QUYỂN THỨ HAI

      Đất Cổ Hàng chùa Vân Thê Sa Môn Chu Hoằng thuật lại.
Tổng Thích Danh Đề (phân ra làm hai phần)

      1. Đề nghĩa: nghĩa của kinh này.
2. Dịch nhơn: người dịch ra chữ Tàu.

1. Đề Nghĩa

      Như nghĩa tám môn trước đã kể bày, được biết đại ý trong một kinh rồi. Bây giờ muốn giải thích lối văn, trước phải nói tổng đề, làm cho mạch văn có lề liếp; nên kế đây tổng thích danh đề.

      PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH

Sớ: Đề nghĩa có bốn: 1. Phật năng thuyết; 2. Chính đương thuyết; 3. Phật bị thuyết; 4. Tổng kết tên ai thuyết.

Nghĩa là đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở cõi này nói kinh này kể y báo, chánh báo trang nghiêm, tín, nguyện được vãng sanh về nước Phật A Di Đà ở cõi kia. Tổng quát đại ý, lần lượt sẽ chia ra giải như sau đây:

Sao: “Tổng quát” là: Trước lược nêu toàn văn, để cho mạch văn thông suốt, ý nghĩa đầy đủ, sau tuần tự mỗi mỗi giải riêng. Đầu đề chỉ nói tên Phật, mà sau đây lại nói cả y báo, chánh báo v.v… là gì? Trong Quán kinh dạy: “Nói Phật là đủ, cho nên nói Phật là gồm thâu tất cả”.

Sớ: Lần lượt chia ra giải: Chữ “Phật” nói đủ theo tiếng Phạn là: Phật Đà (bực đã giác ngộ), Tàu dịch là Giác Giả vì đủ ba nghĩa Giác; lại dịch: Trí Giả. Bởi vì không chỗ nào mà ngài chẳng biết. Lại chữ Phật là một hiệu trong mười hiệu (từ Như Lai, Ứng Cúng v.v… cho đến Thế Tôn). Lại trong kinh Thập Địa nói: “Chữ Phật có mười nghĩa”. Tổ Thiên Thai Trí Giả nói: “Chữ Phật có sáu nghĩa”; còn kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật có đủ mười thân”. Cho nên nói đức Phật là Trời trên các hàng trời; Thánh trên các bực Thánh. Phàm chỗ nào nói riêng một chữ Phật tức là chỉ ngay đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni vậy.

Sao: Chữ Phạn: nghĩa trong sạch. Đối với chữ Tàu nói Phạm là nghĩa văn chất đều có đủ.

Chữ “Cụ” là Cụ Túc. Nói đủ theo tiếng Phạn (Brahma) thì nói Phật đà (Buddha). Nay không nói chữ “Đà” là bớt văn. Nếu dịch theo tiếng nước Tàu thì ta đọc là bực Giác, vì đối với chúng sanh mê mà nói ngài là Giác.Song Giác có ba nghĩa: 1. Tự giác khác với phàm phu. 2. Giác tha khác với Nhị thừa. 3. Giác mãn khác với Bồ Tát.

Ba giác đầy đủ nên nói Ngài là Tự, Tha, Giác mãn.

Lại ly vọng tâm là Tự Giác; ly sắc trần là Giác Tha; ly cả hai: vọng tâm, sắc trần, gọi là Giác Mãn cũng là nghĩa tam giác. Lại nói là Trí Giả; Trí tức là nghĩa Giác.

Câu “không chỗ nào mà Ngài chẳng biết” là trong Luận Trí Độ nói: “Ngài biết tất cả chúng sanh và chẳng phải số chúng sanh, thường và vô thường (1), vì cái trí của Ngài không chỗ nào mà Ngài chẳng biết, nên xưng tụng Ngài là ông “Đắc Nhứt Thế chủng trí”, tức là nghĩa Giác mãn….

Câu “Mười hiệu” là đức Thế Tôn đủ cả muôn đức, không thể nói cho hết. Nay chỉ lược nói từ hiệu Như Lai cho đến hiệu Phật cộng có mười hiệu, mà Phật chính là một hiệu trong mười hiệu. Vì có đủ mười đức đây, là chỗ tôn chủ của cả thế gian và xuất thế gian nên gọi là Thế Tôn.

Nói Phật có mười nghĩa là: Đủ hai trí căn bản trí (2) và hậu đắc trí (3), đoạn hai chướng phiền não chướng (4) và sở tri chướng (5). Giác chơn đế (6) và tục đế (7), đặng hai lợi: tự lợi và lợi tha. Và hai ví dụ: Mộng giác và Hoa khai, hiệp làm mười nghĩa.

Chữ “Phật” có sáu nghĩa: Đầu tiên là lý tức Phật (nói tất cả chúng sanh sẵn có Phật tánh), rốt sau là cứu cánh tức Phật (nói quả vị Diệu Giác). Số là ban đầu thì toàn giác, bị toàn mê chặng giữa. Giác mà chưa thiệt Giác, rốt sau mới thiệt hoàn toàn không chỗ nào mà không giác. Nay nói chữ Phật đây là chỉ ngay ông Phật cứu cánh toàn giác vậy (8).

Phật có mười thân là: Thứ nhứt Chánh Giác Phật đến thứ mười Tùy Nhạo Phật, rõ đủ trong phẩm Ly thế gian. Mười thân Phật đây, duy trong kinh Hoa Nghiêm có nói (9).

Song tóm chỗ đại yếu, dầu mấy thân cũng chẳng ra ngoài nghĩa Giác Mãn, cho nên nói mười thân được viên mãn, ngôi Chánh Giác mới thành tựu, gọi là Viên Mãn Phật.

“Trời trên các hàng trời” là: Trời có bốn cảnh giới: 1. Trời thế gian: Các vị vua trong nước. 2. Trời sanh Thiên: Các Trời trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới, và Vô Sắc giới. 3. Trời Tịnh Thiên: Các thánh Tứ quả: Bích Chi Phật. 4. Trời Nghĩa Thiên: Các thánh Thập Trụ Bồ Tát.

Với bốn trời nói trên đây, Phật đều siêu vượt hơn cả nên nói Phật là Trời trên các hàng Trời.

“Thánh trên các hàng Thánh” là: Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát, tuy đã chứng quả Thánh mà chưa hơn. Duy có Phật là quả cực điểm nên nói: Phật và Thánh trên các hàng Thánh.

Tức đức Thích Ca là: Với đời quá khứ, đời vị lai, hãy nêu lên ông Phật chi? Tức đức Thích Ca hiện ngồi chốn đạo tràng nên chỉ xưng một mình ngài vì trong một cõi không hai vị Phật, dụ như: Đế vương triều đại thời xưa, phải xưng gọi có một quốc hiệu, còn với nhà cầm quyền thời nay thì chỉ xưng gọi ngay là đấng Chí Tôn, cũng bởi cớ trong một nước không có hai vua, hay hai ông quốc chủ.

Như vậy thì đủ hiểu: Phàm chỗ nào nói một chữ Phật tức chỉ ngay cho thái tử Tất Đạt Đa tu thành Phật hiệu Thích Ca là Phật thứ tư trong Hiền kiếp (kiếp hiện tại) này vậy.

Sớ: Chữ (Thuyết) là đẹp, là vui đẹp trong lòng, vì bốn biện tài tuyên diễn từ 12 bộ kinh luôn đến bốn món Tất Đàn đều là nghĩa thuyết cả.

Sao: “Vui đẹp trong lòng” là gì? Bản nguyện độ sanh của Phật nhằm cơ thuyết pháp vui đẹp trong lòng. Như trong kinh Đại Bổn nói: “Đức Thế Tôn muốn thuyết kinh này, trước khi nói, các căn đã ửng đỏ, gương mặt vui tươi khác thường”. Huống chi nay pháp trì danh niệm Phật đây đã nhằm cơ mà thuyết, sự vui thích biết chừng nào.

Bốn pháp biện tài là: Nghĩa biện, Pháp biện, Từ biện và Nhạo thuyết biện tài. Cả 4 món đều không ngần ngại nên nói là thuyết.

Bộ Trung Luận nói: “Các đức Phật y hai Đế (Chơn đế và Tục đế) để vì chúng sanh thuyết pháp”. Có trí: Từ (lời) không ngại, vì lấy trí thế gian để nói về sự sai biệt, có trí nhạo thuyết (thích nói) không ngại vì lấy trí đệ nhứt nghĩa để nói về sự hay khéo.

Trong đây không nói hai điều: Nghĩa biện và Pháp biện, là vì nói hai pháp sau này gồm luôn cả hai pháp trước. Bởi Từ biện và Nhạo thuyết biện đã gồm nhiếp Nghĩa biện và Pháp biện rồi.

Mười hai bộ kinh (phần giáo) v.v… là pháp bị thuyết.

Chữ “Tất Đàn” hiệp cả tiếng Hoa và tiếng Phạm là Biến Thí. Đã dùng bốn môn: Thế giới; Vị Nhơn; Đối Trị; và Đệ Nhứt Nghĩa làm bốn điều lợi ích chúng sanh là: Hoan hỉ, sanh thiện, diệt ác và vào Đạo.

Mười hai bộ kinh với tất cả các pháp, tùy trường hợp mà thuyết có vô lượng phương tiện. Song tóm tắt cũng chẳng ngoài: thế giới, luôn bốn thuyết Tất Đàn làm cho người đặng hoan hỉ… bốn điều lợi ích mà thôi. Xem cơ trao pháp, văn kia nhiều và rộng, lược nói không hết.

Sớ: Phật thuyết là: Vì lựa riêng giữa năm người thuyết.

Sao: Năm người là Phật (1), Bồ Tát (2), Trời (3), Tiên (4), hóa nhơn (5). Năm người đây đều thuyết kinh được. Nhưng nay nói rõ kinh nầy là vị chí thánh lập lời, chính lời kim khẩu của Ngài thuyết, chẳng đồng với các hàng Bồ Tát còn ở khoản tu nhơn. Trời thuộc loại phàm, Tiên xen với ngoại đạo, hóa nhơn chẳng phải thiệt người.

Dụ như lời chiếu của vị thiên tử đâu có đồng với hàng bá quan tể tướng cùng lời các ông vua trong các nước nho nhỏ.

Sớ: A Di Đà là nêu rõ đức Phật ở cõi kia. Tiếng Phạm “A” dịch “Vô”. Tiếng Phạm Di Đà dịch “lượng”. Nghĩa là, công đức của Ngài không thể cùng tột. Cho nên nói rằng: Vô Lượng. Như trong kinh nói: “Thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng” là trong những vô lượng, chỉ nói vài việc, gồm các công đức kia vậy.

Sao: Vô lượng có hai nghĩa:

1. Đông nhiều không có số lượng.
2. Rộng lớn không có hạn lượng.

Lại có hai nghĩa:

A. Vô lượng là một trong 10 con số lớn (kinh Hoa Nghiêm có đủ).
B. Vô lượng là lại vô cùng tận.

Chỉ nói có vài việc là: Với vô lượng chẳng những thọ mạng và quang minh mà thôi. Rõ như trong văn sau có biện.

Sớ: Chữ kinh. Tiếng Phạm nói Sutra (Tu Đa La), Tàu dịch: “Khế kinh”, có Thông và Biệt hai nghĩa. Chữ Khế cũng có hai nghĩa. Chữ Kinh lại có nhiều nghĩa. Kinh tuy có nhiều nghĩa, nhưng chẳng ngoài bốn nghĩa là: Quán, Nhiếp, Thường và Pháp.

Sao: Thông, Biệt là: Những giáo pháp bị Phật thuyết chung kêu là: Tu Đa La, đó là nghĩa Thông. Nếu chia ra thời: Kinh là Tu Đa La, Luật là Tỳ Nại Da, Luận là A Tỳ Đàm; đó là nghĩa Biệt.

Chữ “Khế”, có hai nghĩa là: 1. Khế lý: Lời nói hợp với đạo lý. 2. Khế cơ: Giáo pháp hợp với căn cơ. Nay bỏ chữ Khế chỉ nói chữ Kinh là bớt văn vậy.

Chữ “Kinh”, lại có nhiều nghĩa là: Kinh Hoa Nghiêm, lời sớ dẫn tạp tâm có năm nghĩa: 1. Xuất sanh; 2. Hiển thị; 3. Dũng tuyền; 4. Thằng mặc; 5. Kiết man.

Luận Phật Địa nói có 2 nghĩa: 1. Quán xuyến; 2.Nhiếp trì.

Phương đây (Tàu) có bốn nghĩa: 1. Thường; 2. Pháp; 3. Cảnh; 4. Điển, cho nên nói có nhiều nghĩa.

Câu “Không ngoài bốn nghĩa” là chỉ cho bốn chữ Quán, Nhiếp, Thường và Pháp. Bởi vì chữ kinh, bên Tây Vức dịch là Tuyến (sợi chỉ). Tuyến có nghĩa là Quán Trì. Quán là xâu xỏ, những giáo lý bị thuyết. Trì là: Thâu giữ những chúng sanh được giáo hóa khỏi đọa. Hai nghĩa đây gồm đủ năm nghĩa: Xuất sanh, Hiển thị v.v… nói trên. Nhưng kinh điển phương này (Tàu) cũng kêu là Kinh. Kinh là nghĩa Tuyến. Song nước Tàu không quý chữ Tuyến nên chỉ nhận chữ Kinh lại thêm chữ Khế. Thường: Xưa cho vậy là đúng đắn. Lại chữ “Thường” là: Xưa nay không đổi. Chữ Pháp là: Gần xa đồng tôn. Chữ “Thường” là: Lâu mà vẫn tuân hành theo, có nghĩa chung nói, tức là Cảnh (con đường).

Chữ “Pháp” là: Pháp tắc chơn chánh có nghĩa nhứt định, tức kêu là Điển (khuôn mẫu). Cũng có hai nghĩa: Thường và Pháp đây gồm đủ hết bốn nghĩa kia (Thường, Pháp, Cảnh, Điển). Thế thời cõi kia (Ấn Độ) nói Quán và Nhiếp cũng như phương này (Tàu) gọi Thường và Pháp; hiệp chung lại mà nói: “Ở trong bốn chữ, đều đủ nghĩa Kinh vậy”.

Sớ: Lại chữ “kinh” còn có hai nghĩa Thông và Biệt. Một chữ “Kinh” gọi là Thông (chung). Còn năm chữ “Phật Thuyết A Di Đà” gọi là Biệt (riêng). Chí như Giáo, Hành và Lý, Thông và Biệt cũng thế. Ba chữ đây (Giáo, Hành, Lý) tức phối với ba đức (Pháp thân, Bát Nhã, Giải thoát) viên dung cụ túc. Như Ngài Thiên Thai nói: “Vừa nghe đầu đề tên kinh, công đức đã vô lượng”. Bằng phối với ba đại, thời Phật là thể đại, Vô Lượng Thọ là tướng đại, Vô Lượng Quang là dụng đại như trong phần giáo đã nói.

