Luật Tăng-kỳ nói: Trong chúng thỉnh rồi, Hòa-thượng nói: Người hãy sinh tâm vui vẻ. Luật Bản nói: Được như vậy, ta sẽ dạy bảo ông, thanh tịnh chớ buông lung.

Theo A-tỳ-đàm của Phật, còn hai vị A-xà-lê cũng có pháp thỉnh, tức là y cứ theo văn trên, nghĩa là lấy các nghĩa thỉnh sư khác để so sánh.

II. Để người thọ giới ở chỗ nào?

Phật dạy: Người thọ giới không được ở trên hư không, chỗ ẩn núp lìa thấy nghe, hoặc ở ngoài giới, vị Hòa-thượng đó và người trong đủ số cũng không được ở trên hư không, cho đến ngoài giới.

Phật dạy: Phải để cho người muốn thọ giới đúng chỗ mắt thấy, tai không nghe.

III. Sai người hỏi duyên

Bấy giờ, có người muốn thọ giới, đem ra ngoài giới cởi y xem coi, làm ngưng trệ việc thọ giới.

Phật dạy: Không nên làm như vậy, từ nay trở đi cho hỏi trước mười ba việc nạn, sau đó sẽ thọ. Giới sư nên hỏi rằng: Trong chúng ai có khả năng làm thầy giáo thọ cho………….? Nếu có thì đáp rằng: Tôi………. có khả năng, giới sư nên hòa tăng xin dục, rồi bạch rằng:

Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, kia đến Hòa-thượng………. xin thọ giới Cụ túc, nếu thời giờ của tăng đã đến. Tăng bằng lòng cho……….làm thầy giáo thọ, tác bạch như vậy.

IV. Pháp ra ngoài chúng hỏi

Luật Ngũ Phần nói: Phải an ủi rằng: Các vị chớ sợ hãi, chốc lát nữa sẽ đem các vị để ở chỗ cao tột, v.v…, rồi cầm y bát dạy rằng:

Đây là An-Đà-Hội, đây là Uất-đa-la-tăng, đây là Tăng-già-lê. Luận Tát-bà-đa nói: Tên gọi ba y này này, trong chín mươi sáu thứ ngoại đạo không có, chỉ trong Phật pháp mới có, nên chỉ bày cho các vị. Đây là Bát-đa-la. Luật Thập Tụng nói: Bát này là cờ nêu cùa Hằng sa Chư Phật.

1. Y bát này là của ông phải không?

Đáp: Mô Phật, phải. Trong các bộ cũng gia pháp cho thọ.

Nên nói rằng: Này người thiện nam hãy lắng nghe. Nay là lúc chí thành, cũng là lúc nói thật. Nay Ta sẽ hỏi ông, ông tùy theo ta hỏi mà đáp. Nếu không thật thì nói không thật, nếu thật thì nói thật. Người có phạm tội biên địa không?

Đáp: Không. Nên nói rằng: ông lẽ ra không biết tên tội này. Nghĩa là người đã thọ giới của Phật rồi, nếu phạm bốn giới trọng tức là người ở ngoài biển Phật pháp, nên gọi là biên tội.

Ông có phạm không?

Đáp: Mô Phật, không.

Nghĩa là quyết định rằng: Hễ vặn hỏi có không ý là phải hiểu nhau, nếu một người ở trung quốc còn một người ở biên địa, không lãnh hội ý nhau thì không thành phạm giới, xả giới. Nay tuy là hỏi nhưng không hiểu, thì chẳng khác với người không hỏi. Luật nói: Không thành thọ giới, từ đây về sau giống như đây nên biết.

2. Người có làm ô nhiễm Tỳ-kheo ni không?

Luật Tăng-kỳ nói: Nghĩa là lúc còn tại gia làm nhiễm ô tịnh giới phạm hạnh của ni.

3. Người có phải là tặc trụ không?

Nghĩa là khi còn tại gia, trộm nghe yết-ma thuyết giới đồng với pháp sự tăng.

4. Người có phá nội, ngoại đạo không?

Nghĩa là từng làm ngoại đạo đến xin thọ giới cụ túc, sau lại trở về ngoại đạo, nay lại đến xin thọ giới cụ túc.

5. Người có phải huỳnh môn hay không?

Nghĩa là không phải sáu thứ sinh, kiền, đố, biến, bán.

6. Người có giết cha không?

7. Người có giết mẹ không?

8. Người có giết A-la-hán không?

9. Người có phá tăng không?

10. Người có tâm ác làm thân Phật chảy máu không?

Tăng-kỳ nói: Hai nạn này sau khi Phật diệt độ không có. Phật nhập Niết-bàn, y theo văn xưa mà hỏi.

11. Người có phải phi nhân hay không?

Nghĩa là các vị trời, quỉ thần, v.v… biến thành hình người cầu xin thọ giới.

12. Người có phải súc sinh không?

Nghĩa là các loại rồng có thể biến thành người đến xin thọ giới.

13. Người có phải hai hình không?

Nghĩa là thân này có đủ hai căn nam và nữ, chính là trái với đồ đựng đạo, người này đều phải hiểu rõ từng thứ một, hiểu rồi nếu đáp không thì thôi.

Người pháp danh là gì? Hòa-thượng pháp hiệu là gì? Đủ hai mươi hai tuổi chưa?

Ba việc này và mười ba nạn đều phải từng việc hỏi đáp, vì không đầy đủ, nên không đắc giới.

Y bát có đầy đủ không? Cha mẹ có cho phép các vị không?

14. Người có mắc nợ không?

15. Người có phải tôi tớ không?

16. Người có làm quan hay không?

17. Người có phải trượng phu không?

Luật Bản nói: Tuổi đủ hai mươi chịu đựng được lạnh, nóng, gió, mưa, đói khát, giữ giới, ngày ăn một bữa, chịu đựng những lời nói ác và độc trùng, mười việc đó là tướng trượng phu.

Tăng-kỳ nói: Hai mươi tuổi trở lên, bảy mươi tuổi trở xuống có khả năng chịu đựng được, đó là vị Trượng phu, được cho thọ giới. Nếu hơn hoặc kém dầu cho có khả năng, cũng phải đúng pháp, nếu không chịu đựng được đều không cho thọ giới.

Trượng phu bị các bệnh như: Hủi, ung thư, ghẻ trắng, khô gầy, điên cuồng. Người có bị các bệnh như thế không?

Đều y theo có, không mà đáp.

Như nay tôi hỏi người, trong tăng cũng sẽ hỏi như thế, như người đã đáp với tôi thế nào thì lúc nào trong tăng cũng phải đáp như thế.

Thầy giáo thọ phải sửa sang oai nghi rồi, lại bảo rằng: Người đứng đây đợi tôi, đến trong tăng, có lệnh gọi hãy đến.

