TRUNG LUẬN
Tác giả: Bồ-tát Long Tho
Giải thích: Phạm chí Thanh Mục
Hán dịch: Đời Diêu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu-Ma-La-Thập
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

QUYỂN 4

Phẩm 22: QUÁN VỀ NHƯ LAI

(Gồm 16 kệ)

Hỏi: Các bậc tôn quý trong thế gian chỉ có Đức Như Lai Chánh Biến Tri có hiệu là Pháp vương, bậc Nhất thiết trí là thật có?

Đáp: Nay hãy suy nghĩ kỹ nếu thật có thì nên chấp giữ, nếu không thật có thì chấp giữ gì. Vì sao? Vì Như Lai là:

Kệ 1:

Chẳng phải, chẳng lìa ấm

Đây, kia không trong nhau

Như Lai không có ấm

Chỗ nào có Như Lai.

Nếu Như Lai thật có, thì chính năm ấm là Như Lai, hay lìa năm ấm là Như Lai, hay trong Như Lai có năm ấm, trong năm ấm có Như Lai, hay Như Lai có năm ấm? Hết thảy đều không đúng.

Năm ấm chẳng phải là Như Lai. Vì sao? Vì năm ấm là tướng sinh diệt, nếu Như Lai là năm ấm thì Như Lai tức là tướng sinh diệt. Nếu là tướng sinh diệt thì Như Lai tức có vô thường đoạn diệt v.v… Lại người chấp thọ là Như Lai, pháp chấp thọ là năm ấm, nếu người chấp thọ và pháp chấp thọ là một là không đúng. Thế nên Như Lai chẳng phải là năm ấm.

Lìa năm ấm cũng không có Như Lai, vì nếu lìa năm ấm mà có Như Lai, thì Như Lai không có tướng sinh diệt. Nếu như vậy thì Như Lai có cái lỗi là thường còn. Lại không thể dùng các căn mắt, tai v.v… để thấy biết, nhưng việc ấy không đúng. Thế nên biết lìa năm ấm cũng không có Như Lai.

Lại trong Như Lai cũng không có năm ấm. Vì sao? Vì nếu trong

Như Lai có năm ấm thì như trong đồ đựng có hoa trái, trong nước có cá, thế thì Như Lai và năm ấm khác nhau. Nếu khác nhau thì mắc phải lỗi Như Lai thường như trên. Thế nên biết trong Như Lai không có năm ấm.

Lại trong năm ấm cũng không có Như Lai, vì nếu trong năm ấm có Như Lai thì như trên giường có người, trong đồ đựng có sữa. Có khác như vậy, nên cũng mắc phải lỗi như trên. Thế nên biết trong năm ấm không có Như Lai.

Lại Như Lai cũng không có năm ấm. Vì sao? Vì nếu Như Lai có năm ấm thì như có con, như thế Như Lai và năm ấm khác nhau, nếu như vậy thì mắc phải lỗi như trên. Thế nên biết Như Lai không có năm ấm.

Như vậy theo năm cách ấy tìm Như Lai không thể có được, vậy thế nào là Như Lai.

Đáp:

Kệ 2:

Ấm hợp có Như Lai

Thì không có tự tánh

Nếu không có tự tánh

Thì sao nhân tha tánh.

Nếu Như Lai do năm ấm hòa hợp mà có, tức là Như Lai không có tự tánh. Vì sao? Vì nhân năm ấm hòa hợp mà có.

Hỏi: Như Lai không do tự tánh mà có, thì chỉ do nơi tha tánh mà có?

Đáp: Nếu không có tự tánh, thì làm sao nhân tha tánh mà có. Vì tha tánh cũng không có tự tánh. Lại vì không nhân nơi đối đãi nhau, nên tha tánh cũng không có. Vì không có nên không gọi là tha.

Lại nữa,

Kệ 3:

Nếu pháp do tha sinh

Thì chẳng phải tự ngã Nếu pháp chẳng phải ngã Sao gọi là Như Lai.

Nếu pháp do các duyên sinh, tức không có tự ngã, như do năm ngón mà có nắm tay, nắm tay ấy không có tự thể. Như vậy do năm ấm hòa hợp gọi là ngã, ngã ấy không có tự thể. Ngã có nhiều tên gọi, hoặc gọi chúng sinh, trời, người, Như Lai v.v… Nếu Như Lai do năm ấm hòa hợp mà có, tức Như Lai không có tự tánh, không có tự tánh nên không có ngã, nếu không có ngã làm sao nói có Như Lai. Thế nên trong kệ nói: “Nếu pháp do cái khác sinh ra, tức chẳng có ngã, nếu pháp chẳng có ngã, làm sao nói Như Lai”.

Lại nữa,

Kệ 4:

Nếu không có tự tánh

Làm sao có tha tánh

Lìa tự tánh, tha tánh

Cái gì là Như Lai.

Nếu không có tự tánh, thì tha tánh cũng chẳng thể có. Vì nhân tự tánh nên gọi là tha tánh, cái nầy không có nên cái kia không có. Thế nên tự tánh tha tánh đều không có. Nếu lìa tự tánh tha tánh, thì cái gì là Như Lai.

Lại nữa,

Kệ 5:

Nếu không nhân năm ấm

Trước đã có Như Lai

Vì nay thọ năm ấm

Nên gọi là Như Lai.

Kệ 6:

Nay thật không thọ ấm

Không có pháp Như Lai

Vì không thọ, không có

Thì nay sao lại thọ.

Kệ 7:

Nếu như chưa có thọ

Sở thọ không gọi thọ

Không có pháp không thọ

Mà gọi là Như Lai.

Kệ 8:

Nếu ở trong một, khác

Không tìm thấy Như Lai

Năm cách tìm cũng không

Làm sao trong thọ có.

Kệ 9:

Sở thọ là năm ấm

Không từ tự tánh có

Nếu không từ tự tánh

Làm sao có tha tánh.

Nếu nói khi chưa chấp thọ năm ấm trước đã có Như Lai, thì Như Lai ấy nay chấp thọ năm ấm rồi, thành Như Lai, nhưng kỳ thật khi chưa chấp thọ năm ấm, trước đây không có Như Lai, thì làm sao bây giờ chấp thọ năm ấm lại có Như Lai. Lại không có người chấp thọ năm ấm thì năm ấm không gọi là pháp chấp thọ, không thể có thứ pháp không chấp thọ mà gọi là Như Lai. Lại tìm Như Lai trong tự tánh, tha tánh và theo năm cách tìm Như Lai trong năm ấm đều không thể có được. Nếu như vậy thì làm sao nói trong năm ấm có Như Lai được, lại năm ấm bị chấp thọ không từ tự tánh mà có. Nếu bảo từ tha tánh mà có, nhưng nếu không từ tự tánh mà có, thì làm sao từ tha tánh mà có được. Vì sao? Vì không có tự tánh nên tha tánh cũng không.

Lại nữa,

Kệ 10:

Do các nghĩa như vậy

Thọ không, người thọ không

Tại sao lại lấy “không”

Mà nói “không” là Như Lai.

Theo nghĩa đó suy nghĩ, pháp năm ấm bị chấp thọ và Như Lai là người chấp thọ đều không. Nếu người chấp thọ không, thì làm sao lấy năm ấm chấp thọ không ấy, mà gọi “không” là Như Lai.

Hỏi: Luận chủ bảo “Pháp chấp thọ tánh không, người chấp thọ tánh không”, vậy nhất định có cái không ấy chăng?

Đáp: Không đúng. Vì sao?

Kệ 11:

Không thì không thể nói

Chẳng không không thể nói

Không, chẳng không cũng vậy

Chỉ theo giả danh nói.

Các pháp không thì không thể nói, các pháp chẳng không cũng không thể nói, các pháp không và chẳng không cũng không thể nói, các pháp chẳng phải không chẳng phải bất không cũng không thể nói. Vì sao? Vì chỉ để phá sự trái ngược nhau nên giả danh mà nói. Suy nghĩ chánh quán như vậy thì biết đối với thật tướng của các pháp, không thể dùng các vấn nạn để nạn vấn.

Vì sao?

Kệ 12:

Vì trong tướng tịch diệt

Không có bốn tướng thường…

Và trong tướng tịch diệt

Không có bốn tướng biên…

Thật tướng của các pháp là vi diệu tịch diệt như thế chỉ do đối với đời quá khứ, khởi lên bốn thứ tà kiến, cho thế gian thường, thế gian vô thường, thế gian nửa thường nửa vô thường, thế gian chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chứ trong thật tướng tịch diệt không có việc ấy. Vì sao? Vì thật tướng của các pháp là rốt ráo thanh tịnh không thể chấp giữ. Đối với pháp không còn không chấp giữ huống gì có bốn tà kiến, bốn thứ tà kiến đều nhân nơi chấp thọ mà sinh, thật tướng của các pháp không có chỗ chấp thọ. Bốn thứ tà kiến đều cho quan điểm mình là quý, quan điểm người khác là hèn, còn thật tướng của các pháp không có kia đây. Thế nên trong tướng tịch diệt, không có bốn tà kiến.

Như đối với đời quá khứ khởi bốn tà kiến, đối với đời vị lai khởi bốn tà kiến cũng như vậy, nào là thế gian hữu biên, thế gian vô biên, thế gian vừa hữu biên vừa vô biên, thế gian chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên.

Hỏi: Nếu phá Như Lai như vậy, thì không có Như Lai chăng?

Đáp:

Kệ 13:

Người tà kiến sâu dày

Nói không có Như Lai

Như Lai tướng tịch diệt

Nếu chấp có cũng sai.

Tà kiến có hai thứ: Một: là phá cái vui thế gian. Hai: là phá đạo Niết-bàn. Phá cái vui thế gian là tà kiến thô, nói không có tội phước, không có quả báo tội phước, không có Hiền Thánh, Như Lai, khởi lên tà kiến ấy bỏ thiện làm ác, đó là phá cái vui thế gian. Phá đạo Niếtbàn là, tham đắm ngã, phân biệt có không, khởi tâm thiện diệt ác, làm thiện nên được cái vui thế gian, phân biệt có không nên không được Niết-bàn. Thế nên nếu nói không có Như Lai, đó là tà kiến sâu dày, làm mất cái vui thế gian, huống gì Niết-bàn. Nếu nói có Như Lai cũng là tà kiến. Vì sao? Vì Như Lai tướng tịch diệt, mà lại phân biệt ra đủ thứ tướng… Thế nên ở trong tướng tịch diệt, mà phân biệt có Như Lai, cũng là tà kiến.