Sao: Giáo, Hành, Lý là gốc do nơi Lý mà lập Giáo; y nơi Giáo để tu hành, nhờ tu hành mà rõ được Lý. Các kinh đều đủ cả ba: Giáo, Hành, Lý, nên gọi là “thông” (chung). Bằng chuyên chỉ riêng kinh này thì hai chữ: “Phật thuyết” là Giáo. Bốn chữ “chấp trì danh hiệu” là Hành. Ba chữ: “A Di Đà” là Lý. Theo đây khác với trên nên gọi kinh này là “Biệt” (riêng).

Phối với ba đức là. 1. Lý tức là Pháp thân; 2. Giáo tức là Bát Nhã; 3. Hành tức là Giải Thoát.

Lại Lý thông cả Hành và Giáo thì Pháp thân tức là Bát Nhã và Giải Thoát, cho đến hành thông cả Lý và Giáo, hay theo Giáo thông cả Lý và Hành chẳng hạn. Nói một tức là ba; so trên nên biết.

Thể, Tướng và Dụng: Chữ Thể là Tổng Thể, nghĩa là nói Phật thì đủ biết, cho nên lấy chữ “Phật” làm thể.

Chữ Tướng là trong Thể sẵn đủ các Tướng. Thể vô tận, Tướng cũng vô tận, cho nên lấy ba chữ “Vô Lượng Thọ” làm Tướng.

Chữ Dụng là trong Thể phát sanh Dụng. Thể chiếu tới đâu Dụng cũng chiếu tới đó, cho nên lấy ba chữ “Vô Lượng Quang” làm Dụng, hoặc Thông hoặc Biệt cũng so như trên.

Sớ: Các kinh lập danh đề, phần nhiều lấy cả ba món Nhân, Pháp và Dụ. Hoặc có kinh dùng một, hoặc có kinh dùng hai. Kinh này riêng dùng một Nhân (người). Người lại có hai, vì người chứng quả trong hai cõi, thiệt ra thời cả ba: Nhân, Pháp và Dụ đều dung thông.

Sao: Một hai là như kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm đầy đủ cả ba: Nhân, Pháp và Dụ. Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân có Nhân và Pháp, không Dụ. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có Pháp, Dụ mà không Nhân. Kinh Bồ Tát Anh Lạc có Nhân, Dụ mà không Pháp. Kinh Đại Bát Nhã có Pháp mà không Nhân, Dụ. Kinh Phạm Võng có Dụ mà không Nhân và Pháp. Nay kinh này đây chỉ có Nhân mà không Pháp và Dụ. Các kinh khác đều so theo đây, sẽ rõ.

Người chứng quả trong hai cõi là Bồ Tát tại Nhân, Như Lai tại Quả, nên Phật gọi là quả nhân. Nay đức Phật Thích Ca ở phương này (Ta Bà) giới thiệu Phật A Di Đà ở nước kia (Cực Lạc).

“Dung thông” là vì nói một tức ba. Như kinh Di Đà này mặc dầu riêng thuộc một nhân. Nhưng có Nhân mới nói Pháp, có Nhân mới lập Dụ. Tuy rằng lời thiên, nhưng nghĩa viên, chung đồng lẫn suốt lý cố nhiên như vậy.

Sớ: Nguyên kinh nầy tên là “Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm”. Nay, ngài La Thập cải đính lại có hai nghĩa: 1. Phật nhiếp vô tận nghĩa cố. 2. Bỉ Phật nhơn sở nhạo văn cố.

Sao: “Nhiếp vô tận” là như văn trước nói Phật là đủ, thời tất cả công đức đều từ Phật mà ra, vì Phật là bất khả tư nghì. Lại Di Đà là vạn đức hồng danh, tất cả chúng sanh trong mười phương ba đời đều ưa thích. Trên từ chư Phật đều tán thán, dưới đến ngạ quỉ súc sanh cũng đều ham mộ quy y; chính là bất tư nghì công đức.

Sớ: Sớ sao là gì? Lời sớ để giải nghĩa kinh; lời sao để giải lại nghĩa của lời sớ cho dễ hiểu.

Sao: “Sớ”: Xưa nói có hai nghĩa: Riêng bày và ghi nhớ. Nay nói nghĩa kinh đây được rõ bày mà khuất ẩn, ghi nhớ mà chẳng sót và quên. “Sao” xưa nói có hai: Tóm lấy và biên chép. Tóm lấy thời riêng bày chỗ thiết yếu. Biên chép tức ghi nhớ cho rõ ràng. Chữ “ký” là trông mong. Phàm nghĩa kinh khó hiểu, nhờ lời sớ giải thông. Lời sớ khó hiểu, nhờ lời sao nói ra rành mạch, trông mong mỗi người hiểu rõ nghĩa kinh!

Sớ: Xứng lý thời tự tánh Giác là nghĩa chữ “Phật”. Tự tánh giác vô lượng là nghĩa “A Di Đà”. Tự Bổn, Thỉ đều giác là nghĩa hai người chứng quả trong hai cõi. Tự tánh thể giác khắp soi là nghĩa thuyết kinh, sau cũng lệ theo đây.

Sao: Xứng lý là do tức sự tức lý, chỗ gọi rằng gồm thâu muôn loài, tức là nhứt tâm, thời y báo, chánh báo đâu chẳng phải tự tánh? Lại tức lý là sự y nơi lý mà thành. Như kinh Tịnh Danh nói: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”. Nay kinh này nói: “Nhứt tâm bất loạn” tức tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, là tông chỉ trong bộ kinh này, nói tóm hiệp với lý, nên gọi là xứng lý.

Chữ Giác là nghĩa tổng. Trong thể chữ Giác rộng lớn thênh thang vô cùng tận là nghĩa biết Bổn, Thỉ có hai nghĩa. Luận theo trước sau mà nói: Thời Phật A Di Đà là cổ Phật, đức Thích Ca là Phật mới thành, thế thì Phật kia là Bổn, Phật đây là Thỉ; tức tự tánh bản lai sẵn có Phật là “Bổn’, bị vô minh che lấp nay mới phá hoặc chứng trí là ‘Thỉ’. Luận về nhơn quả mà nói: Thời Phật đây (Thích Ca) dạy bảo vãng sanh mới được thấy Phật A Di Đà, là đây Bổn kia Thỉ, tức là tự tánh sẵn có trí thành Phật là Bổn. Y nơi Bổn trí mà tìm Phật trí mới đặng thành Phật là Bổn, Thỉ lẫn Thông, thường giác bất muội, sáng cả trời, chói soi cả đất, xưa suốt nay, thường nói kinh trăm ngàn muôn ức pháp hội, như vậy.

Hỏi: Lời sớ sao kinh này chính là phát huy công đức trì danh, khắp khuyên mỗi người cầu sanh về cõi kia, thế sao cứ mỗi mỗi tiêu qui về tự tánh, thế là phương pháp trì danh trở thành lời cực tắc (quá cao), rõ ràng Tịnh Độ là tâm, hà tất bỏ đây nguyện về kia làm gì?

Đáp: Đây chính là trùm cả hai căn, phá cả hai hoặc như trong bài tự trước đã rõ. Bởi do độn căn chấp nơi sự tướng mà cho là đủ. Xem kinh này khiến cho họ biết ‘sự’ còn có ‘lý’, chớ chấp sự mà bỏ lý. Người lợi căn chuộng lý tánh mà chấp không, xem kinh này khiến cho họ biết lý còn ở trong sự, chớ nên bỏ sự chỉ tìm lý.

Lại kinh này vốn vì mượn hai chữ danh hiệu của Phật kia để chỉ rõ tự tâm của mình, cũng đồng ý với kinh Thập Lục quán. Thời những người muốn ngộ tâm mình, chính phải niệm Phật cầu vãng sanh.

Lại, vị Bồ Tát còn phải gần Phật như trong khoa Giáo Khởi trước đã nói. Thế thời người đã ngộ tâm mình, cũng chính phải niệm Phật cầu sanh, có chi phải nghi vậy?

Lại, kinh Duy Ma nói: “Tuy biết cõi nước của chư Phật cùng với chúng sanh là không, vì nhơn duyên giả có, nhưng thường tu Tịnh Độ và giáo hóa chúng sanh” cho nên lo là lo với tâm mình mà mình chẳng ngộ vậy thôi. Nếu tâm mình mà mình đã tỏ ngộ rồi thời không có một Pháp nào ra ngoài tự tâm. Bấy giờ tức tâm là cảnh, tức cảnh là tâm, vãng sanh về Tịnh Độ, ra mắt Phật Di Đà, đã chẳng ngại chi với duy tâm, mà cũng không hệ gì với tự tánh!

Lại hỏi: Người xưa nói kinh Hoa Nghiêm là kinh cực giáo tối thượng thừa, đều có thể tu theo phép quán hạnh để rõ các pháp môn thì chẳng nói chi; còn từ kinh Phương Đẳng sắp xuống (trong Tiểu Thừa) cũng bảo tu pháp quán hạnh làm sao được?

Cổ đức đáp: Các kinh liễu nghĩa (Đại Thừa) cùng kinh bất liễu nghĩa (Tiểu Thừa) cũng đều là liễu nghĩa cả vì chỉ có một cái tâm mà thôi.

Căn cứ theo đây, thời bực viên cơ đối với các kinh giáo, kinh giáo nào mà chẳng viên; những bậc đã nhận được lý tâm khi gặp sự thì sự gì chẳng đúng lý?

2. Dịch Nhơn

      Đời Dao Tần, ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch

      Sớ: Dao Tần là nêu cái đời. Tam Tạng là rõ cái đức, La Thập là tên ngài. Một chữ ‘dịch’ là kết thành người năng dịch.

Sao: Chỗ xuất sư: từ đầu chí cuối đã đủ ở văn trước, đây không chép lại nữa. Xưa nói ngài La Thập đã làm pháp sư dịch kinh từ bảy đức Phật đến nay. Song đây cũng nói lược và lấy bảy đức Phật mà nói tóm thôi. Nếu luận cho đúng thời từ Phật Tỳ Bà Thi cho đến Phật Thích Ca, trước sau chỉ trải có hai đại kiếp Trang Nghiêm (quá khứ) còn trên chín kiếp, đã trải biết mấy muôn vị Phật, và chư Phật trong 6 phương không vị nào mà chẳng tán thán kinh này. Thế thì từ một muôn vị Phật trở lại đây, chắc cũng đều có nói kinh này và chắc cũng đều có người dịch.

Mà trong kinh nói ‘Mẹ Phật’ là nói mỗi đời vị Phật nào giáng sanh, ta (bà Ma Gia) đều làm mẹ đấy. Con Phật thì nói: “Mỗi đức Phật ra đời, ta (La Hầu La) đều làm con đấy”. So đó, thời biết ngài La Thập làm pháp sư dịch kinh, chẳng những bảy lớp Phật! Mà kinh này lưu thông lâu xa, đối với đây càng thêm tin.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh dung thông rỡ rỡ, là nghĩa tiếng Trung Hoa dịch nơi tiếng Phạn.

Sao: Tức Phạn dùng thành Trung Hoa, thời Hiển chẳng ngoài Mật. Chính Hoa chưa từng chẳng phải Phạm là nghĩa Mật vẫn ở bên Hiển. Ngay trong tối có sáng, ngay trong sáng có tối, tối sáng, lẫn nhau lớp lớp, xen vào thể mầu dung thông, không đồng và chẳng khác (bất nhứt bất dị).

Riêng Giải Văn Nghĩa (phân ra làm ba phần)

1. Tự phần (phần tựa của kinh).
2. Chánh tông phần (phần chánh của kinh).
3. Lưu thông phần (phần lưu thông).

1. Tự Phần (phân ra làm hai phần)

A. Ngũ cú chứng (5 câu làm chứng tín).
B. Liệt chúng chứng (kể chúng làm chứng).

Ngũ Cú Chứng

(Lời ông A Nan thuật giữa chúng hội)

Chính ta nghe như vầy: Một thuở nọ đức Phật ngự tại nước Xá Vệ, nơi rừng cây Thái Tử Kỳ Đà và vườn ông Cấp Cô Độc.

Sớ: Riêng giải văn nghĩa: Đã biết cái ý chung của đề rồi, nhưng chưa biết trong đó từ đầu chí cuối, lối văn như thế nào? Nay mới phân từng bài, giải từng câu khiến nghĩa văn tự Bát Nhã thông thấu lý thật tướng Bát Nhã. Bởi vì tạm dùng lời hữu tận lược bày lý vô tận. Ở trong ba phần, nay thuộc về Tự phần nghĩa phần của kinh này.

Chữ Tự là kể bày và mối mang vậy. Nghĩa là: Chưa vào chánh văn, trước kể bày cái mối mang của kinh này. Có hai lời tự: Chứng Tín và Phát Khởi. Nay duy có lời tự chứng tín. Phàm Chứng Tín đều đủ sáu món thành tựu. Nay thuận theo văn, cân chỗ nhiều và ít, lại phân làm hai; trước nói Ngũ Cú Chứng, sau nói Liệt Chúng Chứng, hiệp lại thành sáu. Đây lại lệ theo trước tổng quát đại ý; sau mới chia ra để giải.

Nghĩa là: Với pháp như thị (như vậy) ta theo Phật để nghe. Một thuở kia, đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp nơi Kỳ Viên tại nước Xá Vệ. Vì lời đây là Phật dạy ông A Nan nói như vậy. Câu: “Như thị ngã văn’ có 3 nghĩa: 1. Nghĩa đoạn nghi. 2. Nghĩa tức tránh (dứt sự tranh cãi). 3. Nghĩa giản tà (để hiển chánh).

Sao: “Văn tự Bát Nhã” nghĩa là đối với thật lý Bát Nhã không thể nói được, nhưng nay nhờ lời nói mà rõ đặng nên đức Phật dùng văn tự nói kinh. Nay mượn văn tự mà giải thích. Song văn tự nó vốn không; tức là Chơn Như thật tướng. Cho nên ba món Bát Nhã văn tự, quán chiếu, thật tướng đều là dung thông lẫn nhau, không ngại gì với văn tự vậy.

Lược bày là lời nói không hết ý, nên nói rằng: “lược sáu món thành tựu”. “Phân phối hai khoa” là lệ như: ngũ uẩn và lục căn, hoặc hiệp sắc khai tâm, hoặc hiệp tâm khai sắc, tùy theo chỗ hợp không nhứt định một Pháp nào. “Phật dạy” là: trong bộ luận Trí Độ nói: “Khi Phật sắp nhập Niết Bàn, Ngài có dạy ông A Nan rằng: “Tất cả đầu kinh đều để câu: ‘Như thị ngã văn, nhứt thời Phật tại’ nước nào xứ nào”. Đó là do ông A Nan vì vâng theo lời trối dạy của Phật.

