Triết Lý Và Thực Tiễn Của Pháp Môn Tịnh Độ

Châu Thế Long

A-. Triết lý

   1-. Pháp môn Tịnh độ là pháp môn duyên khởi, tức Như Lai tánh khởi pháp môn

Như Lai đã chứng quả Phật thanh tịnh, vô minh triệt đoạn, vĩnh viễn xa lìa sinh tử, chánh nhân Phật tánh hiển lộ, tịch quang chân cảnh hiện tiền. Thường an trụ trong Thường Tịch Quang, thọ nhận an lạc thanh tịnh. Tuy nhiên, vì đại sự nhân duyên lớn mà Phật xuất hiện ở đời, thực hiện hạnh nguyện hiển đại bi tâm. Phật A-di-đà lúc còn tu Bồ-tát hạnh, pháp danh là Pháp Tạng Tỷ-kheo, đứng trước Phật Thế Tự Tại Vương phát ra bốn mươi tám lời nguyện, cứu độ chúng sinh. Trải qua vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp tu hành, thực hiện thế giới Tịnh độ, để thực hiện bốn tám lời nguyện, mở bày Nhị thân, lấy danh hiệu A-di-đà làm con thuyền Bát-nhã, rộng độ mười phương chúng sinh được sinh về Tịnh độ. Nhân vì Phật với chúng sinh trong thế giới Ta-bà có nhiều nhân duyên, nên lấy pháp môn Tịnh độ mà dạy cho người được vãng sinh. Cũng chính vì nhân duyên đó mà Như Lai xuất hiện ở đời làm việc rộng độ chúng sinh. Cho nên, luận về nguyên lý căn bản, nên mới có tên gọi là pháp môn tánh khởi, hoặc có tên khác là Pháp giới duyên khởi (Như Lai tánh tức là chỉ cho Pháp giới tánh, Như Lai tánh khởi tức là chỉ cho Pháp giới duyên khởi. Trên mặt văn tự nghe như khác nhau, nhưng ý nghĩa chỉ có một). Pháp môn tánh khởi, hoặc pháp môn Pháp giới duyên khởi, đều có nghĩa chỉ cho sự cứu cánh. Song, để trình bày ý nghĩa thâm sâu đó cho một hành giả hiểu được thật khó biết dường nào. Ấn Quang đại sư còn gọi với cái tên khác là pháp môn đặc biệt. Pháp môn đặc biệt chỉ có bốn chữ, mà ý nghĩa thật phi thường. Di-đà Như Lai, lấy từ bi nguyện lực trực tiếp hiển hiện Nhị báo trang nghiêm, đích thân làm việc độ chúng sinh, sao dám xem là việc nhỏ được! Công việc đó tuyệt đối không có một công việc gì cao cả bằng. Cho nên, có tên gọi pháp môn đặc biệt là hoàn toàn xứng đáng. Trong Văn Sao Tịnh Độ, Đại sư Ấn Quang từng nói: “Nên biết pháp môn Tịnh độ, đầy đủ bốn Pháp giới, có sự tướng, sự sự Pháp giới vô ngại… cho nên mới gọi là yếu chỉ Tịnh độ. Sự tức là Lý, Lý tức là Sự, Lý Sự viên dung, khế hợp bản thể”. Bấy nhiêu lời vắn tắt đó của Đại sư cũng đủ chứng minh pháp môn Tịnh độ là Pháp giới duyên khởi, cũng là pháp môn Như Lai khởi tánh. Vô ngại tức là chỉ cho sự thông đạt tự tại, dung hợp với bản thể. Như tại thế giới Cực Lạc, có chim nói pháp, có cây bảy báu phát ra pháp âm vi diệu, người nghe liền niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Đó là do sự vô ngại dung hợp với lý vô ngại. Các giống chim ấy đều do A-di-đà Phật muốn cho pháp âm được lưu chuyển mà hóa hiện ra những cảnh như vậy. Đó là Lý vô ngại dung hợp với Sự vô ngại.

Lại nữa, ví như trong thế giới Cực Lạc, có ao Thất bảo, có nước tám công đức. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe, đầy đủ các màu sắc, xanh, vàng, đỏ, trắng, hương thơm thanh khiết.

Lại nữa, nước đó lại có thiên nhạc, đất bằng vàng rồng, ngày đêm sáu thời, hoa Mạn-đà trên trời rơi xuống. Chúng sinh trong nước đó sáng sớm ra hứng đem đi cúng dường mười phương chư Phật, trưa lại trở về quốc độ dùng cơm, rồi đi kinh hành, đó đều chỉ cho sự vô ngại.

Lại nữa, Đại sư Thần Thời có nói rằng: “Pháp môn Tịnh độ là Pháp giới duyên khởi”, điều đó chứng tỏ pháp môn Tịnh độ, lý nghĩa thật thâm sâu biết dường nào (tham khảo Tịnh Độ Thập Yếu, Đại sư Ngẫu Ích tuyển định). Vậy mà Mâu Thị Tam lại dám phê bình tánh khởi của kinh Hoa Nghiêm và bốn trí vô ngại là hư vọng, chẳng qua là giả lập mà có. Thật không ngờ ông ta lại cho rằng lý trung tánh là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Như Lai tánh bao hàm vạn pháp, vạn lý, trong Pháp giới tất cả các thiện đức, tự nó cũng có hàm chứa Phật tánh mà vô ngại. Mâu cho rằng lý tánh là nhân, Trịnh Minh Đạo lại cho rằng nhân là đồng thể của đức, họ tranh luận với nhau bất phân thắng bại, ai cũng bảo thủ ý kiến của mình. Thật ra, tất cả sự tranh luận đó bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa, do Lý không thông nên dẫn đến Sự có chướng ngại, chỉ chấp trước vào Lý mà bỏ Sự. Mười phương ba đời chư Phật, thể cũng như đạo đều giống nhau, thuyết pháp độ sinh cuối cùng đều quy về Bồ-tát đạo, đó là duyên vô ngại. Chúng ta nói Tây Phương Cực Lạc Tịnh độ. Mâu lại cho rằng thế giới Cực Lạc là thế giới của các vị thần, trong tâm lại không tin có thế giới Cực Lạc. Thật ra, thế giới chúng ta hiện đang sống, theo kinh gọi là thế giới Ta-bà. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, đoạn Phật thọ ký cho Phú-lâu-na, có nói: “Nay ở đây quốc độ này (tức là thế giới Ta-bà), được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (tức là chỉ cho quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Phật đó lấy số thế giới Tam thiên đại thiên nhiều như số cát sông Hằng mà làm thành một cõi Phật). Đất làm bằng bảy thứ báu, thẳng bằng như bàn tay… Lầu đài bằng bảy thứ báu, đầy dẫy trong đó. Cung điện của các vị trời ở gần trên hư không, người cùng trời giao tiếp với nhau (cụ thể là chỉ cho sự hòa hợp giữa trời và người). Trong đó không có các đường dữ (tức là chỉ cho bốn đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la). Tất cả đều do hóa sinh, không có dâm dục… Nhân dân nước đó thường dùng hai thức ăn: một là Pháp hỷ thực, hai là Thiền duyệt thực. Có vô lượng vô số nghìn muôn ức Na-do-tha các chúng Bồ-tát đặng sức thần thông lớn, bốn trí vô ngại, khéo hay giáo hóa các loài chúng sinh… Kiếp tên là Bửu Minh, nước tên là Thiện Tịnh”. Điều đó, có thể chứng minh cho thế giới Cực Lạc. Thế giới Ta-bà vốn đầy dẫy tội lỗi, thế nhưng đến khi Phú-lâu-na thành Phật thì cũng tại thế giới này lại được thực hiện thành một thế giới lý tưởng không có bốn đường ác. Tại thế giới Cực Lạc, Lý cũng như Sự vô ngại. Vô ngại tức là không có sự mâu thuẫn, ngược lại nếu có mâu thuẫn thì không được gọi là vô ngại. Đức Phật là người chứng ngộ vạn pháp trong vũ trụ nhân sinh. Những lời Ngài nói ra đều là những sự thật, điều đó đã được Ngài thốt lên ngay sau khi thành đạo. Lạ thay, tất cả các chúng sinh vốn có Phật tánh như nhau nhưng vì vô minh che lấp nên không thể nhận ra được. Những gì Ngài chứng ngộ đều có sẵn trong vũ trụ nhân sinh, cũng như những phát minh của các nhà khoa học về các hiện tượng vật lý vốn đã có sẵn trong cuộc sống, chớ không phải họ tự sáng chế ra mà họ chỉ căn cứ vào các thí nghiệm để rồi cuối cùng đưa ra kết luận về những phát minh đó. Sự chứng đạo của đức Phật cũng như thế. Ngài chỉ nói ra những hiện thực của vũ trụ. Nếu lấy cái nhìn thiển cận, với một trí óc đầy tham sân như chúng ta để đánh giá lời dạy chư Phật, nếu phê bình sai chắc chắn sẽ mang tội lớn. Vì lời dạy của đức Phật vốn được chư Thiên cũng như Hộ pháp ủng hộ. Đức Phật A-di-đà phát bốn mươi tám lời nguyện độ chúng sinh trong mười phương, quang minh của Ngài vô lượng vô biên chiếu khắp mười phương, không có một chướng ngại. Mười phương hằng hà sa số các chư Phật đều tán thán công đức không thể nghĩ bàn của Phật A-di-đà. Tinh thần Pháp giới duyên khởi của Phật A-di-đà cũng không có một chướng ngại, vốn hòa hợp với lý tưởng mười phương thế giới.