Kệ 14:

Trong tánh không như thế

Tư duy cũng không thể

Như Lai diệt độ rồi

Phân biệt nói có, không.

Thật tướng của các pháp là tánh không, nên không nên đối với Như Lai sau khi diệt độ mà suy nghĩ phân biệt hoặc có, hoặc không, hoặc cũng có cũng không (chẳng phải có chẳng phải không). Như Lai từ trước lại đây rốt ráo không, huống gì sau khi diệt độ.

Kệ 15:

Như Lai vượt hý luận

Nhưng người đời hý luận

Hý luận phá mắt tuệ

Vì vậy không thấy Phật.

Hý luận là nhớ tướng chấp giữ tướng, phân biệt kia đây, nói Phật diệt độ, không diệt độ v.v… Người ấy vì bị hý luận che khuất mắt tuệ, nên không thấy pháp thân Như Lai. Trong phẩm Như Lai nầy, ở đầu phẩm, giữa phẩm, cuối phẩm, tư duy tìm tánh định Như Lai, không thể có được.

Thế nên kệ nói:

Kệ 16:

Tánh của Đức Như Lai

Tức là tánh thế gian

Như Lai không có tánh

Thế gian cũng không có.

Trong phẩm nầy, suy lường tìm kiếm thấy tánh Như Lai tức là tánh hết thảy thế gian.

Hỏi: Thế nào là tánh định Như Lai?

Đáp: Như Lai không có tự tánh, như thế gian không có tự tánh.

 

Phẩm 23: QUÁN VỀ ĐIÊN ĐẢO

(Gồm 24 kệ)

Hỏi:

Kệ 1:

Từ nhớ tưởng phân biệt

Sinh ra tham, sân, si

Điên đảo tịnh, bất tịnh

Đều do các duyên sinh.

Kinh nói nhân nơi tịnh bất tịnh điên đảo, nhớ tướng phân biệt sinh ra tham, sân, si. Thế nên biết thật có tham, sân, si?

Đáp:

Kệ 2:

Nếu nhân tịnh bất tịnh

Điên đảo sinh ba độc

Ba độc tức vô tánh

Nên phiền não không thật.

Nếu các phiền não nhân nơi điên đảo ức tưởng phân biệt sinh, thì nó không có tự tánh, thế nên các phiền não ấy không thật.

Lại nữa,

Kệ 3:

Ngã, pháp có hay không

Việc ấy quyết chẳng thành

Không ngã, các phiền não

Có, không cũng không thành.

Ngã không có nhân duyên để thành hoặc có hoặc không. Đã không có ngã thì các phiền não làm sao thành hoặc có, hoặc không được. Vì sao?

Kệ 4:

Ai có phiền não nầy

Như vậy là không thành

Nếu lìa ngã mà có

Phiền não không sở thuộc.

Phiền não là cái có khả năng làm não hại người khác. Kẻ làm não hại người khác đó là chúng sinh, song chúng sinh ấy tìm khắp mọi nơi không thể có được. Nếu lìa chúng sinh có phiền não, thì phiền não không có đối tượng thuộc về. Nếu cho tuy không có ngã, mà các phiền não có đối tượng thuộc về tâm thì nói vậy cũng không đúng. Vì sao?

Kệ 5:

Thân kiến, bằng năm cách

Tìm cầu không thể được

Phiền não trong tâm nhơ

Năm cách, tìm không được.

Như thân kiến, theo năm cách tìm trong năm ấm không thể có được, các phiền não cũng như vậy, theo năm cách tìm phiền não trong tâm nhơ cấu không thể có được, lại theo năm cách tìm tâm nhơ cấu trong các phiền não cũng không thể có được.

Lại nữa,

Kệ 6:

Điên đảo tịnh, bất tịnh

Nó không có tự tánh

Sao do hai thứ nầy

Mà sinh các phiền não.

Điên đảo về tịnh bất tịnh là, điên đảo là hư dối thì không có tự tánh, không có tự tánh thì không có điên đảo. Nếu không có điên đảo, vậy làm sao lại nhân điên đảo khởi lên các phiền não.

Hỏi:

Kệ 7:

Sắc, tiếng, mùi, vị, xúc

Và pháp là sáu thứ

Sáu thứ như thế đó

Là gốc của ba độc.

Sáu nhập nầy v.v… là gốc của ba độc (tham, giận, si) nhân sáu nhập đó mà sinh ra điên đảo về tịnh bất tịn, nhân điên đảo về tịnh bất tịnh mà sinh tham, giận, si mê?

Đáp:

Kệ 8:

Sắc, tiếng, mùi, vị, xúc

Và pháp thể sáu thứ

Đều không như mộng, huyễn

Như ảo thành huyễn hiện.

Kệ 9:

Trong sáu thứ như thế

Có gì tịnh, bất tịnh

Giống như người huyễn hóa

Cũng như cảnh trong gương.

Sắc, tiếng, mùi, vị, xúc, pháp, khi tự thể nó khi chưa hòa hợp với tâm, thì rỗng không, không cósở hữu, như sóng nắng, như mộng, như người biến hóa, như cảnh trong gương, chỉ dối gạt tâm, chứ không có định tướng. Trong sáu nhập như vậy, đâu có tịnh bất tịnh.

Lại nữa,

Kệ 10:

Không nhân nơi tướng tịnh

Không có tướng bất tịnh

Nhân tịnh có bất tịnh

Vì vậy không bất tịnh.

Nếu không nhân nơi tịnh thì trước đó không có bất tịnh, vậy nhân đâu mà nói bất tịnh. Thế nên không có bất tịnh.

Lại nữa,

Kệ 11:

Không nhân nơi bất tịnh

Thì cũng không có tịnh

Nhân bất tịnh có tịnh

Vì vậy không có tịnh.

Nếu không nhân bất tịnh, thì trước đó không có tịnh, vậy nhân đâu mà nói tịnh. Thế nên không có tịnh.

Lại nữa,

Kệ 12:

Nếu như không có tịnh

Thì do đâu có tham

Nếu không có bất tịnh

Thì do đâu có sân.

Vì không có cảnh tịnh và bất tịnh nên tâm không sinh tham, giận.

Hỏi: Kinh nói có bốn điên đảo về chấp thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu vô thường mà thấy thường là điên đảo, còn nếu vô thường mà thấy vô thường, thì không phải điên đảo. Ba điên đảo kia cũng vậy, vì có điên đảo nên phải có người điên đảo, cớ sao nói không hết thảy?

Đáp:

Kệ 13:

Đối vô thường chấp thường

Đó gọi là điên đảo

Trong không, không có thường

Chỗ nào có chấp thường.

Nếu đối với vô thường mà chấp thường mới là điên đảo, còn đối

với các pháp tánh không, không có thường, thì trong đó chỗ nào có điên đảo chấp thường. Ba điên đảo kia cũng giống như vậy.

Lại nữa,

Kệ 14:

Nếu đối với vô thường

Chấp vô thường không đảo (điên)

Trong không, không vô thường

Đâu có phi điên đảo.

Nếu chấp vô thường mà nói vô thường, thì không gọi là điên đảo, nhưng trong các pháp tánh không, không có vô thường. Vì vô thường không có thì cái gì là phi điên đảo. Ba điên đảo kia cũng vậy.

Lại nữa,

Kệ 15:

Bị chấp, người chấp, chấp

Và pháp dùng chấp trước

Đều là tướng tịch tịnh

Là sao có chấp trước.

Bị chấp trước là vật, người chấp trước là tác giả, chấp trước là nghiệp, pháp được dùng chấp trước gọi là việc chỗ dụng. Tất cả đều tánh không, tướng vắng lặng. Như trong phẩm quán Như Lai nói. Thế nên không có chấp trước.

Lại nữa,

Kệ 16:

Nếu không có pháp chấp

Nói tà là điên đảo

Nói chánh không điên đảo

Ai có việc như vậy.

Chấp trước gọi là nhớ tưởng phân biệt nầy, kia, có, không v.v…nếu không có sự chấp trước ấy, thì ai là tà điên đảo, ai là chánh không điên đảo.

Lại nữa, Kệ 17:

Có đảo không sinh đảo

Không đảo không sinh đảo

Người đảo không sinh đảo

Không đảo cũng không sinh.

Kệ 18:

Nếu ngay khi điên đảo

Cũng không sinh điên đảo

Ông hãy tự quán sát

Ai sinh ra điên đảo.

Người đã điên đảo thì không còn sinh ra điên đảo, vì đã điên đảo rồi, người không điên đảo cũng không điên đảo, vì không có điên đảo. Ngay lúc điên đảo cũng không điên đảo, vì có hai lỗi. Ông hãy vứt bỏ tâm kiêu main, khéo tự quán sát, ai là người điên đảo.

Lại nữa,

Kệ 19:

Các điên đảo không sinh

Vì sao có nghĩa nầy

Đã không có điên đảo

Sao có người điên đảo.

Vì lấy các lý do phá điên đảo, nên rơi vào tà chấp cho điên đảo chẳng sinh. Người kia vì tham chấp tướng sinh nên cho chẳng sinh là thật tướng của điên đảo. Thế nên kệ nói: Làm sao gọi tướng chẳng sinh là thật tướng của điên đảo, cho đến pháp vô lậu còngọi là tướng chẳng sinh, huống gì điên đảo là tướng chẳng sinh, vì điên đảo không có, nên đâu có người điên đảo, nhân có điên đảo mới có người điên đảo.

Lại nữa,

Kệ 20:

Nếu ngã, thường, lạc, tịnh

Mà quả là có thật

Thì thường, ngã, lạc, tịnh

Chẳng phải là điên đảo.