V. Pháp bạch gọi vào chúng

Phật dạy: Vị sư giáo thọ kia hỏi nạn rồi, lại vào trong chúng. Oai nghi như thường lệ, đứng cách nhau chỗ duỗi tay đụng được, phải tác bạch như vầy.

Bạch Đại đức tăng lắng nghe! Vị kia đến Hòa-thượng mỗ xin thọ giới Cụ túc. Nếu thời giờ của tăng đã đến xin Tăng bằng lòng cho, tôi…………. đã hỏi xong; cho phép đem đến chúng tăng, tác bạch như thế. Ở đây tác bạch rồi nên gọi rằng: Người hãy đến, đến rồi phải cầm y bát. Ở trước giới sư gối phải quỳ sát đất chắp tay, phải dạy xin như vầy.

VI. Nói rõ pháp xin giới

Vị sư giáo thọ kia dạy như trước, nên bảo rằng: Trình bày cách pháp xin giới pháp, người phải tự trình bày, nhưng vì người không hiểu nên tôi dạy cho. Người nên bạch rằng: Bạch Đại đức tăng lắng nghe! Con là………. đến Hòa-thượng mỗ xin thọ giới Cụ túc. Con là nay đến chúng tăng xin thọ giới cụ túc. Tỳ-kheo mỗ làm Hòa-thượng. Xin tăng thương xót cứu giúp con.

Ba lần xin rồi, Sư giáo thọ ngồi lại.

VII. Pháp Hòa-thượng giới sư hỏi:

Nên tác bạch rằng:

Bạch Đại Đức tăng lắng nghe! Vị nầy…………. đến Hòa-thượng mỗ xin thọ giới cụ túc. Vị nầy………. nay đến chúng tăng xin thọ giới Cụ túc. Tỳ-kheo mỗ làm Hòa-thượng. Nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, Tăng bằng lòng cho, tôi hỏi các việc nạn, tác bạch như thế.

VIII. Pháp thưa hỏi:

Nên nói: Đây là An-Đà-Hội, Uất-đa-la-tăng, Tăng-già-lê. Đây là Bát-đa-la. Y bát này là của người phải không?

Giới tử đáp: Mô Phật, phải. Lại nói:

Này người thiện nam hãy lắng nghe, nay là thời chí thành cũng là thời nói thật. Nay tùy theo lời tôi hỏi người, người phải y theo sự thật mà đáp.

Luật Tăng-kỳ nói: Nếu người đáp không thật tức là dối gạt các vị trời, quỉ, phạm. Sa-môn, Bà-la-môn, người đời. Cũng là dối gạt đức Như lai và chúng tăng, nên tự mình mắc tội lớn.

  1. Người có phạm biên tội không?
  2. Người có phạm Tỳ-kheo-ni không?
  3. Người phải tặc tâm thọ giới không?
  4. Người có phá nội ngoại đạo không?
  5. Người có phải huỳnh môn không?
  6. Người có giết cha không?
  7. Người có giết mẹ không?
  8. Người có giết A-la-hán không?
  9. Người có phá Tăng không?
  10. Người có tâm ác làm thân Phật chảy máu không?
  11. Người có phải phi nhân hay không?
  12. Người có phải súc sinh không?
  13. Người có phải hai hình không?

Nên tùy theo việc mà đáp rằng: Mộ Phật, không.

Người pháp danh là gì? Hòa-thượng hiệu là gì? Đủ hai mươi tuổi chưa? Ba y bát đầy đủ chưa? Cha mẹ có cho người xuất gia hay không? Người có mắc nợ người không? Người có phải tôi tớ không? Người có làm quan không? Người là Trượng phu phải không? Bậc trượng phu có những bệnh như: ghẻ, ung thư, bạch lại, khô gầy, điên cuồng, nay người có các bệnh như thế không?

Đều y theo lời hỏi rồi, có hay không đều đáp đầy đủ, nghĩa là lời nói hiểu nhau, đồng như thầy giáo thọ ở trước.

PHÁP CHÁNH THỌ GIỚI THỂ

Luận Tát-bà-đa nói: Hễ muốn thọ giới thì trước cho nói pháp, dẫn dắt khai mở, khiến cho đối với tất cả cảnh, sinh lòng từ bi, liền được giới tăng thượng. Nên nói với người kia rằng: chúng sinh sáu đường phần nhiều ngăn ngại giới pháp, chỉ có loại người được thọ giới cũng đều có già nạn, không phải đều có khả năng hết. Người không có già nạn, thì chắc chắn sẽ được thọ giới. Người phải y theo văn luận phát tâm tăng thượng, đó là cứu giúp tất cả chúng sinh, dùng pháp độ họ. Lại giới là cội gốc của pháp lành, làm chánh nhân cho ba thừa. Lại giới là của báu trong Phật pháp, các đạo khác không có. Lại có công năng hộ trì chánh pháp của Phật, cho được lâu dài. Lại oai nghi thế lực của yếtma là đại lực của chúng tăng, có thể nêu lên pháp giới là thắng pháp, đặt trong thân tâm người, người phải nhất tâm nghe kỹ mà thọ, nên tác bạch rằng:

Bạch Đại Đức tăng lắng nghe vị này … đến Hòa-thượng mỗ xin thọ giới Cụ túc, vị này … nay đến tăng xin thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo mỗ làm Hòa-thượng, vị nầy tự nói mình thanh tịnh không có các việc nạn, đủ hai mươi tuổi, ba y bát đầy đủ. Nếu Tăng thời giờ làm việc của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng truyền cho vị nầy giới Cụ túc. Tỳ-kheo mỗ làm Hòa-thượng. Tác Bạch như thế. Luật Tăng-kỳ nói: Tác bạch rồi hỏi tăng có thành tựu không? Cho đến yết-ma lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba cũng như vậy.

Luật Thập Tụng nói: Lúc yết-ma thọ giới, phải nhất tâm nghe cho kỹ, đừng biết việc khác, suy nghĩ việc khác, nên kính trọng, phải chánh tư duy, tâm tâm nhớ nghĩ nhau, nên phân biệt đó, nếu trái thì phạm tội Đột-cát-la.

Bạch Đại Đức tăng lắng nghe, Giới tử này đến Hòa-thượng mỗ xin thọ giới Cụ túc,……….. vị này, nay đến tăng xin thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo mỗ làm Hòa-thượng, tự nói mình thanh tịnh, không có các việc nạn, đủ hai mươi tuổi, ba y bình bát đầy đủ. Nay Tăng truyền giới Cụ túc cho vị nầy, Tỳ-kheo mỗ làm Hòa-thượng. Các trưởng lão nào bằng lòng cho vị nầy thọ giới Cụ túc, Tỳ-kheo mỗ làm Hòa-thượng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì nói. Đây là yết-ma lần đầu, lần thứ hai, lần thứ ba cũng như trên, thứ lớp hỏi đáp không trái thì được. Tăng đã bằng lòng cho vị nầy thọ giới Cụ túc xong. Tỳ-kheo mỗ làm Hòa-thượng, Tăng bằng lòng vì im lặng. Việc nầy nên thực hành như thế.

