Trai Tuần

Trong đạo Phật, những nhà Tín đồ có người qua đời, thì cứ mỗi một tuần lễ bảy ngày, cúng một ngọ chay, gọi là trai tuần, đủ bảy tuần, gọi là ” thất thất trai tuần” tức bốn mươi chín ngày.

Bảy tuần ấy do ở kinh Địa Tạng; Phật dạy rằng: người mà tắt thở rồi, thần thức lìa thân tiền ấm, hóa ra thân trung ấm, ở giữa thiên không, cứ bảy ngày chết đi, rồi hóa sanh lại thân trung ấm nữa, mãi như thế, là để tìm chỗ có nhân duyên quan hệ mà đầu thai; chẳng sớm thì chầy, cũng trong bốn mươi chín ngày là mãn hạn của thân trung ấm. Nhưng mỗi một lần thân trung ấm chết là, thống khổ lắm. Nên Phật dạy: làm tuần thất là, để tu công đức siêu độ cho vong linh được nhờ phước đó, mau tìm đặng chỗ đầu thai cho sớm, kẻo để thân trung ấm chết đi sống lại nhiều lần, chịu nhiều đau đớn. Đó, cái lý do cúng tuần làm chay là thế; chứ đừng mê tín như ai kia tưởng rằng: mỗi tuần, có quỉ sứ dẫn vong hồn vô mỗi vua ở Thập Điện, để khảo tội rồi giam vào mỗi cửa ngục… Thấy ở sách “Ngọc lịch kỉnh thế” của đạo Minh Sư bịa đặt, mà “Minh Thiện đàn” xuất bản.

Ngày làm tuần, trước hết, cũng làm lễ “Tịnh đàn khai kinh” thì, đọc các bài của hai thiên ấy. Đến mỗi thời tụng kinh: hoặc Địa Tạng kinh, kinh Tam Bảo… Còn dễ hơn thì, chỉ cứ niệm Phật cũng đặng. Trước khi niệm Phật, đọc các bài này:

Bài tán thán lạy Phật

Dung nhan Phật tốt lạ lùng!

Hào quang soi sáng khắp cùng mười phương,

Từ bi oai đức khôn lường;

Ra đời tế độ sáu đường chúng sanh.

Được thấy tướng, được nghe danh,

Cũng nhờ kiếp trước căn lành trồng sâu.

Thế Tôn đủ phép nhiệm mầu.

Đáng cho muôn loại cúi đầu qui y.

Nam mô Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, chư Phật, Tôn pháp, Hiền thánh tăng thường trú Tam Bảo. (1 lạy)

Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích -ca Mưu -ni Phật. (1 lạy)

Nam mô Lạc Bang Giáo Chủ Tiếp Dẫn Đạo Sư A -di-đà Phật. (1 lạy)

Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Há Sanh Di Lặc Tôn Phật. (1 lạy)

Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ -Tát Ma -ha-tát.

Bài kệ niệm Phật

Sông mê nhiều nổi làm chìm ngấm;
Biển khổ lắm điều dễ đắm sa.
Muốn thoát luân hồi nhiều lộ quẹo;
Thì, mau, mau phải niệm Di Đà:

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A -di-đà Phật (1 lần).

Nam mô A -di-đà Phật (tùy ý niệm mấy chuỗi cũng được).

Nam mô Quan Thế âm Bồ -tát (niệm 10 lần).

Nam mô Đại Thế Chí Bồ -tát (niệm 10 lần).

Nam mô Liên trì Hải hội Phật Bồ -tát (niệm 10 lần).

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ -tát (niệm 10 lần).

(Mỗi thời niệm Phật: cứ niệm như thế; đến khi niệm xong, tùy ý đọc một bài nào cũng được trong các bài “Tịnh độ văn” dưới đây và các “Tịnh độ văn” ở phần “phụ” sau).

(Tịnh độ văn dưới đây, tùy ý đọc bài chữ, hay là đọc bài nghĩa ca cũng được).

Đại tịnh độ nguyện văn của tổ Vân Thê đại sư

(Bài đọc như sau đây):

Khể thủ Tây phương an lạc quốc,
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư,
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh,
Duy nguyện Từ bi ai nhiếp thù,

Cúi đầu về hướng nước yên vui:
Thầy cả dẫn đường chúng tới, lui.
Đệ tử nguyện sanh về cõi Phật;
Từ bi thương tưởng nạp thâu rồi.

Đệ tử chúng đẳng, phổ vị tứ ân, tam hữu pháp giới chúng sanh, cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô lượng, bồ-đề đạo cố, chuyên tâm trì niệm A -di-đà Phật, vạn đức hồng danh, kỳ sanh tịnh độ.