Nếu ngã, thường, lạc, tịnh là bốn sự thật có tự tánh, thì ngã, thường, lạc, tịnh ấy không phải điên đảo. Vì sao? Vì nhất định có thật sự, tại sao nói điên đảo. Nếu cho thường, lạc, ngã, tịnh là bốn sự điên đảo không có, thì vô thường, khổ, không, vô ngã là bốn điều thật có, không gọi là điên đảo, vì trái với điên đảo. Nhưng nếu nói là không điên đảo thì không đúng. Vì sao?

Kệ 21:

Nếu thường, ngã, lạc, tịnh

Mà thật sự không có

Vô thường, khổ, bất tịnh

Cũng không thể có được.

Nếu thường, lạc, ngã, tịnh là bốn sự thật mà không có, thì không có nên bốn sự vô thường, khổ, không, vô ngã cũng không thể có. Vì sao? Vì không nhân nơi đối đãi nhau.

Lại nữa,

Kệ 22:

Điên đảo như vậy diệt

Thì vô minh cũng diệt

Do vì vô minh diệt

Nên các hành cũng diệt.

Như vậy, theo nghĩa ấy, vì diệt các điên đảo nên mười hai nhân duyên mà vô minh là căn bản cũng diệt, vì vô min diệt nên ba thứ hành nghiệp cho đến già chết v.v… đều diệt.

Lại nữa,

Kệ 23:

Nếu tánh phiền não thật

Mà có người hệ thuộc

Thì làm sao dứt trừ

Ai dứt được tánh ấy.

Nếu các phiền não tức là điên đảo mà có thật tánh, thì làm sao dứt được và ai dứt được tánh đó. Nếu nói các phiền não đều hư dối, không có tự tánh, mà có thể dứt được thì cũng không đúng. Vì sao?

Kệ 24:

Nếu phiền não hư dối

Không tánh, không hệ thuộc

Thì làm sao dứt trừ

Ai dứt được vô tánh.

Nếu các phiền não hư dối không có tự tánh, không có đối tượng thuộc về, thì làm sao dứt được, và ai có thể dứt cái không có tự tánh.

Phẩm 24: QUÁN VỀ TỨ ĐẾ

(Gồm 40 Kệ)

Hỏi: Phá bốn điên đảo, thông đạt bốn đế, chứng được bốn quả Sa môn.

Kệ 1:

Nếu tất cả đều không

Không sinh cũng không diệt

Như vậy thì không có

Là pháp bốn Thánh đế.

Kệ 2:

Vì không có Bốn đế

Nên thấy khổ, dứt tập

Chứng diệt và tu đạo

Việc như vậy đều không.

Kệ 3:

Vì các việc ấy không

Nên không bốn đạo quả

Vì không có bốn quả

Nên “đắc”, “hướng” đều không.

Kệ 4:

Nếu không tám Hiền Thánh

Thì không có Tăng bảo

Vì không có Bốn đế

Cũng không có Pháp bảo.

Kệ 6:

Vì không Tăng, Pháp bảo

Nên không có Phật bảo

Người nói không như vậy

Là phá hoại Tam bảo.

Nếu tất cả thế gian đều không, không có gì hết thì đáng lẽ không sinh không diệt, vì không sinh không diệt nên không có bốn Thánh đế. Vì sao? Vì từ tập đế sinh khổ đế. Tập đế là nhân, khổ đế là quả, diệt khổ tập đế thì gọi là diệt đế, pháp môn tu hành đưa đến diệt đế gọi là đạo đế. Đạo đế là nhân, diệt đế là quả, như vậy bốn đế có nhân có quả. Nếu không sinh không diệt thì không có bốn đế, bốn đế không có thì không có việc thấy khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo. Việc thấy khổ dứt tập, chứng diệt, tu đạo không có, thì không có bốn quả Sa-môn, bốn quả

Sa môn không có, thì không có bốn hướng bốn quả đắc. Nếu không có tám bậc Hiền Thánh ấy thì không có Tăng bảo. Lại vì bốn đế không có nên Pháp bảo cũng không có. Nếu không có Pháp bảo, Tăng bảo thì làm sao có Phật bảo. Ngộ được pháp gọi là Phật, không có pháp thì đâu có Phật. Vậy ông nói các pháp đều không là phá hoại Tam bảo.

Lại nữa, Kệ 6:

Pháp “Không” phá nhân quả

Cũng phá hoại tội phước

Lại cũng hủy hoại hết

Tất cả pháp thế gian.

Nếu tín thọ pháp không, thì phá hoại tội phước và quả báo tội phước, cũng phá hoại pháp thế tục. Vì có các lỗi như vậy, nên các pháp không thể không?

Đáp:

Kệ 7:

Ông nay thật không biết

Không, nhân duyên của không

Và biết ý nghĩa không

Nên tự sinh ưu não.

Ông không hiểu thế nào là tướng không, vì nhân duyên gì mà nói không, cũng không hiểu nghĩa không. Vì không thể như thật biết rõ nghĩa không, nên sinh ra nghi nạn như thế.

Lại nữa,

Kệ 8:

Chư Phật nương hai đế

Thuyết pháp cho chúng sinh

Một là Thế tục đế

Hai là đệ nhất nghĩa.

Kệ 9:

Nếu người không thể biết

Phân biệt hai đế thì

Đối Phật pháp sâu xa

Không biết nghĩa chân thật.

Thế tục đế là hết thảy pháp tánh không, mà vì thế gian điên đảo, nên sinh ra pháp hư dối, đối với thế gian thì cho pháp hư dối đó là thật, còn đối với các Hiền Thánh đã như thật biết tánh điên đảo, nên biết tất cả pháp đều không, không sinh. Đối với Thánh nhân thì Đệ nhất nghĩa Đế nầy là thật. Các Đức Phật nương theo hai đế, vì chúng sinh mà thuyết pháp. Nếu người không thể đúng như thật phân biệt hai đế, thì không hiểu được thật nghĩa của Phật pháp sâu xa. Nếu bảo hết thảy pháp chẳng sinh là Đệ nhất nghĩa đế, không cần đệ nhị tục đế thì nói như vậy là không đúng. Vì sao?

Kệ 10:

Nếu không nương tục đế

Không đắc Đệ nhất nghĩa

Không đắc Đệ nhất nghĩa

Thì không đắc Niết-bàn.

Đệ nhất nghĩa đế đều nhân nơi ngôn thuyết, mà ngôn thuyết là thế tục, thế nên, nếu không nương thế tục đế thì không thể nói Đệ nhất nghĩa. Nếu không ngộ được Đệ nhất nghĩa, thì làm sao đến được Niếtbàn. Thế nên các pháp tuy không sinh mà có hai đế.

Lại nữa,

Kệ 11:

Không thể chánh quán không

Kẻ độn căn tự hại

Như không giỏi chú thuật

Không rành bắt rắn độc.

Nếu người căn tánh ám độn không khéo hiểu pháp không, vì sai lầm đối với không, nên sinh ra tà kiến. Như vì lợi mà bắt rắn độc, nhưng không rành cách bắt, trở lại bị rắn hại. Lại như muốn sử dụng chú thuật mà không rành, trở lại bị chú thuật làm hại. Người căn tánh ám độn quán pháp không, cũng như vậy.

Lại nữa, Kệ 12:

Thế Tôn biết pháp ấy

Tướng sâu xa vi diệu

Độn căn chẳng theo kịp

Vì vậy không muốn nói.

Vì pháp sâu xa vi diệu, không phải là chỗ hiểu được củahàng căn tánh ám độn, nên Đức Thế Tôn không muốn nói ra.

Lại nữa,

Kệ 13:

Ông cho tôi chấp không

Và cho tôi lầm lỗi

Nhưng lỗi mà ông nói

Đối với không, không có.

Ông cho tôi chấp trước “không tánh” nên vì tôi mà sinh ra lỗi lầm, song không tánh mà tôi nói, thì không ấy cũng không, nên không có các lỗi như vậy.

Lại nữa,

Kệ 14:

Do vì có nghĩa không

Nên các pháp thành tựu

Nếu không có nghĩa không

Tất cả pháp không thành.

Vì có nghĩa không nên tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian đều thành tựu, nếu không có nghĩa không, thì tất cả đều không thành tựu.

Lại nữa,

Kệ 15:

Nay ông tự có lỗi

Mà đổ lỗi cho tôi

Giống như người cỡi ngựa

Tự quên ngựa mình cỡi.

Ông đối với pháp có, có lỗi mà không tự biết, lại thấy lỗi nơi pháp không tánh, khác nào người cỡi ngựa mà quên mất con ngựa mình đang cỡi. Vì sao?

Kệ 16:

Nếu ông thấy các pháp

Quyết định có tự tánh

Tức là thấy các pháp

Không nhân cũng không duyên.

Ông nói các pháp có tánh định, nếu như vậy tức là thấy các pháp không nhân không duyên. Vì sao? Vì nếu pháp đã quyết định có tự tánh rồi, thì không sinh không diệt, như vậy đâu cần nhân duyên. Còn nếu các pháp từ nhân duyên sinh, thì không có tự tánh, trái lại các pháp quyết định có tự tánh thì không từ nhân duyên sinh. Vậy nếu nói các pháp quyết định có tự tánh, là không đúng. Vì sao?

Kệ 17:

Vậy là phá nhân quả

Làm, người làm, pháp làm

Cũng lại phá tất cả

Sinh, diệt của muôn vật.

Nếu các pháp có tánh định thì không có nhân quả v.v… như kệ nói:

Kệ 18:

Pháp do các duyên sinh

Ta nói tức là không

Cũng gọi là giả danh

Cũng là nghĩa trung đạo.

Kệ 19:

Chưa từng có một pháp

Mà không từ duyên sinh

Thế nên tất cả pháp

Đều là pháp rỗng không.