Trong luật Thiện Kiến và các luận khác đều nói: Người thọ giới Cụ túc rồi. Các vị Hòa-thượng, A-xà-lê, phải cho ghi mùa xuân, mùa hạ, mùa đông, tháng nào, ngày nào, cho đến thời gian lượng các hình ảnh mà truyền giới Cụ túc.

KẾ LÀ NÓI VỀ TÙY TƯỚNG

Khi ấy, các Tỳ-kheo thọ giới cụ túc rồi, bỏ chúng tăng ra đi, đã không biết phạm, lại gây ra tội nặng.

Phật dạy: Từ nay trở đi, làm pháp yết-ma rồi, trước phải nói bốn pháp Ba-la-di trước.

Này người thiện nam lắng nghe, Đức Như lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, nói bốn pháp Ba-la-di, nếu Tỳ-kheo phạm bất cứ một pháp nào đều chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích tử (đệ tử dòng họ Thích).

Tất cả không được phạm dâm dục, làm hạnh bất tịnh. Nếu Tỳkheo phạm hạnh bất tịnh, thọ pháp dâm dục cho đến cùng súc sinh, thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích tử.

Bấy giờ, Đức Thế tôn cho nói ví dụ: Giống như có người chặt đầu thì không bao giờ sống lại được. Tỳ-kheo cũng như thế, phạm pháp Bala-di rồi, thì không thể thành hạnh Tỳ-kheo lại được, trong đây người suốt đời không được làm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Tất cả không được trộm, dù cho ngọn cỏ lá rau, nếu Tỳ-kheo trộm của người năm tiền hoặc hơn năm tiền, hoặc tự mình lấy, xúi giục người lấy, hoặc tự mình phá, xúi giục người phá, hoặc tự mình chặt, xúi bảo người chặt, hoặc tự mình đốt, xúi bảo người đốt, hoặc chôn, hoặc làm hoại sắc, người đó chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích tử.

Thí như chặt ngọn cây đa-la, thì không bao giờ sinh trưởng lại được. Tỳ-kheo cũng giống như thế, phạm pháp Ba-la-di rồi, thì không thành hạnh Tỳ-kheo nữa. Trong đây, người suốt đời không được làm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Tất cả không được cố cắt đứt mạng sống chúng sinh, dù cho là con kiến, nếu Tỳ-kheo cố tự tay mình cắt đứt mạng sống của người, cầm dao trao cho người, khuyên bảo chết, khen ngợi chết, cho người uống thuốc độc, hoặc làm đọa thai, hoặc trù ếm chết. Tự làm phương tiện, hoặc xúi bảo người làm, thì chẳng phải Sa-môn, không phải Thích tử. Người đó dụ như kim sứt lỗ không thể dùng được nữa. Tỳ-kheo phạm pháp Ba-la-di cũng giống như thế; không thành hạnh Tỳ-kheo. Người đối với giới nầy trọn đời không được làm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Tất cả không được nói dối, cho đến cười giỡn. Nếu Tỳ-kheo không chân thật, chẳng phải mình có, tự nói rằng: Tôi được pháp hơn người, đắc thiền, đắc giải thoát, đắc định, đắc bốn không định, đắc Tuđà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, trời rồng đến, quỉ thần đến cúng dường tôi, người đó chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích tử.

Người đó dụ như tảng đá lớn bị bể làm hai phần, không bao giờ ráp lại được. Tỳ-kheo cũng giống như thế, nếu phạm pháp Ba-la-di này, thì không thể thành hành Tỳ-kheo lại được.

Người đối với giới nầy suốt đời không được làm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

PHÁP TRUYỀN BỐN Y

Khi ấy là thời kỳ đói kém, khất thực khó được. Có ngoại đạo tự xuất gia thọ giới, sau đó tăng không có thức ăn liền thôi tu.

Phật dạy: Trước truyền cho bốn y, sau đó cho thọ giới. Lại có ngoại đạo xin tăng cho xuất gia, trước truyền cho bốn y, vì kia nói rằng: Tôi giữ được hai pháp y, còn nạp y và thuốc nát vữa tôi không thể giữ được bèn thôi tu.

Phật daỵ: Ngoại đạo nầy có mất nát lớn, từ nay trở đi, sau là truyền bốn y. Nên truyền trao như thế.

Này người thiện nam lắng nghe, Đức Như lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác nói pháp bốn y. Tỳ-kheo nương vào đây mà được xuất gia, thọ giới cụ túc, thành pháp Tỳ-kheo.

Tỳ-kheo nương vào y phẩn tảo, nương theo đây được xuất gia, thọ giới Cụ túc, thành pháp Tỳ-kheo. Đối với giới nầy suốt đời có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Nếu được lợi dưỡng đàn việt cúng vải, vải cắt hư hoại được thọ trì. Tỳ-kheo nương theo khất thực, nương theo đây được xuất gia, thọ giới Cụ túc, được thành pháp Tỳ-kheo. Đối với giới nầy suốt đời có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Như được lợi dưỡng, hoặc tăng sai đi thọ trai, đàn việt đem thức ăn đến, hoặc mỗi tháng ngày mồng tám thọ trai, ngày rằm thọ trai, mỗi tháng ngày mồng một thọ trai. Nếu tăng thường thọ trai, đàn việt thỉnh thọ trai được thọ.

Nương ngồi dưới gốc cây, Tỳ-kheo nương theo đây được xuất gia, thọ giới Cụ túc, thành pháp Tỳ-kheo. Đối với giới nầy trọn đời có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Nếu được lợi dưỡng, hoặc phòng riêng, nhà nóc nhọn, phòng nhỏ nhà đá, hai phòng một cửa thì được thọ.

Nương theo thuốc mục nát, Tỳ-kheo nương theo đây được xuất gia thọ giới Cụ túc thành pháp Tỳ-kheo. Đối với giới nầy suốt đời có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Nếu được lợi dưỡng, sữa, dầu, sữa tươi, mật, đường phèn được thọ. Người đã thọ giới rồi, Bạch bốn lần yết-ma, đúng pháp thành tựu, được nơi chốn, Hòa-thượng đúng pháp, A-xà-lê đúng pháp. Chúng tăng đều đầy đủ, người phải khéo thọ giáo pháp, đáng lẽ phải khuyến hóa làm phước, sửa tháp cúng dường chúng tăng, Hòa-thượng, A-xà-lê. Nếu tất cả đúng pháp, dạy bảo không được trái. Phải học tụng kinh, siêng cầu phương tiện, ở trong Phật pháp chứng được quả Tu-đà-hoàn, Tưđà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, công đức phát tâm xuất gia lúc đầu của người không luống uổng, quả báo không mất, còn các việc khác chưa biết phải hỏi Hòa-thượng, A-xà-lê.