“Đoạn nghi” là khi ông A Nan kiết tập, trong chúng khởi ba điều nghi: 1. Nghi Phật sống trở lại. 2. Nghi ông A Nan thành Phật. 3. Nghi Phật ở phương khác đến nhập cho ông. Nay nghe nói câu: ‘Như thị ngã văn’ ba điều nghi liền dứt hết.

“Tức tránh” là: Nói chữ “ngã văn” là không phải tự A Nan bịa nói ra.

“Giản tà” là nói chữ “như thị” là để khác với chữ A Ưu của ngoại đạo. Như trong Luận Phật Địa nói pháp như thị. Ta trước từng nghe ý lánh sự lỗi lầm, tăng giảm, riêng khác, cũng là nghĩa ngăn dứt việc tranh cãi với nhau.

Sớ: Chữ Như Thị là Tín thành tựu, như trong Luận Trí Độ nói: “Hai chữ ‘Như thị’ lại làm hai nghĩa”. Có nhiều cách giải: Nếu cứ theo tông lựa nghĩa nhứt định; luận đứng về tông đây (Tịnh Độ tông) như: Nhứt tâm bất loạn là Như; cứ thế mãi không sai là Thị.

Sao: Luận Trí Độ nói: “Biển cả Phật pháp, tin là vào được”. Với việc tin thì nói việc ấy như thế (như Thị); với điều không thể tin thì nói: việc ấy không phải như thế (bất như thị).

Ngài Triệu Công Giản nói: “Như Thị là lời tín thuận vậy”. Cho nên người đời tin chịu, cũng nói rằng Như Thị. “Lại có hai nghĩa” là chia hai chữ “như thị” ra đều có giải thích riêng. “Có nhiều cách giải”: Có chỗ nói vị “Thánh nhơn thuyết pháp rõ bày lý chơn là Như, duy lý chơn như là Thị” như ngài Lưu Cầu đã nói. Có chỗ nói: “Chữ Như là lời đúng lý, chữ Thị là lời không quấy” như ngài Sanh Công đã nói. Có chỗ nói: “Đức Như Lai thuận theo căn cơ mà ứng hiện là Như, tất cả chúng sanh đều cảm mến là Thị” như ngài Dung Công đã nói. Có chỗ nói: “Lý thật tướng, trước sau chẳng khác là Như; đúng như lý mà thuyết là Thị” như ngài Thiên Thai đã nói. Có chỗ nói: “Chữ Như là lý chơn không, chữ Thị là lý diệu hữu, để chống phá hai lối chấp Thường và Đoạn của ngoại đạo như ngài Thanh Lương Chiết Trung và lời của các nhà giải đã nói. Còn các thuyết nữa sợ phiền không dẫn. Hai chữ “Như Thị” giải như trên đều có ý nghĩa, đại khái thì đồng, tiểu tiết có khác hẳn, nhưng không trái nhau.

Do theo Tông để định nghĩa của hai chữ “như thị” là tùy Tôn mà định. Nay kinh này, lấy chữ nhứt tâm làm tông.

Bởi do chấp trì danh hiệu nhứt tâm bất loạn, nhứt tâm thời không sanh, không diệt, không tới không lui, vắng lặng trong trẻo thường còn nên gọi là Như. Lại nhứt tâm ấy, lìa bốn lỗi (10) diệt trăm điều quấy (11) nên gọi là Thị. Nếu nói khác với đây, không được gọi là Thị.

Sớ: Chữ Ngã văn là Văn Thành Tựu vậy. Chữ Ngã là Tự Ngã, chữ Văn là Thân Văn. Tự Ngã Thân Văn, vì chẳng phải riêng lành với người khác và chẳng phải đọc suông lời của người xưa (12).

Sao: “Tự Ngã Thân Văn”: Chữ Tự là để lựa riêng không phải mình, chữ Thân là không phải vắng mặt, nghĩa là chính thân mình hiện diện để vâng lãnh lời vàng của đức Thế Tôn truyền dạy.

Chữ “riêng” là ông Mạnh Tử nói: “Ta chưa được cái hân hạnh làm học trò đức Khổng Tử. Ta chỉ riêng học đạo lành với các người khác thôi”.

Giải rằng: Vì ông Mạnh Tử chẳng phải là thiệt thấy đức Khổng Tử. Ông thọ học với người cháu nội của đức Khổng Tử thầy Tử Tư mà riêng vâng lãnh đạo kia, để tu thân ấy vậy.

“Đọc suông lời của người xưa” là: Chúa Tề Hoàn Công đọc sách ở nhà trên, người thợ đẽo bánh xe bình phẩm rằng chỗ chúa đọc bất quá nhai bã xác của cổ nhơn thôi.

Giải rằng: Vì chúa Hoàn Công chẳng phải chính mình đối trước mắt cổ nhơn. Cổ nhơn đã chết lâu rồi, bây giờ chỉ đọc suông lời để lại kia vậy thôi.

Nay ông A Nan chính thân gặp mặt vị Chí Thánh, không phải riêng lãnh với ai hết. Đây là hiệp với hai chữ Tự Ngã ở đoạn trên.

Chính tai ông A Nan nghe lời chí giáo, chớ chẳng phải ông đọc suông lời cổ nhơn, hiệp với hai chữ “Thân văn”, ai cũng phải tín thọ không ai dám nói gì nữa (vì A Nan được trực tiếp với Phật).

Sớ: Thánh nhơn là vô ngã, sao nay lại xưng ngã? Luận Trí Độ nói có ba nghĩa: 1. Vì tùy thuận theo thế gian. 2. Vì phá tâm tà kiến. 3. Vì không chấp là vô ngã.

Do ba nghĩa đây đều có nói ngã cũng chẳng ngại gì. Lại pháp thân Phật là Chơn Ngã, cũng có thể xưng ngã được.

Sao: Sau đây lại phân hai chữ “ngã văn” ra làm hai. Giải riêng như trước.

1. Tùy thuận theo thế gian, nghĩa là trong phương diện thế gian pháp nói ngã đó, chẳng phải nói cái Chơn Ngã trong Đệ Nhứt Nghĩa. Nay tùy thuận theo thế gian mà nói, vốn không có thật thể, thời chẳng trái với cái ngã của Đệ Nhứt Nghĩa.

2. Phá tâm tà kiến, nghĩa là tà ngã và danh tự ngã. Người thế tục đủ hai ngã trước. Kẻ học đạo có hai ngã sau. Thánh nhơn chỉ còn một ngã chót. Vì thuận theo thế tục mà xưng ngã (ta), chỉ là cái ngã bằng danh tự, thật không phải tà và mạn, nên không lỗi lầm gì!

3. Không chấp là vô ngã. Vì các vị thánh nhơn biết tất cả pháp đều không, lý thật tướng là vô ngã, nhưng chẳng chấp không, chẳng chấp vô ngã.

Lại trong luận Du Già có bốn nghĩa; chỗ đại khái đồng như đây. Nghĩa thứ ba nói: “Nếu quyết định là vô ngã thời còn có ai tu học và người ắt sanh tâm sợ” cho nên không chấp là vô ngã, mà cứ nói ngã.

Lại trong Quán kinh lời sớ nói: “Vô ngã thời vô văn; vô văn thời việc hóa đạo phải tuyệt”. Vì muốn truyền hóa bất tuyệt nên mượn cái danh giả mà tạm nói rằng ngã (ta).

Pháp thân Phật chơn ngã. Đứng theo phương diện Bản Giác mà luận thời ông A Nan cũng thông với cái ngã pháp thân vậy. Bởi vì trong pháp vô ngã có cái chơn ngã, tức là cái ngã của pháp thân. Như cái ngã trong bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của kinh Niết Bàn thì đối với hai chữ vô ngã có ngại chi?

Sớ: Chữ Văn là: Nhĩ căn phát ra nhĩ thức, bỏ biệt theo tổng, nên nói là “ngã văn” (ta nghe).

Trong kinh Đại Thừa có ba nghĩa: 1. Nghĩa Thỉ giáo thì không nghe. 2. Nghĩa Chung giáo nghe mà không chấp là nghe. 3. Nghĩa Đốn giáo không nghe mà không chỗ nào là không nghe.

Nếu luận theo đúng tông chỉ thời vị thánh nhơn truyền pháp dùng cái chơn ngã và vô ngã không hai. Cái diệu nhĩ bằng chẳng phải đồng hay khác giữa căn và cảnh để nghe pháp môn vô chướng ngại giữa Ta Bà và Cực Lạc vậy thôi.

Sao: Bỏ biệt theo tổng đó là do không nói nhĩ văn (lỗ tai nghe) mà lại nói là ngã văn (ta nghe). Bởi do nói “ta” thời tổng thâu hết các căn, các thức, v.v… lấy tổng gồm biệt, cho nên nói: Ngã văn.

Câu “Thỉ giáo” v.v… là như nói Ta đã không phải là ta thì dầu nghe cũng chẳng ai nghe. Đây là đại ý của Thỉ giáo về Đại Thừa sơ môn.

Như nói: “Từ các nhơn duyên giả hợp, cho nên không”. Không hoại các giả danh; tức không nghe mà nghe, nghe mà không chấp là nghe. Đây là đại ý của Chung giáo về Đại Thừa.

Như nói: “Năng, sở đều yên lặng; người nghe và pháp bị nghe đều vắng lặng”. Không nghe mà không chỗ nào là chẳng nghe, lìa nghĩ tưởng, mà tự rõ bày đại ý của Đại Thừa Đốn giáo.

Câu: “Ngã vô ngã” là sanh mà chẳng tính nơi sanh, chẳng tính sanh mà có sanh cùng khắp, ấy tức là pháp thân.

“Căn và cảnh” là nghe nói Phật A Di Đà, năng văn (người nghe) và sở văn ( Phật bị nghe). Không hai và cũng chẳng phải đồng và khác.

“Ta Bà và Cực lạc” là nói y báo và chánh báo cõi Ta Bà toàn là ở tự tâm của nước Cực Lạc vì do kinh này có phần thuộc về Viên giáo, nên phải qui về pháp tánh.

Sớ: Có người hỏi: Phật thành đạo đã lâu, ông A Nan mới xuất gia, đâu đặng nói “ngã văn”?

Xưa đáp có bốn nghĩa cho nên nói “Văn” cũng không ngại. Lại A Nan có ba ông. Nếu ông này không nghe thì ông kia nghe cũng chẳng ngại chi.

Sao: Người nghi rằng: Phật thành đạo nói pháp trước đã trải qua hai mươi năm thì ông A Nan mới xuất gia, lại mười năm sau, Phật mới dạy làm thị giả (hầu Phật). Mặc dầu được hầu gần Phật, nhưng mà những kinh Phật thuyết ba mươi năm về trước, ông làm sao nghe đặng mà đều gọi Ngã Văn?

Xưa đáp có bốn nghĩa là:

1. Lần lựa nghe: như kinh Báo Ân nói: “Với những kinh ông chưa nghe thời ông theo các thầy Tỳ Kheo để nghe lại”, hoặc các vị Thiên Tử nói lại, như lời lưu thông cho hàng Hoằng Quảng Bồ Tát mà Phật đã dẫn trong kinh Niết Bàn.

2. Phật nói lại: Như Kinh Báo Ân chép: “Ông A Nan nhơn Phật dạy làm thị giả, ông yêu cầu ba việc, mà việc thứ ba là kinh nào ông chưa nghe, ông thỉnh Phật nói lại”…

3. Ông A Nan tự thông, như kinh Kim Cang Huệ nói: “Ông A Nan đã chứng pháp Tánh Giác Tự Tại tam muội, cho nên những kinh ông chưa nghe có thể tự ông nhớ thuộc”. Như kinh Niết Bàn cũng nói. Hoặc có khi ông ở trong pháp hội, hoặc có khi ông không ở trong pháp hội, tự nhiên, ông cũng hiểu rõ được cả.

4. Ngài Thanh Lương chiết trung phê bình ba thuyết trên, nói: “Ông A Nan chính là bực Đại Quyền Bồ Tát ảnh hưởng hoằng truyền”. Như kinh Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: “Ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên nhẫn đến ông A Nan v.v… đều là bực Đại Quyền Bồ Tát hiện thân Thinh Văn”. Chấp chi danh tích nhỏ mà nói không nghe!

Ba ông A Nan là:

1. Tên Hoan Hỷ. Ông này kiết tập tạng kinh Thinh Văn.
2. Tên Hỷ Hiền. Ông này kiết tập tạng kinh Duyên Giác.
3. Tên Hỷ Hải. Ông này kiết tập tạng kinh Bồ Tát.

Thế thời ông A Nan dùng sức đại thần diệu để tùy cơ dạy bảo chúng sanh. Vậy nên biết nhứt đại thời giáo của đức Như Lai, ông A Nan này không nghe thời ông A Nan kia nghe, có chi mà phải chấp rằng nghe cùng không nghe mà làm chướng ngại?

Sớ: Chữ “nhứt thời” là thời thành tựu. Thầy trò hợp nhau, đương khi kẻ nói, người nghe xong rồi tức gọi là một thời. Do vì kẻ nói, người nghe không nhứt định nên không nói năm, tháng, ngày, giờ nào; bởi mười phương thời giờ bất nhứt, hai cõi (Ấn Độ và Trung Hoa) ngày mùng một tháng giêng chẳng đồng nhau. Luận đúng tông chỉ kinh nầy thời trong khi kẻ nói, người nghe, tâm cảnh bặt dứt, thánh và phàm hợp nhau, y báo, chánh báo dung thông, một và nhiều bằng bực; đây là cái thời mà các pháp còn đối đãi đi đôi, như thế đều thông nhứt làm Một, thì gọi là “nhứt thời” vậy.

Sao: “Kẻ nói người nghe không nhứt định” là: Hoặc người nói là người đã chứng pháp “Đà La Ni” (pháp tổng trì) thời trong một phút thông một chữ, có thể nói hết tất cả pháp môn. Hoặc người nghe là người đã đặng nhĩ căn thanh tịnh, ở trong 1 phút, nghe một chữ, có thể nghe suốt hết cả, bao nhiêu cũng chẳng chướng ngại. Hoặc kẻ nói chỉ ít thời người nghe thành nhiều thời. Hoặc kẻ nói nhiều thời, người nghe thành ít thời. Kẻ nói thần lực dài ngắn tùy chỗ thích hợp; người nghe căn khí lợi độn chẳng phải một. Người xưa nói: Đối với 3 thừa, 6 phàm, 4 thánh chỗ thấy biết: pháp thân, báo thân và hóa thân cùng năm, tuổi dài, vắn, thành Phật đã lâu hay mau mỗi mỗi chẳng đồng, cho nên nay chỉ lấy trong khi Phật và đệ tử, thầy trò cơ cảm gặp nhau, kẻ nói người nghe xong rồi thì gọi đó là “nhứt thời” thôi.