Pháp do nhân duyên sinh, Ta nói tức là không. Vì sao? Vì phải đầy đủ các duyên hòa hợp thì pháp mới khởi, pháp ấy thuộc các nhân duyên, nên không có tự tánh. Vì không có tự tánh nên “không”. Không cũng lại không, chỉ vì dắt dẫn chúng sinh nên mượn danh tự để nói, lìa hai bên có, không, nên gọi là “trung đạo”. Vì pháp ấy không có tự tánh nên không được nói có, cũng vì không có “không” nên không được nói không có. Nếu pháp có tự tánh tướng, thì không đợi các duyên mới có, nhưng nếu không đợi các duyên thì không có pháp. Thế nên không có pháp nào mà chẳng không. Trên kia ông cho pháp “không” có lỗi, lỗi ấy nay trở lại nơi ông. Vì sao?

Kệ 20:

Nếu tất cả chẳng không

Thì không có sinh diệt

Như thế thì không có

Pháp Bốn đế cao thượng.

Nếu tất cả các pháp mỗi mỗi đều có tự tánh chứ chẳng không, thì không có sinh diệt, vì không có sinh diệt, thì không có bốn Thánh đế.

Vì sao?

Kệ 21:

Nếu không từ duyên sinh

Làm sao mà có khổ

Vô thường là nghĩa khổ

Tánh định, không vô thường.

Nếu không từ duyên sinh thì không có khổ. Vì sao? Vì kinh nói vô thường là khổ. Trái lại nếu khổ có tánh định thì làm sao có vô thường, vì nó không bỏ tánh cố định của nó.

Lại nữa,

Kệ 22:

Nếu khổ có tánh định

Thì sao do tập sinh

Vì vậy không có tập

Vì phá hoại nghĩa không.

Nếu khổ có tánh nhất định thì không thể lại phát sinh, vì trước đã có rồi. Nếu như vậy, thì không có tập đế, vì phá hoại nghĩa không.

Lại nữa,

Kệ 23:

Nếu khổ có tánh định

Thì không thể có diệt

Vì ông chấp tánh định

Tức là phá diệt đế.

Khổ nếu có tánh định thì không thể diệt. Vì sao? Vì tánh định thì không biến mất.

Lại nữa,

Kệ 24:

Nếu khổ có tánh định

Thì không có tu đạo

Nếu có thể tu đạo

Thì không có tánh định.

Nếu các pháp nhất định thật có thì không có việc tu đạo. Vì sao? Vì pháp thật có thì là thường, thường thì không thể tăng thêm. Nếu đạo có thể tu, thì đạo không có tánh định.

Lại nữa,

Kệ 25:

Nếu không có khổ đế

Không có tập, diệt đế

Thì cái đạo diệt khổ

Rốt ráo đến chỗ nào.

Các pháp nếu trước đã có tánh định, thì không có khổ, tập, diệt đế, vậy hiện tại con đường diệt khổ, cuối cùng đưa đến chỗ diệt khổ nào?

Lại nữa,

Kệ 26:

Nếu khổ có tánh định

Trước đến nay không thấy

Thì nay làm sao thấy

Vì tánh nó không đổi.

Nếu trước đây khi còn là phàm phu không thể thấy tánh khổ, nay cũng không thể thấy. Vì sao? Vì cái tánh khổ đế không thể thấy ấy đã quyết định rồi.

Lại nữa,

Kệ 27:

Như thấy khổ chẳng đúng

Đoạn tập và chứng diệt

Tu đạo và bốn quả

Tất cả đề không đúng.

Như tánh khổ đế trước khi tu kh thể thấy, sau khi tu cũng không thể thấy, như vậy cũng không thể có việc dứt tập, chứng diệt, tu đạo. Vì sao? Vì cái tánh của tập đế từ trước lại đây không dứt, nay cũng không thể dứg, vì tánh nó cố định không thể dứt. Diệt đế từ trước lại đây không chứng, nay cũng không thể chứng, vì từ trước lại đây không chứng. Đạo từ trước lại đây không tu, nay cũng không thể tu, vì từ trước lại đây không tu. Thế nên bốn sự tu hành thấy, dứt, chứng, tu đối với bốn Thánh đế đều không thể có. Vì bốn hành không có, nên bốn đạo quả cũng không có. Vì sao?

Kệ 28:

Tánh của bốn đạo quả

Trước nay chưa chứng đắc

Nếu pháp có tánh định

Thì làm sao chứng đắc.

Các pháp nếu có tánh định, bốn quả Sa môn từ trước lại đây không chứng được, nay làm sao chứng được, nếu có chứng được, nên biết các pháp không có tánh quyết định.

Lại nữa, Kệ 29:

Nếu không có Bốn quả

Thì không ai đắc, hướng

Vì không có tám Thánh

Nên không có Tăng bảo.

Vì không có bốn quả Sa môn, nên không có người chứng đắc quả và người đang hướng đến chứng đắc quả, vì không có tám bậc Hiền Thánh như vậy, nên không có Tăng bảo. Song Kinh nói tám bậc Hiền Thánh là Tăng bảo. Lại nữa,

Kệ 30:

Không có bốn Thánh đế

Cũng không có Pháp bảo

Không Pháp bảo, Tăng bảo

Làm sao có Phật bảo.

Tu tập bốn Thánh đế chứng được Niết-bàn, nếu không có bốn Thánh đế thì không có Pháp bảo. Nếu không có Tăng bảo, Pháp bảo thì không có Phật bảo. Ông lấy các lý do như thế để nói các pháp có tánh định, là ông phá hoại Tam bảo.

Hỏi: Tuy luận chủ phá đổ các pháp, nhưng đạo rốt ráo và quả vị Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng phải có, nhân nơi đạo ấy nên gọi là Phật?

Đáp:

Kệ 31:

Như ông nói không nhân

Nơi Bồ-đề có Phật

Cũng lại không nhân Phật

Mà lại có Bồ-đề.

Ông nói các pháp có tánh định, thì không nhân Bồ-đề mà có Phật, không nhân Phật mà có Bồ-đề, vì hai tánh Bồ-đề và Phật đã có tánh định thường còn.

Lại nữa,

Kệ 32:

Tuy lại siêng tinh tấn

Tu hành đạo Bồ-đề

Nếu trước không Phật tánh

Thì không thể thành Phật.

Vì trước không có tánh định, như sắt không có tánh vàng, thì dầu luyện nấu đến mấy cũng không thành vàng.

Lại nữa,

Kệ 33:

Nếu các pháp chẳng không

Không ai tạo tội phước

Chẳng không thì tạo gì

Vì tánh nó cố định.

Nếu các pháp chẳng không, thì trọn không có người làm tội phước. Vì sao? Vì tánh tội phước đã cố định rồi, lại không có tác nghiệp và tác giả.

Lại nữa,

Kệ 34:

Ông cho tội phước

Chẳng sinh ra quả báo

Vậy nên lìa tội phước

Mà có các quả báo?

Theo ông đối với nhân duyên tội phước không có quả báo, vậy có thể lìa nhân duyên tội phước có quả báo. Vì sao? Vì quả báo không đợi phải có nhân mới sinh ra.

Hỏi: Lìa tội phước có thể không có quả báo thiện ác, nhưng từ tội phước mà có quả báo thiện ác?

Kệ 35:

Nếu cho từ tội phước

Mà sinh ra quả báo

Quả từ tội phước sinh

Làm sao nói chẳng không.

Nếu lìa tội phước thì không có quả báo thiện ác, như vậy làm sao nói quả báo chẳng không. Thế nên ông nói các pháp chẳng không, là không đúng.

Lại nữa,

Kệ 36:

Nếu ông phá nghĩa không

Các pháp do duyên sinh

Thì phá tất cả pháp

Hiện có của thế gian.

Nếu ông phá Đệ nhất nghĩa không của pháp do nhân duyên sinh, thì phá hết thảy pháp thế tục. Vì sao?

Kệ 37:

Nếu phá đổ nghĩa không

Thì không có tạo tác

Không làm mà có làm

Không làm là tác giả.

Nếu phá nghĩa không, tất cả kết quả đều không có tạo tác, không có nguyên nhân. Lại không làm mà có làm. Lại tất cả tác giả đều là người không làm gì. Lại lìa tác giả có thể có nghiệp, có quả báo và có người thọ quả báo. Nhưng các việc ấy đều không đúng, thế nên không nên phá không.

Lại nữa,

Kệ 38:

Nếu có tánh quyết định

Thì các tướng thế gian

Chẳng sinh cũng chẳng diệt

Thường trụ không biến hoại.

Nếu các pháp có tánh định, thì mọi tướng trạng thế gian như trời, người, súc sinh, vạn vật đều chẳng sinh chẳng diệt, thường trú không hoại. Vì sao? Vì đã có thật tánh không thể biến đổi sai khác. Nhưng hiện thấy vạn vật mỗi mỗi đều có tướng biến đổi, sinh diệt biến dịch. Thế nên các pháp không thể có tánh định.

Lại nữa,

Kệ 39:

Nếu không có nghĩa không

Cái chưa đắc, chẳng đắc

Cũng không đoạn phiền não

Cũng không có hết khổ.

Nếu không có pháp không tánh, đối với các công đức của thế gian và xuất thế gian, người chưa có được đều không thể có được, cũng không có người dứt phiền não, cũng không có sự hết khổ. Vì sao? Vì đã có tánh định.

Kệ 40:

Thế nên trong kinh nói

Nếu thấy pháp nhân duyên

Thì có thể thấy Phật

Thấy khổ, tập, diệt, đạo.

Nếu người nào thấy hết thảy pháp từ các duyên sinh, thì người ấy có thể thấy Phật pháp thân, tăng thêm trí tuệ thấy bốn Thánh đế khổ, tập, diệt đạo, thấy bốn Thánh đế chứng được bốn Thánh quả, dứt các phiền não. Thế nên không nên phá nghĩa không, nếu phá nghĩa không thì phá pháp nhân duyên sinh, phá pháp nhân duyên sinh thì phá Tam bảo, nếu phá Tam bảo là tự phá mình.

 

Phẩm 25: QUÁN VỀ NIẾT BÀN

(Gồm 24 Kệ)

Hỏi:

Kệ 1:

Nếu các pháp đều không

Không sinh cũng không diệt

Thì đoạn gì, diệt gì

Mà gọi là Niết-bàn.