Phật dạy: Phải bảo người thọ giới Cụ túc ở trước, đệ tử phải mỗi ngày ba thời: sáng, trưa, chiều tối thưa hỏi, thăm viếng Hòa-thượng, phải vì Hòa-thượng làm hai việc, khổ nhọc không được từ nan.

  1. Quét dọn, sửa sang phòng xá.
  2. Giặt giũ y phục.

Tất cả lời răn dạy của Hòa thượng đều phải vâng làm, nếu trái thì đúng pháp mà trị.

PHÁP THỈNH THẦY Y CHỈ

Khi ấy, có Tỳ-kheo Hòa-thượng qua đời, hoặc thôi tu, hoặc quyết ý đi ra ngoài giới, vì không có người dạy bảo nên phá các giới, tác phong không đúng oai nghi.

Phật dạy: Cho phép có A-xà-lê phải cùng nhau kính thờ, săn sóc như Hòa-thượng, phải sửa đủ oai nghi, thưa thỉnh như vầy:

Bạch Đại đức một lòng nghĩ! Nay con xin thỉnh Đại đức làm thầy y chỉ, xin Đại đức cho con làm pháp y chỉ. Con nương theo Đại đức mà ở. Nói ba lần rồi, vị A-xà-lê kia cũng phải đúng pháp xin nuôi chúng, như pháp Hòa-thượng không khác. Vị kia nhận thỉnh rồi, nên đáp rằng:

Được.

Cho người y chỉ, người chớ buông lung.

Đệ tử nên chấp tác hai việc, không được từ chối hai việc như trên.

Thưa hỏi nghĩa kinh, hiểu biết đầy đủ, đến đủ năm hạ, được lìa thầy y chỉ. Nếu vị đó không hiểu biết, không tụng giới được thì trọn đời phải y chỉ. A-xà-lê phải có đủ năm đức:

1. Biết phạm 2. Biết không phạm 3. Biết tội nhẹ. 4. Biết tội nặng. 5. Đủ mười hai tuổi hạ mới được thâu nhận người.

Nếu không đủ năm đức này, thì không y chỉ không có lỗi. Đức của Hòa-thượng là như thế.

PHÁP NI CHÚNG TRUYỀN GIỚI.

Luật Thiện Kiến nói: Chữ ni là nữ, chữ ma là mẫu, vì trọng ni nên gọi như vậy. Luận Trí Độ nói: Ni có vô lượng luật nghi nên ngồi kế sau Tỳ-kheo. Phật vì nghi thức bất tiện nên ở sau Sa-di.

Kinh Đại Ái Đạo nói: Người nữ chỉ mê hoặc mầu sắc nuôi chúng biết việc trong khoảnh khắc nên Phật dạy nương theo Đại tăng.

PHÁP TRUYỀN GIỚI CHO SA-DI-NI

Pháp yết-ma nuôi chúng, pháp cạo tóc, pháp xuất gia, đều như pháp trong tăng ở trên, chỉ thêm chữ Ni là khác.

PHÁP TRUYỀN GIỚI THỨC-XOA-MA-NA-NI:

Luật Bản nói: Các ni vội độ người xuất gia, cho thọ giới, do không biết giới tướng nên làm các việc phi pháp.

Phật dạy: Nên cho yết-ma học giới.

Trong luật Thập Tụng nói: Vội độ người nữ có mang gây ra tội lỗi.

Phật dạy: Cho yết-ma hai năm để biết có thai hay không, nhưng sáu pháp tịnh tâm, hai năm tịnh thân.

PHÁP XIN HỌC GIỚI

Phật dạy: Cho người tằng giá mười năm và đồng nữ mười tám tuổi, muốn hai năm học giới phải đến trong tăng vén y bày vai phải, cỏi giày dép, lễ dưới chân Ni tăng, hai gối sát đất chắp tay, xin rằng:

Bạch Đại Tỷ tăng lắng nghe. Con là Sa-di………. nay đến tăng xin hai năm học giới, Tỳ-kheo ni mỗ làm Hòa-thượng. Xin tăng cho con hai năm học giới, xin thương xót cho. Nói ba lần rồi Sa-di ni phải đến đứng chỗ tai không nghe nhưng mắt thấy.

PHÁP CHO HỌC GIỚI

Trong ni chúng kia, vị làm yết-ma nên bạch rằng:

Bạch Đại Tỷ Tăng lắng nghe, Sa-di ni………. kia, nay đến tăng xin hai năm học giới, Tỳ-kheo ni mỗ làm Hòa-thượng. Nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho Sa-di ni kia hai năm học giới, Tỳ-kheo ni mỗ làm Hòa-thượng, tác bạch như thế.

Bạch Đại Tỷ tăng lắng nghe, Sa-di ni……… kia, đến tăng xin hai năm học giới, Tỳ-kheo ni mỗ làm Hòa-thượng. Tăng nay cho Sa-di-ni …………. hai năm học giới, Tỳ-kheo-ni mỗ làm Hòa-thượng. Các đại tỷ nào bằng lòng cho Sa-di-ni kia hai năm học giới, Tỳ-kheo ni mỗ làm Hòa-thượng thì im lặng. Vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Đây là yết-ma ban đầu, nói ba lần như thế. Tăng đã bằng lòng cho Sa-di kia hai năm học giới. Tỳ-kheo ni mỗ làm Hòa thượng rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên hành trì như vậy.

KẾ LÀ NÓI VỀ PHÁP GIỚI TƯỚNG

Phật dạy: Nên gọi vào trong chúng, nói cho nghe tên gọi sáu pháp.

Vị nầy lắng nghe Đức Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói sáu pháp.