“Mười phương thời giờ”: Hễ nói mười phương là khắp cùng ngang dọc. Dọc thời thấu đến cõi trời (cõi Tứ Thiên một ngày bằng dưới cõi người năm mươi tuổi). Ngang thời rộng khắp cả bốn châu (canh ba của châu Nam Thiệm Bộ bằng khi giờ ngọ của châu Bắc Cu Lô) nên không nhứt định là thế.

“Hai cõi ngày chánh sóc” là: Ngày đầu năm kêu là ngày “chánh sóc”, nước Chấn Đán (nước Tàu), cõi Ngũ Thiên (Ấn Độ) không thống thuộc nhau. Nhà Châu lập tháng giêng vào tháng Tý (tháng 11 âm lịch). Nhà Hạ lập tháng Giêng vào tháng Dần (tháng Giêng ta).

Hồi đó nước Chấn Đán thuộc nhà Châu (1134 -247 trước Tây lịch) mà Phật ở nước Xá Vệ (Ấn Độ). Xá Vệ lập tháng Giêng vào tháng Dần, lại nhằm tháng Giêng nhà Hạ (2205 – 1786 trước T.L) thì ra tháng Giêng cõi Ngũ Thiên thành ra tháng ba nước Chấn Đán; tháng hai của Ấn Độ nhằm tháng tư của nhà Châu. Nước Tàu thuở đó cũng không thể nhứt định được, cho nên chỉ nói nhứt thời thôi.

Y và chánh là: Vì Phật cùng tâm và cảnh là nhứt tâm bất loạn, vì không tâm năng niệm, sở niệm. Phàm Thánh là cùng những bậc Thượng Thiên Nhơn đồng hội về một chỗ, nước, chim, cây rừng đồng thuyết diệu pháp.

Một và nhiều là: Vì một Phật thuyết kinh thì sáu phương Phật đồng khen ngợi (tán thành).

Như trên, mỗi món bằng hai pháp đối đãi đều hiệp thành một mùi thanh tịnh, tức lấy thời ấy làm nhứt thời.

Sớ: Chữ Phật là chủ thành tựu. Nghĩa chữ Phật giải thấy rõ ở văn trước. Do vì một thời kỳ đó chúng sanh cùng nhau sùng bái nên gọi là ông chủ. Lại làm chủ trên địa vị trọng yếu giữa sáu món thành tựu.

Sao: “Cùng nhau sùng bái” là Phật ra đời là một thời kỳ. Trong một thời kỳ đó, sáu cõi phàm, ba bực Thánh và tất cả chúng sanh, cùng nhau sùng bái tôn Phật làm ông Pháp Chủ, cũng như vạn dân, bá quan, qui đầu về một ông quốc chủ trong nước.

“Ông chủ trong sáu món thành tựu”: Trông về trước thì trong buổi dự hội của ông chủ là “Thời thành tựu”. Nghe lời của ông chủ là “Văn thành tựu”; lãnh lời dạy của ông chủ là “Tín thành tựu”. Trông về sau: Chỗ ở của ông chủ là “Xứ thành tựu”. Những người do ông chủ giáo hóa là “Chúng thành tựu”, là sáu món thành tựu, nhưng cũng qui trọng về nơi Phật, cũng là cái ý nói Phật là đủ hết.

Sớ: Câu “tại Xá Vệ Quốc Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên” là xứ thành tựu”. Chữ “tại” là Ngài Thiên Thai giải chữ “tại” cũng như ý chữ trụ, phân ra có bốn: 1. Thiên trụ 2. Phạm trụ 3. Thánh trụ 4. Phật trụ. Tùy chỗ hợp, chỗ Phật ở là trụ, nhẫn đến Thiên Trụ (ở trên cõi trời) thiệt thời thân Phật không nhứt định ở một chỗ nào mà không chỗ nào là không ở.

Sao: “Tại”, tức ý “Trụ”: Trong luận Đại Phàm nói: “Phật ở chỗ nào dầu tạm hay ở lâu, đều thành ý tại”. Nay không luận ở lâu hay ở tạm, cứ ngay chỗ đức Phật thuyết kinh tức gọi là “tại”.

Dụ như trong đời, vị quốc chủ đi tới đâu, tức gọi là tại chỗ đó vậy.

Có bốn trụ là: Phật độ chúng sanh, tùy theo chỗ thích hợp mà trụ, hoặc hiện thân trụ trên cõi Trời. Nghĩa là: Cái nhơn về cõi Trời Lục Dục, tức là đem dạy pháp bố thí trì giới thiện tâm mà trụ, hoặc hiện thánh trụ cõi Phạm Thiên. Nghĩa là: Cái nhơn về cõi Sơ Thiền đến cõi Phi Tưởng, tức là đem dạy pháp Tứ Vô Lượng Tâm (13) mà trụ. Hoặc hiện thân trụ ở cõi thánh. Nghĩa là: Cái nhơn về hàng tam thừa thì đem dạy ba pháp tam muội mà trụ. Hoặc hiện thân trụ ở cõi Phật thì dùng định Thủ Lăng Nghiêm, 100 pháp tam muội mà dạy bảo pháp thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng để mà trụ.

Với ba cõi trên là tùy theo ý người khác cảm mà ngài trụ (ứng) còn mỗi cõi sau, tùy ý Phật ngài tự trụ.

Hỏi: Phật sao còn trụ cõi trời?

Đáp: Ẩn thân cao quí ở chỗ thấp hèn là vì cớ độ sanh. Không ở mà không chỗ nào không ở là vì bản thể không chỗ nào là không ở; vì bản thể viên thông nên không chỗ nào là không ở. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thân Phật không đến, nhưng không chỗ nào mà không đến. Vì sao? Bởi vì hư không không có thân. Đức Như Lai cũng thế. Khắp tất cả các pháp, khắp tất cả các cõi nước của tất cả chúng sanh, chẳng đến, nhưng không chỗ nào mà không đến”. Vì thể cũng như tâm thanh tịnh, vắng lặng, dụ như hư không nên chỗ nào cũng đều có đầy đủ. Song mặc dầu Phật ở nước Xá Vệ mà hiện thân Liệt Ứng để độ hàng liệt cơ, nên nói thiên trụ (ở cõi trời). Nhưng đúng như thật mà luận, tức ngay nước Xá Vệ cũng có thể gọi là “Phạm trụ”. Thánh trụ hay Phật trụ nào lại chẳng được?

Sớ: Tiếng Phạm Sravasti cũng nói “Thất La Phiệt Tất Để”, dịch theo tiếng Trung Hoa là Văn Vật. Vì lấy đức đặt tên nước. Hoặc nói là Văn (nghe, đồn) vì dùng tên người để đặt tên nước.

Sao: Đức, là: Do nước giàu đủ bốn đức: 1. Trần đức: Vì cảnh ngũ trần có nhiều món mỹ lệ. 2. Tài đức: Vì thất bảo, trân kỳ, không món nào mà chẳng có. 3. Thánh đức: Vì ba tạng thánh pháp đều đầy đủ. 4. Giải thoát đức: Vì nhiều người được giải thoát, không nhiễm ngũ dục. Do đấy tiếng khen ngợi rung động khắp cùng 5 cõi Thiên Trúc nên gọi là nước Văn Vật.

“Lấy tên người đặt tên nước” là gì? Vì nhiều người hiền đức cho nên trong nước lấy tên người làm trọng.

Sớ: Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên là tiếng Phạm (Jeti hay Jeta) Kỳ Đà cũng nói Thệ Đa. Nói Kỳ không nói chữ Đà là bớt văn. Hai chữ Kỳ Đà Tàu dịch Chiến Thắng. Chữ Cấp Cô là nêu cái đức, tức là ông Tu Đạt Đa. Chữ Viên dịch âm theo tiếng Phạm “Tăng già lam ma”, Tàu dịch là: “Chúng Viên” cũng như tiếng Việt “chỗ chúng tăng ở”.

Số là thái tử Kỳ Đà cúng rừng cây, ông Cấp Cô mua miếng vườn, gồm cả hai tên người nên nói: Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.

Sao: “Chiến Thắng” là vua Ba Tư Nặc, khi sanh thái tử, vua cùng ngoại quốc giao chiến được thắng trận, vui mừng nên đặt tên (Chiến Thắng) đó cho con.

Tu Đạt Đa là tiếng Phạm, Tàu dịch là “Nhạo Thí”, quan đại thần của vua Thắng Quân (quân đánh giặc được thắng trận). Vì ông ưa làm việc bố thí nên được thành tên tốt (Nhạo Thí).

Chữ “Cấp Cô Độc” là: kẻ nhỏ không cha mẹ là “cô” (mồ côi), người già không con cái là “độc” (trơ trọi). Nay những người không có chỗ nương, không ai nuôi, tức gọi là Cô Độc.

Riêng luận hai chữ Cô Độc, đức Khổng Tử nói: “Người quân tử ra ơn khắp giúp là cần gấp”. Thầy Mạnh thuật: “Vua Văn Vương làm việc chánh trị ở ấp Kỳ, giúp kẻ mồ côi trước hết; thế đâu chẳng phải lòng tự phổ cập. Nhưng với kẻ gấp thì giúp trước, huỡn thì giúp sau vậy”.

Chỗ chúng ở mà nói rằng “vườn” là vì rừng rậm mát mẻ, những người học đạo nên nương đỗ nơi đó.

“Kẻ cúng cây, người mua vườn” là: Kinh Niết Bàn nói: ông Trưởng giả tên Tu Đạt, gốc người ở nước Xá Vệ, ban đầu chưa biết Phật. Nhơn dịp đi cưới dâu, vào thành Vương Xá, ghé nhà ông San Đà Na thấy Phật sanh lòng tin, mới thỉnh Phật về nước Xá Vệ. Phật sai ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) đi lựa chỗ chúng ở. Lựa đặng vườn cây của thái tử Kỳ Đà. Ông trưởng giả hỏi giá, thái tử nói chơi rằng: “Ông đem vàng trải giáp đất, tôi sẽ bán cho”. Ông trưởng giả y lời, chở vàng đến lót. Thái tử cảm mến và khen ngợi, liền bán đất, còn cây trong vườn là vật sở hữu của thái tử cúng luôn cho Phật để lập tinh xá. Trưởng giả và thái tử đua nhau phát tâm, lập thành việc tốt ấy, cho nên đồng nêu tên của hai ông.

Sớ: Bằng nói rõ theo giáo lý của kinh này đều có chỗ nêu, lệ thường như lối thích kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm.

Sao: “Nói rõ theo kinh” này là: Như nước Xá Vệ là nước rất tốt, là nêu pháp môn Tịnh Độ này rộng rãi thênh thang vì pháp rất tối thượng. Chính ngài Từ Ân nói: “Thành Vương Xá là thành rất tốt, thành này vì tốt hơn các thành kia, vì kia nêu kinh Pháp Hoa là pháp thù thắng hơn các pháp”. Sau cũng lệ (so) theo đây.

Kỳ Thọ là cây rất đẹp, để tiêu biểu cõi Tịnh Độ bóng mát, che chúng sanh thường khỏi nóng nực. Vườn ông Cấp Cô là vườn rất xinh để tiêu biểu cõi Tịnh Độ an ổn chúng sanh, hằng hưởng những sự vui. Thái tử Kỳ Đà là dòng giống tốt để tiêu biểu cõi Tịnh Độ hễ người sanh về đó rốt ráo thành Phật, nối thạnh dòng Phật.

Ông Trưởng giả Tu Đạt là người rất tốt để tiêu biểu cõi Tịnh Độ ai sanh về đó, được vào nhóm người chánh định, cu hội với một hạng người thượng thiện. Như kinh Hoa Nghiêm món món nêu pháp có nhiều cách rõ lý nhứt tâm đều là ý đây vậy.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh rổng suốt 10 phương là nghĩa ông A Nan nghe Phật thuyết pháp. Tự tánh không lìa tự tánh là nghĩa Phật trụ tại rừng Thái tử Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc.

Sao: Tâm nghe suốt mười phương là ông Khánh Hỷ (A Nan) hiện nay đương kết tập. Chơn Phật ngồi trong nhà (trong tâm) là đức Thích Ca vốn chẳng chỉ ỡ cõi Tây Càn (Ấn Độ), quày sự nghe để nghe lại tánh mình, quày ông Phật lại để thành ông Phật của mình, mới biết: Một hội Kỳ Viên nghiễm nhiên chưa giải tán, đâu những hội Linh Sơn!

B. Liệt Chúng Chứng (phân ra làm ba phần)

1. Thanh Văn chúng: các thánh Thanh văn.
2. Bồ Tát chúng: các thánh Bồ Tát.
3. Nhơn Thiên chúng: các hạng người trời.

1. Thanh Văn Chúng (phân ra làm ba phần)

A. Minh loại số nói: ngành và số.
B. Biểu vị đức: nêu ngôi và đức.
C. Xuất danh hiệu: nói danh hiệu ra.

A. Minh Loại Số

Cùng bực Đại Tỳ Kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi người cu hội.

Sớ: Từ câu này sắp xuống đến câu: “Chư Thiên đại chúng cu” là chúng thành tựu.

Chữ “Dữ” cũng như nghĩa chữ “Cộng”.

Chữ “Đại” là lựa khác với chữ “Tiểu”, có đủ ba nghĩa: Đại, Đa, Thắng vì khác với Tỳ Kheo kia. Luận Phật địa cũng có đủ ba nghĩa.

Chữ Tỳ Kheo là tiếng Phạn, đây giải thích có ba nghĩa: 1. Khất Sĩ. 2. Bố Ma. 3. Phá ác.

Chữ “Tăng” nói đủ theo tiếng Phạn là (Sangha) Tăng-già, không nói “Già” là bớt văn. Tàu dịch Tăng Già là “chúng hòa hiệp”.

“Một ngàn hai trăm năm mươi người” là ba ông Ca Diếp, thêm ông Mục Kiền Liên, ông Xá Lợi Phất là năm ông, tất cả đệ tử của năm ông này cộng chung lại thành ra số đó (1250). Trước thì nói bực thuộc hàng Thanh Văn, sau thì nói số có bao nhiêu.

Chữ “Cu” là hiệp với nghĩa chữ “Cộng” ở văn trên.

Sao: Chữ “cộng” nghĩa là: Ngài Thiên Thai giải nghĩa chữ “cộng”, bằng bảy chữ “nhứt” gọi rằng: “Xứ nhứt, thời nhứt, tâm nhứt, giới nhứt, đạo nhứt, kiến nhứt và giải thoát nhứt” (dù bảy chữ cũng một).