   Nay chúng tôi, bồi hồi vì: ba cõi,
   Và bốn ân pháp giới, chúng sanh:
       Nên cầu chư Phật chứng minh.
Nột thừa tột bực rạng danh bù đì;
       Chuyên tâm niệm Phật A Di…,
Xưng danh vạn đức, định kỳ cửu liên.

Hựu dĩ nghiệp trọng phước khinh, chướng thâm huệ thiễn, nhiễm tâm dị xí, tịnh đức nan thành kim ư Phật tiền, kiều cần ngũ thể, phê lịch nhứt tâm đầu thành sám hối.

Ngã cập chúng sanh, khoán kiếp chí kim, mê bổn tịnh tâm, túng tham sân si, nhiễm uế tam nghiệp, vô lượng vô biên, sở tác tội cấu, vô lượng vô biên, sở kiết oan nghiệp, nguyện tất tiêu diệt

Vả, nghiệp khiên nặng, duyên phước nhẹ,

Chướng thẳm sâu, trí huệ lưng vơi.

Lòng trần đắm nhiễm tơi bời:

Dễ dơ, khó sạch, khó ngời đức ra.

Nay sám hối, trước Phật -ñaø,

ân cần năm vóc, thiết tha một lòng.

Chúng con ngông, mênh mông nhiều kiếp,

Quên tịnh tâm, nhớ tiếp uế tình;

Tham, sân… ba độc hoành hành,

Khẩu, thân… ba nghiệp khó thanh tính lường;

Kết oan trái, gây tội ương,

Không ngằn chừng kể, có tan tiêu nguyền.

Tòng ư câm nhật, lập thâm thế nguyện, viễn li ác pháp, thệ bất cánh tạo, cần tu thánh đạo, thệ bất thối đọa, thệ thành chánh giác, thệ độ chúng sanh.

Nay chí thiền, cần quyền phát nguyện:

Thề xa lìa điều kiện ác hung;

Thề siêng tu học chí công,

Tiến lên đạo thánh, chứ không lui phàm;

Thề nên Phật, nguyện phải làm,

Chẳng từ khai ngộ, không nhàm độ mê.

A-di-đà Phật, dĩ từ, bi, nguyện, lực, đang chứng tri ngã, đang ai mẫn ngã, đang gia bị ngã, nguyên thiền quán chi trung, mộng mi chi tế, đắc kiến A -di-đà Phật kim sắc chí thân, đắc lịch A -di-đà Phật bửu nghiêm chi độ, đắc mông A -di-đà Phật cam lộ quán đãnh, quang minh chiếu thân, thủ ma ngã đầu, ý phú ngã thể, sử ngã túc chướng tự trừ, thiện căn tăng trưởng, tật không phiền não, đốn phá vô minh, viên giác diệu tâm, khoách nhiên khai ngộ, tịch quang chơn cảnh thường đắc hiện tiền.

Phật A -di, từ, bi, nguyện, lực,

Phải: chứng, thương, giúp sức cho con;

Ngồi thiền, quán tưởng, ngủ ngon,

Đều trông thấy Phật mình son, ánh vàng;

Chơi nước Phật, báu vẻ vang.

Cam lồ rưới đỉnh, hào quang rọi mình.

Đẹp thân hình: áo xinh Phật đắp…

Và, duỗi tay rờ khắp đầu tôi,

Khiến cho chướng trước dứt rồi,

Không còn phiền não, sanh sôi căn lành;

Trí sáng suốt, vẹt vô minh,

Cảnh chân thường rỡ, tâm linh vẫn tròn.

Chốc, hao mòn, mạng con sắp mãn,

Cho biết; giờ, ngày, tháng trước đi;

Thân không; đau, nhức, mỏi chi;

Lòng (ýự) không: ham mến những gì giả danh;

Sáu căn tỏ, một niệm rành,

Tợ hồ vào định, yên lành bỏ thi (thây).

A-di-đà Phật, dữ Quan âm, Thế Chí chư thánh hiền chúng phóng quang tiếp dẫn, thùy thủ đề huề, lầu các tràng phan, dị hương thiên nhạc, tây phương thánh cảnh, chiêu thị mục tiền, linh chư chúng sanh, kiến giả văn giả, hoan hỉ cảm thán, phát bồ đề tâm.

Đức Đạo sư A -di-đà Phật,

Cùng Quan âm… các bậc thánh hiền:

Phóng quang hiển hiện nhãn tiền,

Nắm tay dẫn dắt về miền lạc bang;

Nào lầu các, nào tràng phan,

Hương thơm cõi thánh, tiếng vang nhạc trời.

Khiến người đời, mọi nơi nghe, thấy:

Đều trầm trồ lòng dấy bồ -đề.