   2-. Tâm làm Phật thì tâm là Phật

Lý tưởng văn hóa mười phương thế giới, sở dĩ hòa hợp vì giữa tâm Phật và tâm Phật có sự tương tức tương nhập với nhau, hiển phát bốn trí vô ngại. Tâm vốn là nguồn gốc của vạn pháp trong thế giới, cũng là nguồn gốc của nền văn hóa tinh hoa của nhân loại. Bản tâm của chúng sinh cùng với bản tâm của chư Phật vốn đồng thể vô ngại. Song, chúng sinh vì hiện tiền bị nghiệp thức làm chướng ngại, nên sự hiểu biết có chướng ngại, bị cục bộ trong phạm vi nhỏ bé. Chư Phật Thế Tôn là những người đã đạt được sự hiểu biết cùng khắp không thể đo lường. Chư Phật là “người biết đạo, khai đạo và dạy đạo” (kinh Pháp Hoa, quyển thứ ba, phẩm Dược Thảo Dụ). Nhưng vì mục đích xuất hiện ở đời là vì muốn rộng độ tất cả chúng sinh. Chúng sinh chỉ cần thực hành lời Phật dạy, nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền và tương lai nhất định được thấy Phật. Đức Thế Tôn còn dạy: “Các đức Phật Như Lai chính là Pháp giới thân, in sâu vào tâm tưởng của hết thảy chúng sinh. Vì vậy, trong khi tâm các người tưởng Phật, thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp theo thân hình đức Phật. Tâm đó làm Phật, cũng tức tâm đó là Phật. Sự hiểu biết chân chính cùng khắp không thể đo lường của chư Phật, đều từ nơi tâm tưởng mà sinh ra. Vì thế, các người phải chăm lòng buộc niệm lại” (kinh Quán Vô Lượng Thọ). Tổ thứ mười hai Liên tông, Triệt Ngộ đại sư, có nói: “Tâm làm Phật thì tâm là Phật, so với việc trực chỉ bản tâm, kiến tánh thành Phật của Thiền tông hoàn toàn khác nhau”. Vì sao? Vì việc kiến tánh thì khó, thế nhưng tâm làm Phật thì tâm là Phật thì lại dễ! Thế nào gọi là kiến tánh? Kiến tánh là ly khai ý thức của tâm, vọng tưởng điên đảo nghĩ suy theo trần cảnh. Người muốn dừng những phân biệt của tâm, muốn tâm không khởi niệm khi đối duyên xúc cảnh, chuyện đó đâu có dễ làm, vì những tập khí chúng sinh trong chúng ta đã tích chứa nhiều đời nhiều kiếp không thể tính kể. Nếu đối duyên xúc cảnh mà không khởi niệm, giữ cho tâm được sáng suốt đâu có dễ làm. Kiến tánh là xa lìa ý thức của tâm, trí tuệ quang minh phải hiển lộ thì mới được gọi là kiến tánh. Như thế nào tâm làm Phật thì tâm là Phật? Là tâm trì niệm danh hiệu Phật, quán y chính trang nghiêm của Phật, tức là tâm làm Phật, điều này dễ. Kinh còn nói: “Khi tâm các người tưởng Phật, thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, há chẳng phải tâm tưởng Phật thì tâm là Phật hay sao! Cho nên, người niệm Phật thì nhất định thấy Phật”.

Trong kinh Lăng-nghiêm, chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông, Bồ-tát Đại Thế Chí có nói: “Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn tránh, dù mẹ có nhớ cũng chẳng có lợi ích gì; nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, thì mẹ con đời đời không xa cách nhau. Nếu chúng sinh đem tâm nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại hay tương lai chắc chắn thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng cần tu thêm bất kỳ một phương tiện nào khác mà tự nhiên tâm được khai ngộ… Gốc tu hành, nhân địa của con là ngộ được Vô sinh pháp nhẫn. Nay, con nguyện ở thế giới này để nhiếp hóa mọi người vãng sinh Tịnh độ. Nay Phật hỏi viên thông, con vốn không lựa chọn, chuyên thâu nhiếp sáu căn, khiến cho Tịnh niệm nối liền liên tục, được vào Tam-ma-địa (Tam-muội) đó là thứ nhất”.

Căn cứ vào những lời kinh điển trên, chúng ta có thể rút ra ba điểm:

* Một là niệm danh hiệu A-di-đà và quán y chính trang nghiêm của Phật thì tâm là Phật. Trong thời khóa tụng niệm mỗi ngày hay dù làm tất cả công việc gì, nếu tâm chúng ta nghĩ Phật, niệm Phật thì tâm là Phật. Do tâm chuyên chú vào danh hiệu Phật nên tâm bị tác động bởi công đức rộng lớn không thể nghĩ bàn của Phật. Những trần cấu vọng tưởng sẽ không có cơ hội nuôi dưỡng, dần dần chân tâm sẽ hiển lộ. Nếu tâm cứ vọng tưởng theo trần cảnh thì chân tâm khó mà hiển lộ.

* Hai, nếu tâm từ sáng đến chiều đều nhớ Phật niệm Phật, thì không cần tu thêm một pháp môn nào cả, mà tâm tự nhiên được khai ngộ, tâm được khai ngộ đó là minh tâm kiến tánh.

* Ba, điều nhiếp Lục căn, Tịnh niệm liên tục, đắc Tam-ma-địa, nhiếp tâm niệm Phật. Ấn Quang đại sư có nói: “Niệm Phật cần nên nhiếp tâm, vọng niệm từ tâm mà khởi, âm thanh từ miệng mà lưu xuất. Do đó, niệm Phật cần phải niệm từng câu từng chữ rõ ràng, tai nghe rõ ràng. Câu niệm Phật từ trong tâm mà lưu xuất, một khi Nhĩ căn được nhiếp phục, thì các căn còn lại không thể hướng ngoại, nhanh chóng đưa đến nhất tâm bất loạn, điều mà Bồ-tát Đại Thế Chí gọi là điều nhiếp Lục căn, Tịnh niệm tương tục, được Tam-ma-địa, đó là đệ nhất, tức là điều đó vậy” (xem Văn Sao Tịnh Độ quyển 1).

Việc niệm Phật, điều quan trọng là phải từ tâm phát khởi, từ miệng mà lưu xuất. Miệng niệm từng câu từng chữ rõ ràng, tai nghe từng câu từng chữ rõ ràng. Việc này ban đầu tuy khó, cần phải dụng công lâu ngày mới có được kết quả. Một khi Nhĩ căn có sự tập trung vào danh hiệu, thì vọng niệm không thể xen tạp vào được. Đôi tai chúng ta có tác dụng đón nhận và phân tích âm thanh từ bên ngoài. Nếu một khi tai chuyên chú vào danh hiệu, tâm không phân tán, mà tâm cũng nghe từng câu từng chữ rõ ràng,; tâm, miệng, tai phối hợp cùng niệm, thì việc nhất tâm thật không khó khăn gì.

   3-. Một niệm hiện tại là nhân của việc thăng trầm trong vui khổ                 

Tâm đầy đủ của linh tri, niệm là hoạt động của linh tri. Là người tu học Phật pháp, điều căn bản là phải nắm bắt được những hoạt động của linh tri. Triệt Ngộ đại sư có nói: “Phàm phu hầu hết đều có niệm. Tâm thể không có niệm chỉ có Phật là người duy nhất chứng được. Từ hàng Đẳng Giác trở xuống đều có niệm. Phàm phu chúng ta khi khởi một niệm đều nằm trong phạm vi của Thập pháp giới, không có niệm nào thoát khỏi phạm vi Thập pháp giới. Mỗi một niệm khởi làm duyên cho việc thọ sinh”. Nếu đã biết được lý như vậy mà không khởi niệm Phật thì người đó chưa được gọi là người hiểu đạo. Nếu tâm chúng ta khởi đại từ, đại bi, công đức y chính trang nghiêm, đồng thời tâm cùng tương ưng với vạn đức hồng danh, tức là niệm Pháp giới Phật. Tâm tương ưng với Lục độ Vạn hạnh của Bồ-tát tức là niệm Pháp giới Bồ-tát. Tâm tương ưng với Thập nhị nhân duyên là niệm Pháp giới Duyên giác. Lấy tâm vô ngã và quán sát Tứ đế đó là niệm Pháp giới của Thanh văn. Hoặc cùng tương ưng với Tứ thiền Bát định, cho đến Thượng phẩm Thập thiện là niệm Pháp giới cõi Trời. Nếu tâm tương ưng với Ngũ giới thì đó là niệm Pháp giới cõi người. Nếu tu tập các thiện pháp, tâm hay ôm lòng sân hận, cống cao, hơn thua đó là đã rơi vào Pháp giới A-tu-la. Tâm nghĩ Hạ phẩm Thập ác, tức là đọa vào Pháp giới súc sinh. Hoặc tâm hay ôm lòng keo kiệt bỏn sẻn, tương ưng với Trung phẩm Thập ác, tức là rơi vào Pháp giới ngạ quỷ. Nếu tâm tương ưng với Thượng phẩm Thập ác, tức là đọa vào Pháp giới địa ngục. Thập ác gồm có: sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lời thêu dệt, nói lời thô ác, nói lưỡi đôi chiều, tham lam, sân hận, si mê. Ngược lại, là Thập thiện. Biết được như vậy rồi, trong đời sống thường ngày, chúng ta phải luôn xem xét, kiểm điểm xem tâm chúng ta rơi vào Pháp giới nào, có như vậy mọi người mới không để cho tâm khởi lên những niệm ác, gây hại cho người và mình. Nếu ta để cho tâm suy nghĩ thường xuyên các niệm xấu, chắc chắn hiện tiền cũng như trong tương lai khó mà tránh được những nghiệp xấu.

Một Sát-na chỉ xảy ra trong nháy mắt. Tham Huyền Ký, quyển thứ 3 có nói: “Trong một nháy mắt có đến sáu mươi Sát-na”. Như vậy, trong một nháy mắt thôi, tâm của chúng ta đã có thể khởi ra sáu mươi niệm. Kinh Đại Bát-nhã có chép: “Người sống trên thế gian này, trong một ngày một đêm đã có thể khởi lên tám nghìn bốn mươi vạn niệm”. Điều đó cho thấy, vọng niệm trong tâm chúng ta khởi lên liên tục không bao giờ dừng nghỉ. Vì vậy, không cho niệm khởi là điều quan trọng. Không cần phải bàn nhiều, phương pháp đối trị vọng niệm không gì khác hơn là dùng chánh niệm để đối trị lại vọng niệm. Niệm Phật là phương pháp giúp chúng ta giữ được chánh niệm hơn hết. Trong Luận Đại thừa có nói: “Nhớ Phật niệm Phật, là con đường tắt đạt đạo nhanh nhất”. Đại sư Ấn Quang cũng có nói: “Pháp niệm Phật là bối trần hợp giác, là diệu pháp đệ nhất phản bản quy nguyên” (Văn Sao Tịnh Độ). Người niệm Phật đến phút lâm chung, nếu tâm giữ được chánh niệm phân minh thì quyết định được vãng sinh không nghi ngại. Chánh niệm ở đây tức là chỉ cho tâm nhớ Phật, niệm Phật. Tâm không rời danh hiệu, thì tâm không có một mảy may tâm niệm tham ái, sân hận. Lâm chung chánh niệm phân minh, trong khoảng Sát-na được Phật tiếp dẫn vãng sinh Tịnh độ. Người muốn được như vậy, không gì khác hơn là trong đời sống hằng ngày, phải giữ cho tâm chánh niệm niệm Phật, tạo thành thói quen, không được lơ là chểnh mảng.

   4-. Người niệm Phật tâm lực cần phải chuyên nhất  

Tâm lực, vốn là nguồn sức mạnh không thể nghĩ bàn. Tiếc thay, nhân loại không biết dựa vào đó mà tinh tấn tu hành, phát huy diệu dụng của tâm. Trong Pháp giới, vật lực đã rất lớn, mà tâm lực lại càng lớn hơn.

Sau đây là biểu đồ:

* Vật lực xuất phát từ tâm: Tâm lực là tánh rộng lớn của vạn pháp vạn vật. Tâm lực là nguồn gốc phát sinh tất cả vật lực.

* Vật lý hiện đại đã phát hiện ba nguyên lý về vật chất:

  1. Vật chất hằng biến đổi
  2. Không cố định
  3. Vật chất có sóng âm

Chánh tri kiến của Phật: sắc (vật chất) tức là không, không tức là sắc.

