TRUYỆN CỔ THANH LƯƠNG

Thời tiền Đường, Sa-môn Tuệ tường ở Lam cốc soạn thuật
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

LỜI TỰA

Phàm tử phủ danh sơn là nơi thầy 7 Đức Phật gá chân, Thanh lương Thánh cảnh là chốn muôn Bồ-tát ẩn tích. Phô bày từ xưa nay, đủ trong các Đồ tịch. Hoa lạ cỏ linh thoảng tỏa hương thơm, đá sâu mối lạnh ánh ngời thanh khiết, khí trong lành nhả tỏa trong rừng, mây đẹp lành dàn trải trên đảnh. Hang xanh vào đêm hừng hực mà đuốc đèn thường sáng. Động biếc gần sáng đau đáu mà chuông trống vọng vang. Người già thâm trầm nơi khe cốc, trẻ nhỏ đùa vui giữa khói mây. Lầu các rực rỡ trang nghiêm, điện đường cao vời tráng lệ. Hoặc là các bậc cao tăng từ xa đén tham phỏng, hoặc là các hàng quý tộc tới trông xem. Thấy hóa nghi mà kết duyên đắc đạo, nhìn tướng hảo mà phát nguyện chí thành, tu nhân thù đặc ở đời nay, chứng quả huyền diệu nơi kiếp khác. Thường trông thấy ánh sáng của ngọc hào, luôn cư trú trong thế giới kim sắc. Với người ngộ đạt thì thức tâm và kiến tánh. Với người quy y thì hết chướng mà tiêu tai. Có thể gọi là phước chẳng luống mất, công không dối bỏ. Biên tập thành truyện ký lưu truyền khắp nơi, dẫn dụ các hàng ngu xằng, đều tin sâu chắc, đồng lên đường giác, đều đến cửa huyền, đồng cỡi thuyền Bát Nhã cùng lên bờ Niết-bàn.

Ngày 17 tháng 2 năm Tân sửu (1181) thuộc niên hiệu Đại Địch 1161-110) thời nhà kim.

Kính cẩn ghi lời tựa thư Đường thiền viện vĩnh an sùng thọ. Sa-môn Thích Quảng Anh.

QUYỂN THƯỢNG

 

 

  1. Lập danh nêu hóa
  2. Phong vức lý số
  3. Cổ kim thắng tích.

1. LẬP DANH NÊU HÓA

Kính cẩn y cứ theo kinh Hoa Nghiêm trong phẩm ‘Trú xứ Bồ-tát” nói: “Ở phương Đông bắc, có trú xứ của Bồ-tát tên là núi Thanh lương. Trong quá khứ có vị Bồ-tát thường ở trong đó, và ở đó, hiện nay có Bồ-tát tên là Văn-thù-sư-lợi, có vạn vị Bồ-tát ở đó thường về giảng nói pháp”. Tôi từng đến trông xem danh sơn xứ đất đó, tuy Tung sơn Đại sơn làm trấn, bồng lai, hang tiên đều biên tập trong sách thế tục. Mọi sự chỉ tại vức nội, chưa có điều gì xuất phát từ kim khẩu lưu truyền trong bảo tạng. Gá muôn vị Thánh mà phu tuyên hoằng hóa, từ 5 xứ Ấn Độ mới đến di tích này, đẹp sáng núi linh, lợi khắp hiền kiếp. Đâu thường ghi chép thành thiên chương, đồng năm mà đàm nói ư!

Nay, trên núi có chùa Thanh lương, phía dưới có phủ Thanh lương, huyện Ngũ đài, đó thật đáng làm khuôn mẫu soi sáng vậy. Có 1 tên gọi núi Ngũ đài, trong đó có 5 quả núi cao vút, trên đảnh đều không có cây rừng sinh mọc, mọi sự đồng như tích độ, nên gọi là Đài. Theo “Kinh ly nguyên thủy” nói là: “Núi đó có 5 quả cao vút vượt trên các núi khác, nên gọi đó là núi Ngũ Đài”. Năm Vĩnh Gia thứ 3 (30) thời Tây Tấn, tại huyện Tôn nhân, quận Nhạn môn có hơn trăm gia đình lánh nạn vào núi đó, bị người núi rượt đuổi vì đó mà không trở về, bèn ở yên giữa núi non hang trống. Những kẻ sĩ qua lại có lúc có trông thấy họ ở, nhưng đến phỏng tìm thì chẳng biết ở đâu. Nên mọi người cho núi đó là dinh đô của tiên giả vậy. Theo “Kinh tiên” nói là: “núi Ngũ đài gọi là Tử phủ, thường có hơi khí sắc tía lan tỏa, tiên nhân ở đó”. Theo “Tinh dị ký” nói là: “Tại Nhạn môn có núi Ngũ đài, hình núi có 5 ngọn cao trơ trọi, có 1 đài thường mờ tối không thể sáng tỏ, vào những lúc trời trong mây tan thì có thể hiện bày”. Theo “Quát địa chí” nói là: “Núi đó, tầng cuộn cao vợi đẹp xinh, đường cong uốn quanh. Núi linh khê thần, hàng phàm tục không thể nương ở. Những vị ở đó, hoặc là những bậc chuyên tinh thiền định, các vị tư duy huyền ảo, và phàm pháp sấm vang âm, hương khói tỏa bốn phía, những bậc mang tâm từ bi giác ngộ, tự nhiên xa vợi. Mới nghiệm những vị đến núi đó, đến mà không trở về”. Theo “Tập ký giả” nói là: “Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi là bậc đại sĩ pháp thân, xưa trước đã thành chánh giác hiệu là Long Chủng Tôn, là Hoan hỷ tạng, cũng có hiệu là Phổ Kiến Như Lai. Nay vì dùng sức phương tiện hiện thân Bồtát để vì đối dương Thánh chúng, nhiếp hóa cứu tế quần mông, răn dẫn các loài xua đưa đến bờ kia để được tỏ rõ Đạo. Với các hàng có trí thức không đến được tận nguồn thì giải đàm về đạo tích, danh số không thể cùng cực thềm bậc. Chỉ vì các loài mê mờ trong đêm dài chẳng thể tự ngộ. Nên bèn rũ giáng từ bi, hiện đến cõi nước Kham Nhẫn (Ta-bà) này, giữ gìn giáo pháp của chư Phật xưa trước, thường ở tại chốn đất Thanh lương, bày vết gần căn cơ đợi chờ bọn hám sinh chúng ta”. Theo “Kinh bát-nê-hoàn” nói là: “Nếu người chỉ nghe được danh hiệu Bồ-tát Vănthù-sư-lợi thì dứt trừ được tội sinh tử trong 12 kiếp, nếu người nào lễ bái thì thường được sinh trong nhà Phật. Nếu người nào xưng danh hiệu từ 1 ngày đến 7 ngày thì Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hẳn sẽ hiện thân, như người bởi nghiệp chướng xưa trước cản ngăn thì trong mộng cũng được thấy hình tượng Bồ-tát, trong trăm ngàn kiếp chẳng sa đọa vào đường xấu ác. Lớn thay lợi ích ấy! Các người con đang ở trong nhà lửa, sao lại lãng quên nghĩ nhớ, chỉ rộng trông mong trương kiển, tìm nguồn sông nơi vườn trời? Sa-môn Pháp Hiển đi tìm cầu chánh giác đến tận trời Thiên trúc, huống gì chỉ trong thước tấc thần châu, khen lao nghe thấy. Qua về núi ấy chưa vượt quá tháng trời, vượt trải lên xuống chưa nhọc vài ngày. Há có thể chẳng năn dắt tâm mờ tối, phấn phát chân biếng lười, giẫm trải qua thành thực nhỏ nhiệm này vì đến bờ giác ngộ ư?”

Có người hỏi rằng: “Đấng Đại Thánh giáo hóa mọi vật theo lý nên bình đẳng, tức nên khắp cùng muôn ức cõi nước, cớ sao lại ngưng trệ tại 1 phương này ư?”. Đáp rằng: “Thật đúng với yếu chỉ của Đức Như Lai! Thật đúng với yếu chỉ của Đức Như Lai! Chỉ phải đủ 3 duyên mới ở tại chốn này, đó là: Một là chư Phật từ xưa trước lần lượt túc trì tại đó. Hai là muốn khiến các hàng vô trí hạ ngu chuyên tâm có tại một chỗ và ba là các hàng ở đó căn cơ đã thuần thục có thể kham nhận mọi thấy nghe. Tôi cho rằng đạo lý đè nén hay nâng bốc, chỉ vậy mà thôi. ”

2. PHONG VỨC LÝ SỐ

Núi, cách Trường An về phía Đông bắc hơn 1.600 dặm, thuộc quản hạt của Đại châu. Từ đảnh núi đến Châu thành về phía Đông nam cách hơn trăm dặm. Núi đó về phía tả gần với Hằng Nhạc, về phía hữu tiếp liền với Thiên trì, phía Nam thuộc huyện Ngũ đại, phía Bắc đến tận huyện Phồn trĩ, bao quanh dưới nền đến có hơn 500 dặm. Như là non cao lắm lớp chắn, cốc thông suối bay, xúc chạm đá nhả mây, tức tùng làm lọng tán có đến hàng ngàn cây, sương tuyết mùa hạ ngưng đóng, khói mốc thường tích chứa, người vật chẳng thể lén giẫm trải qua, và cũng luôn luôn như vậy. Lên trên Trung đài trông nhìn bốn phía hết tầm mắt, chỉ có Hằng nhạc cao kề tiếp đó, còn các núi cốc khác đều men theo bên vệ như thanh thắng vậy.

Trung đài cao 0 dặm, trên đảnh đất bằng phẳng chu vi rộng 6 dặm lẻ 200 bộ. Hơi gần về phía Tây bắc có suối Thái hoa chu vi rộng 38 bộ, nước sâu 1 thước tấc, trước sau với sự có cảm có cạn có sâu khác nhau, nước suối đó trong suốt ngưng ánh, chưa từng giảm khô, mọi người đều cho đó là nơi Thánh nhân sử dụng, nên qua lại phần nhiều đều đem các thứ hương hoa của cải đặt để vào đó cúng dường, phía bờ trên đảnh đài mỗi phía dài 2 dặm tuyệt không có cây cối lớn chỉ có cỏ hoắc lướt trải sinh mọc. Các đài khác, không có cây chỉ cỏ, thảy đều theo vậy. Theo “Kinh Ly nguyên thủy” ghi chú là: “Nguồn nước đây Đông nga cốc phát xuất từ Trung đài, nước đó có nhiều khe đua nhau sinh phát khống chế các sông, chảy loạn về phía Tây nam, tải qua Tây đài, trải đến Đông nga cốc, nên gọi đó là Đông nga cốc.

Đông đài cao 38 dặm trên đảnh đất bằng phẳng chu vi rộng 3 dặm, cách Trung đài với suối Thái hoa xa 2 dặm. Căn cứ theo “Quát Địa Chí” v. v… nói: “Các đài cao thấp, số dặm xa gần phần nhiều có trái vượt, bởi là Thủ đạo chẳng đồng, hoặc chỉ đài có khác, nay chỉ y cứ ở 1 nhà, còn ghi đại để như vậy. Nếu muốn đến Đông đài, trước tiên từ Trung đài qua Bắc đài, mới đầu qua khoảng giữa chỉ leo sườn núi liền nhau, không bị cản trở bởi khe suối. Trên đảnh không có nước, chỉ có đá tạp loạn, nước cốc Tiểu bách, xuất phát tại dưới đài đó, theo hướng Bắc đổ xuống sông Hô-đà. Về phía Đông nam núi đó kéo dài 0 dặm liền vào Hằng châu, biên giới huyện Hành đường. Phía Đông núi Phiên lãnh cùng liền với Hằng nhạc. Phía Tây bắc kéo dài 13 dặm liền vào cốc Đại bách thuộc biên giới huyện Phồn trĩ.

Tây đài cao 35 dặm, trên đảnh đất bằng phẳng chu vi rộng 2 dặm, có nước. Phía Đông cách suối Thái hoa dặm. Về phía Tây bắc núi đó kéo dài 20 dặm tức vào Nga cốc thuộc phía Tây biên giới huyện Phồn trĩ.

Nam đài cao 37 dặm, trên đảnh đất bằng phẳng chu vi rộng 2 dặm, không có nước. Về phía Tấy bắc cách suối Thái hoa 80 dặm, phía Nam có khe nước, nguồn phát xuất từ núi đó. Từ nguồn phát xuất về phía Đông nam chảy loạn nhiều dòng, vào khe nước phía Đông. Về phía chánh Nam núi đó kéo dài 60 dặm tức đến ngay chùa Khâm nham thuộc biên giới huyên Ngũ đài.