Ngã ư nhĩ thời, thừa kim cang đài tùy tòng Phật hậu, như đàn chỉ khoảnh, sanh cực lạc quốc thất bửu trì nội, thắng liên hoa trung, hoa khai kiến Phật, kiến chư Bồ -tát, văn diệu pháp âm, hoạch vô sanh nhẫn, ư tu du gian thừa sư chư Phật, thân mông thọ ký, đắc thọ ký dĩ, tam thân tứ trí, ngũ nhãn lục thông, vô lượng bách thiên đà la ni môn, nhứt thế công đức giai tất thành tựu.

Rày, con theo Phật sau kề,

Nương đài vàng, khải móng về nước vui;

Ao hồ báu, thai sen nuôi,

Nở hoa thấy Phật, các ngôi đại thừa.

Tiếng pháp đưa, con vừa nghe đặng,

Quả vô sanh, trong ngắn ngủi giờ,

Vâng hầu chư Phật, đều nhờ.

Các Ngài thụ ký: trao cơ, ghi phần;

Rỡ bốn trí, chói ba thân,

Mắt thiêng năm nhãn, phép thần sáu thông;

Tất cả công đức, đồng vô lượng,

Môn tổng trì, đều hưởng trọn nên.

Nhiên hậu, bất vi an dưỡng, hồi nhập ta bà, phân thân vô số, biến thập phương sác, dỉ bất khả tư nghị, tự tại thần lực, chủng chủng phương tiện, độ thoát chúng sanh, hàm linh li nhiễm, huờn đắc tịnh tâm, đồng sanh tây phương, nhập bất thối địa, như thị đại nguyện, thế giới vô tận, chúng sanh vô lậu, nghiện cập phiền não nhứt thế vô tận, ngã nguyện vô tận.

Nước nhà an dưỡng không quên;

Cõi nầy trở lại, hóa thân rất nhiều;

Cả mười cõi, hiện đủ điều:

Không nghĩ, bàn phép, để siêu độ đời;

Lòng sạch ngời, lìa nơi trần tục,

Về phương Tây lên bực “chẳng lui”.

Nguyện to như vậy nào nguôi,

Bởi còn: thế giới, và người dại… khôn…

Phiền não chất, nghiệp chướng dồn,

Gì chưa… chửa hết, nguyện con còn hoài.

Nguyện kim lễ Phật, phát nguyện, tu trì công đức, hồi thí hữu tình, tứ ân tổng báo, tam hữu tề tư, pháp giới chúng sanh, đồng viên chủng trí.

Công tu trì hôm nay: lạy Phật,

Phát nguyện, đều thí tất cả loài,

Bốn ơn, lo trả thảo ngay,

Giúp giùm ba hữu ra ngoài thế gian,

Sanh bốn loại, giới ba ngàn,

Đồng tròn quả Phật, đều sang cõi vàng.

Tịnh độ nguyện văn của Đại Từ Bồ -tát

(Bài đọc như dưới đây)

Thập phương tam thế Phật, A-di-đà đệ nhất, cửu phẩm độ chúng sanh, uy đức vô cùng cực, ngã kim đại qui y, sám hối tam nghiệp tội, phàm hữu chư phước thiện, chí tâm dụng hồi hướng, nguyện đồng niệm Phật nhơn, cảm ứng tùy thời hiện, lâm chung Tây phương cảnh, phân minh tại mục tiền, kiến văn giai tinh tiến, đồng sanh cực lạc quốc kiến Phật liễu sanh tử, như Phật độ nhứt thế, vô biên phiền não đoạn, vô lượng pháp môn tu, thệ nguyện độ chúng sanh, tổng giai thành Phật đạo, hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng, tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.

Cả ba đời, cùng mười phương Phật,

A-di-đà bực nhất vì duyên…

Uy thần phước đức vô biên;

Dựng đài cửu phẩm, độ miền tứ sanh.

Con chí thành, nghiêng mình sám hối:

ýÙ, khẩu, thân hết tội ngu hèn.

Có bao phước quả, thiện căn,

Hướng về Tịnh độ hay rằng Tịnh bang.

Nguyện đồng đàn những trang niệm Phật:

Cảm ứng theo hiện thật chứng cho.

Thân sắp mãn, cõi Phật phô;

Thấy, nghe tiến tới, nức nô sanh về…

Trông bồ đề (Phật) thoát bề sanh tử;

Như Phật đà độ thảy vong, tồn.

Lắm phiền não, nhiều pháp môn:

Bao phiền cũng đoạn; mấy tôn cũng trì.

Với điều ni loài chi cũng độ;

Và đều thành Phật, hộ “tứ hoằng”.

Cõi “không” tột, “nguyện” không ngằn:

“Biết”“ – hữu tri giới – và “chẳng biết” đều thắng trí “Từ”.