Nhìn chung, hiện nay tất cả nhân loại đều sợ hãi về sức mạnh công phá vĩ đại của nguyên tử. Thật ra, nguồn nguyên tử đó cũng từ tâm lực mà phát sinh. Tâm lực chính là năng lực, sức mạnh nguyên tử cũng từ tâm lực mà có. Chúng ta chỉ cần y theo Phật pháp chí thành tu hành đến ngày thành Phật, thì thần lực của tâm có thể đạt đến cảnh giới tối cao không thể nghĩ bàn. Lúc đó, tha hồ mà biến đổi Tam thiên đại thiên thế giới.

Kinh Pháp Hoa, quyển thứ tư, phẩm Hiện Bảo Tháp lại có chép rằng: “Đức Phật Đa Bảo đã diệt độ, toàn thân ở trong tháp, bản nguyện đã viên mãn liền vọt lên khen ngợi kinh Pháp Hoa”. Đức Phật Thích-ca bảo rằng: “Phật Đa Bảo có thệ nguyện rộng lớn, đức Phật nào muốn đem thân ta mà chỉ bày cho bốn chúng, thời các vị Phật của nước đó phân thân ra nói pháp ở các nước trong mười phương đều phải nhóm họp ở một chỗ”. Bấy giờ, đức Phật Thích-ca, từ lông trắng giữa chặng mày, phóng ra một luồng hào quang, rộng chiếu khắp sáu phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới. Lúc đó, các đức Phật phân thân trong mười phương, đều bảo chúng Bồ-tát: “Các Ngài phải qua chỗ của đức Thích-ca Mâu-ni, để cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai”. Lúc bấy giờ, cõi Ta-bà liền biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm. Đó là lần biến hóa thứ nhất.

Đức Phật chỉ lưu lại chúng trong hội Pháp Hoa, dời các hàng trời người đi chỗ khác. Lúc đó, các đức Phật ở phương Đông đã nhóm họp, ngồi xếp bằng trên tòa Sư tử, như thế lần lượt đến khắp đầy cả Tam thiên đại thiên, mà ở thân Phật của đức Thích-ca Mâu-ni phân thân ra khắp cả mười phương mà vẫn chưa hết. Lúc đó, Phật Thích-ca vì muốn dung thọ các vị Phật của mình phân thân, nên ở nơi tám phương lại biến thành hai trăm muôn ức Na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh. Hai trăm muôn ức, tám phương lại kết thành một nghìn sáu trăm vạn thiên thế giới, rồi biến các nước đó thành một nước của Phật. Đó lần thứ hai Phật biến hóa.

Vì các đức Phật sẽ đến ngồi, nên ở tám phương lại biến hóa thành hai trăm muôn ức Na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh. Đó là lần biến hóa thứ ba.

Như vậy, trong ba lần biến hóa mà đã có tám phương Tịnh độ, ba vạn hai nghìn muôn ức Na-do-tha các nước, lại có thể dung chứa mười phương phân thân của chư Phật. Các đức Phật đều sai các thị giả của mình qua thăm viếng đức Thích-ca Mâu-ni. Các đức Phật trụ trong hư không, đều thấy đức Đa Bảo Như Lai, ở trong tháp ngồi tòa Sư tử, toàn thân như vào cảnh Thiền định. Ba vạn hai nghìn muôn ức Na-do-tha các nước, đều do thần lực của chư Phật biến hóa ra. So sánh hoạt động của nguyên tử với thần lực của chư Phật làm sao mà bằng cho được. Qua đó, chứng tỏ rằng tâm lực luôn thắng vật lực, vạn pháp đều do tâm, điều này chúng tôi đã có trình bày trong bài viết Vạn Pháp Duy Tâm, xin quý vị tham khảo. Chỉ có thần lực của chư Phật là xứng đáng cho chúng ta nương tựa. Người niệm Phật cần phải có tâm lực chuyên nhất, tha thiết liễu sinh thoát tử, tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên, nhất định sẽ được vãng sinh. Một khi đã được vãng sinh rồi thì chuyện thành Phật không còn gì để lo ngại.

Tổ thứ hai Liên tông, Thiện Đạo đại sư, khuyên người chỉ niệm danh hiệu A-di-đà Phật. Lại có người gạn hỏi: “Sao Hòa thượng không dạy người quán tưởng Phật mà chỉ dạy chuyên trì danh thôi, chẳng hay có ý gì?”. Ngài đáp: “Chúng sinh đời nay phần lớn chướng nặng tâm thô, thần thức tán loạn. Trong khi đó, cảnh Tịnh độ rất tế diệu, nên quán tưởng khó thành tựu. Chính vì thế, đức Phật xót thương nên chỉ dạy niệm Phật. Tại sao? Vì xưng danh hiệu là việc dễ làm, nếu có thể giữ mỗi niệm nối nhau không dứt, tu như thế suốt đời thì mười kẻ niệm mười kẻ sẽ vãng sinh, trăm người tu trăm người về Tịnh độ. Tại sao thế? Vì không có duyên tạp bên ngoài nên dễ được chánh niệm, vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau. Không trái với kinh giáo, thuận theo lời Phật và chư Thánh chỉ dạy. Nếu bỏ chuyên niệm Phật mà tu xen tạp những hạnh khác, thì trong trăm ngàn người chỉ hy vọng ba bốn kẻ được vãng sinh. Tại sao? Vì duyên tạp niệm khiến cho mất chánh niệm, không khế hợp với bản nguyện của Phật. Vì trái với kinh giáo và lời chư Phật, chư Thánh dạy, hệ niệm không tiếp nối nhau, tâm không thường nhớ Phật. Vì thân tuy hành đạo mà tâm lại tương ưng với lợi danh, vì thích theo duyên tạp mà làm chướng ngại chánh nhân vãng sinh của mình và người. Các hàng ngoại đạo, tục có kiến giải không giống nhau, như kẻ thích chuyên tu, người ưa tạp hạnh. Nếu như chuyên tâm niệm Phật thì mười người niệm đều vãng sinh cả mười. Nếu như tu tạp niệm mà tâm không chí thành thì trong ngàn người tu khó mong được một. Nguyện xin tất cả hãy nên chín chắn mà suy nghĩ kỹ. Lại nữa, người niệm Phật khi đi, đứng, nằm, ngồi phải cố gắng nhiếp tâm, ngày đêm chớ rời danh hiệu, quyết giữ câu niệm Phật cho đến hơi thở cuối cùng. Như thế thì đến giây phút mãn phần, niệm trước vừa thọ chung, niệm sau liền vãng sinh Cực Lạc. Từ đây, vĩnh viễn hưởng được sự vui pháp lạc vô vi mãi cho đến ngày thành Phật. Há là chẳng đáng vui sướng ư?”. (Tham khảo Tịnh Độ Thánh Hiền, quyển thượng, tập 2)

Tương truyền, Đại sư Thiện Đạo là hóa thân của Phật A-di-đà. Mỗi khi Ngài niệm Nam mô A-di-đà Phật thì có một tia hào quang từ nơi miệng Ngài phóng ra. Ngài niệm Phật từ mười câu cho đến trăm câu đều có hào quang như vậy. Do tâm lực của Ngài đã thành tựu nên mới có việc hiển hiện những điều kỳ diệu như thế. Qua đó, cũng đủ chứng minh cho chúng ta thấy diệu dụng của niệm Phật. Một khi chúng ta chuyên chú nhiếp tâm niệm danh hiệu A-di-đà Phật, thì khiến cho tâm lực tập trung chuyên chú vào một chỗ, tạo nên một năng lực chánh niệm rất lớn và hiện hữu mọi lúc mọi nơi, thì sự kiện “niệm trước vừa thọ chung, niệm sau vãng sinh Cực Lạc” là việc có thể thực hiện, lời nói đó hoàn toàn không sai trái. Do đó, trong thời tu tập mỗi ngày, chúng ta phải định cho mình một thời khóa công phu rõ ràng. Nếu công việc thật sự bận rộn, trong nghi lễ của thời khóa công phu, chỉ cần tụng kinh A-di-đà, chú vãng sinh, đọc bốn mươi tám lời nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ là đủ. Đối với các kinh luận khác không nhất thiết phải đọc. Sau đó đọc kệ tán Phật, tiếp theo là niệm đức hồng danh, niệm vạn câu hoặc trên vạn câu. Ngoài thời khóa chính ra, những lúc bình thường miệng cũng không xa lìa danh hiệu Phật, Tịnh niệm liên tục, có như thế mới đạt đến nhất tâm bất loạn. Người niệm Phật cần phải có tâm chuyên nhất, có tinh tấn, không nên vì một nhân duyên nào mà phế bỏ công phu. Hãy xem việc niệm Phật là công việc quan trọng nhất, tâm luôn tha thiết liễu sinh thoát tử, có như thế mới thành tựu việc vãng sinh. Một khi tâm có tin sâu, nguyện thiết, hành chuyên sẽ tạo nên tâm lực rất lớn không gì bì kịp, vì tâm lực có diệu dụng không thể nghĩ bàn. Người niệm Phật một khi đạt được tâm lực đó thì không khác gì tâm lực của chư Phật trong mười phương.

  1. Nguyện và nguyện cảm ứng đạo giao 

Đức Phật A-di-đà tu Bồ-tát thừa phát bốn mươi tám lời nguyện. Phàm có chúng sinh nào chí tâm xưng niệm danh hiệu của Ngài, hoặc nghe danh hiệu của Ngài, cho đến phát đại Bồ-đề tâm (nguyện lực). Nguyện lực của Ngài đã thành tựu rồi, Ngài trải qua muôn kiếp tu hành, nhẫn lực tu hành thành tựu sáu Ba-la-mật, siêng năng tu Bồ-tát vạn hạnh (hạnh lực). Hạnh lực của Ngài đã viên mãn rồi, lại thành tựu Chánh báo quả vị Vô Thượng Bồ-đề và Y báo là nước Cực Lạc trang nghiêm (công đức lực). Ba yếu tố: nguyện lực, hạnh lực, công đức lực hòa hợp tạo nên thần lực danh hiệu không thể nghĩ bàn. Ngài dùng danh hiệu A-di-đà làm con thuyền Bát-nhã, cứu độ chúng sinh. Chúng sinh tin Phật niệm Phật, phát tâm đại Bồ-đề thành Phật độ chúng sinh. Nguyện vãng sinh Tịnh độ để được sự giáo hóa của chư Phật, luôn luôn lấy lời nguyện đó hồi hướng về Phật A-di-đà. Do vậy mà có sự cảm ứng đạo giao giữa nguyện lực của chúng sinh và nguyện lực của Phật. Để có được sự cảm ứng đạo giao, người niệm Phật cần phải có tâm tin sâu, nguyện lực phải tha thiết, hành trì phải chuyên nhất, cầu Phật lực từ bi thương xót, gia hộ độ trì thoát ly sinh tử, tiếp dẫn vãng sinh Tịnh độ, tu tập cho đến ngày thành Phật, trở lại Ta-bà rộng độ chúng sinh đồng thoát ly sinh tử, đồng sinh Tịnh độ, vĩnh kiếp không còn sợ thối chuyển.