Bắc đài cao 38 dặm, trên đảnh đất bằng phẳng rộng 3 dặm. Về phía Nam cách suối Thái hoa 12 dặm, trên đảnh luôn có đá lỗi lạc, khe suối Tùng thạch, lạnh đông chẳng chảy. Về phía chánh Bắc núi đó kéo dài 20 dặm tức liền với cốc Đại bách thuộc biên giới huyện Phồn trĩ, trong cốc có nước bắt nguồn từ Bắc đài xuôi chảy vào sông Hô-đà. Theo kinh Sơn Hải nói: “Núi Thái hý nơi phát xuất nước sông Hô-đà”. Quách Phác chú thích rằng: “Sông Hô-đà ngày nay phát xuất từ núi Võ phu, phía nam huyện Lỗ thành thuộc Nhạn môn”. Theo “Quát Địa Chí” nói là: “Núi Thái hý và Võ phu tức là chỉ 1 núi vậy. Nay gọi đó là Phái sơn, tức là đài Đông cách huyện Phồn trĩ 40 dặm”.

3. CỔ KIM THẮNG TÍCH

Từ khi Chu Mục gặp Hóa Nhân trở về sau, Hán Võ được kim thần trở về nước, xưa trước tiếp nối rõ ràng, lâu in hình nơi giản độc. Chỉ vì Tần Vương (Tần Thủy Hoàng – Doanh Chính 26-20 trước tây lịch) phóng tứ hung nghịch, thiêu đốt hết thi thư, bèn khiến những bậc khéo học chân thừa cùng thời vận mà suy mất! Mãi đến thời vua Hiển Tông (?) cảm mộng, sóng cả dần lớn mạnh dượm nhuần khắp nơi mà mở đường, giá nhật nguyệt mà tranh sáng, thật là vĩ đại thay! Có thể khái lược mà nói vậy. Kịp đến thời đại Bắc Tề dòng họ Cao bình trị (550578), hoằng dương sâu rộng về tượng giáo, chùa tháp khắp trong nước nhà có gần 0 ngàn ngôi. Trong đó, có hơn 200 ngôi già lam. Lại cắt thuế khóa ở 8 châu để làm tài vật cúng dường y phục thuốc thang cho sơn chúng (chư Tăng) căn cứ theo đó mà rõ biết thì tiên ở Linh huống nên xúc chạm đất mà lắm nhiều. Gặp đến lúc vua Võ Đế (Võ Văn Ung 561-57) thời Bắc Chu phá diệt Phật pháp, kinh điển Phật pháp bị giẫm nát, phương huy thạnh quỷ tiêu tan gần hết. Như tự chẳng có thần minh chia phân gìn giữ hiếm có kẻ cầm cương hiện còn. Nay, mọi sự ghi lục đây đều từ những người đó đến nơi chân thật ẩn mất diêu tàn, có thể gọi là hơi thở rất dài vậy. Nên ở đó có đạo dựng tháp miếu, tu đạo tôn nghi, cảnh nghiệp xứng đáng, tuy chẳng như xưa trước, nhưng đều theo thứ tự mà nói bày đó vậy.

Tại trên Trung đài, có một ngôi tinh xá bằng đá xưa cũ do Thứ sử Thôi Chấn ở Lệ châu thời nhà Ngụy tạo dựng. Lại có vài mươi ngôi tháp đá nhỏ, phần nhiều đều đã bị hủy nát. Nay hiện có nền móng đá sắp chất liền nhau của 2 phòng thất vuông rộng hơn 3 trượng, cao 1 trượng 5 thước. Thất phía Đông có 1 tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đứng cao bằng thân người. Thất phía Tây có 1 tôn tượng Bồ-tát Di-lặc ngồi hơi nhỏ hơn so với tượng Văn-thù. Trong 2 thất đó, các thứ hoa lọng cúng dường, các thứ đệm dạ thọ dụng không gì chẳng mới đẹp. Đó là nơi Sa-môn Đại thừa Cơ ở chùa Từ Ân đã đến đó vậy. Cơ ( Khuy Cơ) tức là đệ tử thượng túc của Tam tạng Pháp sư Huyền Trang. Năm Hàm Hanh thứ (673) thời tiền Đường, Sa-môn Khuy Cơ cùng hơn 500 vị vừa Tăng vừa Tục đến đó tu hành, hoặc nghe có mùi hương thơm khác lạ, âm thanh chuông khánh hòa vang. Năm đó, các hàng đạo tục ở Hàng châu lại tạo 1 ngôi phù đồ bằng sắt cao hơn 1 trượng nghinh đưa đến núi Ngũ đài. Đầu tiên thiết đặt ngay giữa khoảng thạch thất. Ở phía Nam có 2 bia văn cũ nay đã bị ngã đổ, chữ khắc đều bị xóa mờ, chỉ còn hơi ngời sáng, tôi tẩy rửa để đọc xem đó nhưng trọn không biết 1 chữ! Một bia do Thứ sử Thôi Chấn ở thời nhà Ngụy tạo, 1 bia Hàn châu trưởng sử Trương Bị lập. Tương truyền là: “Trương Bị từng đi đến núi Cảm Thánh nên lập bia đó để thuật bày manh mối xưa trước, cùng 700 người dẫn đến lên đài mà dựng lập đó”. Từ đó về phía Đông nam đi men theo đảnh núi dần xuống hơn 30 dặm là đến chùa Đại phu đồ. Chùa đó do vua Văn Đế (?) thời Nguyên Ngụy dựng lập. vua Văn Đế từng đến dừng ở đó, sắm đủ mọi thứ kính phụng Thánh nghi, bèn phát Thánh tâm tạo dựng chùa Vũ đó. “Phu” nghĩa là “tin”. Nói vua đã gặp cảnh phi thường bèn mở phát tâm tin rộng lớn. Vả lại nay thấy 2 ngôi nhà ở phía Đông tây, tôn tượng thiết đặt vẫn hiện còn. Ngoài ra, hành lang nền móng cảnh vức phản phất hiện còn. Theo “Quát Địa Chí” nói: “Lấy “Phu” là “Phò””. Còn theo “Cao tăng truyện” thì lấy “Phu” là “Bố”. Đó đều là sự sai nhầm của trong các truyện lục vậy. Và các xứ ở núi đó, Thánh tích thật lắm nhiều, đến như những sự cảm kích tâm linh chưa có nơi nào như ở đó. Nên những người trước sau qua đến, tuy có kiến thức ngu dốt tâm tình bỉ ổi cũng đều khẩn thành bùi ngùi đượm ướt khăn áo, và đều nghĩ suy cải đổi cố gắng. Phía dưới 2 ngôi nhà ấy, không dung người phàm dừng ở. Xưa kia có 1 vị Tăng, đến trong nhà phía Đông ở lại qua đêm, đoan tọa tụng kinh, bỗng cảm thấy bị bồng ném xuống khe suối ở phía Đông vậy. Từ đó về sau, mọi người sang đó không dám xâm phạm. Xưa kia tại chùa đó có 3 vị Sa-di từng nghe các bậc túc đức đàm nói có sự linh ẩn bèn cùng nhau dẫn đến hang cốc phỏng tìm mong được thấy gặp. Trải qua -5 ngày, lương thực muốn hết bèn tìm đường trở về, đến 1 đảnh núi Ngựa dựng nghỉ dưới gốc cây. Chỉ chốc lát thấy có 1 người sắc da đen sạm men theo đảnh núi đi lên, 3 vị Sa-di đó cúi đầu lễ bái xưng gọi rằng: “Thánh giả hãy hiện lại đạo thuật!”. Người ấy bảo: “Đợi ngày mai, ta sẽ trở lại, các ông tạm đến núi phía Đông đợi chờ ta dưới gốc tùng. Nếu thấy người vào hang, gọi cầu đó thì tự được”. Xong, bèn xuống đảnh núi phía nam mà đi. Ba vị Sa-di men theo đảnh núi đến núi phía Đông có được 1 cây đại thọ. Bụng cây đó rỗng không như là nhà cửa, đến gần trông xem thấy mịt mờ, 3 vị Sa-di đó đứng đợi chờ bên cạnh cây đến sau giờ ngọ, bỗng nhiên như có 1 xấp lụa rơi xuống trước cây, thì ra 1 bậc trượng phu râu tóc tai cao, sắc mặt tợ hoa đào đi thẳng vào trong hang cây tùng, cả 3 vị Sa-di không dám lại gần, kinh sợ cùng đứng trông xem. Một vị nói là: “Cứ đứng nơi cửa hang chờ đợi ra liền chết ôm chầm lấy đó”. Giây lâu, người ấy vừa mới đi ra, 1 vị Sa-di liền ôm lại, còn 2 vị kia kính lạy xin ban ân. Người ấy tỏ vẻ tức giận quát mắng rằng: “Đồ vật ngu si sao chẳng thả ra? Ta trọn không nói gì đâu?”. Vị Sa-di ấy liền buông thả ra, người đó liền vọt nhảy giữa hư không mà đi. Khi ấy cùng nhau tìm lại hướng Tây mà trở về, đến chiều tối thì đến nơi gặp người béo mập đen sạm hôm qua, bỗng thấy người ấy lại vạch rừng mà leo lên đảnh, ngược hỏi 3 vị Sa-di rằng: “Người ấy có làm gì nói gì chăng?” 3 vị Sa-di đáp: “Người ấy rất giận dữ, chẳng nói điều gì”. Người đó cười bảo: “Ham thích rượu lại uống, các người khiến não loạn người đó. Thận trọng chớ trở lại, hãy gấp lấy rượu của người ấy mà uống”. Nói xong, lại theo hướng Bắc mà đi xuống. Ba vị Sa-di y theo lời bảo đó vào hang, có bậc đá đặt dưới, dài khoảng 2 trượng, phẳng bằng gần xuống phía Bắc, đều toàn đá sắc trắng quanh hạng, ánh sáng như ban ngày, có 1 chiếc bình bằng bạc, dùng mâm bạc đậy lại, phía trên có 1 cái chén bạc. Rượu đó có mùi thơm cay ngon lành khác hẳn mùi rượu ở thế gian. Ba vị Sa-di uống thử rượu đó, chỉ mới được ra khỏi hang, bèn đều say cả, đến lúc tỉnh lại cảm thấy ngoài miệng mỗi vị đều có loài trùng nhỏ như lòng đuôi ngựa rúc rải ngang dọc vô số. Từ đó, nhan sắc cả 3 vị Sa-di đẹp nhuần, khí lực mạnh gấp bội, trở về lại chùa vài ngày sau, đông 1 lúc mà mất vậy.

Ở phía Nam chùa đó có vườn hoa rộng khoảng vào ba khoảnh đất đai mầu mỡ tươi tốt, có trăm ngàn danh phẩm, sắc màu sáng đẹp tướng trạng đồng như thư cẩm, tức do vua Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoằng 6671) thời Bắc Ngụy trồng nên đó. Theo các hàng sĩ tục nói là: Hoa ấy vào giữa mùa hạ hơi tươi tốt nhưng chưa lắm nhiều, đến ngày 15 tháng 7, đồng 1 lúc cùng phát, trải qua 7 ngày vụt nhiên đều tàn tạ. Chỉ vì ở nơi u hiểm khó tìm nên ít hiếm người trông thấy đó. Theo “Quát Địa Chí” nói về vườn hoa đó là rừng gấm hoa linh, chủng loại tên gọi khác lạ, chim muông thú vật thuần ở lâu, mặc chân chẳng nhiều, tin chắc đó là cảnh đẹp xinh vậy. Từ vườn hoa đó theo hướng Nam đi hơn 20 dặm có núi Phạm tiên, còn gọi là núi Tiên hoa. Xưa kia có người đó ăn dùng hoa cúc mà được thành tiên, nên lấy tên gọi là Phạm tiên hoặc Tiên hoa vậy. Nay, trong tháng năm Lân Đức thứ nhất (66) vua Cao Tông (Lý Trị) thời tiền Đường sai sứ Ân Chân Vạn Phước cưỡi theo ngựa trạm đến đó hái hoa vậy.