Nếu hết thảy pháp tánh không, thì không sinh không diệt, không sinh không diệt thì đoạn cái gì, diệt cái gì mà gọi là Niết-bàn. Thế nên hết thảy chẳng thể không, vì các pháp chẳng không nên mới đoạn các phiền não, diệt năm ấm, gọi là Niết-bàn?

Đáp:

Kệ 2:

Nếu các pháp chẳng không

Thì không sinh không diệt

Vậy đoạn gì, diệt gì

Mà gọi là Niết-bàn.

Nếu hết thảy thế gian chẳng không thì không sinh không diệt, vậy đoạn cái gì, diệt cái gì mà gọi là Niết-bàn. Thế nên hai môn thực có pháp và không thực có pháp, chẳng phải đưa đến Niết-bàn. Gọi là Niết-bàn là:

Kệ 3:

Không đắc cũng không đến

Không đoạn cũng không thường

Không sinh cũng không diệt

Đó gọi là Niết-bàn.

Vô đắc là, đối với tu hành và chứng quả không có chỗ đắc.

Vô chí là, không có chỗ có thể đến.

Bất đoạn là, năm ấm từ trước lạiđây rốt ráo không, nên khi đắc đạo vào Niết-bàn Vô dư cũng không có đoạn gì.

Bất thường là nếu có pháp có thể nắm bắt và phân biệt được, nên gọi là thường, còn Niết-bàn vắng lặng không có pháp để phân biệt, nên không gọi là thường, bất sinh bất diệt cũng như vậy. Tướng như vậy gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, kinh nói: Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải có không, chẳng phải chẳng có chẳng phải chẳng không.

Không chấp thọ tất cả pháp, bên trong vắng lặng, gọi là Niết-bàn. Vì sao?

Kệ 4:

Niết-bàn không gọi có

Có là tướng già chết

Trọn không có pháp có

Xa lìa tướng già, chết.

Mắt thấy hết thảy vạn vật đều sinh diệt, đó là tướng già chết. Niết-bàn nếu là có, thì có tướng già chết, việc ấy không đúng. Thế nên Niết-bàn không gọi là có. Lại không thấy xa lìa sinh diệt già chết, riêng có pháp tánh định gọi là Niết-bàn. Nếu Niết-bàn là có, thì phải có tướng sinh diệt già chết. Chỉ do xa lìa tướng già chết, nên gọi là Niết-bàn.

Lại nữa,

Kệ 5:

Nếu Niết-bàn là có

Niết-bàn là hữu vi

Trọn không có pháp nào

Gọi là pháp vô vi.

Niết-bàn chẳng phải là có. Vì sao? Vì hết thảy vạn vật từ các duyên sinh, đều là pháp hữu vi, không có một pháp nào gọi là pháp vô vi. Tuy giả gọi pháp thường là vô vi, nhưng lấy lý suy thì pháp vô thường còn không có, huống gì là pháp thường, là pháp không thể thấy, không thể thủ đắc.

Lại nữa,

Kệ 6:

Nếu Niết-bàn là có

Vì sao nói không thọ

Các pháp đều do thọ

Mà gọi là có pháp.

Nếu bảo Niết-bàn là pháp có, thì kinh không nên nói “Không chấp thọ là Niết-bàn”. Vì sao? Vì không có pháp gì không chấp thọ mà thành có được. Thế nên Niết-bàn chẳng phải có.

Hỏi: Nếu có chẳng phải là Niết-bàn, vậy không có là Niết-bàn chăng?

Đáp:

Kệ 7:

Có còn chẳng Niết-bàn

Huống gì là không có

Niết-bàn không có có

Chỗ nào có tướng không.

Nếu có chẳng phải Niết-bàn, không có làm sao là Niết-bàn. Vì sao? Vì nhân nơi có nên mới có không, nếu không có có, thì làm sao có không. Như kinh nói trước có mà nay không, gọi là không có, còn Niếtbàn không phải như vậy. Vì sao. Vì chẳng phải Niết-bàn trước có rồi sau biến làm không. Thế nên không có, cũng không thành Niết-bàn.

Lại nữa, Kệ 8:

Nếu không là Niết-bàn

Thì sao gọi không thọ

Chưa từng có không thọ

Mà gọi là không pháp.

Nếu bảo “không có” là Niết-bàn, thì kinh không nên nói “không chấp thọ là Niết-bàn”. Vì sao? Vì không có cái gì không chấp thọ mà gọi là pháp không có được. Thế nên biết Niết-bàn chẳng phải “không có”.

Hỏi: Nếu Niết-bàn chẳng phải có, chẳng phải không, vậy thế nào là Niết-bàn?

Đáp:

Kệ 9:

Vì chấp thọ nhân duyên

Luân hồi trong sinh tử

Chẳng thọ các nhân duyên

Đó gọi là Niết-bàn.

Vì không như thật biết điên đảo nên nhân nơi năm thọ ấm mà qua lại sinh tử, còn như thật biết điên đảo thì không còn chấp thọ, nhân nơi năm thọ ấm qua lại sinh tử. Năm ấm không có tự tánh, không còn tương tục, nên gọi là Niết-bàn.

Lại nữa,

Kệ 10:

Như trong kinh Phật dạy

Dứt hữu dứt phi hữu

Cho nên biết Niết-bàn

Chẳng hữu cũng chẳng vô.

Hữu vi là ba hữu, phi hữu là ba hữu đoạn diệt. Phật dạy vì dứt hữu dứt phi hữu ấy gọi là Niết-bàn, nên biết Niết-bàn chẳng phải có chẳng phải không.

Hỏi: Hoặc có hoặc không có, đều chẳng phải Niết-bàn, song hợp chung có và không lại là Niết-bàn chăng?

Đáp:

Kệ 11:

Nếu cho có và không

Hợp thành Niết-bàn thì

Có không là giảo thoát

Việc ấy là không đúng.

Nếu bảo có và không hợp lại là Niết-bàn, thì có và không hợp lại là giảo thoát. Việc ấy không đúng. Vì sao? Vì hai việc có và không trái nhau, làm sao hợp cùng ở một chỗ.

Lại nữa,

Kệ 12:

Nếu cho có và không

Hợp thành Niết-bàn thì

Niết-bàn là chấp thọ

Cả hai từ thọ sinh.

Nếu cho là có và không hợp lại thành Niết-bàn thì kinh không nên nói Niết-bàn là không chấp thọ. Vì sao? Vì có và không đều do chấp thọ mà sinh, nhân với nhau mà có. Thế nên không thể hợp có và không làm Niết-bàn.

Lại nữa,

Kệ 13:

Có không cùng hợp thành

Sao gọi là Niết-bàn

Niết-bàn là vô vi

Có không là hữu vi.

Có và không hợp chung lại không thể gọi là Niết-bàn, vì Niết-bàn là vô vi, có và không thuộc hữu vi. Thế nên có và không chẳng phải Niết-bàn.

Lại nữa,

Kệ 14:

Hợp hai việc có, không

Sao gọi là Niết-bàn

Có không không đồng chỗ

Như sáng tối khác nhau.

Có và không không thể gọi là Niết-bàn. Vì sao? Vì có và không trái nhau, không thể cùng ở một chỗ, như tối và sáng không có cùng một lúc. Thế nên khi có thì không có không, khi không thì không có có, làm sao có và không hợp chung gọi là Niết-bàn.

Hỏi: Nếu có và không hợp chung chẳng phải Niết-bàn, thì chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn chăng?

Đáp:

Kệ 15:

Nếu chẳng phải có, không

Mà gọi là Niết-bàn

Chẳng phải có, không nầy

Lấy gì mà phân biệt.

Nếu Niết-bàn chẳng phải có chẳng phải không, vậy chẳng phải có chẳng phải không ấy nhân vào đâu để phân biệt. Thế nên nói chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn, việc ấy không đúng.

Lại nữa,

Kệ 16:

Phân biệt chẳng có, không

Như vậy là Niết-bàn

Nếu có và không thành

Chẳng có chẳng không thành.

Ông phân biệt chẳng phải có chẳng phải không là Niết-bàn, việc ấy không đúng. Vì sao? Vì nếu có và không mà thành Niết-bàn được, vậy sau chẳng phải có chẳng phải không mới thành Niết-bàn. Song trái với có gọi là không, trái với không gọi là có, có và không ấy ngay trong câu kệ thứ ba đã bị phá. Vì có và không còn không có, thì làm sao có chẳng phải có chẳng phải không. Thế nên Niết-bàn chẳng phải chẳng có, chẳng phải chẳng không.

Lại nữa,

Kệ 17:

Như Lai sau diệt độ

Chẳng thể nói có, không

Chẳng nói cả có không

Chẳng phải có và không.

Kệ18:

Như Lai còn tại thế

Chẳng nói có hay không

Hay vừa có vừa không

Chẳng phải có và không.

Hoặc sau khi Như Lai diệt độ, hoặc hiện tại, có Như Lai cũng không chấp thọ, không có Như Lai cũng không chấp thọ, cũng có Như Lai, cũng không Như Lai, cũng không chấp thọ, chẳng phải có Như Lai, chẳng phải không Như Lai, cũng không chấp thọ. Vì không chấp thọ nên không phân biệt Niết-bàn là có hay là không v.v…, lìa ngoài Như Lai thì ai đắc Niết-bàn, lúc nào, chỗ nào? Lấy pháp gì nói là Niết-bàn. Thế nên tìm tướng Niết-bàn trong tất cả lúc, tất cả thứ, đều không thể có được.

Lại nữa,

Kệ 19:

Niết-bàn cùng thế gian

Chẳng mảy may phân biệt

Thế gian cùng Niết-bàn

Chẳng mảy may phân biệt.

Vì nhân duyên năm ấm qua lại tương tục nên gọi là thế gian, song bản tánh năm ấm là rốt ráo không, vắng lặng, không chấp thọ, nghĩa nầy trước đã nói. Vì hết thảy pháp chẳng sinh chẳng diệt, nên thế gian với Niết-bàn không có phân biệt, Niết-bàn với thế gian cũng không có phân biệt.

Lại nữa,

Kệ 20:

Thực tế của Niết-bàn

Và thực tế thế gian

Cả hai thực tế ấy

Không mảy may sai khác.