Ngẫu Ích đại sư có nói: “Phải tin vào Phật lực mới có thể tin sâu công đức của danh hiệu, phải có tin Trì danh mới có thể tin bản tánh không thể nghĩ bàn của chúng ta. Người có đầy đủ tâm tin sâu như vậy, mới có thể phát nguyện rộng lớn. Người niệm Phật chỉ cần ghi nhớ hai chữ “Tín, Nguyện”. Vì Tín Nguyện là kim chỉ nam của pháp môn Tịnh độ, chấp trì danh hiệu là chánh hạnh. Nếu người có Tín Nguyện kiên cố, đến phút lâm chung chỉ cần mười niệm tâm không rối loạn thôi cũng được vãng sinh. Người không có Tín Nguyện dù cho niệm Phật đến trình độ gió thổi không động, mưa rơi không thấm, kiên cố vững chắc như tường đồng, lũy sắt cũng không được vãng sinh. Phàm là người tu Tịnh nghiệp không thể không biết điều đó”. (Tham khảo kinh A-di-đà Yếu Giải do Đại sư trước tác). Ngài còn nói rằng: “Người có được vãng sinh hay không vãng sinh, cũng tùy thuộc nơi chỗ có Tín Nguyện hay không có Tín Nguyện, phẩm vị cao hay thấp là tùy thuộc ở chỗ hành trì sâu hay cạn”.

Phật pháp chú trọng ở chỗ cảm ứng. Cũng không nằm ngoài đặc điểm đó, sự cảm ứng là Thật tướng Pháp giới vốn bao trùm khắp Pháp giới hư không, không có sự ngăn ngại, vì nó vốn nhân duyên tương cảm, nương tựa nhau, tương ứng mà có. Tại sao sự cảm ứng trong Phật pháp lại rất đặc biệt như vậy? Vì Phật pháp vốn có pháp tánh trong sạch thanh tịnh, do đó thế giới thần linh rất ưa chuộng. Nó vốn không có sự chướng ngại như các tôn giáo khác. Nói đúng hơn, Phật pháp thể tánh của nó rất thanh tịnh bình đẳng, luôn hướng chúng sinh về con đường chân thiện mỹ, nên rất được chư Phật, cũng như thế giới thần linh ưa thích và hộ niệm. Đức Phật A-di-đà khi còn là Pháp Tạng, sau khi đứng trước Phật Thế Tự Tại Vương phát bốn mươi tám lời nguyện rộng độ chúng sinh và sau khi nói kệ xong, lúc bấy giờ, khắp các cõi đất sáu lần chấn động, chư Thiên rải hoa lên Ngài cúng dường, tự nhiên có tiếng âm nhạc trong hư không vang lên khen ngợi và chứng quyết Ngài nhất định sẽ thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (kinh Vô Lượng Thọ). Đó là sự biểu hiện sự thật chứng của Pháp giới Thật tướng đối với lời phát nguyện của Pháp Tạng Tỷ-kheo. Chỉ có chư Phật mới thấy được điều đó, phàm phu chúng ta không thể thấy được. Lại nữa, đức Phật A-di-đà tu Bồ-tát thừa, trải qua nhiều kiếp tu hành, công đức của Phật đã viên mãn, Ngài đã thành Phật, lời nguyện lớn của Ngài đã thành tựu một thế giới Tịnh độ. Trong thế giới Tịnh độ có vô lượng vô biên công đức trang nghiêm như: lầu gác, ao báu, hoa sen, cây báu, đất bằng vàng ròng, lưới châu… tất cả những loại trang nghiêm đó không chỉ một tay Phật có thể xây dựng được mà do một phần cảm ứng của thế giới thần linh, thế giới chư Phật mà thành tựu một thế giới Tịnh độ trang nghiêm như vậy. Trong đó, tâm nguyện xây dựng thế giới Tịnh độ, rộng độ chúng sinh của Phật A-di-đà đóng vai trò chính. Có gieo nhân ắt sẽ gặp quả cảm ứng. Nhân ví như hạt giống, quả ví như hoa quả. Người tu pháp môn Tịnh độ cũng như thế, lấy Tín–Nguyện–Hạnh làm nhân. Từ nhân được gieo đó, Phật A-di-đà mới biết để đến tiếp dẫn vãng sinh, để giáo hóa thành Phật là quả. Tín Nguyện của pháp môn Tịnh độ được ví như sóng điện từ phát đi từ đài phát thanh, Phật A-di-đà tiếp nhận luồng sóng đó mới có thể định hướng chúng sinh đang Tín Nguyện cầu về nước Ngài, dựa vào đó Ngài mới có thể định vị chúng sinh đang ở phương hướng nào để đến tiếp dẫn. Người niệm Phật sở dĩ được vãng sinh cũng nhờ vào sự phát khởi tin sâu, nguyện thiết mới có cảm ứng đạo giao. Trong Pháp giới có vô lượng vô biên sự thật chứng của chư Phật, công đức trang nghiêm các Ngài không thể nghĩ bàn, mười phương hằng hà sa chư Phật đều quy hướng Tịnh độ. Vì vậy, có chúng sinh nào phát tâm niệm Phật, các Ngài đều hết sức tán thán và đồng hộ niệm cho người đó đạt được quả Bất thối chuyển A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Điều đó có thể chứng minh rằng, nếu người niệm Phật phát khởi tin sâu, nguyện thiết chắc chắn sẽ thành tựu vãng sinh Tịnh độ. Vì có sự cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn của chư Phật đối với chúng sinh. Do đó những ai từ trước đến nay chưa phát tâm niệm Phật hãy nhanh chóng phát khởi tín tâm, chắc chắn sẽ được vãng sinh Tịnh độ.

Tổ thứ sáu Liên tông, Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, là vị Thiền Tịnh song tu. Ngài có trước tác cuốn Vạn Thiện Đồng Quy, đó là một tác phẩm có giá trị về Tịnh độ. Ngài được xem là hóa thân của Phật A-di-đà. Sau khi Đại sư viên tịch, có một vị Tăng từ miền Lâm Xuyên đến, trọn cả năm luôn đi kinh hành và lễ bái tháp của Đại sư. Có người lấy làm lạ nên hỏi vị Tăng đó, vị Tăng đáp rằng: “Năm trước tôi bị đau nặng, thần thức rơi vào cõi u minh, thấy bên tả vua Diêm Vương có thờ tượng của một vị Hòa thượng, tôi thấy vua Diêm Vương đang cung kính quỳ lạy tượng ấy, tôi thử hỏi nguyên do, mới biết đó là tôn tượng của Diên Thọ đại sư ở chùa Vĩnh Minh tại Hàng Châu. Ngài đã vãng sinh về nơi Thượng phẩm của cõi Cực Lạc. Vua Diêm Vương do cảm kích trọng đức hạnh của Ngài nên mới tác tượng lễ lạy cúng dường như vậy”. Qua đó, cho chúng ta thấy được sự cảm ứng của Phật pháp còn cảm ứng đến cả nơi địa ngục, vì cảm ứng của Phật pháp vốn chu biến khắp cả Pháp giới hư không. Vì vậy, người niệm Phật nếu có tâm Tín Nguyện càng thành khẩn chắc chắn sẽ có cảm ứng đạo giao.

  1. Lấy quả địa giác làm nhân tâm địa

“Nhân quả là quyền lực lớn để Thánh nhân an dân trị nước” (lời của Ấn Quang đại sư). Không có quả nào mà không có nhân, không có nhân nào mà không có quả. Từ mạng sống, sinh hoạt và sự nghiệp, cho đến phước họa, tốt xấu, thành công hay thất bại của con người đều không thoát khỏi sự chi phối của vòng nhân quả. Tuy nhiên, chúng sinh tuy sinh ra trong nhân quả lại không có trí tuệ phân biệt nhân quả có nguồn gốc từ đâu. Làm sao để gieo những nhân tốt? Chúng sinh hoàn toàn bị nhân quả chi phối, không biết tu hành ra sao. Việc tu hành theo đạo Phật đó là tu nhân. Nếu người gieo nhân địa giả dối chắc chắn gặt hái những quả giả dối. Thông thường, người ta không biết nhân đó là tâm, trong mảnh đất tâm có chứa rất nhiều hạt giống nghiệp thức khác nhau. Một khi các hạt giống nghiệp thức này chín muồi sẽ hiện hành phát sinh thành quả. Tu nhân tức là thanh lọc nghiệp thức. Nghiệp thức được thanh lọc liền thấy bản tâm, đó là chánh đạo. Nếu không thanh lọc nghiệp thức mà lại lấy nghiệp thức của tâm làm nhân địa nỗ lực tu hành, chẳng khác nào người nấu cát mà mong thành cơm ắt hẳn cơm không thành mà chỉ có cát. Pháp môn niệm Phật vốn có nhân duyên đặc biệt thù thắng hơn các pháp môn khác. Đó là người niệm Phật lấy danh hiệu quả địa Chánh Đẳng Chánh Giác của Phật A-di-đà làm tâm nhân địa cho việc tu hành. Người có quyết tâm tin Phật, quyết tâm nguyện sinh Tây Phương, quyết tâm độ chúng sinh, quyết tâm trì niệm danh hiệu Phật, đem toàn thể tâm lực mà hệ niệm vào danh hiệu Phật. Phật có nghĩa là giác ngộ, tỉnh thức. Hệ niệm vào danh hiệu Phật tức là đang hệ niệm vào tỉnh thức, giác ngộ. Phật là người đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, từ bi nguyện lực của các Ngài cùng với Tín–Nguyện–Hạnh của chúng sinh hòa hợp lại tạo nên một năng lực cảm ứng không thể nghĩ bàn. Phật lực của các Ngài sẽ khiến cho nghiệp thức của chúng sinh dần dần được thanh lọc, và tánh giác của chúng sinh dần dần hiển lộ. Do đó, chúng sinh trong tâm niệm Phật là đang gieo trồng chủng tử thành Phật. Nếu Tín Nguyện và niệm Phật cùng được tiến hành song song thì tâm chúng sinh cảm thông với tâm Phật. Nếu tâm chúng sinh càng hệ niệm vào danh hiệu Phật thì nghiệp thức của chúng sinh càng nhanh chóng được thanh lọc, và bản giác càng nhanh chóng hiện lộ.

Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật có nói: “Niệm một câu Nam mô A-di-đà Phật, có thể tiêu trừ trọng tội của tám mươi vạn kiếp sinh tử”. Do đó, người niệm Phật chỉ cần thành khẩn tha thiết mà niệm chắc chắn sẽ được cảm ứng đạo giao, nghiệp thức sẽ được tiêu trừ. Mỗi ngày nên định thời khóa mà niệm Phật. Niệm liên tục, thiện căn càng chín muồi thì nghiệp thức dần dần được tiêu trừ, bản giác sẽ dần dần hiển lộ. Đối với người Trung và Hạ căn, nếu không thể đạt đến nghiệp thức hoàn toàn được thanh lọc thì có thể nương vào Đới nghiệp được vãng sinh. Một khi đã sinh Tịnh độ, hóa sinh trong hoa sen, dư nghiệp liền tiêu trừ, hoa nở liền thấy Phật ngộ được Vô sinh pháp nhẫn.