Từ chùa Đại phu về phía Đông nam cách 200 bộ có đền thờ Ngũ đài. Khoảng cuối thời nhà Tùy, đền thờ đó bị thiêu chỉ còn lại dấu vết mà thôi. Từ chùa Đại phu về phía Bắc, cách dặm có chùa Vương tử thiêu thân. Tại đó trước kia có ngôi tháp cổ của vua A-dục. Đến đầu thời Bắc Tề (550) vị Vương tử thứ 3 đến đó cầu mong Bồ-tát Văn-thùsư-lợi mà trọn không được thấy mới đến phía trước tháp phát nguyện tự thiêu thân để cúng dường. Nhân đó mà tạo dựng thành chùa ấy vậy. Với Vương tử ấy, có Hoạn quan Lưu Chi tự bùi ngùi thấy di hình còn lại, lại cảm sự việc Vương tử thiêu thâu, bèn tấu xin vào núi tu Đạo, được vua (?) ban sắc chấp thuận. Mới đến ở đó đọc tụng kinh Hoa Nghiêm trọn 21 ngày hành đạo, cầu mong được thầy Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, bèn được thầm ứng, liền được hoàn bị thân căn, nhân đó liền giải ngộ mới trước thuật luận Hoa Nghiêm 6 quyển. Luận gần tất cả đuôi đầu, bèn trở về lại tấu trình. vua Cao Tổ (?) kính tin, do đó càng tăng thêm thường ngày giảng 1 Thiên Hoa Nghiêm ở thời bấy giờ rất thạnh hành. Xưa kia trong năm Hy Bình thứ nhất (516) thời Bắc Ngụy có Sa-môn Linh Biện ở núi huyện Ông tiên đầu mang đội kinh đó dõng mãnh hành Đạo, dưới chân rách nát đổ máu, do sự tinh cần chí thành mà cảm ngộ, mới đồng hiểu được kinh điển đó, bèn trước thuật luận gồm 100 quyển. Bấy giờ Hiếu Minh hoàng đế (Nguyên Hủ 516-528) thời Bắc Ngụy thỉnh mời đến ở điện Thức càn để phu dương áo chỉ. Các hàng tể phủ danh tăng đều theo đối mặt về phương Bắc. Pháp sư Linh Biện thị tịch trong tháng giêng năm Chánh Quang thứ 3 (522) thời Bắc Ngụy, lúc đó vừa mới 36 tuổi. Đâu chẳng là do sức tinh tấn cảm nên, khác thời đồng trần thay!

Từ chùa Vương tử thiêu thân về phía Đông bắc chưa rõ số dặm xa gần là đến Trung đài, phía Nam Bắc đài, phía Tây Đông đài chính giữa của 3 núi đó, đường đi sâu hiểm, mọi người chẳng thể đến. Truyền nghe về hang Kim cang. Hang Kim cang là nơi đầy đủ các thứ cúng dường chư Phật 3 đời, phần nhiều là cất chứa tại đó. Căn cứ theo “Kỳ Hoàn Đồ” nói là: “Trong Kỳ hoàn có 1 bộ nhạc trời được làm thành bằng 7 vật báu”. Tiên nói: Lại căn cứ theo Linh tích ký nói là “Nhạc đó do quỷ vương La-sát ở núi Lăng già tạo ra, đem đến dâng cúng Đức Phật Ca-diếp vì là cúng dường nên sau khi Đức Phật Ca-diếp thị tịch, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đem đến trong hang Kim cang tại núi Thanh lương. Đến lúc Đức Phật Thích-ca xuất hiện nói đời, lại đem đến Kỳ hoàn, trong vòng 12 năm, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi lại đem vào trong hang Kim cang ở núi Kim cang. Lại còn có không hầu bằng bạc, người trời bằng bạc ngồi trên hoa 7 báu đàn gảy không hầu ấy. Lại có đại Tỳ-nại-da tạng bằng giấy vàng sách bạc, Tu-đa-la tạng bằng giấy bạc sách vàng. Sau khi Đức Phật diệt độ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đều đem đến trong hang Kim cang ở núi Thanh lương.

Xưa kia, dưới thời các vua Cao Tề (Bắc Tề), tại chùa Đại phu có Sa-môn Trường Vân, vốn dòng họ Chu không rõ là người ở xứ nào, chỉ vừa vài tuổi bèn xuất gia, mới đầu nương theo Sa-môn Tăng Thống Thích Linh Tuân ở Tinh châu làm đệ tử. Ngài Linh Tuân muốn xét xem tập nghiệp xưa trước, bèn đem kinh tạng Đại thừa, để cho mặc tình chọn lấy, mới lấy được bộ kinh Niết-bàn, nhân đó bảo Tường Vân tập học tụng đọc đó, chưa tròn 1 năm mà 1 bộ kinh Niết-bàn đó được hoàn tất. Mỗi ngày đọc tụng 1 biến lấy làm lệ thường. Đến lúc đã nghe đó là núi linh mới tìm sang ở. Sau, đến phía Nam chùa, thấy có khoảng hơn vài mươi người đều cao lớn cả trượng, trong đó có 1 vị oai đức vượt trội đi thẳng đến nghinh tiếp, đảnh lễ mà thưa rằng: “Cầu xin sư hành Đạo 7 ngày”. Tường Vân đáp rằng: “Chưa rõ Đàn-việt là người nào, nhà ở đâu?”. Những vị ấy thưa rằng: “Đệ tử là thần núi đây ở hang Kim cang”. Khi ấy bèn dẫn Tường Vân theo hướng Bắc đi khoảng vài dặm, thấy cung điện vườn rừng đều dùng bằng các thứ Chu Bích để nghiêm sức. Tường Vân mới ở đó trì tụng kinh, âm thanh lưu loát rõ ràng vang hưởng khắp cùng cung thất. Sau khi trì tụng kinh xong, thần đem các vật trân quý cúng dường Tường Vân, Tường Vân chẳng chịu nhận. Thần cố cầu thỉnh mới nhận lấy. Tường Vân nói rằng: “Bần đạo cảm mắc hoạn đời sống này chẳng được lâu dài. Do tu Đạo nghiệp, Đàn-việt hẳn cũng không sót bỏ xin ban cho thuốc thần linh”. Thần nói: “Điều đó cũng có thể được vậy”. Bèn lấy ra 1 viên thuốc lớn như trái táo, sắc màu như luyện mà kính dâng cúng. Tường Vân nhận rồi tiện dùng đó bèn được lên tiên, trở lại chốn kinh đô, tỏ bày tạ từ mà đi.

Từ Trung đài về phía Nam cách hơn 30 dặm, tại ven sườn núi có đường thông lớn, người đi đến đài thường đi bằng đường đó. Bên cạnh có 1 ngôi thạch thất rộng 3 gian. Bên trong có các tôn tượng Phật Thíchca, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, Phổ Hiền v. v… lại có phòng ốc, nhà bếp, màn chắn v. v… hiện còn. Gần đây, trong năm Hàm Hanh thứ 3 (672) thời tiền Đường, Thiền sư Nghiễm đến ở đó tu tạo dựng lập để cho các hàng đạo tục lên đài, qua lại dừng nghỉ. Thiền sư Nghiễm vốn người ở Sóc châu, chưa rõ thuộc dòng họ gì, xuất gia năm 17 tuổi, đi thẳng đến núi đó để lễ bái, vui mừng với điều may mắn, nên phát nguyện tu tạo chân dung tôn trí tại đó. Và Đạo nghiệp thuần túy, tính khổ vượt hẳn, cảnh hạnh rất có giá. Nên từ tinh quận trở về phía Bắc chỉ có 1 người đó mà thôi. Từng ở tại Hằng an tu sửa tôn tượng xưa cũ nơi hang đá vua Hiếu Văn Đế (?), tuy mọi người tôn xưng là chủ nhưng Thiền sư Nghiễm chưa dự tham huyền hóa. Trong vòng ngàn dặm trở lại không ai chẳng nghe đạo phong mà kính trọng. Hai mùa xuân thu thường đưa các thứ sữa lạc bông tơ đến để cúng dường tạo phước. Ngoài ra, về thắng hạnh thù cảm cuối cùng do vụn vặt hết. Năm Hàm Hanh thứ (673) thời tiền Đường, Thiền sư Nghiễm thị tịch tại thạch thất. Cách ngôi nhà ấy về phía Đông bắc hơn trăm bộ, hiện còn ngôi tháp Thiền sư Nghiễm ngồi kiết già như hiện đang sống, mọi người qua lại thảy đều được trông thấy. Từ thạch thấy về phía Đông nam cách khoảng vài dặm riêng có 1 ngôi tốt-đổ-ba nhỏ, phía trên có chùa Thanh lương do vua Hiếu Văn Đế tạo dựng, tôn tượng Phật đường ở đó đến nay đều hiện còn.

Tại Đông đài cũng có ngôi tháp được sắp xếp bằng đá cao khoảng 6-7 trượng, bên trong có tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Từ đài về phía Đông tiếp liền với Hành nhạc, khoảng giữa rỗng tối rỗng, hiếm ít dấu chân người bước đến. Theo các bậc lão thành xưa trước tuyền là có nhiều người đến ẩn dật tại đó. Tôi từng đến phía Đông bắc đài đó, gặp được 1 người, hỏi về vết tích xưa cũ. Người đó đưa tay chỉ giữa khoảng 2 bên đài nhạc mà bảo là: “Thời xưa, nhân dí săn đến phía Đông của đài, thấy hoa quả cây rừng tươi tốt có hơn 10 khoảnh. Về sau trở lại phỏng tìm, trọn chẳng thấy ở đâu. Vả lại, trong các đài thì đài đây rất xa. Giữa khoảng đó núi hang chuyển đổi hình trạng, nên người trông thấy đều mất chỗ ghi nhớ, nên các người đến lễ bái tham yết, đều chẳng thể đến. ”

Xưa kia có 1 vị Tăng đến núi lễ bái. Đến trên Trung đài, muốn đến Đông đài, xa thấy phía trước có vài mươi con trùng lớn nghinh dẫn trước mà đi. Vị Tăng ấy nguyện dốc hết thân mạng cần phải được đến lên đó. Bỗng chốc mây lành nên nỗi sinh tỏa hai bên tả hữu, trong khoảnh khắc trông nhìn lại như bít mắt, bèn rất kinh sợ nên bùi ngùi hối hận mà rút lui! Xưa trước tôi có cùng phạm tăng Thích-ca-mật-đa-la lên trên Trung đài. Mật-đa-la mới đầu nói là hẳn phải đi, nhưng sau trọn chẳng đi. Tôi cho là các bậc Thánh giả phần nhiều ở tại trong đó.

Tại Tây đài, lược không thể nêu thuật. Phía Tây của Tây đài có hang Bí ma. Xưa trước vào thời Cao Tề (Bắc Tề 550-578), có Tỳ-kheoni Pháp Bí, là người tuệ tâm thiên ngộ, chân khí riêng trội vượt, vất bỏ thế tục huyên náo, xa đến ở đó suốt 50 năm, như mới đầu không đổi thay bước chân. Do thiền tuệ cảm nên, ở đời khắp nghe, đến năm hơn 80 tuổi mới thị tịch tại đó, người đời sau rất mực kính trọng, nhân lấy đó mà gọi tên hang. Tôi từng cùng vài ba người vừa tăng vừa tục cố ý sang tìm đó, trông xem nơi ở, mới là kỳ quán của địa phủ. Hai phía Đông-tây của hang vách dựng đứng cao vài ngàn trượng, đường văn đá 5 sắc, đẹp xinh tợ như ráng sớm, có vài hàng cây tùng trồng cắm rễ nơi bụng hang. Ở đó 2 bên dần giáng xuống hợp ở mặt phía Tây, khoảng giữa có 1 con đường mới có thể dung được thân người chen đi. Ngoài ra tướng trạng thiên nhiên như thành quách và Phật đường, phòng nhà hiện có vài gian. Các vết tích thiền tụng đủ khiến người trông xem dấy khởi nghĩ nhớ.

Tại Nam đài, linh cảnh tịch hoang nên mọi người ít đi đến đó. Ở phía Tây của nam đài có núi Phật quang, phía dưới có chùa Phật quang do vua Hiếu Văn Đế tạo dựng. Có Phật đường rộng ba gian, phòng tăng rộng hơn 10 gian, tôn nghi chỉnh túc hòa mục, suối rừng trong tốt.

Xưa kia, đầu thời nhà Tùy, chánh giáo phục hưng, phàm ở các ngôi già lam, mặc tình tu bổ. Bấy giờ Thiền sư Giải Thoát ở chùa Chiêu quả tại huyện Ngũ đài, đến đó và có chí muốn trọn đời sống tại đó, nên gia tâm tu sửa tạo dựng. Thiền sư Giải Thoát vốn dòng họ Hình, người thuộc bản xứ. Vừa độ tuổi reng ngựa liền dự phần xuất gia, xưa trước đã gieo trồng gốc đức, nên sớm nghĩ nhớ hỏi đến bến bờ. Mới đầu, theo Thiền sư Chí Chiêu ở núi Bảo phúc thuộc phía hữu Giới sơn, hỏi cầi định nghiệm. Thiền sư Chí Chiêu cũng là người gần lên bậc Thánh, khéo hết trở lại nguồn, mà bên trong tích chứa sự nhận biết về người, đắc ban thù lễ, bảo cùng đại chúng rằng: “Giải Thoát là người tập học thiền pháp xung minh, các ông không thể sánh kịp, chớ đồng bạn thường khiến làm mọi việc chúng tăng”. Trải qua thời gian không lâu, giải Thoát bèn trở về nơi chỗ ở cũ. Từ đó thường trì tụng kinh Pháp Hoa và hành trì các pháp sám Phật Quang v. v… Giải Thoát đã từng có vài lần đến chùa Đại phu truy tìm Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Tại phía tả của Đông đài đa từng vài ba phen được gặp. Mới lần đầu thì đảnh lễ xong rồi bỗng nhiên ẩn mất, lần sau thì đích thân tiếp thừa âm huấn. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bảo Giải Thoát rằng: “Nay ông sao lại phải thân gần kính lễ ta? Có thể nên tự hối trách chính mình, hẳn sẽ ngộ giải vậy”. Giải Thoát kính vâng Thánh chỉ ấy, nhân đó tự tìm lại bên trong, mới tỏ ngộ vô sinh, cùng tăng thêm pháp hỷ, bèn bùi ngùi với sự riêng tốt lành đó, nghĩ nhớ rộng cứu tế, chí thành cầu đại giác, thỉnh cẩn tâm này, mới cảm được chư Phật hiện thân đồng tiếng nói bài kệ rằng:

“Pháp chư Phật tịch diệt sâu mầu
Nhiều kiếp tu hành nay mới được
Nếu hay mở hiểu pháp nhân đây
Hết thảy chư Phật đều tùy hỷ”.