Phật và đại chúng cùng ở nơi Kỳ Viên là ý chánh của kinh này rộng nói như trên.

“Lựa khác với chữ Tiểu” là: Chẳng phải nói hàng sơ tâm tỳ kheo tức văn sau chỗ gọi là bực trưởng lão v.v…

Đại, Đa, Thắng là: Trời, Vua và bực Đại nhơn cả đồng kính ngưỡng, chẳng phải đức nhỏ, nên gọi là Đại.

Nội điển, ngoại điển không bộ nào mà chẳng suốt thông, chẳng phải ít hiều đâu, nên mới gọi là Đa.

Vượt khỏi trên 96 phái ngoại đạo, chẳng phải căn cơ kém hèn nên gọi là Thắng. Đây đều là bực cao tột trong hàng Tiểu Thừa.

“Luật Phật Địa có ba nghĩa” là: 1. Bực tối cực lợi căn chủng tánh ba la mật nên gọi là Đại. 2. Đều đặng quả vị Vô Học (14) nên gọi là Đại. 3. Trước đặng quả nhỏ, nay đã lên quả vị Đại Bồ Đề nên gọi là Đại. Đây đều là nói chung cả bực Đại Thừa.

Tỳ kheo có ba nghĩa là:

1. Khất sĩ: nghĩa là khất thực và khất pháp. Khất thực là xin ăn, thời tránh xa bốn việc tà mạng, hiệp với bốn việc chánh mạng. Không kinh dinh sự nghiệp, chẳng cần chứa để, vạn duyên dứt sạch, nhứt chí chuyên tu. Nhà Tăng phải sống theo đây để nuôi giới thân huệ mạng, cho nên nói khất thực để nuôi thân.

Khất pháp: là xin Pháp, tức là cầu thầy hỏi bạn, cần khổ hết lòng thành, học tìm diệu pháp, trông thành quả thánh, cho nên nói khất pháp để nuôi tâm.

2. Bố ma là như người phát tâm xuất gia, bọn ma vương nghe sanh lòng sợ sệt; bởi vì lũ nó ưa đắm nhiễm đường sanh tử mà người xuất gia là người ly dục, quyết tới quả vô sanh, bọn ma sợ mất bà con của nó nên sanh tâm sợ sệt.

3. Phá ác là: Vì hay phá tâm phiền não luôn 98 sử thảy đều đoạn tuyệt.

Hoặc thêm hai nghĩa tịnh giới, tịnh mạng thời thành ra năm nghĩa của Tỳ kheo. Nay nói ba nghĩa là vì nghĩa khất thực đã gồm nghĩa tịnh mạng, do vì nghĩa phá ác thì đã gồm nghĩa tịnh giới.

“Chúng hòa hiệp” là: Từ bốn người sắp lên, nhiều đến vô lượng đều đồng một pháp Yết Ma, không tranh cãi với nhau, như sữa với nước nên gọi là hòa hiệp chúng.

Ba ông Ca Diếp là: 1. Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp. Ông này tu ở trong hang Hỏa Long có 500 người đệ tử. 2. Già Gia Ca Diếp: ông này tu ở trên núi Tượng Đầu có 300 người đệ tử. 3. Na Đề Ca Diếp. Ông này tu ở bên sông Hy Liên có 200 người đệ tử.

Sau tất cả thầy trò đều quy y theo Phật, cho nên có số 1.000 chúng.

Lại ông Mục Kiền Liên và ông Xá Lợi Phất, hai ông có 250 người đệ tử cũng quy y với Phật, thành ra số 1.250 người.

Một thuyết khác nói: Phật độ ông Da Xá, thầy trò cả 50 người và năm anh em ông Kiều Trần Như, cộng lại thành số đấy.

Sớ: Tại sao chỉ nói có 1.250 người? Là vì số chúng này thường thường tùy tùng, ở chung với Phật.

Sao: “Thường tùy” là: đức Phật xuất hiện trong thế gian, độ các vị Tỳ kheo chứng quả A La Hán rất nhiều đến vô lượng, mà sao riêng nói có mấy ông đây? Bởi vì 1.250 ông đây quy y với Phật trước hết, lại thường không lìa Phật, mãi đến lúc Phật diệt độ, cho nên đặc biệt nói 1.250 người. Còn bao nhiêu vị khác đi hoằng pháp rải rác ở bốn phương, tuy là “thiên lý diện đàm”, nhưng cứ theo sự tích viết thành văn, phép thường phải như vậy?

Kìa như môn đồ của đức Trọng Ni: Những trang hiền đạt kể có 3.000 người, mà tại sao riêng kể có 72 ông? Là cũng bởi vì mấy ông đây thường ở mãi với ngài nơi mé sông Tứ, rồi cùng với ngài đi qua nước Trần, nước Thái. Đây cũng là chúng thường tùy vậy.

B. Biểu Vị Đức

Đều là bực đại A La Hán, chúng sở tri thức (chúng đều quen biết)

Sớ: Câu trên nêu vị; câu dưới nêu đức.

Chữ Đại là: Lựa khác với hàng tiểu quả Thanh Văn. Tiếng Phạn (arhàn) A La Hán, đây dịch có ba nghĩa: 1. Ứng cúng. 2. Sát tặc. 3. Vô sanh. Tức là ba quả của Khất Sĩ, Bố Ma và Phá Ác như văn trước.

Chữ “tri thức” là: Nghe danh trọng đức là “Tri”, thấy hình kính phụng là “Thức”.

Một thuyết khác nói: Thấy hình là “Tri”, thấy tâm là “Thức”. Một thuyết nữa nói: “Tri” tức là “Thức” vì cũng có thể có thể làm tri thức trong chúng mà cũng là bực dìu dắt chúng.

Sao: “Lựa khác” là: Quả thánh ban đầu đến quả thánh thứ tư đều là quả vị của hàng Thanh Văn. Nay nói đại A La Hán là nêu quả thứ tư của hàng Thanh Văn.

“Ứng cúng” là: Kẻ phàm phu không giới đức, ba quả thánh trước có giới đức, nhưng còn nhỏ, chưa đáng kêu là ‘ứng cúng’. Nay hạnh tốt đã thành, vượt ngoài ba cõi, đáng hưởng sự cúng dường ở cõi nhơn thiên; cho nên luận Cu Xá nói: “Cúng dường cho vị A La Hán, đặng phước báo hiện tại”. Vị này làm ruộng tốt cho cõi nhơn thiên trồng quả phước, hưởng của cúng dường không hổ, nên gọi là “ứng cúng”.

Nhắc lại trước khi bưng bình bát đã hẹn làm cho chúng sanh được phước; nay đã chứng đạo, lý phải thọ của cúng nên gọi là quả khất sĩ.

Song Phật cũng gọi là Ứng Cúng. Nhưng vị A La Hán chỉ thuộc về ứng cúng cõi nhơn thiên. Còn Phật thời chẳng những ứng cúng ở cõi nhơn thiên mà còn ứng cúng ở cõi Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát cúng dường nữa.

“Sát tặc” là: Giặc phiền não cướp giựt của công đức và hại mạng trí huệ.

Ba quả thánh trước tuy đoạn Kiến hoặc (hiểu biết sai) nhưng Tư hoặc (nghĩ lầm) vẫn còn. Nay quả thứ tư này chẳng những đoạn Tư hoặc mà bảy mươi hai phẩm cũng đều đoạn hết, thân tâm được yên tĩnh. Như dẹp hết giặc rồi thì thiên hạ được thái bình nên gọi là Sát Tặc.

Nhắc lại, trước kia do ác làm giặc, bây giờ ác diệt được rồi, nên gọi là quả Phá Ác.

“Vô sanh” là: Kẻ phàm phu không biết bao lần sanh tử. Bực sơ quả (Tu Đà Hoàn) còn bảy lần sanh tử. Bực nhị quả (Tư Đà Hàm) còn một lần sanh lại cõi Dục giới. Bực tam quả (A Na Hàm) không sanh lại cõi Dục giới, nhưng mà còn sanh ở cõi Sắc giới. Nay quả thứ tu (A La Hán) này, duyên sanh đã hết, chẳng thọ thân hậu hữu nên gọi là “vô sanh”.

Nhắc lại, trước kia nguyện ra khỏi sanh tử khiến ma khởi tâm sợ. Nay chứng quả Vô Sanh nên gọi là quả Bố Ma. “Nghe danh thấy hình” là thân, sơ một đối đãi. Chữ “tri” là đối với bực La Hán, người ta tai nghe thời tâm mến muốn thấy. Chữ “thức” là người ta mặt thấy thời phụng sự chẳng trái nghịch.

“Thấy hình thấy tâm” là cao, thấp một đối đãi. Chữ “tri” đấy thời mặt đối trước hình dung. Chữ thức là thầm hiểu lẫn trong ý (tha tâm thông). Như hai ông thầy đến ra mắt Phật, một ông chết giữa đường. Phật nói ông chết đó là thấy ngài trước; ấy là nghĩa thấy tâm vậy.

“Tri tức là thức” đó cũng như nói: “Tương tri, tương thức” (hiểu nhau, biết nhau). Giới đức cao, danh vọng trọng, tiếng tăm lừng lẫy trong thiên hạ, người người đều nghe biết, ai ai cũng đều hay, nên nói: “Chúng sở tri thức”.

Một thuyết khác nói: Ở trong cả chúng, bực nầy được nhiều người hay, nhiều người biết, đáng làm tai mắt cho cõi người, cõi trời, gọi là bực dìu dắt trong chúng. Nay người ta gọi thiện tri thức cũng có nghĩa: 1. Đối với ác mà nói, do vì chỗ ta hiểu biết có thiện, có ác. Mà nay đây chỉ là ông tri thức thiện. 2. Ông nầy có cái biết rõ ràng cái hay đặc biệt, người khác chẳng bì kịp nên gọi ông là bực rất thiện giữa tri thức.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh không nhiễm là nghĩa A La Hán; tự tánh không mê là nghĩa tri thức.

Sao: Nguồn tâm vốn vắng lặng thời các nhiễm toàn không; tâm thể vẫn sáng tỏ; thời các mê đâu có. Kinh Pháp Hoa bảo đó là chơn A La Hán. Luận Khởi Tín gọi là ông “chơn thật thức tri”.

Những hạng người (Tiểu Thừa) đắm nơi không làm vắng lặng, móng niệm mới biết, gọi là “danh tự A La Hán” và “hư vọng tri thức”. Thế cho nên tà kiến cùng chánh kiến đồng một thể; thiện, ác đồng một môn. Dứt tâm vọng mới thấu nguồn chơn, họa may mới làm sa môn được.

C. Xuất Danh Hiệu (phân ra làm hai phần)

1. Chúng danh: Tên riêng của chúng.
2. Tổng kết: Lời chung kết.

1. Chúng Danh

Bực trưởng lão là: Ông Xá Lợi Phất, ông Ma Ha Mục Kiền Liên, ông Ma Ha Ca Diếp, ông Ma Ha Ca Chiên Diên, ông Ma Ha Câu Si La, ông Ly Bà Đa, ông Châu Lợi Bàn Đà Dà, ông A Nan Đà, ông La Hầu La, ông Kiều Phạm Ba Đề, ông Tân Đầu Lô Phả La Đọa, ông Ca Lưu Đà Di, ông Ma Ha Kiếp Tân Na, ông Bạc Câu La, ông A Nâu Lâu Đà.

Sớ: Trưởng lão là: Đức người hạnh lớn, giới lạp cao. Lại đức với lạp, chỉ đủ có một cũng chung gọi là trưởng lão; luôn sau 16 vị tôn túc…

Sao: Lạp là thọ giới Cụ Túc, một năm gọi là một lạp; vì giáp một năm chỉ đặng một lạp, cũng nói là một hạ, chính đồng một ý nghĩa đây. “Chung gọi” là trên nói đức và lạp đều trọng nên được tôn xưng “trưởng lão” đã đành. Đây nói một đức trùm chúng, hay một lạp trước người, cũng được kêu là Trưởng Lão.

Như trong luận Tỳ Bà Sa phân về loại: Thượng tọa pháp tánh (tuổi đạo), thượng tọa sanh niên (tuổi đời). Lại bản kinh nhà Đường dịch Cụ Thọ là đủ cả đức và lạp. Bản kinh nhà Ngụy dịch Huệ Mạng là chuyên nói về đức.

Dầu rằng chỉ có đức hay chỉ có lạp cũng có thể được xưng Trưởng Lão; mà ắt hơn lấy đức mà không lạp, chớ chưa có ai chỉ có lạp mà không đức bao giờ!

“Luôn sau này” là nói bực trưởng lão, chẳng những một mình ông Xá Lợi Phất mà cả đến ông A Nâu Lâu Đà cũng đều gọi là bực Trưởng Lão, đều là bực thượng thủ giữa đệ tử của Phật.

Sớ: Ông Xá Lợi Phất (Sariputra) là tiếng Phạn nói (Sàri) Xá Lợi, tiếng Tàu dịch là Thu Lộ. Tiếng Phạn nói “putra”, ta đọc Phất, Tàu dịch là Tử. Cho nên nói “Thu Tử”, cũng nói “Thân Tử”, cũng nói là “Châu tử”… Trong các đệ tử Phật, ông này trí huệ đệ nhứt. Xưng đệ nhứt là chỉ bày một đức mà thôi. Sách Luận Ngữ nói: “Người quân tử chẳng phải như một món đồ”, huống hồ là bực La Hán (có nhiều biệt tài vì 6 thần thông biến hóa).

Sao: “Thu Tử”: Mẹ ông là người thân hình đoan chánh, mắt trong như mắt chim Thu; vì đặt tên theo mẹ nên nói ông là con của bà Thu Lộ hay là con của bà Xá Lợi…

“Thân tử” là ý nói ông là người có cái thân đoan chánh.

“Châu tử” là ý nói ông là người mắt trong sáng. Còn bao nhiêu hiệu nữa nay đây chẳng gấp nên không dẫn nhiều. Mấy ông sau cũng đều lệ theo (là mỗi ông đều có nhiều danh đức riêng, đây dẫn một vài ông thôi).

“Trí huệ”: Khi ông ở trong thai mẹ là đã giúp cho bà mẹ biện tài giỏi hơn người cậu. Lúc được tám tuổi, ông lên tòa cãi lẽ, 16 đại quốc nghị luận không hơn. Ông học Phật pháp trong bảy ngày đã thông suốt, cho nên nói ông là “trí huệ đệ nhứt”.

“Chỉ bày một đức” là: Nói chẳng phải ngoài ông Thân Tử ra mà trí huệ các vị A La Hán kia đều kém đâu. Chẳng riêng một mình ông Thân tử đủ trí huệ mà các vị kia không đủ!

Bởi vì mỗi một vị chỉ nói một đức để nêu pháp môn của Phật là vô lượng. Lại cũng chỉ dẫn những cái tài đặc biệt của mấy ông ấy.