Danh hiệu Phật có thần lực không thể nghĩ bàn, có thể chuyển hóa người niệm Phật từ chỗ tâm tánh mê muội đạt đến chỗ minh tâm kiến tánh. Nếu người niệm Phật niệm danh hiệu Phật lâu dài không gián đoạn, tâm chuyên nhất với danh hiệu, chắc chắn người đó đến phút lâm chung chánh niệm rõ ràng. Ngoài phương pháp Trì danh ra, mọi người có thể áp dụng phương pháp tùy tức niệm Phật (theo dõi hơi thở niệm Phật). Trong các oai nghi, luôn mượn hơi thở làm tràng hạt để niệm Phật. Hít vào niệm “Nam mô A”, thở ra niệm “Di-đà Phật”, thực hành lâu ngày như thế, danh hiệu sẽ nhiếp theo hơi thở làm một, Nhĩ căn sẽ hệ niệm ở tâm, do đó tạp niệm không thể xen vào và khởi lên, từ đó có thể đạt đến Sự nhất tâm bất loạn. Một khi được Sự nhất tâm bất loạn rồi, lại càng tinh tấn niệm, tâm không có sự mong cầu các cảnh tướng, Phật hiệu và tâm nhất như. Lúc đó, tâm không niệm mà niệm, liền đạt đến Lý nhất tâm bất loạn. Tâm cùng tương ưng với tâm Phật, được gọi là Thật tướng niệm Phật, hay đã thành tựu Niệm Phật Tam-muội.

Ấn Quang đại sư có nói: “Nếu thật sự đạt được quả niệm Phật nhất tâm bất loạn (chú ý hai chữ nhất tâm), tức là quả địa giác làm nhân cho tâm địa. Nếu có thể đạt đến tâm tương ưng thì nhân tức là quả, rất bình thường, rất huyền diệu. Nếu người không tin nhận được điều đó thì không thể được xem là người trí”. Ý Đại sư muốn nói, khi tâm địa của người niệm Phật tương ưng với tâm địa của Phật, tâm tâm tương ưng, khế hợp với nhau, tức là thuộc Thực tướng niệm Phật. Điều đó, chứng tỏ người đó đã đạt được Niệm Phật Tam-muội. Chuyện đó là chuyện bình thường không có gì là cao siêu khó hiểu, nhưng nó rất huyền diệu thâm sâu. Nếu là người trí thức cho điều đó là cao siêu khó hiểu, không thực tế thì người đó không thể xem là hạng trượng phu trí thức được.

Đại sư Triệt Ngộ cũng có nói: “Sở dĩ gọi là chấp trì danh hiệu là chăm chăm buộc niệm kiên cố ở tâm, nếu có một mảy may niệm xen tạp hoặc gián đoạn thì chẳng được gọi là chấp trì. Nếu niệm niệm tương tục không gián đoạn, tinh tấn niệm không dừng nghỉ dần dần đạt đến nhất tâm bất loạn. Một khi đã đạt được nhất tâm bất loạn rồi mà càng tinh tấn không dừng nghỉ, trí tuệ sẽ khai sáng, phát khởi biện tài, đắc được thành thông, thành tựu Niệm Phật Tam-muội. Chỉ có đạt đến nhất tâm bất loạn thì Tịnh nghiệp mới viên thành. Pháp môn Tịnh độ là cánh cửa lớn độ thoát chúng sinh thoát ly sinh tử. Người không có tín, không có nguyện chắc chắn mãi mãi không có an toàn, mãi mãi đắm chìm trong sinh tử. Là bậc học giả, hãy lấy điều đó mà suy nghĩ cho kỹ, không nên bỏ qua”.

Tóm lại, qua lời của hai vị Đại sư, tuy văn tự có khác nhau, thế nhưng ý nghĩa diễn đạt lại giống nhau. Cái được gọi là “tâm tương ưng, niệm niệm tương tục không gián đoạn… đạt được trí tuệ biện tài vô ngại, thành tựu Niệm Phật Tam-muội”, những cảnh giới chứng đắc đó thật là cao siêu, huyền diệu, nhưng đó là sự thực, không phải cảnh tướng xa lạ gì đối với những hành giả niệm Phật, một khi đạt được sẽ thấy được điều đó. Muốn đạt được thành tựu như vậy, người niệm Phật cần phải có Tín–Hạnh–Nguyện thiết tha, công phu phải miên mật, niệm niệm không gián đoạn, mới có khả năng thành tựu Niệm Phật Tam-muội. Đối với bậc học giả, chúng ta cũng không nên chấp Lý mà bỏ Sự. Không nên cho pháp môn Tịnh độ là hẹp hòi chỉ dành cho ông già bà cả mà đánh mất đi nhân duyên vãng sinh Tịnh độ của chính mình, nên khởi thực hành mới cảm nhận được sự vi diệu của nó. Điều đó đã được hai vị Đại sư nhắc nhở như trên.

   7-. Niệm Phật vãng sinh là xả khổ thọ lạc

Trong kinh A-di-đà, Phật Thích-ca có nói: “Này Xá-lợi-phất, vì sao cõi ấy gọi là Cực Lạc? Cõi ấy không có những thứ khổ, chỉ có thuần những sự vui, vì vậy mà có tên là Cực Lạc”. Thế giới Cực Lạc là thế giới được Phật A-di-đà xây dựng từ vô lượng vô biên các công đức trang nghiêm, xin đơn cử vài điều như sau:

1-. Trí tuệ của Phật sáng vô lượng vô biên, soi khắp các nước khắp cả mười phương đều không chướng ngại. Phật A-di-đà rộng độ chúng sinh khắp mười phương, nhân dân nước Cực Lạc hằng ngày sáng sớm đều lấy xiêm y đựng các thứ hoa có hương thơm đẹp lạ, mang đi cúng dường mười muôn ức chư Phật ở các phương khác, đến giờ cơm lại quay về nước của mình. Dùng cơm xong lại đi dạo chơi, kinh hành niệm Phật, đó là đức đại ngã.

2-. Người sống trong cõi Cực Lạc, vô minh không còn, tham, sân, si hoàn toàn triệt đoạn, không phải sợ trở lại địa ngục, mà đều hóa sinh từ hoa sen, đó là Tịnh đức.

3-. Các hàng cây báu cùng các loại chim nơi Cực Lạc đều phát ra pháp âm vi diệu, đó là đức thuyết pháp.

4-. Nhân dân sinh sống ở Cực Lạc không có những điều khổ, chỉ thọ nhận những điều vui sướng, nên gọi là Cực Lạc, đó là lạc đức.

Thế giới Tịnh độ được thiết lập từ các công đức trang nghiêm, tất cả đều thuần sự vui sướng, không có các khổ đau, dục vọng như thế giới Ta-bà. Kinh Pháp Hoa có nói: “Nguyên nhân của khổ đau có nguồn gốc từ tham dục”. Lại nữa, trong kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã, đức Phật có nói: “Chúng sinh ngày đêm luân chuyển trong Lục đạo, chịu khổ không ngừng, đều do tâm tham dục”. Thật vậy, chúng sinh sở dĩ luân chuyển trong Lục đạo, chịu khổ đau cũng từ tâm tham dục. Khổ vốn có trăm ngàn loại khác nhau, vì vậy mà chúng sinh suốt ngày ca cẩm khổ đau không dừng. Nào là lương thực thiếu thốn cũng khổ, tài nguyên, vật chất cạn kiệt cũng khổ, không khí, môi trường ô nhiễm cũng than khổ, bệnh tật, dịch hạch phát sinh cũng khổ, thất nghiệp khổ, chiến tranh khủng bố, bom đạn, nguyên tử hoành hành cũng khổ, nói tóm lại đã làm người sống trong thế gian này phải chấp nhận muôn ngàn khổ đau không thể nào kể hết.

Theo nhà Phật, khổ được chia làm ba loại: ba khổ, tám khổ, trăm loại khổ. Nhưng thông thường, khổ được đức Phật giảng nói là tám thứ khổ, gồm các loại như sau: 1. Sinh khổ; 2. Lão khổ; 3. Bệnh khổ; 4. Tử khổ; 5. Ái biệt ly khổ; 6. Cầu bất đắc khổ; 7. Oán tắng hội khổ; 8. Ngũ ấm xí thạnh khổ.

1-. Sinh khổ:

Sự khổ của sinh được chia làm hai giai đoạn: khổ từ khi thọ thai nằm trong lòng mẹ và khổ lúc sinh ra. Trong thời kỳ nằm trong lòng mẹ, thai nhi thọ bẩm khí huyết sạch hay dơ, no hay đói, mạnh hay yếu đều tùy thuộc vào người mẹ. Nếu người mẹ biết lo nuôi dưỡng, giữ gìn thai nhi thì còn đỡ; bằng ngược lại, người mẹ mang thai trong trường hợp ngoài ý muốn, gia đình và xã hội không cho phép thì bắt buộc phải sử dụng thuốc phá thai, thai nhi phải chịu muôn phần đau khổ, èo uột, dở sống, dở chết thật thảm thương vô cùng… Thời kỳ thứ hai, sau chín tháng mười ngày nằm trong lòng mẹ chịu biết bao đau khổ, thai nhi một lần nữa phải chịu đau đớn như dao cắt thân xé thịt mới có thể lọt ra khỏi lòng mẹ. Đó là chưa kể sau khi ra khỏi lòng mẹ, nếu có khóc thì đỡ, bằng ngược lại bị đánh đến khi nào chịu khóc mới thôi, vì có khóc buồng phổi của thai nhi mới hoạt động được, thai nhi mới có khả năng sống sót.

2-. Lão khổ:

Bình thường, ai cũng lo lam lũ làm ăn, ít có ai nhớ nghĩ đến cái già. Vì thế, khi có ai nhắc đến cảnh già thì tự nhiên giật mình lo sợ. Cho nên, người xưa thường than: “Đa thọ thì đa khổ”. Nếu người biết suy tưởng thì sẽ thấy được rằng, người ta càng sống lâu chừng nào thì càng gánh chịu nhiều khổ đau chừng ấy.

Về thể xác, tuổi càng già thân thể càng tiều tụy, yếu đuối, đầu bạc da nhăn, mắt mờ tai điếc, mũi nghẹt, lưỡi đớ, răng thì cái rụng cái lung lay, đau nhức vô cùng tận. Muôn việc đều nhờ con cháu giúp đỡ. Nếu con cháu có đạo đức và hiếu thuận thì còn đỡ và an ủi được phần nào, bằng ngược lại làm khổ con cháu quá nhiều, chúng nó đâm ra bỏ bê không chăm sóc, đã khổ thì lại càng khổ muôn phần.

Về mặt tinh thần, người càng già thần kinh càng yếu, trí nhớ bất thường, quên trước nhớ sau, đôi khi lú lẫn làm trò cười cho thiên hạ. Do đó, người đến tuổi già thường than: “Già khổ lắm”.