Suy tìm rốt ráo thực tế của thế gian và Niết-bàn là không sinh, vì bình đẳng không thể phân biệt, nên không có mảy may sai khác.

Lại nữa,

Kệ 21:

Có, không sau Phật diệt

Chấp ấy nương Niết-bàn

Hữu biên thường vân vân

Nương vị lai, quá khứ.

Sau khi Như Lai diệt độ còn có Như Lai, không có Như Lai, cũng không có không có Như Lai, chẳng phải có Như Lai chẳng phải không có Như Lai, thế gian hữu biên, thế gian vô biên, thế gian cũng hữu biên cũng vô biên, thế gian chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên, thế gian thường, thế gian vô thường, thế gian cũng thường cũng vô thường, thế gian chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Trong ba loại mười hai kiến chấp ấy, bốn kiến chấp sau khi Như Lai diệt độ Như Lai có không v.v… là dựa vào sau khi Như Lai Niết-bàn mà khởi lên, bốn kiến chấp thế gian hữu biên vô biên v.v… là dựa vào đời vị lai mà khởi lên, bốn kiến chấp thế gian thường vô thường v.v… là dựa vào đời quá khứ mà khởi lên.

Như Lai có hay không có v.v… sau khi diệt độ đều không thể nắm bắt được, Niết-bàn cũng như vậy, như thế gian đời quá khứ, vị lai, hữu biên, vô biên, thường, vô thường đều không thể nắm bắt được, Niết-bàn cũng như vậy. Thế nên nói thế gian và Niết-bàn không có sai khác.

Lại nữa,

Kệ 22:

Tất cả pháp đều không

Sao có biên, không biên

Cũng biên, cũng không biên

Chẳng phải có, không biên.

Kệ 23:

Cái gì là một, khác

Có gì thường, vô thường

Cũng thường cũng vô thường

Chẳng phải thường, vô thường.

Kệ 24:

Pháp không thể nắm bắt

Diệt tất cả hý luận

Không người cũng không chỗ

Phật cũng không nói gì.

Tất cả pháp, tất cả thời, tất cả chủng, vì từ các duyên sinh, vì rốt ráo không, nên không có tự tánh. Trong những pháp như vậy, cái gì là hữu biên, ai là hữu biên, cái gì là vô biên, cũng hữu biên cũng vô biên, chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên, ai là chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên. Cái gì là thường, ai là thường, cái gì là vô thường, thường vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, ai là chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Cái gì thân tức là thần ngã, cái gì thân khác thần ngã. Sáu mươi hai tà kiến như tếh đối với rốt ráo không đều không thể có được. Những gì có sở đắc đều dứt, hý luận đều diệt. Vì hý luận diệt nên thông đạt thật tướng của các pháp, được đạo an ổn.

Từ phẩm Quán nhân duyên lại nầy, phân biệt suy tìm các pháp, có cũng không, không có cũng không, vừa có vừa không cũng không, chẳng phải có chẳng phải không cũng không. Như thế gọi là thật tướng của các pháp, cũng gọi là Như, pháp tánh, thực tế, Niết-bàn. Thế nên Như Lai không có lúc nào, không có ở chỗ nào nói định tướng Niết-bàn cho bất cứ người nào. Thế nên nói, những gì có sở đắc đều dứt, hý luận đều diệt.

Phẩm 26: QUÁN VỀ MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN

(Gồm 9 Kệ)

Hỏi: Ông nói về đạo Đệ nhất nghĩa trong Đại thừa giáo, nay tôi muốn nghe nói pháp Thanh-văn đưa vào đạo Đệ nhất nghĩa (chân lý tuyệt đối).

Đáp:

Kệ 1:

Chúng sinh bị si che

Làm khởi lên ba nghiệp

Vì khởi hành nghiệp ấy

Theo hành đọa sáu nẻo.

Kệ 2:

Vì nhân duyên các hành

Thức thọ thân sáu đường

Vì có thức chấp trước

Làm tăng trưởng danh sắc.

Kệ 3:

Vì danh sắc tăng trưởng

Nên sinh ra sáu nhập

Căn trần thức hòa hợp

Mà sinh ra sáu xúc

Kệ 4:

Nhân sáu xúc cho nên

Liền sinh ra ba thọ

Do nhân nơi ba thọ

Mà sinh ra khát ái.

Kệ 5:

Nhân ái có bốn thủ

Nhân thủ mà có hữu

Người chấp giữ không thủ

Giải thoát, không có hữu.

Kệ 6:

Do hữu mà có sinh

Từ sinh có già chết

Do già, chết nên có

Mọi sầu lo khổ não.

Kệ 7:

Các việc như vậy đấy

Đều do sinh mà có

Chỉ vì nhân duyên đó

Kết thành thân đại khổ.

Kệ 8:

Đó gọi là sinh tử

Căn bản là các hành

Kẻ vô minh tạo tác

Người trí tuệ không làm

Kệ 9:

Vì do việc nầy diệt

Nên việc kia không sinh

Thân năm ấm tịch diệt

Mới là chân tịch diệt.

Hàng phàm phu vì bị vô minh che mờ nên do nghiệp thân, miệng, ý khởi lên “các hành” đưa đến thọ thân sau ở trong sáu nẻo, tùy các hành khởi lên có thượng, trung, hạ mà “thức” tùy các hành nhập vào sáu nẻo thọ thân, vì nhân duyên của thức chấp trước nên có “danh sắc” tập lại, vì danh sắc tập lại nên có “sáu nhập”, vì nhân duyên sáu nhập nên có “sáu xúc”, vì nhân duyên sáu xúc nên có “ba thọ”, vì nhân duyên ba thọ nên sinh “khát ái”, vì nhân duyên khát ái nên có “bốn thủ”. Khi bốn thủ chấp giữ thì nghiệp thân, miệng, ý khởi lên tội phước, làm cho “ba hữu” đời sau tiếp nối, từ hữu mà có “sinh”, từ sinh mà có “già chết”, từ già chết mà có ưu bi khổ não, các thứ hoạn nạn, chỉ có tập hợp thân năm ấm đại khổ. Thế nên biết chính sự vô trí của kẻ phàm phu là cội gốc, khởi lên các hành nghiệp đưa đến sinh tử, còn người trí không khởi nghiệp, vì như thật thấy, nên “vô minh” phải diệt, vì vô minh diệt nên “các hành” cũng diệt, vì nhân diệt nên quả diệt, do có trí tu tập quán mười hai nhân duyên sinh diệt như vậy, nên sinh diệt diệt, vì sinh diệt diệt nên cho đến năm ấm già chết ưu bi đại khổ đều như thật chân chinh diệt. Chân chính diệt là rốt ráo diệt. Nghĩa mười hai nhân duyên sinh diệt nầy, như trong kinh A-tỳ-đàm đã nói rộng.

Phẩm 27: QUÁN VỀ TÀ KIẾN

(Gồm 31 Kệ)

Hỏi: Đã nghe nói pháp Đại thừa phá tà kiến, bây giờ muốn nghe nói pháp Thanh-văn phá tà kiến?

Đáp:

Kệ 1:

Ta ở đời quá khứ

Là có hay là không

Kiến chấp thế gian thường…

Đều nương quá khứ khởi.

Kệ 2:

Ta ở đời vị lai

Có mặt hay không có

Các kiến như hữu biên…

Đều nương vị lai khởi.

“Ở đời quá khứ, Ta có mặt hay không có mặt, vừa có vừa không có mặt, chẳng phải có mặt chẳng phải không có mặt”, đó là các tà kiến chấp thường v.v… do quán sát đời quá khứ mà khởi lên. “Ta có mặt hay chẳng có, vừa có vừa chẳng có, chẳng phải có chẳng phải không có trong đời vị lai” đó là các tà kiến chấp ta và thế giới hữu biên vô biên v.v… do quán sát đời vị lai mà khởi lên. Các tà kiến như vậy, vì nhân duyên gì mà gọi là tà kiến. Nay ta sẽ nói:

Kệ 3:

Đời quá khứ có ta

Việc ấy không có được

Ta trong đời quá khứ

Không là ta đời nầy.

Kệ 4:

Nếu ta là chính ta

Còn thân có tướng khác

Vậy nếu xa lìa thân

Chỗ nào riêng có ta.

Kệ 5:

Lìa thân không có ta

Việc ấy đã thành rồi

Nếu cho thân là ta

Thì hoàn toàn không ta

Kệ 6:

Nhưng thân chẳng là ta

Vì tướng thân sinh diệt

Vậy làm sao dùng thân

Chấp cho là ta được.

Kệ 7:

Nếu lìa thân có ta

Thì việc ấy không đúng

Không thân mà có ta

Thực tế không có được.

Kệ 8:

Hiện ta không lìa thân

Cũng không chính là thân

Mà cũng chính là thân

Đây là nghĩa quyết định.

Ta có mặt trong đời quá khứ, việc ấy không đúng. Vì sao? Vì ta trong đời trước chẳng làm ta trong đời nầy, vì (nếu ta đời trước chính là ta đời nay thì) có lỗi chấp thường. Nếu thường thì có vô lượng lỗi, ví như người nhờ tu phước nên được làm trời, sau lại làm người, nếu ta trong đời trước tức là ta trong đời nay, thì trời tức là người. Lại như người tạo tội bị kẻ Chiên-đà-la, sau lại làm người Bà-la-môn, nếu ta trong đời trước tức là ta trong đời nay, thì Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn. Thí như Bà-la-môn Đề đạt ở nước Xá vệ, đi đến thành Vương xá cũng gọi là Đề đạt, chứ không vì đi đến Vương xá mà khác đi. Nếu trước làm trời sau làm người, thì trời tức là người, Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn, như vậy không đúng. Vì sao? Vì trời không tức là người, Chiên-đà-la không tức là Bà-la-môn. Có các lỗi chấp thường như vậy.