1. Không được phạm hạnh bất tịnh, làm pháp dâm dục.

Nếu Thức-xoa-ma-na phạm pháp dâm dục, thì không phải Thứcxoa-ma-na, không phải con gái dòng họ Thích. Hoặc cùng người nam có tâm nhiễm ô, thân xúc chạm nhau, thì khuyết giới, phại thọ giới lại. Đối với giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

2. Không được trộm cắp, dù cho ngọn cỏ lá rau. Nếu Thức-xoama-na lấy của người năm tiền, hoặc hơn năm tiền, hoặc tự mình lấy, xúi giục người lấy, hoặc tự mình chặt, bảo người chặt, hoặc thiêu hoặc chôn, hoặc làm hoại mầu sắc, thì không phải Thức-xoa-ma-na, không phải con gái dòng họ Thích. Nếu lấy kém năm tiền là khuyết giới, phải thọ giới lại. Giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

3. Không được cố ý cắt đứt mạng sống chúng sinh, dù cho con kiến. Nếu Thức-xoa-ma-na, cố tự tay mình cắt đứt mạng sống của người, cầm dao trao cho người, xúi chết khen chết. Hoặc cho uống trái thuốc, hoặc làm đọa thai, hoặc ếm đối, chú thuật. Tự mình làm, bảo người làm, thì chẳng phải Thức-xoa-ma-na, không phải con gái dòng họ Thích. Nếu cắt đứt mạng sống súc sinh không thể biến hóa được gọi là khuyết giới, phải thọ giới lại. Giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, con giữ được.

4. Không được nói dối, cho đến đùa giỡn. Nếu Thức-xoa-ma-na không chân thật, chẳng phải mình có, mà tự xưng là được pháp hơn người, được thiền, được giải thoát tam-muội chánh thọ, đắc quả Tuđà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, trời đến, rồng đến, quỷ thần đến, cúng dường cho ta. Đây chẳng phải Thức-xoa-mana, chẳng phải con gái dòng họ Thích. Nếu ở trong chúng cố nói dối, khuyết giới phải thọ giới lại. Giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, giữ được.

5. Không được ăn phi thời. Nếu Thức-xoa-ma-na ni ăn phi thời, thì khuyết giới, phải thọ giới lại. Giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, giữ được.

6. Không được uống rượu: Nếu Thức-xoa-ma-na ni uống rượu thì khuyết giới, phải thọ giới lại. Giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, giữ được.

Phật dạy: Thức-xoa-ma-na phải học tất cả đại giới của ni. Trừ tự tay lấy thức ăn, trao thức ăn cho người khác. Học pháp của nữ này phải học đủ ba pháp:

1. Học pháp căn bản, tức là bốn giới trong đây.

2. Học sáu pháp là: 1/ Tâm nhiễm ô xúc chạm nhau; 2/ Trộm dưới năm tiền; 3/ Cắt đứt mạng sống súc sinh; 4/ Tiểu vọng ngữ; 5/ Ăn phi thời; 6/ Uống rượu.

3. Học hành pháp, nghĩa là phải học phép tắc các giới và oai nghi của đại ni.

Nếu phạm giới pháp căn bản thì phải đuổi đi, nếu thiếu học pháp thì lại cho hai năm yết-ma học lại. Nếu trái với hành pháp chính là trái phạm lời Phật dạy, phải sám hối ngay, không hoại sáu pháp đã học trước.

PHÁP TRUYỀN GIỚI TỲ-KHEO NI

Phật dạy: Có Tỳ-kheo ni bát kỉnh pháp, Tỳ-kheo ni Thiện Lai, Tỳ-kheo ni phá kiết sử, trong yết-ma thọ giới có Tỳ-kheo ni đưa tin, Tỳkheo ni mười năm tằng giá, đồng nữ mười tám tuổi. Hai năm học giới, hai mươi chúng Tỳ-kheo ni. Nghĩa là ở biên phương lập mười chúng Tỳ-kheo-ni, hai pháp trước chỉ có khi Phật còn tại thế. Năm pháp sau thông dụng ở đời Tượng pháp, Mạt pháp.

PHÁP XIN NUÔI CHÚNG.

Phật dạy: Ni đủ mười hai tuổi hạ, muốn độ người, phải sửa sang đủ oai nghi lễ dưới chân Ni tăng như pháp đại tăng, ba lần xin rồi, văn đồng nên không chép ra. Người nào độ Sa-di-ni, Thức-xoa-ma-na ni cho Đại giới ni đều phải xin riêng, vì mỗi năm độ đệ tử thì phạm tội, hoặc pháp xả nuôi chúng, v.v…

PHÁP CHO NUÔI CHÚNG

Phật dạy: Ni tăng phải xét người này, có khả năng dạy truyền, hai năm học giới, hai việc nhiếp thủ được, thì nên cho yết-ma, văn cũng như trên. Nếu không có khả năng dạy truyền và nhiếp thủ thì yết-ma trái pháp.

Trước khi chính thức truyền giới phải có đủ tám duyên.

1. Nói thỉnh Hòa-thượng:

Phật dạy: Nếu mười năm có chồng, hai năm học giới, mười hai năm đủ, hoặc đồng nữ mười tám tuổi, hai năm học giới, tuổi đủ hai mươi nên cho thọ giới, sửa sang oai nghi, bạch rằng:

Bạch Đại Tỷ một lòng nghĩ, con là xin thỉnh A-di làm Hòa-thượng, xin A-di vì con làm Hòa-thượng, con nương theo A-di được thọ đại giới, xin thương xót con. Thỉnh ba lần rồi, đáp “được”. Cho đến thỉnh hai vị xà-lê, bảy vị chứng giới cũng giống như vậy.

2. Phật dạy: Phải để cho người thọ giới đứng ở chỗ thấy nhưng không nghe.

3. Pháp sai làm thầy giáo thọ.

Trong đây, giới sư phải hỏi rằng: Ai có khả năng làm thầy giáo thọ, nếu có thì đáp: Tôi làm được.

Nên tác bạch mà sai như vầy:

Bạch Đại Tỷ tăng lắng nghe, kia …………… đến Hòa-thượng vì mỗ xin thọ đại giới, nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, Tăng bằng lòng cho mỗ làm thầy giáo thọ, tác bạch như thế.

4. Pháp thầy Giáo thọ ra chúng hỏi:

Thầy giáo thọ phải đứng dậy lễ dưới chân Ni tăng, rồi đến chỗ người thọ giới bảo rằng:

Này em, đây là An-Đà-hội, đây là Uất-đa-la, đây là Tăng-già-lê, đây là Tăng-kỳ-chi, đây là y che vai, đây là Bát-đa-la, y bát này là của em phải không?

Đáp: Mô Phật, phải.

Này em hãy lắng nghe, nay là lúc chân thành, lúc nói thật. Nay Tôi hỏi em nếu thật có phải nói thật có, không thật có nói không thật có.

Em có phạm biên tội không?

Nghĩa là có thọ năm giới, tám giới, mười giới, phạm bốn giới trọng rồi và thọ đại giới, phạm tám giới trọng đã hoàn tục xong, nay đến thọ giới lại, gọi là người phạm biên tội, nên đáp không phạm.

Về sau hỏi già nạn đều theo trên mà hỏi. Do kia đây không hiểu nên không cần hỏi đáp.

Em có phạm tịnh hạnh Tỳ-kheo không?

Em có tặc tâm thọ giới không?