3-. Bệnh khổ:

Đối với con người, sức khỏe là vàng bạc. Có sức khỏe là có tất cả. Một người mắc bệnh thì dường như họ mất cả lẽ sống, thân xác uể oải, đau nhức, tâm thần bất định. Đó là chưa kể những người mắc các bệnh trầm kha như ung thư, bệnh thế kỷ như HIV/AIDS, chưa có thuốc chữa trị, đang đứng giữa hai bờ sống chết. Những người này tuy sống mà như đã chết, lẽ sống đối với họ dường như không còn. Thế nên, mới nói bệnh là khổ.

4-. Tử khổ:

Nói đến cái chết thì từ con người cho đến các loại động vật, loài nào cũng hoảng sợ. Vì trước khi chết phải chịu biết bao cực hình đau khổ. Chết có nhiều hình thức khác nhau: chết vì bệnh tật, chết vì đâm chém, chết vì cướp của giết người, chết bất đắc kỳ tử như bị tai nạn giao thông, máy bay hư, khủng bố chiến tranh giết chóc, bom đạn nguyên tử. Cái chết làm cho con người phải kinh sợ.

5-. Ái biệt ly biệt khổ:

Gia đình, chồng vợ, con cháu… đang sống đầm ấm hạnh phúc, bỗng nhiên có một người nào đó đi xa, hoặc chết. Cảnh biệt ly giữa kẻ ở người đi thật không có nỗi buồn nào bằng, nên nói thương yêu xa lìa là khổ là vậy.

6-. Cầu bất đắc khổ:

Là sự mong muốn mà không toại ý. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường mắc phải những thất vọng như: thất vọng vì công danh, thất vọng vì lợi lộc, thất vọng vì giàu sang phú quý, thất vọng vì tình duyên trắc trở v.v… Các thất vọng trên đây thường tạo nên những móc xích trói buộc, khiến cho chúng sinh mãi mãi đắm chìm trong sinh tử. Thậm chí, có người đôi khi vì những thất vọng đó mà đánh mất đi thân mạng của chính mình, thật đau đớn vô cùng.

7-. Oán tắng hội khổ:

Là chỉ cho nỗi khổ giữa hai người có oán thù mà phải ở chung. Người ở thế gian thường than: “Thấy mặt kẻ thù như kim đâm vào mắt, sống chung với kẻ thù như nếm mật nằm gai”. Ý nghĩa lời than trên đây có thể đã diễn đạt phần nào giữa hai người không có yêu thương mà phải sống chung. Đôi khi trong một gia đình, nếu có tình trạng đó thật không có nỗi khổ nào bằng. Vợ chồng không thương yêu mà phải sống chung, tất nhiên sẽ dẫn đến phải ly thân, hoặc ly dị, làm cho con cái không đủ cha, đủ mẹ, chúng sẽ mặc cảm với bạn bè, không có người chăm sóc dạy dỗ, ắt hẳn sẽ đi vào con đường tội lỗi, tạo nên mối đe dọa gây khó khăn cho xã hội.

8-. Ngũ ấm xí thạnh khổ:

Ngũ ấm bao gồm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc là nghiệp cảm thuộc về phần vật chất; thọ, tưởng, hành, thức là nghiệp cảm thuộc về phần tinh thần. Ngũ ấm xí thạnh khổ là chỉ cho thân Ngũ uẩn quá sung mãn, dẫn đến thúc dục thân tâm đòi hỏi, xung đột, chi phối bất thường, gây nhiều vọng tưởng, vọng thức tà vạy.

Thật vậy, nói đến khổ đau mà con người gánh chịu từ kiếp này sang kiếp khác thì không ngôn ngữ nào diễn đạt cho hết, cho nên trong kinh có nói: “Nước mắt chúng sinh nhiều hơn biển cả” là vậy. Thế nhưng, hằng ngày con người tiếp xúc với những đau khổ đó mà nào có hay có biết, họ chỉ một lòng hăng say tạo tác nghiệp. Đối với họ, đó là những niềm vui, là lẽ sống. Vì thế mà thế giới Ta-bà chúng ta đang sống mới có nghĩa “kham nhẫn”, là vậy, nghĩa là chúng sinh sống trong thế giới Ta-bà kham nhẫn mọi khổ đau để mà sống.

Ấn Quang đại sư có nói: “Thời mạt pháp, tất cả chúng sinh nên tha thiết niệm Phật, nương nhờ Phật lực để vãng sinh Tịnh độ. Đã được vãng sinh rồi thì từ hoa sen mà hóa sinh, sẽ không còn nỗi khổ về sinh nữa. Tất cả đều được thọ thân người nam, thọ mạng ngang bằng với hư không, không có tai biến, không có các nỗi khổ về già, bệnh, chết, được gần gũi Phật A-di-đà và chư Thánh chúng, được nghe pháp âm vi diệu phát ra từ các hàng cây báu, từ các loại chim. Tùy theo căn tánh, một khi nghe pháp rồi liền chứng được Vô sinh pháp nhẫn, làm gì còn khổ đau. Nghĩ ăn là có ăn, nghĩ mặc là có mặc, sống trong lầu gác nguy nga tráng lệ đều bằng bảy báu, không cần phải lao động, không có nỗi khổ cầu bất đắc, cho đến thân thể có đại thần thông, đại uy lực, không cần phải xa lìa xứ của mình, mà chỉ trong một niệm thân đã ở mười phương chư Phật làm các Phật sự, thượng cầu hạ hóa, có đại trí tuệ, đại biện tài, ở trong một pháp mà thấu rõ Thật tướng của muôn pháp, tùy theo căn cơ mà nói pháp, hoàn toàn không còn sự mê lầm, tuy nói lời Tục đế, mà đều khế hợp với diệu lý của Chân đế, không còn nỗi khổ về ngũ ấm, thân tâm thường an trụ trong tịch tịnh vô vi”.

Kinh A-di-đà cũng có nói: “Cõi nước đó không có những khổ đau, chỉ thuần những vui sướng, cho nên mới gọi là Cực Lạc”. Người thế gian thường cho rằng đạo Phật là đạo bi quan, vì chỉ nói toàn là khổ đau. Đó là do họ không có nghiên cứu áp dụng. Những lời Phật dạy như toa thuốc tùy theo bệnh chúng sinh mà chữa trị. Phương pháp trao truyền giáo pháp của Ngài thật khoa học và thực tiễn, cụ thể được Ngài thể hiện qua bài pháp Tứ diệu đế đầu tiên cho năm anh em Kiều-trần-như và Bát chánh đạo trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

Thật vậy, trong tám cái khổ được nêu trên, khổ đầu tiên là sinh khổ có ý nghĩa rộng lớn vô cùng, không có gì so sánh kịp. Sinh vốn là vô sinh, vô sinh vốn là sinh mà không sinh. Chúng sinh do mê lầm về thân Ngũ uẩn mà quên đi bản tánh vốn không sinh không diệt. Ngũ ấm bản thể vốn là không, đối với các pháp cũng giống như vậy. Duy chỉ có bản tánh vô sinh, là thường trụ bất biến, không sinh cũng không diệt, không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc. Bản thể thường trụ đó, tuy thể của nó vốn không sinh không diệt, nhưng nó lại tùy theo nhân duyên. Nếu tùy theo duyên tịnh, lại được tu hành theo Phật pháp, nó sẽ phát triển không thôi, tu Bồ-tát hạnh, thượng cầu hạ hóa cho đến ngày thành Phật. Nếu tùy theo duyên nhiễm, thì nó bị luân chuyển trong vô minh Lục đạo, chấp trước thế giới hư vọng là thực có, từ đó sinh tâm tham đắm gieo nhân khổ đau. Do đó, người niệm Phật phải có Chánh tri kiến về thế gian cũng như thân thể, hiểu rõ thế gian tất cả vốn đều hư vọng, khổ, không, vô thường và vô ngã, nên phát nguyện niệm Phật mà vãng sinh Cực Lạc, để xả ly thân thể và thế giới Ta-bà đầy dẫy đau khổ này, mà được thọ nhận thân thể thanh tịnh và được sống trong thế giới Tịnh độ đầy vui sướng.

   8-. Thời đại mạt pháp niệm Phật kiên cố

Vào tháng 04 năm 1965, Đại sư Tuyên Hóa trụ trì chùa Kim Sơn tại nước Mỹ trở về thăm Đài Loan cùng với phái đoàn Phật tử nước ngoài. Trong một buổi nói chuyện với Phật tử tại giảng đường Tuệ Nhật, Đại sư có nói một câu làm cảnh tỉnh rất nhiều người. Đại sư nói: “Sau khi tôi xuất gia, trong thời gian lưu lại ở phương Đông hai năm, tôi nhận thấy có một thái độ rất bi quan của nhiều tín đồ. Họ cho rằng: “Thời đại mạt pháp tu hành cũng vô dụng”. Thái độ đó nếu không chuyển hóa thì rất có hại cho những tín đồ Phật giáo phương Đông. Do đó, tôi kính khuyên chư vị, chỉ cần chúng ta nhận chân được việc tu hành, thì thời đại mạt pháp làm gì đủ khả năng chướng ngại được chúng ta”. Lời nói đó của Đại sư như một lời cảnh tỉnh, đã làm cho nhiều người rất xúc động.

Thật vậy, phần lớn chúng ta là tín đồ Phật giáo, đều biết rằng thời đại này là thời đại mạt pháp. Pháp nhược ma cường, tại sao lại không quyết tâm tu pháp môn Tịnh độ? Phải nên nhận thức được rằng, chỉ có niệm Phật là bền vững nhất. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thành đạo tại thế giới Ta-bà ngũ trược này, được sáu phương chư Phật ca ngợi việc làm của Ngài thật hy hữu hiếm có ở đời. Đức Phật Thích-ca là hiện kiếp của đức Phật thứ tư. Hiện kiếp Phật thứ nhất là đức Phật Câu-lưu-tôn Như Lai, vào kiếp này thọ mạng con người là sáu vạn tuổi. Hiện kiếp Phật thứ hai là đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai, thọ mạng con người vào kiếp này là bốn vạn tuổi. Hiện kiếp Phật thứ ba là đức Phật Ca-diếp Như Lai, thọ mạng của con người vào kiếp này là hai vạn tuổi. Đến thời kỳ Phật Thích-ca thì tuổi thọ con người chỉ còn trên dưới một trăm tuổi. Điều đó, chứng tỏ rằng thế giới Ta-bà chúng ta đang sống hiện nay rất ô trược. Đức Phật xuất hiện ở thế giới Ta-bà này nói pháp 49 năm, những người có nhân duyên với Ngài tu hành trong hội Pháp Hoa đều được Ngài thọ ký về sau thành Phật. Sau khi Phật diệt độ, thời đại chánh pháp trụ thế ở đời được 500 năm, thời kỳ tượng pháp được 1000 năm. Chúng sinh ra đời vào thời kỳ chánh pháp, cũng như sau thời kỳ tượng pháp khoảng 100 năm, tu hành đều có thể chứng đạo. Duy chỉ có thời đại mạt pháp cách Phật rất xa, nên phần lớn căn tánh chúng sinh kém liệt, nghiệp chướng sâu dầy, trợ duyên ít, ngược lại chướng duyên thì nhiều. Người đọc kinh Di Giáo của Phật tuy có hiểu biết, song ít có người tu tập chứng ngộ. Có thể thấy được rằng vào thời đại mạt pháp, nếu tu tập mà chỉ nương nhờ tự lực thì đạo nghiệp khó viên thành. Chỉ có nương nhờ tha lực là chính, tự lực phối hợp với tha lực tu trì mới có khả năng thành tựu. Trong kinh Đại Tập có nói: “Thời đại mạt pháp, ức ức người tu hành ít có một người chứng đạo, duy chỉ có nương nhờ niệm Phật thì mới có thể thoát sinh tử”, có thể minh chứng cho điều nói trên vậy.