Giải Thoát lại hỏi giữa không trung rằng: “Pháp tịch diệt làm sao có thể giảng nói được để giáo hóa mọi người ư?” chư Phật liền ẩn, chỉ có tiếng nói:

“Trí phương tiện làm đèn
Tâm chiếu kiến cảnh giới
Muốn tầm chân pháp tánh
Thảy đều không chỗ thấy.”

Lại từng có Đô đốc ở Bản châu thỉnh truyền hương giới. Đến lúc pháp hóa đã hoàn tất, sắp xếp việc trở về phương Đông, Đô đốc và chư Tăng tín đồ đưa đến đàu phía Đông thành, ngày giờ đã sắp chiều tối, Giải Thoát tự tư duy là không được đốt hương cúng dường, nên lật đật hổ thẹn, bèn nghe ở đầu thành có tiếng bảo rằng:

“Chấp tay làm tràng hoa
Thân làm vật cúng dường
Tâm thuần thiện chân thật
Tán thán khói hương tỏa
Chư Phật nghe hương ấy
Đồng lúc đến cùng độ
Đại chúng siêng tinh tấn
Trọn chẳng cùng nghi lầm.”

Khi đó, Giải Thoát đã nghe tiếng ấy rồi lại càng dõng mãnh, từ đó về sâu sự chứng nhập càng sâu. Cảnh hạnh núi cao đều là thuộc đó. Tiên nói rằng: “Căn cứ theo Biệt truyện thì Thiền sư Giải Thoát đã được Đại Thánh chỉ bày tâm ấn, mới nhún nhường tự chăn dắt mình chuyên tinh hầu chúng. Về sau Đại Thánh đích thân đến thử nghiệm, thường mỗi sáng sớm, Giải Thoát nấu cháo cho chúng Tăng, Đại Thánh bỗng hiện đến trước, Giải thoát chẳng đoái hoài ngoảy lại nhìn. Đại Thánh cảnh tỉnh bảo rằng: “Tôi là Văn-thù, tôi là Văn-thù!”. Giải Thoát liền ứng tiếng đáp rằng: “Văn-thù mặc Văn-thù, Giải Thoát mặc Giải Thoát!”. Đại Thánh xét đó là lời tỏ ngộ, bèn liền ẩn thân. Từ đó mọi người xa gần đua nhau tìm đến thỉnh hỏi điều lợi ích như dòng chảy. Mỗi ngày đông có đến vạn người. Đức nghiệp của Giải Thoát như mây lành chở che 8 hướng, tợ mưa cam lồ đượm trăm thứ lúa thóc. Các hàng Thích tử ở bốn phương thảy đều đến chiêm ngưỡng tựa nương. Phàm những lúc khơi dẫn khuyên gắng mọi người, Giải Thoát chỉ nghiêm chỉ cẩn. Thời ấy, chưa lập thành tùng tịch, nên ngồi lộ bày lắm nhiều, bèn khiến bình bát, giường chỏng ánh ngời cả rừng chầm, cúi vâng khéo dẫn dụ, tùy sự mà dẫn bày, mọi sự khơi kích nhanh chóng, lược không thường chuẩn. Nên các bậc sĩ đến của chẳng thể lén nhìn vào sân sâu. Nhưng chẳng ra khỏi chùa đó suốt 50 năm, học thành thiền nghiệp có hơn ngàn vị. Từ ngoài mong ngóng Đạo phong đượm nhuần sóng cả lại quá gấp bội số đó. Nghĩ tìm về truyện ký thì phần nhiều thấy ở người xưa. Tuy Thiền sư Tuệ Tư ở Hành nhạc, chứng đắc thập tín, hiển bày đạo vị cao. Thiền sư Trí Giả ở núi Thiên thai, ngũ phẩm nêu lớn ngang bày. Đến như Tam tạng Pháp sư Huyền Trang bản cùng môn nhân: “Như ta có mọc được lông cánh cũng chưa có lớn thạnh như vậy!”. Tự chẳng phải hạnh vị cao siêu, rũ vết với đồng phàm, hẳn nhờ Đại Thánh ngầm thông, hổ giúp giải thoát hằng dương dụ hóa vậy. Nên tại phía Tây Hằng nhạc, thuộc góc Đông nam của Thanh lương có vị tín nữ thanh tịnh cảm mắc bệnh mù mắt, thường xúc chạm đến núi ở, dốc tâm cầu nguyện Thánh giả Văn-thù-sư-lợi, ngày đêm tinh cần, chỉ thành khẩn đảo, cảm được Đại Thánh gia bị, bèn được sáng mặt lại. Về sau, hông biết như thế nào? Lại nữa, các hàng sĩ tục ở Hằng châu có hơn 50 người, trong 6 ngày trai, thường mang các thứ hương hoa phẩm vật trân quý đến cúng dâng Bồtát Văn-thù-sư-lợi và vạn vị Bồ-tát, thường năm như thế không suy mất. Lại xả thí của cải vật quý, chọn đất tạo dựng chùa, khắc đá bia minh đến nay hiện còn. Trong thời Nguyên Ngụy có Sa-môn Đàm Loan vốn người thuộc dòng tộc cao quý ở Nhạn môn. Ngày còn sống trong thế tục từng đến dừng ở tại chùa đó, bện cỏ làm am, tâm mong cầu cảnh thật. Thế rồi được trông thấy khắp các vị Thành hiền, nhân đó bèn xuất gia. Nên trụ xứ đó là chỗ ở của Loan Công xưa trước vậy. Người đời sau mở rộng nơi chốn đó tạo dựng thành chùa. Hiện nay, phòng ốc có 10 gian, tôn tượng thiết trí trang nghiêm chỉnh túc. Lại nữa, từ cốc Bản qua về phía Tây cách 15 dặm, có chùa Công chúa, nền móng hiện còn, chưa rõ tận tường về ngôi chùa ấy vậy.

TRUYỆN CỔ THANH LƯƠNG
QUYỂN THƯỢNG (HẾT)

 

QUYỂN HẠ

4. Du lễ cảm thông
5. Chi lưu tạp thuật

4. DU LỄ CẢM THÔNG

Từ thuở ấu thơ. Tôi chuộng khí khái khác lạ, đến lúc lớn khôn lại càng dốc thiết, mỗi lúc nghe xướng phương khác, bèn liền khẳng khái dấy lòng. Ai cho là một mai vụt tự đến diệt vậy, bèn được cầm nắm cây si mở khai hoang tầng, gắng dất chân què quên cả mệt nhọc, thẳng lên trên đầu của Trung đài, khi ấy cúi nhìn muôn vật, liền nhìn bên cạnh xa ngàn dặm, chân đạp trên gió tuyết, chí lắng trong Tiêu Hán, bỗng nhiên như xả bỏ kiếp sống bồng bềnh, xa xăm tợ vượt đến trong thiên đình, mới bắt đầu tỏ ngộ sự vất bỏ của trang quán, tư duy sự nghiêng lệch của Đại tiểu. Tuy chưa trông thấy vẻ huyền diệu của Vương Sơn Cửu Tầng; nép đẹp xinh của Thứu phong kê túc. Bên trong tự vỗ về tấm thân bé nhỏ sao cũng nhiều may mắn vậy. Đâu nhọc ngàn năm có 1 lần gặp, nên mới muôn kiếp mong gặp vậy, chỉ bởi chốt Huyền khó bày, cửa tối ít mở. Tại lúc chưa hiểu thì tuy gần mà xa, trông nhìn thần kinh, không thể chẳng mến luyến, nhưng tiếp thừa gần, từ xưa đến nay mọi người đến núi đó thật lắm nhiều vậy. đến như các sự ghi chép tuy mới mẻ nhưng vẫn thấy thông thường, bởi vì gặp lúc không việc tốt, nên khiến hương thơm bụi trần héo dứt, chẳng sinh mọc xa lớn. Mọi người sau lấy đâu để kính ngưỡng ư? Vả lại, như các Sa-môn Đàm Tĩnh, Đàm Thiên, Tuệ An, Tuệ Toàn đều là những bậc uyển lộ của chốn thiền môn, Chi lan ở đất báu, chỉ lên tại đầu đài, thường nghe chí ký, ngoài ra những vị bít lấp mất, sao có thể nói được thay! Do đó nhặt góp Di văn, rõ tìm ở thấy nghe, gần như kẻ sĩ tư tề xếp sắp đồng đến.

Lại căn cứ theo Biệt truyện nói rằng: “Ở thời vua Vũ Văn (Hiếu Mẫn Đế – Vũ Văn Giác 557) thời Bắc Chu, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hóa làm vị Phạm Tăng đến xứ này nói là: “Phỏng tìm thành tích, muốn đến núi Thanh lương, nơi trú xứ của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi”. Bấy giờ, Pháp sư Trí mãnh mới hỏi việc ấy và bắt đầu thỉnh cầu. Bỗng chốc vị Phạm tăng ấy ẩn biến mất, đó tợ như hiểu khuyên gắng gần mông, khiến sinh khát ngưỡng, như người dốc tâm kính tin Thần thông đâu xa vậy thay!

Trong thời nhà Tề (?), tại Định châu, có Sa-môn Minh Úc, chưa rõ là người xứ nào, từ lúc thiếu thời đã nghĩ mong lỗi lạc, chí khí ngưng lắng cao. Nhân nghe núi đó là nơi ở của Thiền sư Thần Tú và Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, mới gói đùm lương thực, mang rương tráp, chống tích trượng tìm đến, phàm mọi sự sâu tối, không đâu chẳng đi đến, chỉ mong tìm Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, chưa qua vài ngày bỗng gặp 1 vị Tăng khác, tướng trạng cùng đồng chí nguyện đó, cũng đùm gói lương thực chống nâng tích trượng nói là “Đi tìm cầu Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi”. Tình cờ đến 1 nơi bỗng nhiên gặp nhau, lúc ấy, Sa-môn Minh Úc đảnh lễ vị Tăng ấy, vị Tăng ấy cũng đãnh lễ Sa-môn Minh Úc, cả 2 vị đồng nói: “Đại Thánh! Đại Thánh, con xin được cứu độ”. Cứ như thế đến lúc đã mệt khốn nhọc mới thôi. Kịp đến lúc hỏi han về phương tục, mỗi vị tự thuật về nói ở của mình. Sa-môn Minh Úc bèn không nghi ngờ gì chỉ mừng vui gặp được người đồng chí ý, cùng theo nhau leo trèo lên núi, qua 3 ngày mới đến Đông Đài, tại góc Đông nam thấy có 1 phòng nhà xưa cũ, có vài vị Tăng ở đó, đều là oai nghi sơ dã, dung mạo xấu xí, mới đầu vị Tăng ấy không sinh tâm cung kính, tiếp theo Sa-môn Minh Úc cũng vậy, đã tiếp đãi ồn ào lạnh nhạt, đêm đó cả 2 vị nghỉ lại ở đó. Đang lúc nửa đêm vị Tăng ấy cảm mắc bạo bệnh, khốn khổ khó kham nhẫn, đại tiểu tiện trên giường chiếu hôi hám không thôi. Chỉ nói: “Bệnh tôi khốn khổ!” lời tiếng như thế chưa từng ngắt dứt. Cả 2 vị mới cùng khuyên dẫn nhau ra ngoài núi. Nhàn lìa khỏi chỗ ấy đi khoảng hơn trăm bộ, thì phòng ốc và các vị Tăng ấy vụt chốc ẩn biến mất, Sa-môn Minh Úc mới tỏ ngộ đó là Thánh nhân, bùi ngùi xót xa sự ngu tối của chính mình, đổ làm than khóc không ngớt, đến nỗi như muốn diệt hủy tự thân, buồn bả hơn cả 10 ngày, trọn không được trông thấy gì. Bèn trở về nơi ở cũ, đến nơi ác bậc danh đức mà thuật bày điều đó. Có người nhận biết, bảo rằng: “Ta bệnh khổ khốn cùng tức là dạy cho ngươi biết bịnh khổ khốn cùng của Ngã và nhân vậy. Ông phải nhận biết như thế hẳn sẽ được độ thoát”. Sa-môn Minh Úc mới tuân theo Thánh huấn, khiêm nhúm tự gìn giữ, dẫu gặp các kẻ trẻ nhỏ, người tùy thuộc mình, cũng kính tiếp không khuyết thiếu, thường luôn tự nghĩ suy đó, đổ lệ cả ngày. Đến năm tuổi ngoài 70, tịch tại chỗ ở!