Nếu bảo “Ta đời trước không làm ta đời nay, như người khi giặt áo gọi là người giặt áo, khi cắt cỏ gọi là người cắt cỏ, cũng như vậy khi ta mang thân trời thì gọi là trời, khi ta mang thân người thì gọi là người, ta trước sau không khác mà thân có khác” thì việc đó không đúng. Vì sao? Vì nếu trời tức là người thì không nên nói trời làm người. Như người giặt áo với người cắt cỏ là khác hay không khác. Nếu không khác, thì người giặt áo có thể tức là người cắt cỏ, như vậy trời tức là người, Chiên-đà-la tức là Bà-la-môn. Nói có ta, thì có lỗi chấp thường như vậy. Nếu khác, thì người giặt áo không làm người cắt cỏ, như vậy trời không làm người, vậy ta cũng vô thường. Vô thường là tướng vô ngã, thế nên không được nói “tức là”, (trời tức là người).

Hỏi: Ta tức là, chỉ nhân nơi chấp thọ nên phân biệt là trời là người. Chấp thọ là thân năm ấm. Do nhân duyên của nghiệp nên phân biệt thân năm ấm nầy là trời, năm ấm kia là người, là Chiên-đà-la, là Bà-lamôn, nhưng thật ra chẳng phải trời chẳng phải người, chẳng phải Chiênđà-la chẳng phải Bà-la-môn. Cho nên không có các lỗi vừa nói?

(Luận chủ) Đáp: Việc ấy không đúng. Vì sao? Vì nếu thân làm trời, làm người, làm Chiên-đà-la, làm Bà-la-môn chẳng phải ta thì lìa thân có cái ta riêng chăng? Hiện tại những việc tội phước sinh tử qua lại đều là thân chứ chẳng phải ta. Do tạo tội nên đọa ba đường ác, do tu phước nên sinh ba đường thiện. Hoặc việc thọ, khổ, vui, giận, mừng, lo, sợ v.v… đều là thân chứ không phải ta, thì dùng ta làm gì. Như trị tội người thế tục, thì không can dự người xuất gia. Do nhân duyên của năm ấm tương tục, nên tội phước không mất, nên mới có sự giải thoát, nếu việc ấy đều do thân, chứ không phải ta, thì dùng ta làm gì?

Hỏi: Tội phước v.v… đều nương nơi ta, vì “ta” có biết, còn thân không có biết, biết tức là ta. Do nhân duyên khởi nghiệp làm ra tội phước, nên biết phải có tác giả, tác giả đây là ta. Thân là để ta sử dụng, và làm chỗ ở, thí như ông chủ nhà, dùng cỏ cây, đất gỗ làm nhà là vì cái thân, nên tùy sự sử dụng của thân mà làm nhà tốt xấu. Ta cũng như vậy, theo nghiệp thiện ác mà mang cái thân tốt xấu. Sáu đường sinh tử đều do ta làm. Thế nên thân tội phước đều thuộc nơi ta, thí như cái nhà thuộc ông chủ, chứ không thuộc người khác.

(Luận chủ) Đáp: Thí dụ ấy không đúng. Vì sao? Vì ông chủ nhà có thân hình, có xúc chạm, có sức lực để giữ được cái nhà, còn cái ta của ông nói đó vô hình, không xúc chạm, không có sức tạo tác, tự không có sức làm, cũng không thể sai người khác làm. Nếu ở thế gian có một vật gì vô hình, không có xúc chạm mà có thể có tạo tác, thì tôi mới tin thọ lời ông, biết có tác giả, nhưng việc ấy không xảy ra. Nếu ta là tác giả, thì người ta không nên tự làm việc đưa khổ đến cho mình. Nếu ai suy nghĩ như vậy, thì có thể ham làm việc đưa vui đến cho mình, không lúc nào quên.

Nếu ta không tự làm khổ mà khổ cứ áp đến, cũng như các việc khác đều tự nó sinh ra chứ chẳng phải ta làm và nếu có cái thấy là ta, thì mắt thấy sắc, mắt ấy là ta. Nếu mắt thấy mà chẳng phải ta, thì trái với câu trước nói thấy là ta. Lại nếu thấy là ta, thì ta không thể còn nghe tiếng, ngửi mùi v.v… Vì sao? Vì như mắt là thấy, mà mắt không thể nghe tiếng ngửi mùi v.v… thế nên nói ta là thấy, đều không đúng.

Nếu bảo “người cắt cỏ dùng liềm cắt cỏ, ta cũng như vậy, dùng tay chân làm việc”, ví dụ ấy không đúng. Vì sao? Vì rời bỏ cái liềm còn có người cắt cỏ, chứ lìa thân tâm các căn, thì không có cái ta riêng.

Nếu bảo “tác giả tuy chẳng phải mắt tai làm được, cũng có tác giả”, thế thì đứa con của thạch nữ cũng có thể tạo tác. Như thế thì các căn đều là vô ngã.

Nếu bảo “mắt bên phải thấy vật, mắt bên trái biết, nên biết riêng có người thấy”, thì việc ấy cũng không đúng. Hiện tại tay bên phải tập luyện, tay bên trái không có khả năng. Thế nên không riêng có tác giả. Nếu riêng có tác giả, thì tuy tay bên phải tập luyện, tay bên trái cũng có khả năng, mà thật không có. Thế nên không có tác giả.

Lại nữa, người chấp có ta nói: “khi thấy người khác ăn quả chưa mà trong miệng mình nước miếng chảy ra, đó là tướng ta”. Nói vậy không đúng. Vì sao? Vì đó là năng lực của nhớ tưởng chứ không phải năng lực của ta. Lại đây cũng là nhân duyên phá ta, như người ở giữa chúng, rất hổ thẹn vì nước miếng chảy ra, thế mà nó cứ chảy, không được tự do, vậy nên biết là không có ta.

Lại nữa, nếu có tội điên đảo thì đời trước là cha, đời nay làm con, giữa cha con chỉ thân có khác nhau mà ta là một, như từ nhà nầy đi đến nhà khác, cha vẫn là cha, chứ không vì đi đến nhà khác mà cha khác đi. Nếu có ta thì cha và con là một, như vậy có lỗi lớn.

Nếu nói: “Không có ta trong năm ấm tương tục, cũng có lỗi” thì việc đó không đúng. Vì sao? Vì năm ấm tuy tương tục hoặc có khi hữu dụng, hoặc có khi vô dụng, như nước nho, đối với người xuất gia giữ giới thì được phép uống (hữu dụng) mà rượu nho thì không được phép uống (vô dụng) nếu biến rượu nho thành rượu đắng trị bệnh, thì lại được phép uống (hữu dụng). Năm ấm tương tục cũng như vậy, hoặc hữu dụng hoặc vô dụng. Như thế nếu thỉ chung có một ta, thì có lỗi như vậy, còn năm ấm tương tục thì không có lỗi ấy. Nhưng năm ấm hòa hợp giả gọi là ta, không có tánh nhất định, như kèo cột hòa hợp mà có nhà, lìa kèo cột không riêng có nhà. Như vậy năm ấm hòa hợp nên có ta, nếu lìa năm ấm thì thật không riêng có ta. Thế nên ta chỉ là một tên giả, không thật có.

Trước ông (chỉ người ngoài) nói, lìa năm ấm chấp thọ riêng có ta chấp thọ, lấy chấp thọ năm ấm để phân biệt người chấp thọ là trời là người. Nói thể không đúng. Nên biết chỉ có pháp chấp thọ, không riêng có người chấp thọ. Nếu nói lìa pháp chấp thọ mà riêng có ta, là không đúng. Vì nếu lìa pháp chấp thọ mà riêng có ta, thì làm sao chỉ ra tướng ta ấy. Nếu không có tướng có thể chỉ, thì pháp chấp thọ không có ta.

Nếu nói lìa ngoài thân năm ấm thì không có ta, mà chính thân ấy là ta, thì cũng không đúng. Vì sao? Vì thân năm ấm có tướng sinh diệt, còn ta thì không có tướng sinh diệt. Lại nữa, làm sao cho pháp chấp thọ tức là người chấp thọ.

Nếu nói: “Lìa pháp chấp thọ, có người chấp thọ” thì cũng không đúng. Vì nếu không chấp thọ năm ấm mà có người chấp thọ, thì có thể lìa năm ấm có người chấp thọ nhãn căn v.v…, nhưng thực tế không thể có được. Thế nên ta không lìa pháp chấp thọ, cũng không tức là chấp thọ, cũng chẳng phải không chấp thọ, cũng chẳng phải không có ta (ta giả danh). Đây là định nghĩa. Vì thế nên biết ta có mặt trong đời quá khứ, là không đúng. Vì sao?

Kệ 9:

Ta quá khứ không là

Ta hiện tại, không đúng

Ta trong đời quá khứ

Khác nay cũng không đúng.

Kệ 10:

Nếu cho là có khác

Thì lìa kia có đây

Ta cứ ở quá khứ

Còn ta nay tự sinh.

Kệ 11:

Như vậy là đoạn diệt

Mất quả báo của nghiệp

Kia làm mà đây chịu

Có những lỗi như thế.

Kệ 12:

Trước không mà nay có

Việc đó cũng có lỗi

Vì ta bị tạo tác

Và cũng là không nhân.

“Ta trong đời quá khứ không làm ta trong đời nay” nói vậy không đúng. Vì sao? Vì ta trong đời quá khứ với ta trong đời nầy chẳng khác nhau. Nếu ta đời nay khác với ta đời quá khứ, có thể lìa ta quá khứ kia mà có ta đời nay nầy, và ta đời quá khứ kia cũng có thể vẫn ở tại quá khứ, còn thân nầy tự tiếp tục sinh lại. Nếu như vậy, nên bị rơi vào đoạn diệt, mất hết nghiệp nhân quả báo. Lại người kia tạo tội mà người nầy chịu quả báo. (Nói ta đời nay khác ta đời trước) có nhiều lỗi lầm như vậy.

Lại nếu nói cái ta ấy có thể trước không có mà nay có, cũng có lỗi, vì cái ta ấy là pháp bị tạo tác, cũng là không có nhân duyên mà sinh.

Thế nên nói “Ta đời quá khứ không làm ta đời nay”, cũng không đúng.

Lại nữa,

Kệ 13:

Như trong đời quá khứ

Kiến chấp ta, không ta

Vừa có ta, vừa không

Việc ấy đều không đúng.