Trong kinh Tượng Pháp Quyết Nghi có nói: “Sau đức Phật diệt độ, thời kỳ chánh pháp, người tu trì giới bền vững được 500 năm, thời kỳ tượng pháp tu Thiền định bền vững được 1000 năm, đến thời kỳ mạt pháp người tu niệm Phật bền vững được một vạn năm”. Từ khi đức Phật Niết-bàn đến nay thời gian đã trải qua hơn 1700 năm, chúng ta đã bước vào thời đại mạt pháp 200 năm. Vì thế, thời đại ngày nay chính là thời đại niệm Phật để liễu sinh thoát tử vậy.

Pháp Chiếu đại sư, Tổ thứ tư Liên tông. Vào một buổi sáng, lúc thanh trai nơi Tăng đường, Ngài thấy trong bát cháo hiện ra bóng mây ngũ sắc, trong mây ấy hiện rõ một cảnh sơn tự, phía Đông Bắc sơn tự có một dãy núi, dưới chân núi có một khe nước, phía Bắc khe nước có một cái hang bằng đá, trong hang ấy có một ngôi chùa lớn, có biển treo ở trước đề tên Đại Thánh Trúc Lâm Tự. Mấy hôm sau, Ngài lại thấy nơi bát cháo hiện ra cảnh chùa ấy, trong chùa lại thấy có vườn cây, ao nước lầu đài tráng lệ nguy nga, có một vạn (10.000) vị Bồ-tát đang ở trong đó. Thấy cảnh lạ ấy, Ngài mới đem hỏi các bậc tri thức, có một vị cho rằng: “Sự biến hiện của chư Thánh khó thể nghĩ bàn, nhưng nếu luận riêng về địa thế, non sông, thì đó đích thực là Ngũ Đài Sơn vậy”. Nghe lời ấy, Ngài có ý muốn đến xem Ngũ Đài Sơn để xem sự thật như thế nào. Mãi đến năm Đại Lịch thứ năm, vào ngày mồng 06 tháng 04, Đại sư cùng các bạn đồng tu đến được chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Vào khoảng canh Tư đêm đó, Ngài thấy có một ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân Ngài, Ngài liền lần theo ánh sáng đó mà đi. Đi được 50 dặm thì đến một dãy núi. Dưới chân núi có khe nước, có cửa cổng bằng đá. Nơi cửa cổng có hai vị Đồng Tử đang đứng chờ Ngài. Ngài theo chân hai vị Đồng Tử dẫn đến một ngôi chùa cực kỳ nguy nga lộng lẫy, biển đề Đại Thánh Trúc Lâm Tự. Ngài vào chùa, lên giảng đường, thấy đức Văn-thù ở phía bên Tây, đức Phổ Hiền Bồ-tát ở phía bên Đông, Pháp Chiếu đại sư bước đến chí thành đảnh lễ, rồi quỳ thưa rằng: “Kính bạch Đại Thánh! Hàng phàm phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, lại thêm bị chướng nặng nghiệp sâu, trí thức kém hẹp. Tuy có Phật tánh mà không biết làm sao cho hiển lộ, trong khi giáo pháp Phật quá mênh mông. Chưa rõ pháp môn nào thiết yếu tu hành để cho mau được giải thoát?”. Văn-thù Bồ-tát bảo rằng: “Thời kỳ này chính là vào lúc các ngươi nên niệm Phật. Trong tất cả pháp môn không chi hơn là niệm Phật, cúng dường Tam Bảo, phước huệ song tu, đó là cửa tu rất thiết yếu. Thuở đời quá khứ, Ta nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo mà chứng được Nhất thiết chủng trí. Tất cả các pháp Bát-nhã Ba-la-mật, những môn Thiền định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng từ nơi niệm Phật mà sinh. Vì thế nên biết, niệm Phật là vua trong các pháp”. Ngài Pháp Chiếu lại hỏi rằng: “Kính bạch Đại Thánh! Chúng con nên niệm Phật như thế nào?”. Đức Văn-thù lại đáp: “Về phương Tây của thế giới này, có Phật A-di-đà là giáo chủ của cõi Cực Lạc. Đức Phật ấy có nguyện lực lớn không thể nghĩ bàn. Ngươi nên niệm danh hiệu Ngài tiếp nối nhau không gián đoạn, thì khi mạng chung, quyết định được vãng sinh, chẳng còn bị thối chuyển nữa”. Nói xong, hai vị Bồ-tát đồng đưa tay xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo rằng: “Do nơi ngươi niệm Phật, không còn bao lâu nữa sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ-đề. Nếu có Thiện nam Tín nữ nào muốn thành Phật thì không có gì hơn là niệm Phật. Kẻ ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác”. Được hai vị Đại Thánh thọ ký xong, ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ rồi lui ra (tham khảo Tịnh Độ Thánh Hiền, quyển thượng, tập 3)

Thật vậy, hai vị đại Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền còn phải khuyên răn chúng sinh thời đại mạt pháp, nếu muốn thành Phật không có gì hơn là niệm Phật, điều đó đã được hai vị Đại Thánh thông qua Đại sư Pháp Chiếu, trở lại thế giới Ta-bà mà xiển dương vậy.

Đạo Kính đại sư và Thiện Đạo đại sư, trong các tập sách do hai Ngài trước tác đều có dẫn chứng một đoạn trong kinh Nguyệt Kinh Tam-muội thuộc Đại tạng kinh quyển thứ 47. Đoạn kinh đó như sau: “Tất cả mười phương ba đời chư Phật, quá khứ, hiện tại và vị lai, đều học niệm Phật mà nhanh chóng chứng quả Vô Thượng Bồ-đề. Do đó nên biết ba đời chư Phật, đều nhân nơi niệm Phật mà được thành Phật”. Có người lại hỏi Phật rằng: “Tại sao không niệm Phật trong mười phương, mà chỉ niệm Phật A-di-đà?”. Đức Phật lại đáp: “Trong mười phương Phật thì Phật A-di-đà là Phật thù thắng nhất, cao quý nhất, từ bi nhất. Lại nữa, trong mười phương chư Phật, Phật A-di-đà là Phật kết duyên cùng chúng sinh thâm sâu nhất. Hiện tại, trong mười phương chư Phật, Phật A-di-đà có nguyện lực nhiếp độ chúng sinh nhiều nhất. Lại nữa, hiện tại trong các thế giới Tịnh độ của mười phương chư Phật, thế giới Tịnh độ của Phật A-di-đà là tốt nhất. Lại nữa, trong các thế giới Tịnh độ của mười phương chư Phật, thế giới Tịnh độ của Phật A-di-đà là gần với thế giới Ta-bà nhất. Lại nữa, trong danh hiệu của các đức Phật, danh hiệu Phật A-di-đà có công đức nhiều nhất”. Ngoài ra, trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, đức Phật cũng có nói: “Nếu có người nào niệm danh hiệu của một vị Phật hay hai vị Bồ-tát, thì trừ diệt được những tội sinh trong vô lượng kiếp, hà huống gì người đó nhớ Phật, tưởng Phật mà chí tâm niệm Phật. Các ông nên biết những người niệm Phật đó giống như hoa Phân-đà-lợi ở trong cõi người vậy”.

Tóm lại, thời đại mạt pháp này, chính là thời đại niệm Phật. Điều đó đã được chư Phật nhắc nhở chúng ta thông qua chư Tổ và các bậc Đại Thánh. Vì thế, chúng ta hãy cùng nhau tin sâu, nguyện thiết mà niệm Phật, nhất định sẽ được vãng sinh Tịnh độ, chứng quả Vô Thượng Bồ-đề.

   9-. Qua lại Tam giới, chứng đắc pháp thân thanh tịnh

Cổ đức có nói: “Hãy diệt sự suy nghĩ mà sống với pháp thân thanh tịnh”. Thật vậy, sự suy nghĩ của chúng ta phát khởi liên tục và sinh diệt, diệt rồi sinh trong từng Sát-na, không có lúc nào dừng. Từ suy nghĩ và ý niệm liên tục đó đã tạo nên nhiều nghiệp cảm khác nhau. Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa hoặc, căn bản vô minh, đều là những nghiệp cảm vô cùng quan trọng. Là người tu đạo, tất cả những nghiệp cảm đó cần phải nhất nhất đoạn tận, mới có thể chứng được pháp thân thanh tịnh mà bước vào quả vị Phật. Song, việc đoạn trừ Kiến, Tư hoặc và các phiền não là cả một lộ trình dài thăm thẳm. Đoạn trừ nghiệp cảm, chứng pháp thân, lời nói nghe qua sao mà dễ dàng. Thế nhưng, nếu dựa vào tự lực để thoát khỏi Tam giới, cần phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, con số thời gian đó là cả một lộ trình dài đầy vất vả gian lao. Hà huống gì thời đại mạt pháp, chúng sinh túc nghiệp thâm trọng, chỉ có cách xả tự lực, nương nhờ Phật lực, mới có thể thoát ly Tam giới.