Tiểu tịnh độ nguyện văn của Từ Vân sám chủ

(Bài đọc như dưới đây)

Nhứt tâm qui mạng Cực lạc thế giới A -di-đà Phật, nguyện dĩ tịnh quang chiếu ngã, từ thệ nhiếp ngã, ngã kim chánh niệm, xưng như lai danh, vị bồ đề đạo, cầu sanh tịnh độ, Phật tích bổn thệ, nhược hữu chúng sanh, dục sanh ngã quốc, chí tâm tín nhạo, nãi chí thập niệm, nhước bất sanh giả, bất thủ chánh giác, dĩ thử niệm Phật nhân duyên, đắc nhập như lai đại thệ hải trung, thừa Phật từ lực, chúng tội tiêu diệt, thiện căn tăng trưởng.

(Câu: “Nhứt tâm qui mạng” cũng như câu “Nhứt tâm đảnh lễ”; chữ “qui mạng” cũng như chữ “qui y”, bởi chữ “nam mô” hàm có nghĩa: cung kính, qui y, qui mạng, cứu ngã…)

Thành tâm lạy Phật Di Đà,

ở bên Cực lạc, chứng qua cõi nầy:

Hào quang, xin chiếu đến đây;

Đức Từ nhìn nhận, con nay niệm Ngài.

Xưng danh của đức Như Lai;

Cốt vị đạo Phật, để mai mốt về…

Phật xưa vẫn có lời thề…

 “Chúng sanh nào muốn sanh về nước ta,

Chăm lòng tin, nguyện thiết tha,

ít thì “mười niệm” nếu mà chẳng sanh:

Thì, ta chẳng thấy Phật danh”.

Bởi duyên cớ đó, nên đành niệm đây.

Như Lai biển nguyện rộng thay.

Bè từ Phật độ, con nay đặng vào.

Tội mòn như “nước đá” thau,

Căn lành lớn tợ núi cao, rừng già.[1]

Nhược lâm dục mạng chung, dự tri thời chí, thân vô bịnh khổ, tâm bất tham luyến, bất ý điên đảo, như nhập thiền định, Phật cập thánh chúng, thủ chấp kim đài, lai nghinh nhiếp ngã, ư nhứt niệm khoảnh, sanh cực lạc quốc, hoa khai kiến Phật, tức văn Phật thừa, đốn khai Phật huệ, quảng độ chúng sanh, mãn bồ đề nguyện, quảng độ chúng sanh, mãn bồ đề nguyện.

Mai sau trăm tuổi sấp đà,

Đến, cho biết trước năm, ba ngày giờ:

Thân không đau khổ ngất ngơ!

Lòng không tham tiếc, ngây khờ, đảo điên!

Lâm chung như lúc vào thiền;

Phật cùng thánh chúng, kim liên đài vàng:

Đem qua để rước con sang,

Chỉ trong một niệm cõi vàng vãng sanh. 

Trên hoa thấy Phật nghe kinh:

Phật thừa, Phật huệ đều rành suốt thông.

Chúng sanh mấy, độ cũng xong:

Bồ đề mãn nguyện, mỗi lòng đều phu.

Nguyện sanh Tây phương tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bà-tát vi bạn lữ,

Nguyện về tịnh độ tây cù;

Sen phô chính phẩm, hoa bù Đôi Thân.

Nở hoa, thấy Phật, chứng chân;

Bạn hiền Bồ -tát, quả thân bồ -đề.

(Ba bài “Tịnh độ văn” trên đó, có thể thành sáu bài: ba bài dịch âm, ba bài diễn ca (văn vần). Mỗi thời, mà đến chỗ niệm Phật rồi, tùy ý đọc một bài nào cũng đặng, nghĩa là: đọc bên bài dịch âm, thì, đừng đọc bên bài diễn ca; hoặc đọc bên bài diễn ca thì, khỏi đọc bên bài dịch âm; tức nhiên: sáu thời niệm Phật, có sáu bài sám. -Đối với ba bài “tịnh độ văn” trên đây, ngài Bích Liên hòa thượng có diễn ca ra ba bài, cũng xin trích đăng ở phần “phụ” sau kia, để: trước là chung làm pháp thí lưu thông; sau là, các bạn xem xét cả hai bên, để cho thêm rõ ý nghĩa.

Lại, cũng xin chép lại hai bài “Tống chung” của ngài Bích Liên và, ngài Thái Không vào phần “phụ” ấy, để lưu thông cho rộng thêm.

 “Hoa bù” = bù: có nghĩa bồi thường, thay thế, vì hoa sen thay vì cha mẹ để hóa sanh cho chúng sanh niệm Phật được vãng sanh.)


 [1] 2 câu này theo ý ngài Huệ Lưu, mà có sửa đổi chút đỉnh: “đá mài dao” thì, lâu mòn lắm! Nước đá thì mau tiêu hơn! Là muốn cho tội cũng mau tiêu như thế.