Như vậy suy tìm các tà kiến chấp có ta, không ta, cũng có cũng không có ta, chẳng phải có chẳng phải không có ta trong đời quá khứ. Những tà kiến như vậy, vì trước nói lỗi nhân duyên, nên đều không đúng.

Kệ 14:

Ta trong đời vị lai

Có hay là không có

Các kiến chấp như thế

Giống như đời quá khứ.

Ta trong đời vị lai có hay là không có. Bốn câu chấp ta trong đời vị lai đều có lỗi, giống như bốn câu chấp ta trong đời quá khứ, nên hiểu theo trong đó.

Lại nữa,

Kệ 15:

Nếu trời tức là người

Thì rơi vào thường kiến

Vậy thì trời không sinh

Vì pháp thường chẳng sinh.

Nếu trời tức là người, thế là thường, nếu trời không sinh trong loài người, thì sao gọi là người. Cái gì thường thì không sinh, thế nên nói thường, không đúng.

Lại nữa,

Kệ 16:

Nếu trời khác với người

Như vậy là vô thường

Nếu trời khác với người

Tức là không tương tục.

Nếu trời khác với người, thế là vô thường. Vô thường thì có lỗi đoạn diệt, như trước đã nói qua, nếu trời khác với người, thì không có tánh tương tục, nếu có tánh tương tục, thì không thể nói trời khác người.

Lại nữa,

Kệ 17:

Nếu nửa trời, nửa người

Thì rơi vào hai bên

Thường hay là vô thường

Việc ấy cũng không đúng.

Nếu chúng sinh một nửa thân là trời, một nửa thân là người, thì có cả thường, vô thường. Nửa trời là thường, nửa người là vô thường. Nhưng việc ấy không đúng, vì có lỗi là một thân mà có hai tướng (thường, vô thường).

Lại nữa,

Kệ 18:

Nếu thường và vô thường

Mà cả hai đều thành

Thì như vậy nên thành

Chẳng phải thường, vô thường.

Nếu thường và vô thường cả hai đều thành, vậy sau mới thành chẳng phải thường chẳng phải vô thường, vì trái với thường và vô thường. Nhưng kỳ thật thường và vô thường không thành, nên chẳng phải thường chẳng phải vô thường cũng không thành. Lại nữa, nói hiện nay sinh tử vô thỉ (không có bắt đầu) cũng không đúng. Vì sao?

Kệ 19:

Nếu pháp quyết có đến

Và nhất định có đi

Thì sinh tử vô thỉ

Nhưng quả thật không có.

Nếu pháp quyết định có chỗ từ kia lại đây, và có chỗ từ đây đi đến kia thì sinh tử là vô thỉ. Nhưng lấy trí tuệ suy tìm không thấy pháp có chỗ từ kia lại đây và có chỗ từ đây đi đến kia, thế nên nói sinh tử vô thỉ, cũng không đúng. Lại nữa, Kệ 20:

Nay nếu không có thường

Thì sao có vô thường

Cũng thường cũng vô thường

Chẳng phải thường, vô thường.

Nếu như vậy, do trí tuệ suy tìm, thì không thấy có pháp gì thường, vậy làm sao có pháp vô thường, vì nhân thường mà có vô thường. Nếu thường và vô thường đều không có, thì làm sao có cũng thường cũng vô thường. Nếu không có cũng thường cũng vô thường thì làm sao có chẳng phải thường chẳng phải vô thường, vì nhân nơi cũng thường cũng vô thường, nên mới có chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Thế nên quán sát đời quá khứ khởi lên bốn câu chấp thường, vô thường v.v… là không đúng.

Nhìn về đời vị lai khởi tà kiến chấp bốn câu ta và thế giới hữu biên, vô biên v.v… Việc ấy cũng không được bây giờ đây sẽ nói. Vì sao?

Kệ 21:

Nếu thế gian hữu biên

Làm sao có đời sau

Nếu thế gian vô biên

Làm sao có đời sau.

Nếu thế gian hữu biên thì không thể có đời sau, song kỳ thật có đời sau. Thế nên nói thế gian hữu biên là không đúng. Nếu thế gian vô biên thì cũng không thể có đời sau, song kỳ thật có đời sau. Thế nên nói thế gian vô biên cũng không đúng.

Lại nữa, cả hữu biên, vô biên đều không thể có được. Vì sao?

Kệ 22:

Năm ấm thường tương tục

Cũng giống như ngọn đèn

Vì vậy nên thế gian

Không hữu biên, vô biên.

Từ năm ấm lại sinh năm ấm, năm ấm thứ lớp tương tục, như từ các duyên hòa hợp có ngọn đèn, nếu các duyên hết thì đèn cũng tắt. Nếu các duyên không hết thì đèn không tắt. Nếu duyên hết thì đèn tắt. Vì vậy không thể nói thế gian hữu biên, vô biên.

Lại nữa, Kệ 23:

Nếu năm ấm trước hoại

Không nhân năm ấm đó

Mà sinh năm ấm sau

Thì thế gian hữu biên.

Kệ 24:

Nếu ấm trước không hoại

Cũng không nhân ấm ấy

Mà sinh năm ấm sau

Thì thế gian vô biên.

Nếu thân năm ấm trước hoại, không nhân nơi năm ấm ấy mà sinh ra thân năm ấm sau, như vậy nên thế gian là hữu biên, nếu thân năm ấm trước hoại rồi, không còn sinh tiếp thân năm ấm khác, ấy gọi là biên. “Biên” là chỉ cho thân cuối cùng. Nếu thân năm ấm trước không hoại, và không nhân nơi thân ấm uẩn ấy sinh ra thân năm ấm sau, nên thế gian là vô biên, vô biên tức là thường, song sự thật không phải như vậy. Thế nên nói thế gian vô biên cũng không đúng.

Thế gian có hai thứ, Quốc độ thế gian và Chúng sinh thế gian. Ở đây nói về Chúng sinh thế gian.

Lại nữa, như trong Tứ Bách Quán nói (theo trong Phó pháp Tạng kinh nói Bồ-tát Đề-bà có tạo Tứ Bách Luận):

Kệ 25:

Chân pháp và người nói

Người nghe khó gặp được

Như vậy, là sinh tử

Phi hữu biên vô biên.

Vì không ngộ được chân pháp nên sinh tử qua lại không có biên giới. Nếu ai được nghe chân pháp được đạo thì không thể nói họ là vô biên. Nay sẽ tiếp phá cũng hữu biên cũng vô biên.

Kệ 26:

Thế gian nửa hữu biên

Thế gian nửa vô biên

Thì cũng là hữu biên

Cũng vô biên, không đúng.

Nếu thế gian một nửa hữu biên, một nửa vô biên, thì có thể cũng hữu biên cũng vô biên. Nếu như vậy ngay một pháp mà có hai tướng (có và không). Nói vậy không đúng. Vì sao?

Kệ 27:

Người thọ năm ấm kia

Tại sao phá một phần

Một phần lại không phá

Việc ấy cũng không đúng.

Kệ 28:

Pháp chấp thọ cũng vậy

Tại sao phá một phần

Còn một phần không phá

Việc nầy cũng không đúng.

Đối với người chấp thọ năm ấm, tại sao một phần phá (vì vô thường), một phần không phá (vì thường), như vậy không đúng. Nói cũng thường cũng vô thường cũng không đúng. Đối với năm ấm chấp thọ cũng như vậy, tại sao một phần phá một phần không phá. Vì một pháp mà có cả hai tướng thường và vô thường đều có lỗi, thế nên nói thế gian cũng hữu biên cũng vô biên, cũng có lỗi.

Nay sẽ phá chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên.

Kệ 29:

Vừa hữu biên, vô biên

Cả hai đều thành lập

Phi hữu, phi vô biên

Cũng có thể thành lập.

Trái với hữu biên nên có vô biên, như trái với dài nên có ngắn. Trái với có và không nên mới có cũng có cũng không, trái với cũng có cũng không, nên mới có chẳng phải có chẳng phải không. Nếu cũng hữu biên cũng vô biên quyết định lập thành được, thì mới có chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên. Vì sao? Vì nhân đối đãi nhau mà có. Trên đã phá câu thứ ba là cũng hữu biên cũng vô biên rồi, nay làm sao có câu thứ tư là chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên, vì không có sự đối đãi nhau.

Lại nữa,

Kệ 30:

Tất cả pháp rỗng lặng

Vậy chỗ nào, lúc nào

Và ai khởi kiến chấp

Thế gian thường vân vân.

Trên đã nghe nói pháp Thanh-văn phá các tà kiến, còn nay trong pháp Đại thừa thì nói các pháp từ trước lại đây rốt ráo tánh không, ở trong tánh không như vậy, không có người, không có pháp, không thể sinh ra tà kiến, chánh kiến. Nơi chốn là đất đai, thời gian là ngày tháng, năm số. Còn ai là người, làm căn thể của các kiến chấp. Nếu nhất định có tà kiến chấp thường vô thường v.v… phải có người xuất sinh ra tà kiến ấy. Nay phá ngã nên không có người, và sinh ra tà kiến phải có nơi chốn, nhưng sắc pháp là thứ hiện thấy được còn bị phá, huống gì thời gian, phương hướng. Nếu có các tà kiến thì phải có thật thể nhất định, nếu có thật thể nhất định không thể phá. Nhưng từ trước lại đây, đã nêu đủ lý do phá kiến chấp, thế nên biết các kiến chấp không có tự thể nhất định, thì làm sao sinh ra, như kệ nói: Nơi nào, lúc nào, ai khởi lên chấp kiến.

Kệ 31:

Cù-đàm bậc Đại Thánh

Từ bi nói pháp ấy

Dứt trừ hết kiến chấp

Con nay cúi đầu lạy.

Tất cả kiến chấp tóm lược có năm kiến (là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến), nói rộng có sáu mươi hai kiến. Vì để phá các tà kiến ấy nên Phật thuyết pháp. Đấng Thánh chủ Cùđàm là bậc trí tuệ vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Thế nên con cúi đầu đảnh lễ.

Pages: 1 2 3 4