Trong công phu tu đạo, có hai cánh cửa tự lực và tha lực. Người tu tự lực là chỉ y theo lời dạy của Phật trong Tam tạng Thánh giáo mà tu hành. Từ sơ phát tâm, nếu không có chướng duyên, phải trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp mới có thể đạt đến Sơ địa (tức là Hoan hỷ địa). Lại phải trải qua một đại A-tăng-kỳ kiếp tu hành nữa thì hành giả mới có thể đạt đến Bát địa (tức là Bất động địa). Trong khi đó, hành giả tu tập theo tha lực, niệm Phật A-di-đà, theo kinh Di-đà thì nhanh nhất là một ngày, chậm nhất là trong bảy ngày, đạt được nhất tâm bất loạn, liền vãng sinh Cực Lạc. Theo kinh Lăng-nghiêm thì ở địa vị thứ bảy của Thập trụ Bồ-tát (Bất thối trụ), nói theo kinh niệm Phật, ở địa vị thứ tám của Thập đại bộ kinh Bồ-tát (Bất động địa). Tuy dùng ngôn từ khác nhau nhưng đều chỉ cho ngôi vị Bất thối chuyển. Nói theo kinh Di-đà, được ở ngôi Bất thối chuyển là đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Người đã được quả vị Bất thối chuyển là người có năng lực không còn sợ bị thối chuyển mà tiến thẳng đến quả vị thành Phật. Do đó, người tu đạo không có chi tốt hơn là nương vào pháp môn Tịnh độ, cầu vãng sinh để được ra khỏi Tam giới, thoát ly sinh tử luân hồi. Ấn Quang đại sư có nói: “Nếu luận về việc xuất ly Tam giới, thì không có một năng lực nào có thể giúp hành giả tu Giới Định Tuệ mà có thể đoạn tận phiền não và nghiệp cảm. Giả như nghiệp cảm đoạn trừ được chút ít thì người tu đã trở lại Tam giới như cũ. Hà huống gì chúng sinh thời mạt pháp, thiện căn kém cỏi, mạng sống ngắn ngủi mà nương vào tự lực tu hành, ức ức kiếp phiền não mới chỉ đoạn trừ được chút ít. Nếu muốn thoát Tam giới, chỉ có y theo pháp môn niệm Phật, tin sâu, nguyện thiết, niệm danh hiệu Phật, cầu sinh Tây Phương, kiêm tu luân thường, thận trọng không làm các việc ác, chỉ làm các việc lành, thì không còn sợ thối chuyển, được vãng sinh Tịnh độ. Đã được vãng sinh thì siêu phàm nhập Thánh, thoát ly sinh tử, vĩnh kiếp xa lìa khổ não, thọ hưởng vui sướng, công đức thuần thục liền sinh vào hoa sen Thượng phẩm. Người tu niệm Phật, nếu công phu chưa được thành thục, cũng được Đới nghiệp vãng sinh, dự vào hàng Thánh. So sánh lợi ích giữa tự lực và tha lực, thật không khác một trời một vực” (theo Hoằng Sơn Liên Xã, phần duyên khởi).

Người tu niệm Phật được vãng sinh Tịnh độ, đã được vãng sinh thì từ hoa sen hóa sinh. Khi còn nằm trong hoa sen, những dư nghiệp sẽ hoàn toàn đoạn tận, hoa nở liền thấy Phật ngộ Vô sinh pháp nhẫn, toàn thân pháp tánh hiện tiền, được thọ thân nam, thọ mạng bằng hư không, không có sinh già, bệnh khổ. Tại thế giới Tịnh độ, nếu hành giả tu tập một đời tinh tấn, đời sau được quả Nhất sinh bổ xứ, tức là được chuẩn bị bổ nhiệm thành Phật. Do đó, chỉ có niệm Phật vãng sinh mới có thể ra khỏi Tam giới. Điều đó, chứng tỏ pháp môn Tịnh độ có lợi ích rất lớn, không có pháp môn nào sánh bằng.

Tam giới là chỉ cho ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

  1. Dục giới:

Dục là chỉ cho sự ham muốn. Chúng sinh ở cõi này chỉ thuần ham muốn về thực phẩm, ước muốn vật chất và dục vọng thể xác. Nói chung, ở cõi này dục vọng rất thịnh hành.

  1. Sắc giới:

Cõi này không có sự ham muốn như cõi dục, nhưng hình tướng vật chất, thân thể, cung điện ở cõi này rất vi diệu và thù thắng. Các vị trời ở cõi này chỉ thuần sống trong Thiền định, không có tướng nam nữ như cõi Dục giới.

  1. Vô sắc giới:

Cõi này hoàn toàn không còn sắc chất, hình thù mà chỉ có thuần các nghiệp thức trú trong Thiền định thâm diệu. A-lại-da thức tuy đã hàng phục ở trong Thiền định, thế nhưng những hạt giống nghiệp thức vẫn còn tồn tại. Tam giới có tất cả 28 cõi trời. Từng trời cao nhất có tên gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng. Người tu thiền đạt được định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng sẽ sống ở cõi trời đó. Tuổi thọ ở cõi này là tám vạn kiếp, có thể nói là khá thọ. Tuy nhiên, có tuổi thọ tám vạn kiếp như vậy, song đến khi tuổi thọ hết, cũng tùy theo nghiệp lực của tâm thức mà bị rơi lại trong luân hồi. So với tại thế giới Tịnh độ khác nhau rất xa. Phàm là người tu theo đạo tiên, nếu được lên cõi trời, nghiệp thức cũng chưa hết, đến khi hưởng hết phước cũng trở lại trong luân hồi, trôi lăn trong Lục đạo, tất cả đều không cứu cánh.

Kinh Pháp Hoa, phẩm Thí Dụ, quyển thứ 4 có nói rằng: “Tam giới không an, giống như nhà lửa. Chúng sinh khổ đầy dẫy, thường có sinh, già bệnh, chết, ưu não, giống như ngọn lửa bừng cháy, không có lúc dừng”. Do đó, nhà Phật lấy pháp thanh tịnh, dạy đạo cho chúng sinh, nhằm mục đích giúp chúng sinh thoát Tam giới, xa lìa khỏi Lục đạo luân hồi, thoát ly sinh tử. Pháp môn Tịnh độ, tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật vãng sinh là con đường vắn tắt giúp chúng sinh được thoát ly Tam giới, là pháp môn tối viên mãn nhất

B-. Thực tiễn

Ấn Quang đại sư có nói: “Pháp môn niệm Phật là pháp bối trần hiệp giác, phản bổn quy nguyên, là diệu pháp tối thực tiễn”.

  1. Thực tiễn là có Tín, Nguyện và Hạnh. Người niệm Phật chỉ nương vào ba món tư lương đó, không nên tu thêm bất kỳ pháp môn nào nữa.
  2. Người niệm Phật nên có Tín, Nguyện, quyết tâm xả ly thân thể và cõi Ta-bà đầy ô trược, nguyện vãng sinh Tịnh độ thành Phật độ chúng sinh, cùng thoát ly biển khổ sinh tử.
  3. Người niệm Phật cần phải nghiêm trì Ngũ giới, trì trai mà niệm Phật.
  4. Ngũ vị tân không được dùng, là người Phật tử phải biết điều ấy. Lại không được hút thuốc vì khi hút, làm cho thân khẩu trở nên hôi hám, không thích hợp với việc niệm Phật thanh tịnh.
  5. Người niệm Phật phải giữ giới dâm, thường quán thân bất tịnh. Trong Thập Nghị Luận của Đại sư Trí Giả có nói rõ điều đó.
  6. Nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác của giới vọng ngôn cũng nên tuân giữ.
  7. Bình thường, tất cả các loại rượu không được uống. Không được mua bán rượu, ngay cả rượu thuốc cũng không nên uống.
  8. Khi xem kinh, đọc sách, không được nằm.
  9. Nếu nhà cửa quá chật hẹp không thể đặt bàn thờ để lễ bái, nên hướng về phía Tây mà lễ lạy. Phàm khi tôn trí bàn thờ Phật, nên đặt giữa nhà, không nên đặt những nơi ẩm thấp, thiếu ánh sáng, hoặc nơi để tạp vật. Trong phòng ngủ không được tôn thờ hình ảnh Phật, Bồ-tát. Tượng ảnh để thờ, nên lấy Tam Thánh, hoặc Phật Bổn sư. Ngoài ra, không được thờ các hình tượng tạp nhạp khác.
  10. Người sơ cơ niệm Phật, nên đọc ba kinh Tịnh độ (kinh Di-đà, Quán Vô Lượng Thọ Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh). Có thể tham khảo thêm các loại sách luận liên quan Tịnh độ, như: Văn Sao Tập của Ấn Quang đại sư, sách Tịnh Độ Thánh Hiền, Tịnh Độ Thập Nghi… Tiến thêm một bước, có thể đọc thêm các kinh Lăng-nghiêm, chương Đại Thế Chí Bồ-tát Niệm Phật Viên Thông, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Ngoài ra, dù có nghe ai nói kinh này hay, chú kia tốt cũng không bỏ pháp niệm Phật mà tin theo Tà kiến, ngoại trừ các kinh chú do chính kim khẩu Phật nói.
  11. Người niệm Phật nếu công việc quá bận rộn, nên áp dụng phương pháp Thập niệm. Phải định cho mình thời khóa tu tập rõ ràng. Ngoài ra, trong các oai nghi nên tùy duyên mà niệm Phật, nhớ lúc nào nên phát khởi niệm lúc đó. Dù sao, có tâm chí thành nhớ Phật, niệm Phật, cầu vãng sinh vẫn tốt hơn những người không có niệm. Đối với người nhàn rỗi, có thể tăng cường thời khóa. Trong các oai nghi, nên luôn dụng công niệm Phật, mặc niệm cho nối tiếp nhau không để gián đoạn.
  12. Người niệm Phật, bình thường có làm được phước điền gì nên thành tâm hồi hướng vãng sinh Tây Phương. Không nên cầu hưởng phước báo nhân thiên mà chướng ngại cho việc vãng sinh.
  13. Người niệm Phật có Phật gia hộ, đó là một thuận duyên rất lớn. Thế nhưng, do nghiệp lực quá nặng, trong quá trình dụng công niệm Phật tâm khó chuyên nhất, hành giả nên chí tâm sám hối, tu tập thêm các phước lành như bố thí, cúng dường, phóng sinh, ấn tống kinh sách thì nghiệp lực có thể tiêu trừ đôi phần, công phu niệm Phật có thể được chuyên nhất hơn.
  14. Người niệm Phật trong khi niệm, nên suy tưởng như mình đang lâm chung, chuẩn bị đọa địa ngục thì tâm không khẩn thiết cũng trở nên khẩn thiết (lời của Vĩnh Gia đại sư).
  15. Người niệm Phật không nên chuyên chú sự tướng bên ngoài (tức là chuyên lo chưng diện bề ngoài, mua danh, cầu lợi) mà còn phải lo việc dứt trừ các sự tướng trong nội tâm (Ấn Quang đại sư).
  16. Khi niệm Phật, nếu như thường xuyên lâm vào cảnh hôn trầm, buồn ngủ, đó không phải là do sức yếu, mà chính là do nghiệp chướng khiến xui ngăn cản, nên khẩn thiết chí thành mà niệm Phật. Nếu niệm không ra câu, ra tiếng được, thì phải thường nhớ tưởng đến Phật. Khi nào thấy có thể niệm được nên ứng thanh mà niệm (niệm ra tiếng). Như thế lâu ngày, nghiệp sẽ tiêu trừ (Ấn Quang đại sư).
  17. Người niệm Phật phải giữ sao cho “tâm niệm” cùng với “hành vi” luôn luôn thuận hòa, hiền hậu, mới có thể thành tựu được công đức, phước lành. Nếu chẳng như thế, mà lại còn kiêm tu thêm gian xảo, thâm hiểm, ác độc… thì cũng như chót núi đá trơ vơ, mưa bao nhiêu cũng không có đọng lại chút nước nào, cây cỏ cũng không sao sinh trưởng lên nổi (Ấn Quang đại sư).
  18. Người niệm Phật phải có tin sâu, nguyện phải cho thiết tha. Mỗi ngày, ít nhất tự tâm phát nguyện vãng sinh ba lần, phải tha thiết có tâm cầu liễu sinh thoát tử. Có như thế mới thành tựu việc vãng sinh Tịnh độ.