Như kinh nói ông Xá Lợi Phất ngồi thiền yên lặng, ngài Mục Liên muốn phá phép định của ông, đứng dậy ráng hết thần lực mà chẳng lay động được một cái chéo áo của ông.

Xưa nay ai cũng thường tán thán ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhứt, ai dè ông Xá Lợi Phất thần thông đến thế này!

“Người quân tử chẳng phải như món đồ” là: Đức Khổng Tử nói: “Như chiếc ghe không thể đi trên bờ, cái xe không thể chạy dưới nước; đấy là món đồ vậy. Người quân tử có đủ tài năng, chẳng tệ như một món đồ. Đâu đặng nói: Thầy Nhan Hồi, thầy Mẫn Tử Khiên không văn chương, thầy Tử Du thầy Tử Hạ là người thiếu đức hạnh”. Người quân tử còn thế, huống bực đã siêu phàm nhập thánh, pháp “Tam Minh”(15) tỏ rạng, pháp “Lục Thông” (16) rỗng suốt, gọi là bực Lậu Tận A La Hán ư? Nên chi nói: “Chỉ tỏ bày một đức”.

Sớ: Bắt đầu nói ông Xá Lợi Phất, bởi vì kinh này duy có bực trí mới hiểu và tin nổi.

Sao: Trong kinh nói: “Phật vì chúng sanh thuyết pháp khó tin đây”. Khó tin thời duy có bực trí huệ sâu xa mới tin, không nghi, cho nên trước nhứt nói ông.

Hoặc người hỏi nạn: Trong “Bát Nhã Tâm kinh”, Phật bảo một mình ông Thân Tử thời biết cái trí của ông ấy rõ lại lý Không, chớ không tại pháp Tịnh Độ? Ôi! Sắc, tức là không, không tức là sắc, đâu chẳng nói cõi Tịnh Độ tức là không, không tức là Tịnh Độ hay sao? Nếu bác cõi Tịnh Độ thời chẳng phải là chơn không; chẳng rõ lý chơn không thời chẳng phải là người chánh trí. Huống chi trí ông Thân tử quyết chẳng như thế.

Sớ: Ông Ma Ha Mục Kiền Liên là: Chữ “Ma Ha” đây dịch là Đại. “Mục Kiền Liên” dịch là Thái Thúc Thị. Một thuyết nữa nói: Lai Bặc, ông này có thần thông đệ nhứt.

Sao: Mục Kiền Liên là họ, Câu Luật Đà là tên. Câu Luật Đà là tên của một thứ cây. Theo tục lệ, cầu vị Thần ở nơi cây này mà được kết quả sanh ra ông, nhơn đó, lấy tên cây đặt tên ông là Câu Luật Đà. Lại họ nầy trùng họ nhiều lắm nên thêm chữ Đại để cho riêng biệt.

“Thần thông” là như Phật lên cõi Trời Đao Lợi thuyết pháp, bị con độc long phà hơi độc để ngăn Phật. Các vị Tỳ kheo kia xin dẹp con độc long, Phật không cho. Ông Mục Kiền Liên hóa thân lớn, nhỏ… Con độc long kia sợ hoảng, bèn chịu thua (17). Lại như bọn ngoại đạo luyện phép để dời núi, ông kiềm chế không cho núi lay động (18). Cả dòng họ Thích đầy trong một thành, ông thâu vào trong bình bát, đem để trên cõi trời Phạm Thiên (19) và việc nắm xe ông Kỳ Bà, cùng đốt nhà trời Đế Thích (20) v.v… các việc đều dùng phép thần thông cả, cho nên nói ông là thần thông đệ nhứt.

Sớ: Ông Ma Ha Ca Diếp, đây (Tàu) dịch: Đại Qui Thị. Một thuyết khác nói là Ẩm Quang. Ông nầy tu hạnh Đầu Đà đệ nhứt.

Sao: Đại Qui Thị là đời trước ông đi học đạo gặp con Linh Qui đội bản đồ ra sông, nhơn lấy đó đặt họ. Tên Tất Bát La, cũng là tên cây, vì cầu tự nơi cây ấy. Nói thêm chữ Đại cho khác với mấy ông trùng tên như ba ông Ca Diếp kia v.v…

Ẩm Quang là do đời trước ông là người thợ làm đồ vàng, bạc cùng với một người nữ thanh tịnh đồng phát tâm lấy vàng quang phết tượng Phật, bèn cảm được quả báo đời đời thân ông như sắc vàng. Sắc vàng chói ngời loáng phủ các sắc khác, cho nên tên ông là Ẩm Quang (ánh sáng nuốt các ánh sáng kia).

Tiếng Phạn “Đầu Đà”, Tàu dịch Đẩu Tẩu, hoặc nói Đào Thải, Đầu Đà, có 12 hạnh: 1. A lan nhã: Ở nơi vắng vẻ. 2. Thường đi khất thực, cho đến hạnh thứ 12 chỉ có ba y. Do khổ hạnh đây, quét hết việc trần lụy, lóng sạnh thân tâm.

Ca Diếp tuổi già mà không bỏ hạnh Đầu Đà, Phật thương ông yếu đuối, khuyên ông nghỉ, thế mà ông cũng vẫn giữ hạnh Đầu Đà mãi như cũ. Đức Phật ngài rất khen: “Có hạnh Đầu Đà, pháp ta mới còn lâu”, cho nên nói ông là Đầu Đà đệ nhứt.

Sớ: Ông Ma Ha Ca Chiên Diên là họ, Tàu dịch là Văn Sức. Một thuyết nữa nói là Bất Định; một thuyết nữa nói là Phiến Thằng và một thuyết nữa nói là Ly Hữu Vô v.v… là người ở nước Nam Thiên Trúc, họ Bà La Môn. Ông này nghị luận đệ nhứt.

Sao: Văn Sức là lời lẽ có vẻ văn chương trôi chảy. Phàm người nghị luận, tâm tuy hiểu lý đó, song cứ nói tầm thường chẳng có văn chương, hay câu lối rời rạc không chải chuốt thời lời không đạt được ý. Như vậy không phải là người nghị luận giỏi!

Bất Định là ý lanh lẹ của người giỏi nghị luận, dầu nói xuôi nghe cũng được hay luận ngược lời lẽ cũng nghe xuôi, khéo cả.

Phiến Thằng là vì mẹ muốn đi cải giá, bị con còn bé (là ông) buộc ràng, tỷ như cây quạt có dây đai máng níu lại khỏi bị gió bay. Lại chữ Phiến Thằng có nghĩa là: Phá những cái nóng nực; kéo ngay những cái cong vạy. Cũng là ý nói không mắc về bên Đoạn (chấp không) và không lạc về bên Thường (chấp có), mở bày lý trung đạo vì để thoát ly hai bệnh chấp có và chấp không.

Như bọn ngoại đạo hỏi: Xét vì người chết đi rồi không thấy trở về, nên cho rằng không có đời khác. Nghĩa là người chết chịu khổ, lẽ phải trở về cho hay! Cái này đành ở đó chịu, không trở về, cho nên quyết chắc là không có đời khác.

Ông đáp: Kìa như người tội bị giam trong lao ngục, vậy có về được không!

Lại hỏi: Còn người sanh lên cõi trời sao cũng không về?

Đáp: Giả sử người rớt dưới cầu xí, bấy giờ đã lên được rồi vậy thử hỏi, người kia có chịu trở xuống chỗ dơ đó nữa không?

Như vậy, món món tất cả nghĩa mầu đều nói được hết. Trong kinh Tăng Nhứt A Hàm, Phật khen ông là người khéo phân biệt các nghĩa để diễn bày đạo giáo, cho nên nói ông là bực nghị luận đệ nhứt.

Sớ: Ông Ma Ha Câu Si La, Tàu dịch Đại Tất, là cậu ông Xá Lợi Phất. Ông nầy đáp, vấn đệ nhứt.

Sao: Đại Tất là theo hình trạng đặt tên. Người cậu ai? Là em ruột của mẹ ông Thân Tử; ngày trước nghị luận giỏi hơn chị. Lúc chị mang thai ông Thân Tử thì cơ biện luận lanh chóng, ông không thể bì kịp. Ông (Đại Tất) nổi giận đi học đến nỗi không rảnh để cắt móng tay. Đọc thuộc 18 món kinh sử…

Đáp vấn là do vì ông quá siêng năng nên được bốn pháp biện tài. Hễ gặp ai hỏi thời đáp được liền, cho nên nói ông là bực đáp vấn đệ nhứt.

Sớ: Ông Ly Bà Đa, Tàu dịch Tinh Tú. Một thuyết nữa nói là Thất Tú. Ông này “vô đảo loạn” đệ nhất.

Sao: Tinh Tú là: Theo tục cầu con nơi ngôi sao này mà được sanh, nhơn lấy đấy đặt tên ông. Thất Tú là: Trong hai mươi tám ngôi sao, ngôi sao “Thất” nầy thuộc về ngôi sao thứ 13. Hoặc vì lễ cầu nơi ngôi sao nầy. “Vô đảo loạn” là vì tâm chánh nên không điên đảo, tâm định nên không tán loạn, cho nên nói: “Vô đảo loạn đệ nhứt”.

Sớ: Ông Châu Lợi Bàn Đà Dà, Tàu dịch Kế Đạo. Một thuyết khác nói là Tiểu Lộ Biên. Ông này chỉ thuộc có nửa bài kệ mà được tỏ ngộ chứng quả La Hán.

Sao: Kế Đạo là: Khi mẹ ông mang thai ông, theo phong tục Ấn Độ phải về nhà cha mẹ ruột để sanh đẻ, đi nửa đường sanh ông, vì lẵng nhẵng trong khoảng giữa đường nên đặt tên ông là Kế Đạo.

Tiểu Lộ Biên là: Mẹ ông sanh hai người con mà người nào cũng sanh ở giữa đường cả nên nói ông là Tiểu Lộ Biên, cho khác với khác với anh ông là Đại Lộ Biên.

“Nửa bài kệ” là: Ông xuất gia mà căn tánh ngu ám, ở chùa quá lâu, nhưng không biết chi hết. Người anh vào đạo trước, quở ông là vô tri, đuổi ông huờn tục. Ông dựa cửa chùa khóc than rơi lụy. Đức Phật thấy vậy thương, thâu dùng lại cho học hai chữ: Tảo Chửu (21). Mỗi ngày ông đọc hai chữ, nhưng nhớ một chữ này, lại quên một chữ kia. Đọc mãi lâu rồi thoạt ngộ, cấu sạch, hoặc trừ, ông chứng được quả A La Hán.

Sớ: Nan Đà, Tàu dịch là Thiện Hoan Hỷ, là ông Phóng Ngưu Nan Đà.

Sao: Phóng Ngưu (22) Nan Đà là: Có đến 3 ông Nan Đà: 1. A Nan Đà. 2. Tôn Đà La Nan Đà và ông này nữa là 3 ông. Do dùng chữ Phóng Ngưu để cho khác với hai ông kia.

Sớ: A Nan Đà, Tàu dịch Khánh Hỉ, lại dịch Vô Nhiễm. Ông này là em con nhà chú của Phật. Ông có tài đa văn đệ nhứt.

Chính kinh này thời ông A Nan cùng trong đại chúng đồng nghe giáo pháp môn Tịnh Độ, nhưng chỉ một mình ông đủ sức tổng trì, nhớ dai không quên, ông kiết tập thành tạng Kinh.

Sao: Khánh Hỉ là ngày sanh ông nhằm ngày Phật thành đạo. Vua, bá quan và nhân dân một mặt nghe thái tử Sĩ Đạt Ta con là nhà bác thành Phật, một mặt lại nghe trong cung, nhà chú sanh ra hoàng tử, cả hai đều tốt, cả hai điều khó được mà nay đồng thời đều được, cả nước vui mừng nên đặt tên ông là Khánh Hỉ. Lại người thấy tướng ông, người nghe tiếng nói của ông, người trông oai nghi của ông, không một ai là chẳng hoan hỉ.

“Vô Nhiễm” là ông theo Phật lên cung Trời, xuống cung rồng, tâm không vui đắm, cũng là một việc đặc sắc.

“Em con nhà chú của Phật”: Phật là con vua Tịnh Phạn, ông A Nan là con vua Bạch Phạn; vì hai vua là anh em ruột.

Đa văn: Là ông A Nan làm “thị giả” cho Phật ba mươi năm, với những pháp Phật nói, ông chẳng quên một chữ. Kinh Niết Bàn khen ông là bực Đa Văn đệ nhứt. Lại ngài Ca Diếp khen rằng: “Pháp của Phật như nước biển cả mà đều chảy dồn về trong tâm ông A Nan!”

“Đồng nghe riêng nhớ”: Chính nêu ông là người “cường ký” (nhớ dai) hơn các bực kia, cho nên nói ông là bực Đa Văn đệ nhứt.

Sớ: Ông La Hầu La, Tàu dịch Phú Chướng, cũng dịch Chấp Nhựt. Ông này “mật hạnh đệ nhứt”.

Sao: Phú Chướng là tên thần A Tu La. Vì khi sanh ông nhằm lúc thần A Tu La đang lấy tay che ánh sáng mặt nhựt, mặt nguyệt nên đặt tên ông là Phú Chướng và cũng tên là Chấp Nhựt. Song, Chướng có 2 nghĩa: 1. Phật bị ông làm chướng, không xuất gia được sớm, do vì thái tử (Phật) chưa có con (là ông) nên xin đi tu, đức phụ vương chẳng cho. Thái tử phải chỉ vào bụng vợ để giới thiệu, vua mới biết đã có thai, mới toại bổn chí; thế thì đức Phật bị ông làm chướng. 2. Do đời trước ông lấp hang chuột sáu ngày nên nay mắc quả báo, phải ở trong thai mẹ 6 năm. Thế là ông tự làm chướng lấy ông.

“Mật hạnh” là trong kinh nói: “Mật hạnh của ông La Hầu La duy có ta (Phật) biết được thôi”. Duy có Phật biết được thì đủ rõ các hàng Thinh Văn, bực Bồ Tát còn không thể biết, huống chi chúng phàm phu làm gì biết được. Bởi nhiều hạnh tốt mà người chẳng biết nên chỉ nói ông là bực mật hạnh đệ nhứt.

Sớ: Ông Kiều Phạm Ba Đề, Tàu dịch Ngưu Thi (trâu nhơi). Ông này thọ của chư thiên cúng dường đệ nhứt.

Sao: Ngưu Thi là: Trong đời quá khứ ông khinh nhái một thầy sa môn già móm nhai mấp mấp, nay mắc quả báo cái miệng ông nhai mấp mấp như mồm trâu nhơi. Lại vì mắc quả báo làm trâu năm trăm đời. Loại trâu ăn rồi; sau lại thường nhơi. Cái dư báo đó ông chưa hết, cho nên đặt tên là Ngưu Thi (trâu nhơi).