Em có phá nội, ngoại đạo không?

Em phải huỳnh môn không?

Em có giết cha không?

Em có giết mẹ không?

Em có giết A-la-hán không?

Em có phá tăng không?

Em có tâm ác làm thân Phật chảy máu không?

Em có phải phi nhân không?

Em có phải súc sinh không?

Em có phải người hai căn không?

Đều đáp: Không phải.

Em tên gì? Đáp em tên là …

Hòa-thượng hiệu gì? Đáp: Thượng………. hạ………

Năm có đủ tuổi không? Đáp: Đủ.

Y bát có đủ không? Đáp: Đủ.

Cha mẹ, hay chồng có cho phép không? Tùy theo đương thời có thì nói có, không được nói cả hai, nếu không thì nói không.

Em có mắc nợ không? Đáp: Không.

Em phải là tôi tớ không? Đáp: Không.

Em phải người nữ không? Đáp: Phải.

Người nữ có các bệnh như: Bệnh ghẻ lác, ung thư, lang ben, khô gầy, điên cuồng, hai hình, hai đường hiệp một, đường tiểu, đường Đại thường chảy, mũi dãi thường rịn ra, em có các bệnh như thế không?

Đều đáp: Không. Lại nên bảo rằng:

Như ta hướng về em hỏi các việc, trong tăng sẽ hỏi như thế. Như em đến đó thì đáp giống như đã đáp với ta. Trong chúng tăng cũng phải đáp như thế.

5. Pháp gọi vào chúng

Phật dạy: Thầy Giáo thọ kia hỏi rồi đi đến trong chúng, đứng ở chỗ duỗi tay chạm nhau rồi, nên tác bạch rằng:

Bạch Đại Tỷ xin lắng nghe, kia đến Hòa-thượng ni mỗ xin thọ đại giới. Nếu thời giờ làm việc đã đến, tăng bằng lòng cho, con đã dạy bảo xong, xin cho lệnh đến, tác bạch như thế.

Liền vẫy tay bảo rằng: Các em hãy đến, đến rồi cần giùm y bát cho, bảo vào trong tăng.

6. Nói về Pháp xin giới:

Phải lễ dưới chân, ở trước giới sư hai gối sát đất, chắp tay. Thầy giáo thọ dạy xin, bạch rằng:

Bạch Đại Tỷ tăng lắng nghe, con là v.v… đến Hòa-thượng-ni mỗ xin thọ đại giới. Con là nay đến chúng tăng xin thọ đại giới. Hòa-thượngni mỗ xin tăng cứu độ con, xin thương xót cho, nói ba lần như vậy.

7. Pháp giới sư bạch Hòa-thượng

Vị giới sư kia nên bạch Hòa thượng rằng:

Bạch Đại Tỷ Tăng lắng nghe, vị này đến Hòa-thượng ni mỗ xin thọ đại giới, vị nầy nay theo chúng tăng xin thọ đại giới. Với Hòathượng ni mỗ, nếu thời giờ của tăng đã đến, Tăng bằng lòng cho tôi hỏi các việc nạn, tác bạch như vậy.

8. Pháp đối trong chúng hỏi.

Vị giới sư kia nên hỏi rằng:

Em hãy nghe kỹ, nay là lúc nói lời chân thật, nay tôi hỏi em, nếu em có nên nói có, không nên nói không.

Em có phạm biên tội không?

Em có phạm Tỳ-kheo không?

Em có tặc tâm thọ giới không?

Em có phá nội, ngoại đạo không?

Em có phải huỳnh môn không?

Em có giết cha không?

Em có giết mẹ không?

Em có giết A-la-hán không?

Em có phá tăng không?

Em có tâm ác làm thân Phật chảy máu không?

Em phải phi nhân không?

Em phải súc sinh không?

Em phải người hai hình không?

Đều đáp rằng: Không.

Em tên gì? Hòa-thượng hiệu là gì? Tuổi đủ hai mươi không? Y bát có đủ không?

Cha mẹ, hay chồng có cho cô xuất gia không?

Em có mắc nợ không?

Em phải tôi tớ không?

Em là người nữ phải không?

Người nữ bị các bệnh như: Ghẻ lác, ung thư, lang ben, khô gầy, điên cuồng, hai căn, hai đường hiệp một, đường tiểu, đường đại thường chảy, mũi dãi thường tuôn ra, em có các bệnh như thế không?

Đều tùy theo có không, đều phải đáp cho đủ.

Văn chánh yết-ma truyền bản pháp.

Vị giới sư đó phải tùy cơ chỉ bày dẫn dắt, khiến phát tâm tăng thượng, liền đủ bản pháp, nên bạch rằng:

Bạch Đại Tỷ Tăng lắng nghe, vị này đến Hòa-thượng-ni mỗ xin thọ đại giới, vị này nay theo tăng xin thọ đại giới. Hòa-thượng ni mỗ tự nói mình thanh tịnh không có các việc nạn, đã đủ hai mươi tuổi, y bát

đầy đủ. Nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, nay cho vị ấy thọ đại giới, Hòa-thượng ni mỗ, tác bạch như thế.

Bạch Đại Tỷ tăng lắng nghe, vị này đến Hòa-thượng ni mỗ xin thọ đại giới, vị nầy nay theo tăng xin thọ đại giới. Hòa-thượng ni mỗ tự nói mình thanh tịnh, không có các việc nạn, đã đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ. Nay Tăng cho vị ấy thọ đại giới, Hòa-thượng ni mỗ, các đại tỷ nào không bằng lòng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói ra. Đây là yết-ma lần đầu, lần thứ hai, lần thứ ba cũng giống như vậy. Tăng đã bằng lòng cho vị ấy thọ đại giới xong, Hòa-thượng ni mỗ, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này hành trì như vậy.

PHÁP BẢN PHÁP NI ĐẾN TRONG ĐẠI TĂNG THỌ GIỚI

Luật Ngũ Phần nói: Hòa-thượng, A-xà-lê kia lại nhóm họp mười vị Tỳ-kheo-ni tăng, đến trong Tỳ-kheo tăng ở trước thầy yết-ma, hơi xa một chút, hai gối sát đất xin thọ giới, v.v…. Nghĩa là y theo Ni tăng tự kiết đại giới, giữ gìn lỗi riêng chúng, v.v…

PHÁP THỈNH THẦY YẾT-MA

Luật không có chánh văn, y cứ theo trước có đầy đủ, nên bạch rằng:

Bạch Đại Đức một lòng nghĩ, tôi……….. nay thỉnh Đại đức làm yết-ma A-xà-lê. Xin Đại đức vì con làm yết-ma A-xà-lê. Con nương theo Đại Đức được thọ đại giới, xin thương xót cho.