Trong thời nhà Chu (?) có vị Sa-môn, không rõ dòng họ tên húy là gì. Tức trước kia là vị chủ chùa Ta-bà, và cũng là thầy của Thiền sư Minh, xuất gia từ thuở niên thiếu, vân du khắp các danh sơn, chuyên hành tập thiền pháp. Về sau, đến núi Ngũ đài cùng Thiền sư Minh Đồng ở chùa Ta-bà. Sau đó lại dẫn Thiền sư Minh đi tìm cầu Thánh tích, sang đến núi Hoa lâm tại phía Đông của Đông đài, đến 1 hang cốc có tiếng tăm. Lại vào trong núi sâu, bỗng nhiên thấy 1 chiếc cối đá như vừa mới giã thuốc, bên cạnh có rừng chày, có mùi thơm của thuốc. Sa-môn đó mới bảo Thiền sư Minh rằng: “Nay ta mong cầu Thánh đây được gần”. Chỉ chốc lát, bỗng nhiên có 2 người đi đến, hình dung to lớn, mày dài, tóc vén. Nhân đó cả thầy trò đồng kính lễ nâng đỡ bàn chân, xin cứu nguy ách. Tiên nhân bảo rằng: “Ta đang cùng đại chúng bàn luận, xét rõ biết ngươi đến”. Mới theo hướng Bắc đi hơn 20 bộ, 2 người ấy bèn đi mất, giây lâu, lại có 1 người đến, chỉ nói là: “Ngươi lại đã hợp đáng, có thể theo tà cùng đi”. Đến bên cạnh 1 tàng đá. Vị ấy xoay lại bảo Sa-di (Thiền sư Minh) rằng: “Người nên đi từ từ, chớ kinh động Đại chúng thanh tịnh”. Nói vừa xong, bỗng nhiên thấy rừng tốt suối trong, hoa quý quả lạ, hành lan mái hiên ánh ngời, lầu đài hiển hiện, hoa mới đẹp rực sáng, tướng trạng như thiên cung. Có khoảng 1-15 người vừa Tăng vừa tục, dung nghi hòa mục, cùng ngồi đàm luện nói cười. Thiền sư Minh từ từ kính lễ, từ từ thẳng mặt đi đến. Những vị ấy bảo: “Ông từ đâu lại có thể đến chỗ ta? Nhưng nơi đây toàn là những vị đã chứng đắc quả vị thanh tịnh, không thích nghi với tuổi trẻ. Ông nên đưa vị Sa-di này ra khỏi ngoài chúng, rồi trở lại cùng gặp”. Vị Sa-môn đó kính vâng đưa Thiền sư Minh lui ra, và tự vui mừng có lắm may mắn, vừa nghĩ đến điều mong hỏi. Lui ra đi chưa được vài bộ, hoảng nhiên quên mất, bồi hồi trông nhìn phía trọn không thấy gì, chỉ có núi cao hang lớn, cây cuộn rừng đẹp mà thôi! Vị Sa-môn đó bảo cùng Thiền sư Minh rằng: “Bởi ông thiếu phước mới là như vậy!” bèn tìm đường trở về, càng gấp bội khẩn thành cố gắng. Đến năm 8 tuổi, Sa-môn đó thị tịch tại chùa Ta-bà.

Trong thời nhà Tùy, tại Tinh châu có Cao Thủ Tiết. Gia đình vốn đã nhiều đời kính tin Tam bảo, và Cao Thủ Tiết lại rất sâu chắc, hết mức tinh thành khẩn thiết, khoảng năm 16-17 tuổi, từng đến Đại quận, giữa đường gặp 1 vị Sa-môn tuổi khoảng 50-60, tự xưng tên là Hải Vân. Bèn cùng đó đàm nói đuôi đầu. Nhân đó, Sa-môn Hải Vân hỏi rằng: “Ông có đọc tụng kinh chăng?”. Cao Thủ Tiết đáp: “Thật có bản tâm ấy!”. Sa-môn Hải Vân bèn dẫn tới Đài sơn, đến nơi 1 Trú xứ, thấy có 3 am tranh vừa đủ dung thân, mới vào ở trong đó dạy bảo đọc tụng kinh Pháp Hoa, Sa-môn Hải Vân ra ngoài khất cầu đem về cung cấp cho các thứ ăn mặc. Thương thấy 1 vị Hồ Tăng đến đó cùng thầy nói cười trọn ngày mới trở về. Về sau, Sa-môn Hải Vân hỏi Cao Thủ Tiết rằng: “Ông có biết vị Hồ Tăng ấy chăng?” Cao Thủ Tiết đáp: “Không biết”. Samôn Hải Vân với dung mạo tợ như đùa cười bảo rằng: “Vị Hồ tăng đó tức là Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vậy”. Cao Thủ Tiết từng tiếp thừa lời nói đó mà chưa hiểu được ý chỉ. Về sau, Sa-môn Hải Vân bỗng sai Cao Thủ Tiết xuống núi đến trong xóm làng lấy vật, mà răn dặn rằng: “Phàm, người nữ là gốc của mọi xấu ác, làm hư hoại Đạo Bồ-đề, phá hủy thành quách Niết-bàn. Nên người đến trong nhân gian phải rất cẩn trọng đó”. Cao Thủ Tiết kính vâng nhận sự chỉ dạy ấy mà xuống núi, giữa đường thấy 1 người nữ tuổi khoảng 1-15, vận mặc y phục mới đẹp, dáng dấp nhã lệ, cưỡi trên mình con ngựa sắc trắng thẳng đến trước mặt, cúi đầu kính chào và nói cùng Cao Thủ Tiết rằng: “Thân thiếp cảm mắc khốn hoạn gấp rất cần được xuống yên mà ngựa hay nhảy vọt, cản dứng không được, mong anh đỡ nâng cứu giúp thân mạng nhỏ bé này”. Cao Thủ Tiết bèn nghĩ nhớ lời thầy, trọn không ngoảy đầu nhìn lại. Người nữ ấy cũng đuổi theo đến vài dặm khổ thiết vang cầu, Cao Thủ Tiết vẫn giữ chí như mới đầu, bỗng chốc ẩn biến mất. Sau khi trở về lại chỗ ở cũ, Cao Thủ Tiết trình bày đầy đủ sự việc ấy. Sa-môn Hải Vân bảo rằng: “Ông thật là bậc trượng phu. Tuy nhiên người nữ đó là Bồ-tát Văn-thùsư-lợi mà ngươi không tỏ ngộ”. Cao Thủ Tiết còn cho đó là nói đùa, nhưng ở đó tụng kinh trải qua 3 năm, trọn 1 bộ kinh Pháp Hoa rất thuần thục. Về sau, nghe tại Trường An có độ người xuất gia, trong tâm Cao Thủ Tiết muốn được xuống tóc, sớm tối tìm phương tiện dò hỏi thầy muốn được đi. Sa-môn Hải Vân bảo rằng: “Ông đọc tụng được kinh Pháp Hoa, đó là hạt giống Đại thừa, nay đã thành tựu, ông hẳn muốn đi, phải nên tìm cầu thầy tốt, 1 lần cách biệt này khó cùng gặp gỡ lại, ông đến trong kinh đô có thể đến nơi Đạo tràng Thiền định nương tựa theo Thiền sư Ngọc Luân để tu tập!”. Cao Thủ Tiết vào kinh đô Trường An cầu xin được độ xuất gia, mà chẳng toại tâm chí mình, mới sang chỗ Thiền sư Ngọa Luân. Thiền sư Ngọa Luân hỏi: “Ông từ đâu lại?”. Cao Thủ Tiết đáp: “Từ núi Ngũ đài lại, Hòa thượng dạy bảo đến xin làm đệ tử thầy!”. Thiền sư Ngọa Luân hỏi: “Hòa thượng của ông là ai, tên gì?”. Cao Thủ Tiết đáp: Hòa thượng tền là Hải Vân”. Thiền sư Ngọa Luân kinh ngạc tha rằng: “Núi Ngũ đài là nói ở của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Tỳ-kheo Hải Vân tức là vị Đại Thiện tri thức thứ 3 mà Thiện Tài Đồng Tử tìm cầu tham lễ như đã nói trong kinh Hoa Nghiêm. Cớ sao ông lại bỏ bậc Thánh nhân ấy mà đi? Trong ngàn kiếp muôn kiếp không do đâu gặp được 1 lần, cớ sao ông lầm dại như thế?”. Cao Thủ Tiết mới tỏ ngộ mọi sự xưa nay. Do mong được trông thấy lại, bèn từ tạ Thiền sư Ngọa Luân lui về, suốt đêm ngày rong chạy, về đến nơi chốn cũ trọn không trông thấy gì!

Có Sa-môn Thích Thiện Minh vốn dòng họ Triệu, người xứ Tế châu, năm 30 tuổi xuất gia ở chùa linh Nham tại Thái sơn. Từng nghe thụy tượng ở núi Thanh lương, mới chẳng ngại từ xa tìm đến. Bèn tới phía Bắc của Nam đài, đục khám tu nghiệp. Bỗng gặp 1 vị Tăng dáng mạo to lớn, đến cùng trò chuyện, nhân hỏi chỗ ở, vị Tăng ấy đáp: “Ở bên cạnh phía Bắc đây”. Bèn cùng bàn luận sinh tử khó độ, phiền não khó điều, nói năng rất khẩn thiết chí thành. Vị Tăng ấy chỉ bảo: “Nỗ lực, nỗ lực”. Thế rồi giả biệt mà đi. Bấy giờ từng vài lần qua lại, dùng mọi phương tiện chu toàn, chỉ răn khuyên cố gắng. Sau đó có đoàn giặc cướp khoảng -5 người đến tự nhiên cướp đoạt, mọi vật lấy gần hết. Đến sáng sớm hôm sau, vẫn tự nhiên như mới đầu không lo sợ quý tiếc. Giặc cướp đi rồi, vị Tăng ấy bèn đến. Sa-môn Thiện Minh thuật bày đuôi đầu việc ấy. Vị Tăng ấy khảy móng tay ngợi khen tốt lành thay và bảo rằng: “Nỗ lực, nỗ lực!”. Qua sau đó ít giờ, có 2 con hổ gầm gừ đi thẳng vào trong am, Sa-môn Thiện Minh cũng giữ lòng không lay động, 2 ngày sau, vị Tăng ấy đến, Sa-môn Thiện Minhcũng đem sự tình ấy mà nói bày. Vị Tăng ấy rất vui mừng nhảy nhót, nhưng trong ý vẫn mong ân cần, lại bảo rằng: “Nỗ lực, nỗ lực!”. Lại trải qua được 1 tháng, bỗng nhiên gió tuyết vụt tuôn đổ, chỉ chốc lát sâu đến vài thườc, rét lạnh quá lắm, rất mực khác thường, chiều tối hôm đó có 1 người nữ nghi dung uyển nghiêm, đến bảo cùng Sa-môn Thiện Minh rằng: “Khổ lạnh rất lắm, xin được nghỉ lại trong khám”. Sa-môn Thiện Minh bèn xót thuơng đó mà thuận. Người nữ đó vận mặc y phục mỏng manh, lại không đệm chiếu, càng sâu tuyết càng dày, run rẩy càng lắm, nên nói xin được nương tựa trên sàng giường. Mới đầu Sa-môn Thiện Minh không cho, mãi đến canh 3, tiếng rên lạnh bèn dứt, Sa-môn Thiện Minh đưa tay sờ dò từ trên xuống dưới đều lạnh, chỉ còn chút hơi thở. Sợ người nữ ấy chết mất, Sa-môn Thiện Minh mới dẫn đưa lên trên sàn giường và tự cởi áo nơi thân mình để che đắp cùng cả tay chân người nữ đó khiến được hơn ấm, ngõ hầu được toàn mạng. Đến lúc về đêm lắng sâu, Sa-môn Thiện Minh bỗng nhiên ngủ buộc, chốc lát tỉnh giấc, thấy khắp thân mình người nữ ấy vừa ấm, trơn nhuần láng mịn khác thường, Sa-môn Thiện Minh lửA-dục trong tâm nổi dậy, bèn sinh ý niệm xấu, vừa muốn xoa chăn, người nữ ấy đã xuống khỏi sàn giường. Đưa tay gá đó, bỗng chốc ẩn biến mất. Từ đó, khắp thân Sa-môn Thiện Minh như lửa bỏng có cả trăm lỗ máu mủ đồ chảy, tóc râu mi mày đồng 1 lúc đều rụng hết, đau đớn khổ thiết, suốt cốt xuyên tim, hôi hám bừa bãi, trùng giòi rúc rỉa đầy phòng. Sa-môn Thiện Minh đã cảm mắc khổ ấy lại xót xa tự trách vô hạn, ném cả thân mình xuống đất, kêu gào mà ngất tuyệt, chốc lát tỉnh ngộ, lại ném mình xuống đất y như trước, buồn khóc ai thảm, tiếng vang không ngưng ngớt. Chỉ nói là: “Đại Thánh! Xin nguyện tha thứ sự ngu muội ấy!” tiếng tiếng tương tục, cứ như thế mà tự hối. Trải qua hơn 2 tháng, bỗng nghe giữa hư không có tiếng bảo răng: “Ngươi không có thiền hạnh, nên không thể độ thoát, nay ban tặng cho người cây tùng lớn, đượm phục đó sẽ được làm tiên ở thế tục vậy”. Sa-môn Thiện Minh vâng thừa sự chỉ bảo đó, tuy mừng với điều được nghe mà chưa biết cây tùng lớn tại đâu, lại càng khẩn thiết xót xa. Qua sau 7 ngày, giữa không trung lại có tiếng bảo rằng: “Cây tùng lớn ấy tại trước am của ông, và bày tỏ sắc hình, pháp thức hải dùng. Sa-môn Thiện Minh y cứ theo đó mà lấy dùng, qua sau 3 ngày, thân thể đã được lành khỏi, lông tóc sinh mọc lại, dáng mạio nhan sắc mỗi ngày mỗi đổi khác. Mới đến nơi chỗ Thiền sư Tăng Minh ở chùa Ta-bà tỏ bày rõ ràng sự việc ấy, qua thời gian không bao lâu, bèn hóa tiên mà đi.