“Chư Thiên cúng dường” là thời kỳ Phật và chúng tăng chịu quả báo ăn lúa ngựa (23), chỉ một mình ông riêng ở trên cõi trời, nơi vườn Thi Lợi Sa hưởng thọ của trời cúng. Lại kẻ phàm phu không biết xem kính đức hạnh, chỉ thấy tướng nhơi của ông, phần nhiều khinh dễ, sợ họ chê cười mắc tội, Phật dậy ông thường ở trên cõi trời, chư thiên kính phụng nên chỉ nói ông là người thọ hưởng của chư thiên cúng dường đệ nhứt.

Sớ: Ông Tân Đầu Lô Phả La Đọa, ba chữ trước Tàu dịch Bất Động (là tên); ba chữ sau, dịch Lợi Căn (là họ).

Sao: Tên trước họ sau là vì họ kia tới 18 phái, nên ông này kêu tên trước họ sau, là để khác với mấy ông trong các phái kia. Luật Nại Da nói: “Ông Trưởng giả tên Thọ Đề lấy cái bát bằng gỗ chiên đàn để trên đầu cây cột phướn, rồi giao hứa với Tăng chúng rằng: ‘Vị nào có thể dùng thần lực lấy được, tôi xin hiến cái bát ấy’. Tôn giả hiện thần thông bay lên lấy bát. Phật nghe quở trách, rồi bắt buộc không cho ông nhập diệt, để kéo dài thân sống lâu mãi ở qua đời mạt pháp, đặng chứng làm ruộng phước lớn cho trai chủ, chúng sanh cúng dường gọi là gieo giống lành vậy”.

Sớ: Ông Ca Lưu Đà Di, Tàu dịch là Hắc Quang (da đen láng ngời).

Sao: Hắc Quang là vì nhan sắc ông xấu và đen. Lại sắc đen chói bóng, khác với đen thường thành thử ông đi khất thực ban đêm, người thấy kinh hãi! Do đó Phật mới chế giới cấm không cho đi đêm.

Sớ: Ông Ma Ha Kiếp Tân Na, Tàu dịch là Phòng Tú (ông này biết việc tinh tú đệ nhứt).

Sao: Phòng Tú là ngôi sao thứ tư trong 28 ngôi sao. Cha mẹ cầu khấn nơi ngôi sao này mà được kết quả sanh ra ông. Một thuyết khác nói: Khi ông mới đi xuất gia, muốn đến ra mắt Phật, nhưng đi nửa đường lại bị mưa, ghé ăn và ngủ nhờ trong nhà anh thợ đồ gốm, tình cờ có một thầy tỳ kheo cũng đến ngủ chung trong nhà ấy (Tỳ kheo kia là Phật hóa hiện). Đêm ấy ông nghe ngài thuyết pháp, ông liền đắc đạo. Thế thời chữ Phòng Tú cũng là một nghĩa ngủ đậu trong nhà người thợ làm đồ gốm.

“Tri tinh tú” là không cần mượn cái “triền cơ ngọc hoành” mà thông hiểu “thiên văn tinh tượng”, cho nên nói tri tinh tú đệ nhứt.

Sớ: Bạc Câu La, Tàu dịch là Thiện Dung, (ông này thọ mạng đệ nhứt).

Sao: Thiện Dung là vì nhan mạo ông đoan chánh. “Thọ mạng”: Vì ông đến 160 tuổi, cho nên nói ông là thọ mạng đệ nhứt. Do đời trước ông giữ giới bất sát, được sống lâu, không chết yểu, 91 kiếp đều thọ như thế. Lại đời trước ông từng cúng trái A Lê Lặc cho một ông tăng có bệnh, do đó cảm được năm món bất tử.

Khi mới sanh, ông hiện những tướng lạ. Bà mẹ tưởng là yêu quái, đem để trên cái bàn ram nướng cho chết mà ông cũng không chết. Lại để trong cái chõ nấu cho chết mà ông cũng không chết. Lại đem ông thả giữa sông cá lớn nuốt, rồi cá bị người đánh lưới bắt, thợ chài lấy dao mổ cá, bày ông ra mà không tồn hại chi hết. Nói lại: 1. Lửa không thể nướng. 2. Nước sôi không thể nấu. 3. Nước sông không thể chìm. 4. Cá nuốt không chết. 5. Dao cắt không hại nên gọi là năm món bất tử.

Lại ông ưa chỗ vắng vẻ, lòng ít ham muốn, thâu nhiếp sáu căn nên sau khi ông diệt độ, cái tháp của ông còn không chịu thọ tiền của vua cúng (24). Do lúc bình thường ông ưa chỗ vắng vẻ, không chịu ở trong chỗ đông người, vì sợ nhiễm những tiếng thị phi, đây cũng xưng là đệ nhứt.

Sớ: Ông A Nâu Lâu Đà, một tên nữa A Na Luật Đà, Tàu dịch Vô Bần, cũng dịch Vô Diệt; cũng dịch Như Ý. Ông này có phép thiên nhãn thông đệ nhứt.

Sao: Vô Bần là thuở trước nhằm thời có nạn đói khát, ông đem cơm lúa tắc cúng cho một vị Bích Chi Phật nên được hưởng phước 91 kiếp, của cải nhẫy đầy, hưởng dụng đến nay không hết, cầu điều chi đều được như ý, cho nên có nghĩa Vô Bần, Vô Diệt, Như Ý; cả ba nghĩa đã dịch. Phép “thiên nhãn thông” đệ nhứt là ông đã xuất gia mà tánh hay ưa ngủ, mỗi thời Phật thuyết pháp, ai nấy chăm nghe còn ông thì vẫn cứ gật gù ngủ, không biết là gì hết. Phật quở trách ông và tỷ dụ như loài ốc, sò. Ông tự giận lấy mình, liền phát chí tinh tấn trong bảy ngày đêm, mắt không nhắm mí, bị mù hai con mắt. Phật bèn dạy ông tu tập phép “Nhạo Kiến Chiếu Minh Kim Cang Tam Muội”, ông liền chứng pháp thiên nhãn thông, thấy suốt cõi Đại Thiên thế giới cũng như thấy trái để trong lòng bàn tay, cho nên nói ông là: “Thiên nhãn thông đệ nhứt”.

2. Tổng Kết

Như thị đẳng chư đại đệ tử (như thế hết thảy các đệ tử của Phật)

Sớ: “Như thị” là kết văn trước. Chữ “Đẳng” là chỉ các ông kia. Chữ Đại là gồm nghĩa chữ Đại văn trước. Chữ “đệ tử” là học sau thầy là Đệ, sự hiểu biết do thầy sanh ra là “tử”. Cái thắng hội như đây nên gọi “Nan đệ, nan huynh, khéo làm khéo thuật”.

Sao: “Kết văn trên” là kể các ông khác. Đây trước kết 16 vị Tôn giả; sau kể một nghìn hai trăm năm mươi người.

“Gồm nghĩa chữ đại văn trước” là chữ “đại đệ tử” văn đây, tức là văn trước chữ “đại Tỳ kheo, chữ đại A La Hán”; lấy một chữ Đại văn đây gồm luôn nghĩa hai chữ Đại trong văn trước vậy.

“Học sau thầy” là vì thầy biết trước, trò biết sau, như anh trước em sau vậy. “Sự hiểu do thầy sanh ra” là vì nhờ thầy mở bày, nuôi dưỡng mới thành pháp khí; chỗ gọi rằng: “Từ miệng Phật sanh ra, sẽ nối thạnh giống Phật”. Như cha mẹ sanh con, con sẽ thờ nối Tổ Tiên.

“Nan huynh, nan đệ” là: Xưa nói ông Nguyên Phương khó làm anh, ông Quí Phương khó làm em. Nghĩa là anh em đồng có tài trí hơn người, không ai hơn, thua. Nhưng ở đây không lấy ý đó, chỉ lược dụ Phật là anh, các vị A La Hán là em, vì cả hai trong đời đều khó đặng mà nay đều đặng.

“Khéo làm, khéo thuật” là: Xưa nói ông vua Văn Vương, ông Vương Quới làm cha, cha làm ra trước; ông Võ Vương làm con mà con nối theo sau. Nhưng nay cũng chẳng dùng ý đó, chỉ lược dụ Phật là cha, các vị A La Hán là con vì thầy trò đạo hiệp.

Sớ: Xứng lý thì tự tánh, tâm vương, tâm số, dung thông, là nghĩa Phật cùng đệ tử cu hội.

Sao: Ngài Thiên Thai nói: “Tâm vương là Như Lai, tâm số là đệ tử”. Nay giải nghĩa: Tâm vương là tám thức tâm vương. Tám thức tâm vương đây, thiện ác luân chuyển do nó làm chủ tể, ví như ông vua cai trị dân chúng, ông thầy dạy dỗ học trò.

Tâm số là 51 món tâm sở. Năm mươi mốt tâm sở đây có 3 nghĩa:

1. Thường y nơi tâm vương để phát khởi.
2. Tương ưng với tâm vương.
3. Hệ thuộc với tâm vương. Vì nó đối với tám thức tâm vương kia, cũng như tôi chầu vua, đệ tử hầu thầy.

Lại Ngài Trí Giác nói: “Mười vị đại Thanh Văn đều là số mười pháp thiện của tâm mình” (10 vị: Từ 1 Đa văn đệ nhứt đến 10: thiên nhãn đệ nhứt).

Luận Tỳ Đàm lời kệ nói: 1. Tâm dục. 2. Tâm tưởng. 3. Tâm cánh nhạo. 4. Tâm huệ. 5. Tâm niệm. 6. Tâm tư. 7. Tâm giải thoát. 8. Tâm tác ý cùng cảnh giới (xúc). 9. Tâm Tam ma đề (định). 10. Tâm thống. Nên biết ông Đại Ca Diếp là “tâm số dục” do vì chỉ còn giữ cái phép xuất ly, phát tâm thiện dục xuất thế gian, bỏ tâm ác dục của thế gian.

Ông Phú Lâu Na là “tâm số tướng”: Do vì tướng thời mới phân biệt biện tài, không ngăn ngại.

Ông Ca Chiên Diên là “tâm cánh nhạo”: Do vì vấn đáp lời lẽ qua lại nhiều lý do đắp đổi lẹ làng, luận nghị không cùng. Nhẫn đến “tâm huệ” là ông Xá Lợi Phất, “tâm niệm” là ông Ưu Ba Ly, “tâm tư” là ông La Hầu La, “tâm giải thoát” là ông Thiện Kiết, tức là ông Tu Bồ Đề, “tâm tác ý” là ông A Na Luật, “tâm tam ma” là ông Mục Kiền Liên, “tâm thống” là ông A Nan v.v…

Chữ Thống là thọ, có ý nghĩa lãnh nạp.

“Phàm tâm vương phải đủ tâm số”: Tâm số quyết phải qui tùng tâm vương. Cả hai giúp đỡ lẫn nhau mới được khai ngộ. Song dầu tâm vương, dầu tâm số, cũng chẳng ra ngoài một cái tâm mình, miễn mình đặng nhứt tâm thời gồm cả tâm vương và tâm số.

2. Bồ Tát Chúng (phân ra làm ba phần)

A. Minh loại: Nói về loại.
B. Liệt danh: Nói về tên.
C. Tổng kết: Chung kết.

A. Minh Loại

Tinh chư Bồ Tát Ma Ha Tát (Và các vị Bồ Tát lớn trong hàng Bồ Tát)

Sớ: Chữ “Tinh”: Nương theo văn trước, nói Phật thuyết kinh này, chẳng những hàng Thinh Văn dự hội, mà cả đến bực Đại Sĩ cũng đồng nghe pháp “trì danh niệm Phật” này.

Chữ Bồ Tát là tiếng Phạm, nói đủ là Bồ Đề Tát Đỏa (nay nói có hai chữ Bồ Tát là bớt văn). Tàu dịch là Giác Hữu Tình. Chữ Giác Hữu Tình lại còn có 3 nghĩa, lại cũng có nghĩa là Dõng Mãnh mà cầu. Chữ Ma Ha Tát, Tàu dịch “Đạo đại tâm chúng sanh”; do vì đủ bốn nghĩa Đại. Lại kinh Pháp Hoa có 6 nghĩa Đại, Luận Phật Địa ba nghĩa đại, cũng không ngoài bốn nghĩa. Chữ Bồ Tát Ma Ha Tát, cũng như nói: Bực Đại Bồ Tát trong hàng Bồ Tát vậy. Vì lựa khác với bực Tiểu Bồ Tát.

Sao: “Chẳng những hàng Thanh Văn” nghĩa là bực Đại Thừa, Tiểu Thừa, tất cả hiền thánh đồng nghe kinh này, chớ lầm tưởng rằng cõi Tịnh Độ là chỗ các bực Bồ Tát chẳng màng đâu!

Chữ “Giác hữu tình” là đồng chứng chỗ Phật chứng, đó gọi là Giác. Nhưng vô minh chưa hết gọi là “tình”.

Lại có ba nghĩa là: 1. Nghĩa “bi, trí sở duyên”; gọi rằng chữ Giác là chỗ tu đạo Phật. Chữ Tình là chỗ độ các chúng sanh. Nghĩa là trên dùng trí mà cầu quả Phật, dưới dùng lòng bi cứu độ chúng sanh. 2. Nghĩa “năng, sở hiệp nhứt”, gọi rằng chữ Giác là cái quả sở cầu (bị cầu). Chữ “hữu tình” là những người năng cầu. Nghĩa là lấy tâm của mình mà cầu ngộ lý Phật.

3. Nghĩa “lợi sanh là gấp”, gọi rằng rộng Giác ngộ cho tất cả loài hữu tình. Nên có câu: “Chưa hay độ mình, trước lo độ người” là nghĩa đây vậy.

“Dõng mãnh cầu” là: Hàng Thinh Văn cầu về nơi vắng lặng để an hưởng riêng phần mình, đức Phật gọi là anh chàng giải đãi. Còn bực Đại Sĩ (Bồ Tát) quyết chí chứng được quả Bồ Đề, nên nói ông là tướng đại cường tinh tấn và dõng mãnh.

“Chữ Đại có 4 nghĩa”: Lời sớ của ngài Thanh Lương nói:

1. Nguyện đại, vì cầu cho được quả Bồ đề.
2. Hạnh đại, vì thành tựu được hai lợi (tự lợi và lợi tha).
3. Thời đại, vì trải qua 3 vô số kiếp, cũng cố gắng tu cho thành. 4. Đức Đại, vì đầy đủ các công đức bực nhứt thừa.