PHÁP XIN THỌ GIỚI

Phật dạy: Vị thọ giới kia lễ dưới chân chư tăng, hai gối sát đất, chắp tay xin rằng;

Bạch Đại đức tăng nghe, con là v.v…. đến Hòa-thượng ni mỗ xin thọ đại giới. Con là v.v… nay theo tăng xin thọ đại giới với Hòa-thượng ni mỗ, xin tăng tế độ cho, thương xót cho. Nói ba lần rồi, Thầy Giáo thọ ni sẽ trở về bản tòa.

HÒA THƯỢNG HỎI PHÁP GIỚI SƯ

Trong đây giới sư nên xin dục hỏi, đáp xong. Nên bạch như vầy: Bạch Đại đức tăng lắng nghe, vị này đến Hòa-thượng ni mỗ xin thọ đại giới, vị này nay theo tăng xin thọ đại giới, Hòa-thượng ni mỗ, nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến. Tăng bằng lòng cho, tôi hỏi các việc nạn, tác bạch như vậy.

PHÁP CHÍNH HỎI GIÀ NẠN

Pháp nên an ủi như trên rồi liền nói rằng:

Em nghe kỹ, nay là thời chân thật, tôi nay hỏi cô, có thì phải nói có, không thì phải nói không.

Em có phạm biên tội không?

Em có phạm Tỳ-kheo không?

Em có tặc tâm hành đạo không?

Em có hai đường bị hoại không?

Em có phải huỳnh môn không?

Em có giết cha không?

Em có giết mẹ không?

Em có giết A-la-hán không?

Em có phá tăng không?

Em có tâm ác làm thân Phật chảy máu không?

Em có phải phi nhân không?

Em có phải súc sinh không?

Em có phải người hai căn không?

Đều khiến cho biết tướng đáp rõ ràng, vì không hiểu thì không do đâu mà đắc giới.

Em tên gì? Hòa-thượng hiệu là gì? Đủ hai mươi tuổi chưa? Y bát có đầy đủ không?

Cha mẹ, chồng có cho phép không?

Em có mắc nợ không?

Em có phải tôi tớ không?

Em là người nữ phải không?

Người nữ bị các bệnh như đây: Ghẻ lác, ung thư, lang ben, khô gầy, điên cuồng, hai căn, hai đường hiệp một, đường tiểu, đường đại thường chảy, mũi dãi thường ra. Em có bị các bệnh như thế không? Và tùy theo việc trước có, không, đều đáp đầy đủ.

Cô học giới chưa? Liền đáp: Đã học giới. Lại phải hỏi rằng: Có thanh tịnh không? Lại đáp: Thanh tịnh. Lại phải hỏi các vị ni khác: vị ấy đã học giới chưa? Các ni đáp: Thưa đã học rồi. Lại hỏi: Có thanh tịnh không? Các ni lại đáp: Thanh tịnh.

PHÁP CHÍNH TRUYỀN GIỚI THỂ

Giới sư nên nói lược phương tiện để phát khởi giới thể, như trong giới của đại Tăng có nói: Vì đắc giới ở đại tăng, lý do phải biết. Câu chánh yết-ma nói:

Bạch Đại đức Tăng lắng nghe, vị này đến Hòa-thượng ni mỗ xin thọ đại giới, vị này nay theo Tăng xin thọ đại giới với Hòa-thượng ni mỗ, đã nói thanh tịnh không có các việc nạn. Đã đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ, đã học giới thanh tịnh. Nếu thời giờ của tăng đã đến, Tăng bằng lòng, nay tăng cho vị nầy thọ đại giới với Hòa-thượng ni mỗ, tác bạch như thế.

Bạch Đại Đức tăng lắng nghe, vị này đến Hòa-thượng ni mỗ xin thọ đại giới, vị này nay theo tăng xin thọ đại giới với Hòa-thượng ni mỗ, đã nói thanh tịnh, không có các việc nạn. Đã đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ, đã học giới thanh tịnh. Nay Tăng cho vị nầy thọ giới với Hòa thượng ni mỗ, các Trưởng lão vị nào bằng lòng tăng cho vị nầy thọ giới với Hòa-thượng ni mỗ thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Đây là yết-ma lần đầu. Nói ba lần như trên, hỏi thành tựu rồi nên nói:

Tăng đã bằng lòng cho vị nầy thọ đại giới với Hòa-thượng ni mỗ xong rồi.

Tăng bằng lòng im lặng, việc này thực hành như thế.

Thọ rồi cũng như trước, để nói ghi mùa xuân hạ, đông thời tiết chỉ bày nói.

KẾ TRAO CHO GIỚI TƯỚNG

Nên bảo rằng:

Này các cô dòng họ Thích hãy lắng nghe, Đây là Đức Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói: tám pháp Ba-la-di, người nào phạm thì chẳng phải Tỳ-kheo ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích.

Không được làm hạnh bất tịnh, làm pháp dâm dục.

Nếu Tỳ-kheo-ni ý ưa làm hạnh bất tịnh, làm pháp dâm dục, cho đến hành dâm với loại súc sinh, đó không phải Tỳ-kheo-ni, không phải con gái dòng họ Thích. Giới nầy suốt đời không được phạm có thể giữ được không?

Đáp: Mô Phật, giữ được.

Không được trộm cắp dù cho ngọn cỏ lá rau. Nếu Tỳ-kheo-ni trộm của người năm tiền hoặc hơn năm tiền. Hoặc tự mình lấy, xúi giục người lấy, hoặc tự mình chặt, xúi giục người chặt. Hoặc tự mình phá, xúi giục người phá. Hoặc đốt, hoặc chôn, hoặc phá hoại mầu sắc. Đó không phải Tỳ-kheo-ni, không phải con gái dòng họ Thích. Giới nầy suốt đời không được phạm, có giữ được không?

Đáp: Mô Phật, giữ được.

Không được cố ý cắt đứt mạng sống chúng sinh, dù cho một con kiến. Nếu Tỳ-kheo-ni cố tự tay mình cắt đứt mạng sống người, hoặc cầm dao trao cho người, dạy chết, khuyên chết, khen chết. Hoặc cho uống thuốc trái, hoặc làm cho người đọa thai, hoặc cốn ếm đối, trù rủa cho chết, hoặc tự mình làm, hoặc xúi giục người làm. Người đó chẳng phải Tỳ-kheo ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích. Giới nầy suốt đời không được phạm, có giữ được không?

Đáp: Mô Phật giữ được.

Không được nói dối cho đến nói giỡn chơi. Nếu Tỳ-kheo ni không chân thật, không phải tự mình được mà tự xưng rằng: Tôi được pháp hơn người, tôi được thiền định, được giải thoát, tam-muội, chánh thọ. Quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm, quả A-la-hán. Trời đến, rồng đến, quỷ thần đến (501) cúng dường tôi, đó chẳng phải Tỳ-kheo ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích. Giới nầy suốt đời không được phạm có thể giữ được không?