Trong thời tiền Đường, có Sa-môn Đàm Vận, chưa rõ thuộc dòng họ gì, vốn người xứ Cao Dương. Sớm tỏ ngộ cảnh đời tợ bót bóng huyễn hóa, giả từ thân thích mà xuất gia, lùi ở an nhàn lặng lẽ, sáng rỡ thay đổi trẻ. Đến lúc 1 tuổi, bèn đến núi Bồ ngô bên cạnh Hằng nhạc nương náu, tinh tu niệm huệ. Về sau, nghe nói núi Ngũ đài là nơi ở của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Từ xưa đến nay chư Tăng có nhiều người đến cầu thỉnh. Bèn vụt nhiên chống gậy tích tìm đến Thanh lương. Vừa đến dưới núi, nghe có mùi hương thơm khác lạ. Khi đến chùa đại phu thấy vườn hoa tốt tươi nở phát, lại nghe âm vang của chuông khánh, thỏa sướng nỗi lòng lại càng thêm kính mộ luyến ngưỡng. Từ đó, dừng ở tại chùa Mộc qua hơn 20 năm, riêng ở chuyên sống Đạo, nhưng ở trong lò gạch ngói, vận mặc chỉ áo nạp hư rách, giữa đất trải cỏ làm chăn đệm, lại không có chiếu cỏ, chỉ 1 bình bát, ngày ăn 1 bữa, chỉ 1 lần thọ nhận và thuần 1 mùi vị thức ăn. Thanh chân giản ước tự cố gắng, khó ai có thể phỏng theo đó. Về sau lại theo thầy đến phương Nam xa tít, thị tịch tại núi Bình Dao ở Tây Hà hưởng thọ hơn 80 tuổi. Lúc đó là năm Chánh Quán thứ 16 (?) vậy.

Sa-môn Thiện Chiêu ẩn vồn dòng họ Trương, vốn người ở Hàn châu. Vừa tuổi búi tóc, phát chí xuất trần, nương theo tập học danh đức, đến chùa Chiêu quả tại núi Ngũ đài, thật tâm khổ tiết, giá vượt đồng hàng. Học Thứ đệ định chứng ngộ sâu khác, nương náu nơi rừng mỏng, đem vị Thánh điểm. Đến ở chùa Mộc qua 20 năm, ở chùa Phật Quang 7 năm, ở chùa Đại Phu năm, những vết tích được cảm thấy, không mấy ai rõ biết. Đến trong niên hiệu Long Sóc (661-66) thời tiền Đường, ngày Sa-môn Hội Trách lên đài thì Sa-môn Thiện Chiêu ẩn khí lực đã dần suy, còn chống trượng sách dẫn đến chùa Đại phu, cảm được điềm lành diệt hỏa, đồng chỗ thân thấy, bèn đoan nhiên ngồi kiết già thị tịch tại chùa đó. Cùng chung có Sa-môn Minh Ẩn, hạnh nghiệp nối tiếp thuần tu, thường hành tập pháp ngũ đình tâm quán, cũng trải suốt 0 năm, phần nhiều ở các chùa tại núi Thanh lương.

Sa-môn Thích Minh Diệu, chưa rõ thuộc dòng họ nào. Vừa đến tuổi chí học, bèn sớm vượt thoát lưới buộc của thế tục, phỏng hỏi bến đạo, tập học không 1 vị thầy cố định. Thích Minh Diệu đến ở chùa Chiêu Quả, thường tụng khi Pháp Hoa, đọc kinh Hoa Nghiêm, từng tập hành các pháp sám Phật Quang v.v… đã từng cùng với Sa-môn giải thoát đồng đến chùa Đại Phu cầu thỉnh Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi. Đến phía Bắc vườn hoa, thấy 1 vị Sa-môn dung mạo sắc phục khác thường từ từ tiến tới. Lại đến Phật đường bên cạnh phía Đông, sắp muốn vượt qua phía Đông. Khi đó, Sa-môn Minh Diệu v.v… vừa kinh ngạc vừa mừng vui xen lẫn, cách từng khuỷu tay bước tới. Lại đến cách khoảng vài thước, bỗng nhiên không còn thấy gì cả, buồn bả than tiếc giây lâu, bèn cùng Sa-môn giải thoát đồng trở về. Sa-môn Minh Diệu thân cao 7 thước, oai nghi hòa nhã, đàm nói tuần tự đè nén hoặc tán dương, cử chỉ động tĩnh có khuôn phép. Sa-môn Hội Trách trước kia sang đến Ngũ đài, thân gần tiếp thừa lễ bái. Sa-môn Minh Diệu bảo cùng Hội Trách rằng: “Năm đại Nghiệp thứ 20 (?), Ta thấy Thiền sư An vân du đến các chùa Danh sơn, lễ bái hầu thăm các Thánh tích. Nay nay lại gặp Pháp sư ở đây, thật là không thể nghĩ bàn, cầu nguyện Pháp sư được trường thọ không bệnh, hoằng dương tán thán Phật pháp”. Khi ấy Sa-môn Minh Diệu tuổi đã 106 mà chưa từng chống mang gậy trượng, và thần sắc phong thái cũng không suy yếu, không biết về sau bao nhiêu tuổi mới thị tịch.

Tại Đại châu có vị Tín sĩ, quên mất tên họ. Năm ngoài 20 tuổi, lúc lên trên đài lễ bái. Bỗng gặp 1 vị Tăng dẫn cho đến phía Đông của Đông đài. Đến 1 Trú cứ phòng ốc như nhà người phàm tục, trong đó có hơn trăm vị Tăng chung ở. Vị Tăng trước đo dẫn đến hỏi rằng: “Ông có thể ở đây tu đạo chăng?”. Vị Tín sĩ ấy đáp: “Vâng được” mới liền ở lại trải qua nửa dặm, chư Tăng ở đó phần nhiều đều ăn dùng bánh thuốc, trong lắng cao nhã như thần sống, ít sự nói năng. Lại tại phía nam giếng nước có 1 cành lá tròn như lá sen lớn, rộng đến cả tầm, thường ngày hái lấy một nửa bên, sáng mai sinh mọc lại như cũ. Mới đầu tuy lấy làm quái lạ, nhưng sau dần không để ý, mới cùng chư Tăng đồng hái mà ăn. Ngày tháng dần lâu, Tín sĩ ấy tạm xin trở về, chư Tăng cũng chấp thuận cho đó, có ít vị cản ngăn ở lại. Vừa về tới nhà được vài hôm, liền vội tìm trở lại, chỉ thấy núi hang như cũ, đều không có vết tích gì, giẫm trải cầu hỏi tioàn vắng lặng hoang tịch như mới đầu. Tín sĩ ấy không biết đó là Thánh nhân. Đến lúc xót xa buồn trách thì sự đã rồi. Lúc tôi gặp vị Tín sĩ ấy thì tuổi đã ngoài 70 vậy.

Trong khoảng niên hiệu Long sóc thời tiền Đường (661-66), vua Cao Tông (Lý Trị) từng ban sắc Sa-môn Hội Trách ở chùa Hội Xương tại Tây kinh cùng Nội Thị Chưởng Phiến Trương Hành Hoàng v.v… sang núi Thanh lương kiểm hành Thánh tích. Sa-môn Hội Trách v.v… vâng phụng minh chiếu vân du lên đỉnh bái yết. Lại cùng dẫn theo Lã Huyền Lãm, Họa sư Trương Công Vinh v.v… cả thảy hơn 10 người ở huyện Ngũ đài cùng đến trên Trung đài. Chưa đến đài, cách khoảng trăm bộ, xa thấy tôn tượng Phật chân dung uyển nhã, huy động tay chân trông nhìn khắp phía, dần đến gần càng rành rẽ rõ ràng. Cách chừng 5 bộ, bỗng nhiên ẩn biến mất. Gần lên đến đỉnh, chưa đi quanh khắp cùng, nghe ở 2 nơi có mùi hương thơm, lan tỏa càng rộng lớn. Lại đến trước tháp, bảo trương công vinh tu sửa lại tôn tượng Phật xưa cũ. Điểm nhãn vừa xong, mọi người đều nghe tiếng Hồng chung vang vọng. Sau đó, muốn đến Tây đài, xa thấy ở góc Tây bắc có 1 vị Tăng đắp mặc y sắc đen cưỡi con ngựa trắng chạy đến. Mọi người đều cùng đứng đợi. Cách khoảng 50 bộ, bỗng nhiên không trông thấy nữa. Sa-môn Hội Trách mừng vui với điềm hiếm gặp đó, càng thêm khẩn thành đi đến. Lại sang ngôi nhà phía Đông chùa Đại phu, tu sửa tôn tượng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi xưa cũ, đốt cỏ bên cạnh lan cháy xa, thiêu đốt cả vườn hoa, khói cháy càng mạnh dữ. Cách vườn đó khoảng 5 bộ có nơi có nước. Vừa sai người sang múc, chưa đến nơi thì phía sau ngôi nhà ấy, bỗng nhiên mây đen ùn nổi cao đến 5 trượng, chốc lát liền mưa đổ, vụt dập tắt không còn thừa, may cũng tiêu tan, chẳng ai biết được nguyên do. Bèn đi đến núi Phạn Tiên, Nội Thị Trương hành Hoàng lại nghe có mùi hương thơm khác lạ. Từ phía Nam đến phía Bắc, phàm các nơi cổ tích, thảy đều truy tìm, các bậc Danh đức còn mất đều đến thân gần đảnh lễ. Sa-môn Hội Trách v.v… đã vâng thừa Quốc mạng nên với mọi sự trông thấy tốt lành, đều tấu trình đầy đủ rất xứng hợp Thánh chỉ. Từ đó, các Thánh tích ở núi Thanh lương rộng nghe khắp chốn kinh thành, mọi hóa hiện quý báu của Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nêu bày cùng đường sá, khiến các hàng dằng dặc đắm mất biết được Diệu vật ngầm đượm, loài quẩy động bến mê ngộ đại phương sâu đến, đó là nhờ sức của nhà vua vậy. Nếu chẳng là Đạo khế huyền cực, ảnh hưởng thần giao thì sao có thể ban giáng xướng lớn chưa từng như vậy. Rõ bày khuôn phép ưu thắng khó nghĩ bàn, sau cả ngàn năm vẫn biết được chí đến của Thánh hậu vậy. Sa-môn Hội Trách lại đem núi đó đồ họa thành 1 bức trướng nhỏ, thuật lược truyện 1 quyển rộng lưu hành trong hàng tam phụ vậy.

Phạm tăng Tây Vức; Sa-môn Thích Ca Mật-đa-la vốn người nước Sư Tử, xuất gia từ thuở thiếu thời, vớn ở chùa Đại Bồ-đề tại nước Magià-đà, phát chí du phương làm lợi ích mọi vật. Trong khoảng niên hiệu Lân Đức (66-666) thời tiền Đường, đi đến Trung Hoa, nói là: “Muốn đến núi Thanh lương lễ bái Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi”. Tự nói là đã được 5 hạ, thường đi chân không, và luôn ngày ăn 1 bữa. Hoặc có lúc để bụng rỗng không suốt 7 ngày, kiêm tu hạnh ngồi bày thân mình ngoài trời, chẳng nương gá phòng nhà, và liền đến thọ thực, thì hướng về phía Đông Bắc xa kính lễ. Vừa đến dừng nghỉ chua7 bao lâu, kính tấu Biểu văn, được vua đặc ân ban hứa, bèn giúp hành điều, ban sắc đến ở chùa Hồng Lô trông coi tiếp đãi khách, làm người phiên dịch ngữ. Có Sa-môn Trí Tài ở Lương châu cưỡi ngựa từng trạm sang đến nơi đó cung cấp mọi sự cho Đa-la ( Thích Ca Mật-đa-la). Tháng 6 năm Càng Phong thứ 2 (667) thời tiền Đường, bắt đầu lên đài cùng dẫn theo 1 viên quan ở huyện Ngũ đài có sức lực địch nỗi 0 người và các hàng Đạo tục cả thảy có hơn 50 vị. Mới đầu, ngày muốn ra đi, phát xuất từ thôn Tư Dương đi 30 dặm, đến nửa ngày thì sắp đến, Đa-la liền nhóm tập Tăng đồ, tự hành hương thủy, tự tay dâng cúng chúng Tăng. Đa-la nhân chẳng ăn uống, cuối cùng qua 3 ngày, sau khi thọ trai xong sắp đi. Đa-la bảo người dịch ngữ răn bảo cùng đại chúng rằng: “Nơi trú xứ của Đại Thánh, cả ức kiếp mới mong được nghe, huống gì nay được thân gần đến nơi. Thật nên khắc niệm, mong mỗi người tự nên chuyên chí, chớ lại ồn náo, như có gặp được gì, chỉ nên tự ngậm im”. Khi ấy bèn đi, đường đã hẹp nhỏ rít kẹt, trước sau nối men theo nhau. Đa-la cùng 2 vị Tăng khác dẫn đướng đi trước, muốn đến dưới núi, xa trông chùa Thanh lương, xuống đến nửa lưng chừng núi, bỗng gặp 1 vị thần Tăng đứng ở trên hang. Cả đoàn bèn gieo cả 5 vóc sát đất đảnh lễ vài bái, kịp đến lúc chưa xa, mới có vài người thoảng nghe tiếng chuông và mùi hương thơm khác lạ. Đến phía Nam của đài, cách khoảng 5 dặm, bèn dừng ghé nghỉ, mới bảo người đắp đàn bằng đất 2 tầng cao hơn 1 thước chuông vuông 1 trượng, hái nhặt các hoa quý lạ trang sức phía, Đa-la suốt trong thời gian 1 ngày đêm có 6 thời đi nhiễu đàn hành Đạo. Đến ngày giả biệt, từng có vài lần vào nước, tắm gội thân mình. Mỗi sáng sớm mai dùng cái bình sạch đựng đầy nước trong sạch, phía trên thiết đặt vài hộp gạo, nửa thăng sữa bò, sai người quỳ bưng, Đa-la chú nguyện qua hơn trăm ngày, bèn hướng về mọi người mà bảo là: “Tùy mặt mỗi người tự nên rưới đó”. Và đó là pháp cúng dường của Tây phương vậy. Trải qua vài đêm bàn dâng thức ăn. Ăn xong liền lên đài, ở mặt phía Nam của đài, đá lẫn lộn sắp xếp theo thứ lớp. Còn hơn 3 dặm, Đa-la dùng khuỷu tay và đầu gối mà đi, thịt rách máu đổ, cốt xương lộ bày. Lên đến trên đài chỉ thấy thỏ trắng đơn lẻ đi nhiễu quanh tháp xong ẩn mất. Bèn đến trước tháp, gieo cả 5 vóc sát đất từ sáng sớm đến chiều mới trở về lại chỗ nghỉ. Sáng hôm sau lại muốn lên đài, kẻ sứ do vua ban sắc cùng tôi và vài ba vị Tăng tục khác cách đó khoảng hơn 10 bộ, chuyển dời nương tựa đứng quanh, kẻ sứ từ từ bàn nghị rằng: “Lúc ở kinh đô nghe nói nơi đây có lắm nhiều điềm linh, nhưng đã đến đây, trọn chẳng thấy gì, tuy có nghe thoàng tiếng chuông, mùi hương thơm, nhưng đó cũng chưa lấy làm kỳ đặc. Ở nhân gian rao truyền sao quá xằng bậy vậy”. Nói vừa xong, Đa-la liền gọi kẻ sứ ấy và người dịch ngữ mà răn bảo trách cứ rằng: “Ông là người phàm tục chưa rộng hiểu Phật pháp, sao mới đến đây mà rối ren bày điều phỉ báng như thế? Từ thuở nhỏ đến ngày nay, tôi không đức công gì khác, chỉ mong tìm lễ bái Thánh tích lấy đó làm việc thường. Y theo các truyện ký ở Tây phương thì tại Nam Diêm Phù Đề này, trụ xứ của các Thánh nhân thường nương ở đó đến 2 nơi. Tôi đã trải qua kể cả nơi đây có đến nơi. Nhưng tự ngoài sự cầu thỉnh hợp rộng rất khó, hoặc phải trải qua 1 năm, nửa năm, 1 tháng, nửa tháng, tâm cầu mong có lầm lỗi hoặc chưa xứng hợp. Nay đây, Đức đại Thánh với tâm từ bi, ứng hợp ước nguyện của chúng sinh. Vì tôi ít mỏng nên chưa lấy làm đầy đủ. Ông chỉ nên sinh khởi tâm ân trọng sẽ được phước vô biên, cớ sao phát sinh khinh thường then chốt như thế hẳn sẽ chuốc lấy họa sâu”. Kẻ sứ cúi khom mình đảnh lễ sám tạ không thôi. Chỉ vì Đa-la không hiểu Hán ngữ cùng cách hơn 10 bộ với âm từ, nên là trời còn cách xa, gần còn chưa được nghe. Bỗng nhiên đến thế, mọi người không ai chẳng kinh thán. Ngay lúc ấy mọi người cùng đi theo càng thêm sự kinh dị. Thế rồi lại lên trên Đài mang theo hương hoa và tiền đặt để vào trong ao Thái Hoa. Xong rồi lại theo hướng Đông nam đến chùa Đại phu, thuộc ngoài vách tường của Đông đài, có hơn nửa số người cởi áo bỏ rơi. Đa-la tự tay vốc lấy đất bùn làm sạch, mới dừng nghỉ bên trong qua đêm. Rồi bèn men theo đường cũ trở về. Sau khi đã đến kinh đô, đến nơi Luật sư Đạo tuyên thuật bày mọi điều ứng cảm.

Ngày cùng Phạm Tăng lên đài. Tôi thường im lặng mà tự nghĩ rằng: “Nơi Thanh Lương đây nên đặt xá-lợi để mọi người qua lại chiêm ngưỡng kính lễ há chẳng tốt lành ư?”. Sau khi Phạm Tăng đã trở về, tôi bèn sang Hoàng Sơn. Ở huyện Hoàng Hương thuộc Định châu, tạo 3 chiếc hộp bằng ngọc thạch để tôn trí xá-lợi, 1 hộp lớn cao 1 thước 7 tấc, phỏng sẽ an đặt tại trong tháp ở Trung đài, còn 2 hộp nhỏ cao tấc, nghĩ sẽ an đặt trong phủ đồ bằng sắc tại Bắc đài, đều làm đường sắc màu hoa sen, hình tượng các loài thú khác lạ, cũng hết mực tuyệt diệu của 1 phương. Bấy giờ tại chùa Long Thánh ở Định châu có Sa-môn Trí Chánh và Thanh Tín hiếu hạnh khích nhân nghe tôi có chí nguyện ấy đều mong đồng được đi. Đến tháng năm Tổng Chương thứ 2 (66) thời tiền Đường, Sa-môn Trí chánh v.v… cùng đến. Lúc ấy Sa-môn Trí chánh tuổi đã ngoài 70 mà giẫm trèo núi sông hơn 800 dặm, lại còn mang theo thực phẩm tinh diệu lên núi cúng dường. Đến ngày 23 tháng đó, cùng các hàng Tăng ni Đạo tục ở Đài sơn có khoảng 60 vị đồng lên, đến mặt phía Nam của Đài, chỉ sắp hạ xuống mà mây huyền nỗi khắp phía, mưa đổ vài giọt, mọi người đều bàng hoàng sợ không được an đặt. Mới bưng xá-lợi và hộp liền đến trên xong, lễ bái rất mực tha thiết thành kính, đốt hương hái hoa cúng dường, xá-lợi đem an đặt vào trong hộp đá, bỗng nhiên khắp phía cách hơn trăm thước, may mốc tan trong, xoay quanh như gương soi chiếu, an đặt hộp đã hoàn tất trờ lại hợp như mới đầu. Khi ấy có 1 vị Ni riêng sang ao Thái Hoa cúng dường, mới thấy trong ao có 1 lũy lớn, có rồng lớn nhiễu quanh đó, người bạn kia mới cho đó là tượng của long hoa lũy, bỗng chốc mây mưa đều tạnh hết, nghĩ lại nơi đài qua đêm, sáng sớm hôm sau, sang đến Bắc đài. Sa-môn Trí chánh có mang theo các thứ hương hoa cúng dường, thiết bày bữa trưa. Thọ trai xong, an đặt xá-lợi, an đặt xong lễ bái, mọi người đều buồn khóc mà đi. Có 1 vị Tăng thân mắc bệnh lậu không an, đến nơi Đông bắc phía dưới Đài, hơi có tiết rĩ, bèn nghe dưới hang ẩn như có âm hưởng của sấm chấn động, tâm sân bèn nỗi, vừa mới ném bỏ áo ca sa, liền có gió dữ vụt đến phẩy áo mà qua, vị Tăng ấy bèn lo sợ, gần xuống không an. Tôi ở tại đó 2 năm, sau mới trở về kinh ấp. Sau khi tôi đã về có Thanh tín sĩ, chẳng rõ tên họ là gì sang đi lên đài, người ấy tuổi 112 khoảng 20, vận mặc y phục lam lũ, tự nói là “Từ núi Bảo Phúc đến”. Theo các vị thức giả tương truyền là: “Người ấy thường ở tại Tinh châu, đi quanh chợ cầu xin, đem tất cả sự cầu xin có được, tạo đảy lọc nước lớn rộng khoảng 7-8 tấc, tạo xong, tùy nơi đến mà khuyên mọi người sử dụng đó, phàm đã tạo được có hơn vài ngàn cái. Ngày sắp đến cũng mang theo hàng chục cái”. Vị Tín sĩ ấy lên đài rồi xuống dưới chùa Thanh Lương, bỗng nghe có tiếng chuông ngân, nghe xong bèn kính lễ và liền cùng 1 người bạn tìm theo đó. Khi đã được đến chùa, Tín sĩ ấy phát nguyện ở lại 1 mùa hạ để sám hối cúng dường, xuống dưới sườn núi phía Bắc, kết bện cỏ làm am, mới đầu vài ngày có lúc nghe được tiếng chuông ngân hoặc sáng sớm hoặc chiều tối. Qua hơn 10 ngày sau, thường lấy giờ thọ trai làm chuẩn. Lại đến trong Phật đường đọc tụng kinh, đến đêm tối nhẹ nhàng có ánh sáng thần soi chiếu, chẳng nhọc phải chong đèn đuốc. Vị tín sĩ thần sắc dung nghi đơn giản thỏa sướng, mọi cử chỉ đều chỉnh túc khiêm cung, thẳng mặt mà đối đáp, vất hết bỉ lận của người đời. Nhưng phàm sự đàm nói dài dẳng dần vào nhỏ nhiệm, mọi người thời bấy giờ đều nghi Tín sĩ ấy là hạng người chẳng thể lường được vậy. Tôi lược đi giáp quanh chẳng thể trở lại khắp cùng đầy đủ vậy!

Tại chùa Ngọc Tuyền ở núi Phúc Chu thuộc Kinh châu, có Samôn Hoằng cảnh là vị Tăng cao thượng vậy. Tháng 2 năm Hàm Hanh thứ 2 (671) thời tiền Đường, từ Tây kinh sang đến Ngũ đài lễ bái, bèn toại được tâm mong ước, chưa rõ điều vị ấy được cảm như thế nào.

Tại chùa Từ Ân có Sa-môn Linh Sát, ngày mồng 10 tháng 7 năm Thượng Nguyên thứ 2 (675) thời tiền Đường, sang đó lễ bái, khắp đến Đại châu, thấy có 1 người xưa trước chưa từng quen biết, chẳng rõ từ đâu đến, mà dẫn Linh sát từ cốc Mộc qua ở phía Bắc của Đài lên trên Bắc đài, trải qua vài hận, mỗi ngày trong 6 thời thường nghe có tiếng chuông. Lại đang trong đêm nghe có khoảng vài trăm con chim tước sắc xanh bay liệng kêu hót, nhưng chung quanh chẳng thấy thân hình chim. Lại đến Trung đài dừng nghỉ vài đêm. Lại sang Tây đài, lúc sắp đi có khoảng trăm con chim bay trước dẫn đường, đến lúc trở về lại Trung đài mới bay đi xa.