(Đáp: Mô Phật, giữ được.).

Không được thân xúc chạm nhau, cho đến xúc chạm loài súc sinh. Nếu Tỳ-kheo ni có tâm nhiễm ô, cùng với người nam có tâm nhiễm ô hai thân xúc chạm nhau, từ nách trở xuống, từ đầu gối trở lên, hoặc đè, hoặc vuốt, hoặc kéo, hoặc xô, hoặc thoa ngược, hoặc thoa xuôi, hoặc nâng lên, hoặc hạ xuống, hoặc nắm, hoặc bóp chặt. Đó chẳng phải Tỳkheo ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích. Giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không?

(Đáp rằng: Mô Phật giữ được).

Không phạm tám việc: Cho đến cùng với súc sinh. Nếu Tỳ-kheoni có tâm nhiễm ô, chịu để cho người nam có tâm nhiễm ô nắm tay, nắm áo vào chỗ khuất đứng chung, cùng nói chuyện chung, đi chung, dựa nhau, hôn nhau, phạm tám việc này, thì đó chẳng phải Tỳ-kheo ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích vì phạm tám việc này. Giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không?

(Đáp rằng: Mô Phật giữ được).

Không được che giấu tội của người khác, dù là tội Đột-cát-la, ác thuyết. Nếu Tỳ-kheo ni biết Tỳ-kheo-ni khác phạm tội Ba-la-di. Hoặc tự mình không nêu ra, hoặc không bạch. Hoặc chúng đông người, sau vào lúc khác, Tỳ-kheo-ni này hoặc bỏ đạo, hoặc bị diệt tẫn, hoặc bị ngăn không cho làm việc với Tăng, hoặc theo ngoại đạo, bèn nói rằng: Trước đây tôi biết người này có tội như vậy, như vậy, thì đó chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích, vì che giấu tội nặng, giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không. (Đáp rằng:

Mô Phật giữ được).

Không được theo người bị cử, Tỳ-kheo cho đến người giữ vườn và Sa-di. Nếu Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo bị tăng cử tội, đúng pháp, đúng luật, đúng lời Phật dạy, không thuận theo, không sám hối, tăng chưa cho làm yết-ma ở chung mà thuận theo. Các Tỳ-kheo-ni can ngăn Tỳ-kheoni này rằng: Chị biết không? Tỳ-kheo này, nay bị tăng cử tội đúng pháp, đúng luật, đúng lời Phật dạy, mà không thuận theo, không sám hối, tăng chưa cho tác pháp ở chung, chị chớ thuận theo, khi Tỳ-kheo này can ngăn Tỳ-kheo ni kia vẫn bền chắc không bỏ. Tỳ-kheo này phải can ngăn ba lần khiến cho bỏ việc đó. Cho đến ba lần bỏ thì tốt, không bỏ thì vị kia chẳng phải Tỳ-kheo ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích, vì tội tùy cử. Giới nầy suốt đời không được phạm, có thể giữ được không? (Đáp rằng: Mô Phật giữ được). Luật Ngũ Phần nói: Nói tám giới trọng rồi, nói chung bốn thí dụ, nên bảo rằng).

Này các cô dòng họ Thích lắng nghe!

Như Lai Vô Sở Trước đã nói tám pháp Ba-la-di, rồi nói bốn thí dụ. Nếu phạm tám giới trọng như người bị chặt đầu rồi thì không thể sống lại. Lại như cây Câu-đa-la bị chặt ngọn thì không thể sống được. Lại như kim sứt lỗ không thể dùng nữa. Lại như tảng đá lớn nứt làm hai không thể dính lại được. Nếu Tỳ-kheo-ni phạm tám giới trọng rồi, không được trở lại làm Tỳ-kheo ni, giới nầy suốt đời không được phạm.

Kế là nói về pháp bốn y.

Lại nên nói rằng: Này các cô dòng họ Thích hãy nữ lắng nghe! Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói pháp bốn y. Tỳ-kheo ni nương vào đây được xuất gia thọ đại giới, thành Tỳ-kheo-ni.

1. Nương theo y phẩn tảo được xuất gia, thọ đại giới thành Tỳkheo ni. Giới nầy suốt đời có thể giữ được không. (Đáp rằng: Mô Phật giữ được).

Nếu được lợi dưỡng nhiều, đàn việt cúng y, y cắt hoại thì được nhận.

2. Nương theo khất thực được xuất gia thọ đại giới, thành pháp Tỳkheo ni. Giới nầy suốt đời có giữ được không? (Đáp rằng: Mô Phật, giữ được). Nếu được nhiều lợi dưỡng, hoặc tăng sai đi thọ trai, hay đàn việt đem thức ăn đến. Mỗi tháng ngày mồng tám, mười bốn, mười lăm thọ trai, hay ngày mồng một mỗi tháng thọ trai. Hoặc chúng tăng thường thọ trai, hoặc đàn việt thỉnh thì nên thọ.

3. Ngồi Nương dưới gốc cây, được xuất gia, thọ đại giới, thành pháp Tỳ-kheo ni, giới nầy suốt đời giữ được không? (Đáp rằng: giữ được). Nếu được nhiều lợi dưỡng như phòng riêng, nhà nóc nhọn, phòng nhỏ, nhà đá, nhà hai phòng một cửa thì được thọ.

4. Nương nơi thuốc mục nát xuất gia thọ giới, thành pháp Tỳ-kheo ni. Giới nầy suốt đời giữ được không? (Đáp rằng: giữ được). Nếu được lợi dưỡng nhiều, sữa dầu, sữa sống, mật, đường phèn nên thọ. Em đã thọ đại giới xong. Bạch Yết-ma như pháp thành tựu được nơi chốn. Hòa-thượng đúng pháp, A-xà-lê đúng pháp, đầy đủ hai bộ đại tăng. Em phải khéo thọ trì giáo pháp, phải khuyến hóa làm phước, sửa sang chùa tháp, cúng dường chúng tăng. Nếu Hòa-thượng, A-xà-lê tất cả đúng như pháp dạy dỗ không được trái nghịch, phải học hỏi tụng kinh, khuyến cầu phương tiện. Ở trong Phật pháp chứng quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đàhàm, quả A-la-hán. Công đức phát tâm xuất gia của em không luống uổng, quả báo không dứt. Những chỗ chưa biết nên hỏi Hòa-thượng, A-xà-lê (phải bảo người thọ giới đi trước, còn ni khác đi sau).

TỨ PHẦN LUẬT SAN BỔ TÙY CƠ YẾT MA

QUYỂN THƯỢNG (HẾT)

 

Pages: 1 2