Năm đó tại Tinh châu có vị ni sang lên đầu đài, lúc trở về có 1 vị ni bẻ lấy 5 cành hoa, muốn mang theo xuống bèn bị lạc mất đường. Đói lạnh đều đến, mộng thấy 1 vị Tăng ban cho thực phẩm ăn uống, nhân đó mà được khỏi đói khát. Vị Tăng ấy mới bảo rằng: “Vì ngươi bẻ hái trộm 5 cành hoa nên phạt ngươi ở lại 5 ngày chưa cho về, ngoài ra trọn không gì khổ, ngươi chớ phải lo lắng nhiều”. Qua 5 ngày, vị ni ấy bèn tìm được đường mà trở về.

Tại Tây kinh có các Thanh Tín Sĩ Phòng Đức Nguyên, Vương Huyền Sảng từ thưa thiếu thời kết bạn phương ngoài, đều nhân đọc kinh Hoa Nghiêm, thấy phẩm Trú xứ Bồ-tát, bèn tâm chuyên nghĩ đến thắng địa. Ngày 13 tháng 5 năm Thượng nguyên thứ 3 (676) thời tiền Đường cùng sang lên đài. Mới đầu được nửa đường, lúc giờ thọ trai sắp đến, bỗng nghe dước hang cốc có tiếng lớn bảo rằng: “Giờ ăn đã đến” khi lên đến Trung đài đều nghe tiếng chuông và mùi hương thơm khác lạ. Ngày hôm sau lại sang, chừng khoảng bữa ăn chưa xong, lại nghe dưới hang cốc có tiếng lớn liên tiếp bảo rằng: “Lên đài đợi đi!”. Đã tiếp nhận sự chỉ bảo ấy, liền cùng mọi người đồng đi. Sau khi trở về kinh ấp, thỏa sướng nỗi lòng, bèn thỉnh mời chư Tăng danh hạnh, thiết trai cúng dường, tỏ bày tuần tự vậy.

Ở chùa Bạch Mã tại Lạc Dương, có Sa-môn Huệ Tạng, vốn người Phần ấp, là vị Tăng cao khiết. Hoàng đế Hiếu Kính (Cao Tông – Lý Trị 650-68) sửa sang xây dựng lại chùa Bạch Mã, gá nhóm các bậc danh đức, đợi gieo ruộng phước, Sa-môn Huệ Tạng là bậc Thiền định thâm sâu rất xứng dẫn đầu. Tháng năm Điều lộ thứ nhất (670 thời tiền Đường, cùng Thiền sư Hoằng Diễn ở Phần châu. Sa-môn Huệ Tuân ở chùa Ái kính tại Đồng châu, Sa-môn Linh Trí ở Biện châu, Sa-môn Danh Viễn ở Tinh châu, cùng các vị đồng chí hướng mà ở phương khác như Sa-môn Linh Dụ v.v… đến chùa Ta-bà, an cư trong 0 ngày, tinh thành sám tẩy, sau khi giải hạ an cư, cùng các hàng đạo tục có hơn 50 vị đồng lần lượt lên đài. Sa-môn Huệ Tạng cùng 30 người sắp đến Trung đài, đồng thấy 1 đàn hạc trắng sắp hàng cùng đi đến vài dặm. Khi vừa đến đầu đài, bỗng nhiên ẩn biến mất. Sa-môn Danh Viễn, Linh Dụ v.v… cùng cả thảy 18 vị trước đến Đông đài, thấy có mây lành 5 sắc. Sa-môn Huệ Tuân đến sau cũng đồng thấy như trước. Sa-môn Danh Viễn đến góc Đông nam tháp Phật ở Trung đài cách hơn 60 bộ, lại thấy tướng điềm sáng tốt lành nhiều sắc màu lẫn lộn, hình như tượng Phật. Ánh sáng tỏa cao 3 trượng. Hoặc người đến đi, ánh sáng ấy cũng tùy theo đó mà đến đi, kính lễ hơn 20 bái, giây lâu mới diệt mất. Sa-môn Linh Trí đến phía Nam ao Thái hoa, cách hơn 10 bộ, thấy có ánh sáng như mặt nhật lớn khoảng 3 trượng, có trăm ngàn màu sắc đan xen lẫn nhau, lả tả nhỏ bày trước, khó thể nói cụ thể tên. Mà cả chúng hình phục oai nghi duỗi bày cuối ngưỡng đều thấy trong ánh sáng tợ như hiện ở gương soi. Sa-môn Linh Trí v.v… lóa cả mắt thần, tâm hồn thất thểu, 11 đảnh lễ khẩn thiết chí thành chốc lát sau mới diệt mất. Lại nữa, Sa-môn Linh Trí v.v… ngay lúc thấy ánh sáng ở trước tháp Phật có 3 vị Sa-di đốt hương trên đầu và tay, dùng thân cúng dường, lại thấy ánh sáng ấy tại mặt phía Đông. Sa-môn Huệ Tạng v.v… xoay quanh qua lại đến ngày thứ 7 mới trở về.

5. CHI PHẢI TẠP THUẬT

Năm Vĩnh An thứ 2 (52) thời Bắc Ngụy, Hằng Châu Thứ sử Hô Diên Khánh đến núi đó săn bắn, có người thợ săn giỏi cùng đi, thấy 1 con heo núi rất lớn, khác với heo thường, bèn bắn nó, uống lông mà đuổi theo mãi đến giờ ngọ, mới đầu máu huyết in vết rõ ràng, theo hướng Đông nam đến trong Bình nguyên, có dòng nước xuôi chảy về hướng Nam. Tại phía Đông có người ở, phòng nhà liên tiếp nhau, con heo ấy thẳng chạy vào trong cửa, phía ngoài cửa có 2 vị Trưởng giả râu tóc đều bạc trắng chống tích trượng hỏi: “Các ông là người nào?” người thợ săn cứ như thật mà đáp. Trưởng giả bảo rằng: “Đó là heo của tôi, các ông vọng bắn nó, sẽ mắc tội. Nay các ông bỏ nó đi, không được vào trong cửa đây”. người thợ săn đáp rằng: “Vì muốn lấy thịt làm lương thực đuổi theo nó lại đây đã qua 3 ngày, heo đã không được, vậy cho xin bữa ăn để đi”. Trưởng giả bảo: “Có thể đến phía Đông thôn ấp hái lấy táo làm lương thực”. Và táo vừa mới chín, quả rừng rất tươi tốt, thợ săn ăn xong đều dùng đãy da, hái tạo dựng đầy rồi tìm lại dấu vết cũ mà trở về, vì Diên Khánh mà nói lại điều đó, có táo còn thừa 1 đãy và cành lá vậy.

Trong thời nhà Tề, có ẩn sĩ Vương Kịch ở núi đó, mà khéo giỏi thuật Trường sinh. Trong khoảng niên hiệu Võ Định (53-550) thời Đông Ngụy, Văn Tương ở tại Tinh châu vì mẹ thất lũ Đại phi, thiết đại trai hội cúng dường bộ chúng. Vương Kịch đích thân dẫn trăm đồng bạn đến nơi trai hội, trước xua dọn đường sạch, người trông xem lánh đứng xa. Khi ấy có 1 người mắt mày sắc màu đỏ trắng xinh đẹp, dĩnh ngộ khác thường, y phục mới đẹp, dung nghi tường mạo rất lớn, cưỡi ngựa đi trước trăm bộ, lắc tay mà đi, trước xua đuổi, chợt ngựa quát đuổi trọn không thể kịp, lúc đến nơi khúc thành cong, ẩn vào trong rừng người, Văn Tướng xa thấy vậy. Đến nơi trai hội, Vương Kịch tự hành hương, người ấy cũng ngồi tại nơi trai hội. Văn Tương thân gần đến hỏi quê quán và tên tuổi, có Đạo thuật gì? Đáp rằng: “Vốn người xứ thương châu, dòng họ Vương, tên Kịch, từ thuở thiếu thời đã mến thích tĩnh lắng, không kham việc nhà thế tục nên đến nương náu tại núi Ngũ đài trọn không có Đạo thuật gì. Nghe vua thiết lập Đại trai hội, cúng dường bộ Đại chúng, phước đức ấy vô lượng, lén trộm sự phần kính lễ Tam bảo vậy.

Tại dưới Quách đại châu có Niếp Thế Sư, các hàng tục sĩ cho đó là người khó thể lường biết vậy, tuổi khoảng 50-60, dung mạo đỏ đen, trông nhìn lắng chắc, lỗ tai dài lớn khoảng hơn tấc, ở nơi phòng thất xấu xí, vận mặc y phục rách rưới. Phàm thấy gặp các hàng đạo tục, hẳn khuyên răn hành thiện. Hoặc ẩn trộm lời người nói khiến đến núi Ngũ đài lễ bái, gần đây có người sắp dự tuyển chọn quan, sợ không được xứng ý nên chuyên tâm xưng niệm Phật, mới mộng người ấy bảo rằng: “Ông chớ nên phải buồn khổ, sẽ được làm chức quan… ở Đại châu. Ta vốn dòng họ Niếp, tên là Thế Sư, ngươi sẽ biết Ta”. Người kinh hãi tỉnh giấc. Kịp lúc đến Thuyên Hành, quả nhiên đúng như điều dự ghi đó. Tâm chí mới muốn tìm phỏng hỏi, hợp nhiên gặp được Thế Sư, hình nghi tướng mạo đều y hết trong mộng ngày trước, bèn cởi 1 chiếc áo lót mà ban thí đó. Từ đó các hàng quan liêu ở đại châu phần nhiều thường hay cúng dường, nhưng với mọi vật có được, Niếp Thế Sư liền ban cho các người cầu xin, như không người lấy thì tùy tại đó mà vất bỏ đi. Tôi nay từng được gặp, có cùng ăn 1 bữa trưa, trông xem về cử chỉ, thật là thuộc hạng khác thường, và phàm, có được các thứ cơm nước thức ăn đều phân nhường cho mọi người trên dưới. Đó tợ như ngầm thực hành 6 pháp hòa kính vậy. Ăn xong, sắp giả biệt, Niếp Thế Sư bảo cùng tôi rằng: “Người ở cõi Diêm Phù Đề phần nhiều không định tụ, Sư cần nên nỗ lực đó vậy”. Về sau đến ngày mạng chung, chuông khánh nơi nơi nhà tự kêu, các hàng đạo tục nghĩ nhớ, đến dự đưa lễ tang đông như mây nhóm.

Bên cạnh chùa Cảnh Vân ở trong thành huyện Phần trĩ, có 1 người già dòng họ Vương, tên là tướng Nhi, chuyên làm nghề hái thuốc. Tôi tằng đến nhà ông ấy thọ trai, ông ấy cùng tôi trò chuyện, nhân đó, ông nói: “Đệ tử từng đến cốc Đại Bách ở phía Bắc đài để hái thuốc, bỗng nhiên đến trên tảng đá vuông có 2 cánh tay người, sắc màu hồng đỏ mới đẹp trắng xinh đường văn rõ ràng, từ cổ tay trở lên chấp tay sinh mọc ở trong đá. Đệ tử tự nghĩ rằng: Nơi đây có lắm nhiều thuốc muốn đem về nhà để thử nghiệm mà trị liệu, mới dùng dao cát lấy vài lớp bọc gói đặt trong lồng thuốc, cả thảy 1 đãy đầy, xong rồi mang vác mà trở về, vừa ra ngang cốc bỗng nhớ nghĩ là: Nếu đây là thuốc tiên tức có khả năng biến hóa, để thử nghiệm xem, kịp lúc xoay lại xem, chỉ còn chiếc Đãy, chứ thuốc và lồng đựng chẳng biết đã biến mất nơi đâu. Đệ tử kinh hãi tự thân, tiếc hận trước chẳng ăn thử đó! Và ở núi còn có nhiều tên thuốc như Trường tùng. Thuốc ấy, lấy rễ để an dùng thì sắc da tề nê dài khoảng 3-5 thước, mùi vị hơi đắng không độc, uống dùng lâu sẽ được bảo ích, đến như giải trừ các trùng độc rất ứng nghiệm tốt lành. Các hàng sĩ tục rất quý chuộng đó thường hái chuẩn bị gắp sẵn. Nhưng theo “Thần nông bản thảo kinh” và sự ghi chép của Ẩn cư thì đều không có thứ thuốc đó”.

Gần đây có Sa-môn Phổ Minh là người có tiết tháo hiển trước, cảm được giữa không trung có tiếng bảo rằng: “Nhân vì ông mà lưu truyền đó”. Thật đáng vui mừng thay! Quần sinh trong thời Mạt Thế gặp được Đại tiên ban tặng như thế. Các thứ thuốc ấy có hơn trăm loại. Đại Hoàng, nhân sâm, thật nhiều loại ấy vậy.

TRUYỆN CỔ THANH LƯƠNG

QUYỂN HẠ (HẾT)