Kinh Pháp Hoa nói sáu nghĩa đại là:

1. Tín đại pháp (tin pháp Đại Thừa)
2. Giải đại nghĩa (hiểu nghĩa Đại Thừa)
3. Phát đại tâm (phát tâm Đại Thừa)
4. Xu đại quả (tới quả Đại Thừa)
5. Tu đại hạnh (tu hạnh Đại Thừa)
6. Chứng đại đạo (chứng đạo Đại Thừa).

Nhưng mà Tín, Giải và Phát, ba đại đây gồm trong 1 nghĩa Nguyện Đại thứ nhứt. Xu gồm trong nghĩa Thời đại thứ ba. Tu gồm trong nghĩa Hạnh đại thứ hai. Chứng gồm trong nghĩa Đức đại thứ tư.

Trong luận Phật địa có ba nghĩa đại là: 1. Số đại. 2. Đức đại. 3. Nghiệp đại. Song Đức đại thời dễ biết, còn Số đại, tức là ý nghĩa Nguyện đại; Nghiệp đại tức là ý nghĩa Hạnh đại, cho nên nói không ngoài 4 ý là vậy.

“Lựa ra chẳng phải bực Tiểu” là như đức Văn Thù, đức Di Lặc v.v… đều bực Đại Thừa Bồ Tát ở trong địa vị Thập Địa Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ Tát, chớ chẳng phải Bồ Tát sơ tâm ở 5 phẩm là Tín, Trụ, Hạnh, Hướng Bồ Tát.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh chơn vọng dung thông là nghĩa Bồ Tát.

Sao: Chơn tánh thời chẳng biến mà tùy duyên tám thức, là nghĩa giác ngộ cho loài hữu tình. Vọng thức thời làm thành các việc mà bản thể vẫn không dích mắc là nghĩa loài hữu tình có tánh giác. Chơn và vọng chẳng lập riêng, chỉ là nhứt tâm. Thành cái tâm đại đạo đây, gọi là Ma Ha Tát.

B. Liệt Danh

Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, ngài A Dật Đa Bồ Tát, ngài Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, ngài Thường Tinh Tấn Bồ Tát.

Sớ: Văn Thù Sư Lợi, Tàu dịch Diệu Thủ, cũng dịch Diệu Cát Tường, cũng dịch Diệu Đức.

Pháp Vương Tử là Phật là ngôi Pháp Vương, Bồ Tát vào ngôi chánh của Pháp, gọi là Pháp Vương Tử.

Lại hàng Bồ Tát bắt đầu nói ngài Văn Thù là so nghĩa như văn trước: Với hàng Thinh Văn, Phật kêu là ông Xá Lợi Phất.

Sao: Văn Thù Sư Lợi, cũng dịch Mạn Thù Thất Lợi, hay là Diệu Thủ v.v… Chuẩn theo tông Hoa Nghiêm, nêu ba pháp môn: Tín, Hạnh và Trí. Diệu Thủ là pháp môn Tín vì Tín là đầu muôn hạnh, muôn đức. Diệu Cát Tường là pháp môn Hạnh vậy.

Luận Phật Địa nói: “Được tất cả thế gian thân cận cúng dường và tán thán nên kêu Ngài là Diệu Cát Tường”.

Lại đức Chơn Đế nói: “Đối giữa kẻ oán, người thân, ngài luôn luôn làm việc lợi ích, không làm việc tổn não, cho nên gọi ngài là Diệu Cát Tường”. Lại khi sanh ngài có mười điềm tốt: Từ món thứ nhất là hào quang sáng đầy nhà cho đến thứ 10 là voi mọc sáu ngà (25) nên kêu ngài là Diệu Cát Tường. Đó là tức “Giải” mà “Hạnh”.

“Diệu đức pháp môn” là Trí vậy. Kinh nói: “Trí là mẹ chư Phật”, là thầy đức Thích Ca đâu chẳng phải Diệu Đức (đức mầu nhiệm), đó là tức “Hạnh” mà “Giải”.

“Vào ngôi chánh của pháp” là đức Như Lai nương theo lý trung đạo nghĩa đệ nhứt, mà những Bồ Tát vào được địa vị đấy, gọi là nối thạnh dòng Phật, được kế vị làm Phật, cũng như đấng Đại Quân thể theo đức nguơn ở ngôi chánh, đã sanh thái tử, nay ở Đông cung rồi sẽ nối ngôi chánh (lên làm quốc chủ) nên gọi: Pháp vương tử, lại gọi là Phật tử, ý đây cũng thế.

Phàm Bồ Tát đều là Pháp Vương Tử, sao gọi riêng một mình ông Văn Thù? Tổ Kinh Khê nói: “Đối trong hàng vương tử, về đức thời nhường cho ngài Văn Thù”.

Lại các kinh cũng nói: “Vì ngài Văn Thù thường làm bậc thượng thủ cho tất cả hàng Bồ Tát”.

Lệ như ngài Xá Lợi Phất là ông Thân Tử trí huệ đệ nhứt, ngài Văn Thù bực đại trí độc tôn (như văn trước đã rõ). Vì kinh này duy có bực trí mới tin lãnh nổi. Lại phân biệt mà luận thời ông Thân Tử là bực quyền trí, ngài Văn Thù là bực thật trí.

Quyền Trí nói về sự có sanh Tịnh Độ; Thật trí nói về lý không sanh Tịnh Độ. Kẻ độn căn từ “quyền” vào “thật”. Người lợi căn thì “quyền” “thật” đều đồng thời dung thông.

Nếu suy cho tột gốc để mà luận, kinh Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: “Lại có trăm nghìn vạn ức Bồ Tát thị hiện làm thân Thinh Văn cũng đến ở trong pháp hội, tên các vị kia là Xá Lợi Phất” v.v… Thế thời ngài Văn Thù, ông Thân Tử, đồng một bực trí huệ thậm thâm. Càng biết kinh này chẳng phải người thiển trí mà có thể tin nổi.

Sớ: A Dật Da, Tàu dịch Vô Năng Thắng (tức là ngài Di Lặc Bồ Tát).

Sao: Di Lặc, Tàu dịch Từ Thị (là họ), A Dật Đa (là tên). Nói cho đủ thời phải nói Từ Vô Năng Thắng. Do vì khi ngài ở trong thai mẹ, đã có từ tâm cho nên lấy đó mà đặt là họ Từ. Lại về đời quá khứ, ngài gặp đức Đại Từ Như Lai, ngài nguyện đồng hiệu đó, liền được pháp Từ Tâm tam muội.

Lại đời trước ngài làm thầy bà la môn, hiệu Nhứt Thế Trí, tu tập hạnh Từ trong tám nghìn năm. Lại thời kỳ Phật Phất Sa, ngài với đức Thích Ca Như Lai đồng phát tâm Bồ Đề, thường tu tập pháp Từ định. Lại kinh Tư Ích nói: “Chúng sanh thấy ngài liền được pháp Từ Tâm tam muội”.

Lại kinh Bi Hoa nói: “Ngài phát nguyện ủng hộ chúng sanh trong kiếp đao binh”. Thế là lòng từ chan chứa đương đời, lòng bi tràn ngập đến đời sau. Vì lòng từ tột bực vượt khỏi kẻ phàm phu và Tiểu Thừa nên gọi Ngài là Vô Năng Thắng (không ai hơn).

Sớ: Lại ngài Di Lặc đã nghe kinh này, chắc hội Long Hoa (26), ngài sẽ nói kinh này nên biết kinh này lưu thông vô tận.

Sao: Hỏi: Sao biết chắc như thế? Đáp: Kinh Pháp Hoa nói: “Cổ Phật đã phóng quang ấy là vì nói kinh đây”. Nay lại Phật cũng phóng quang ấy nên biết chắc cũng nói kinh đây thời mỗi đức Phật nào cũng nói kinh Pháp Hoa vậy. Mà kinh này đây (kinh Di Đà) là pháp độ sanh cần kíp, chư Phật đồng tán thán. Chư Phật đã đồng tán thán, chắc là chư Phật cũng đồng tuyên nói kinh này, cho nên biết kinh nầy, hội Long Hoa chắc chắn sẽ nói, có nghi chi đâu?

Sớ: Càn Đà Ha Đề, Tàu dịch là Bất Hưu Tức.

Sao: Bất Hưu Tức nghĩa là: Tu các hạnh tốt nhiều kiếp như số cát sông Hằng, vậy sau mới được thọ ký. Vì trải nhiều kiếp như thế mà không hề thôi, nghỉ.

Sớ: Thường Tinh Tấn: Có hai nghĩa: 1. Ngài Thiên Thai nói: “Vì thấy pháp tánh thường trú (còn hoài) nên tu pháp Vô Tác và Chánh Cần”. 2. Kinh Bảo Tích nói: “Vị Bồ Tát này vì một chúng sanh khó độ, trải vô lượng kiếp, theo dõi chẳng thôi, chúng sanh ấy cang cường không chịu nghe lời giáo hóa, thế mà ngài chẳng có một tâm niệm buông bỏ”; thật là tinh tấn rất tột bực.

Sao: Hai nghĩa là:

1. Tự lợi: Mình chưa sanh tâm thiện, làm sao cho thêm lớn tâm thiện, đã sanh thiện phải khéo giữ gìn. Chưa sanh tâm ác, ngăn ngừa đừng sanh, đã sanh tâm ác lỡ rồi, mau mau trừ diệt, gọi là tứ chánh cần (4 việc siêng năng). Mà nói thấy tánh là Vô Tác thời rõ biết pháp tánh vốn không phải thiện, không phải ác. Tuy nói rằng “tu thiện”, nhưng không tu mà tu. Tuy nói rằng: “bỏ ác” nhưng không bỏ mà bỏ. Nghĩa là: Vì một vọng niệm không sanh, tức là chơn tinh tấn.

2. Lợi tha: Vì độ nhiều chúng sanh cũng chưa lấy làm khó; nay nói chỉ vì một chúng sanh, mới thiệt là khó. Trong giây phút vì một chúng sanh cũng chưa lấy gì làm khó, nay nói tới vô lượng kiếp mới thiệt là khó. Nhiều kiếp mà nhằm người dễ hóa độ cũng chưa lấy làm khó, nay nói còn một người không chịu sự hóa độ mà không buông bỏ mới thiệt là khó. Không buông bỏ, cũng chưa lấy gì làm khó; nay nói rằng: Không một tâm niệm buông bỏ mới thiệt là khó. Tinh tấn như thế mãi, không mảy may nào lui sụt, cho nên nói là “thường”.

Lại ngài Bất Hưu Tức tức là ngài Thường Tinh Tấn; ngài Thường Tinh Tấn tức là ngài Bất Hưu Tức. Hai vị Bồ Tát đây, tuy rằng cái tên khác nhau, nhưng vẫn đồng một đức tánh.

C. Tổng Kết

Dữ như thị đẳng chư đại Bồ Tát (Cùng các vị đại Bồ Tát như thế nữa)

Sớ: Kết văn trên chiếu lệ bao nhiêu nữa cũng đồng như trước. Vì chánh ngay kinh này thì tiêu biểu ba môn: Tín, Hạnh và Nguyện, làm thành cái nhơn cõi Tịnh Độ.

Sao: “Đồng như trước” là: Kết văn trên: đức Văn Thù, đức Di Lặc v.v… “chiếu lệ bao nhiêu nữa” thời như đức Phổ Hiền, đức Quan Âm, tất cả các hàng Bồ Tát nữa cũng như vậy.

Tín, Hạnh và Nguyện: Ngài Diệu Thủ (Văn Thù) là tiêu biểu pháp môn: Tín. Bởi cầu sanh Tịnh Độ do tâm Tín làm đầu tiên. Kinh nói: “Nhược hữu tín giả, thị dã” (phải có lòng tin mới được).

Ngài Tinh Tấn là tiêu biểu pháp môn Nguyện và Hạnh. Tinh là bất tạp. Tấn là bất thối. Bất tạp là: Kinh nói: “Nhứt tâm bất loạn”. Bất thối là kinh nói: “Bất thối chuyển Bồ Đề”. Ngài Bất Hưu Tức tức là nghĩa Bất Thối.

Lại ngài Di Lặc là Từ Hạnh, ngài Càn Đà là Phạm Hạnh. Trong Quán kinh nói: “Từ tâm bất sát, đủ các giới hạnh”. Vì thành cái nhơn cõi Tịnh Độ, thời kể bày các vị Bồ Tát, không có một vị nào mà chẳng trồng nhơn Tín, Hạnh, Nguyện.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh không chỗ nào chẳng chiếu, ấy là nghĩa Văn Thù đại trí. Tự tánh không chỗ nào chẳng dung tha là nghĩa Di Lặc đại trí. Tự tánh vô cùng vô tận là nghĩa ngài Bất Hưu Tức, là Thường Tinh Tấn. Còn bao nhiêu nữa so theo đây nên biết.

Sao: “So theo đây nên biết” là: Tự tánh quảng đại là nghĩa Phổ Hiền, tự tánh viên thông là nghĩa Quan Âm v.v… Như văn trên, tùy nói một môn, để nêu danh hiệu các ngài. Nếu mỗi ngài đều đủ hết, tức là danh tự lẫn thông, cho nên nói “tâm tức là danh tự” vậy (tâm chỉ có danh tự, không có hình tướng). Hiểu như thế, tức là ở trong một tâm chánh quán, thấy đủ tất các vị Bồ Tát. Nay chúng ta thấy phàm phu, không thấy các vị Bồ Tát là do vì mất tâm chánh quán. Cho nên nói: “Bồ Tát như trăng mát, thường dạo khắp hư không. Chúng sanh lòng trần sạch, bóng Bồ Đề hiện ở trong”.

1. Nhơn Thiên Chúng

Cập Thích Đề Hoàn Nhơn, Đẳng Vô Lượng Chư Thiên Đại Chúng Cu (Và các trời Thích Đề hoàn nhơn, Thiên thần nhiều đến vô lượng đến cu hội giữa đại chúng).

Sớ: Chữ Cập là nối văn trước nói: Pháp môn Tịnh Độ này chẳng những các bực thánh dự hội mà tất cả chúng phàm phu cũng đồng nghe nữa. Chữ Thích Đề Hoàn Nhơn Tàu dịch Năng Thiên Chủ. Nói chữ Đẳng lại cũng nói “vô lượng” là vì nói chung hết tất cả các hàng chư Thiên vậy. Nói chữ “đại chúng” là vì gồm hết tất cả các chúng sanh vậy. Chữ “cu” là chung kết luôn các vị Bồ Tát cho đến các văn sau.

Sao: Văn trên nói chữ “tịnh chư Bồ Tát” là một đối đãi với nhau giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa. Văn đây nói chữ “cập chư thiên đại chúng” là một đối đãi với nhau giữa Thánh và Phàm, nghĩa là: Thánh, Phàm đồng nghe kinh này, chớ lầm rằng: Cõi Tịnh Độ là chỗ kẻ phàm phu chẳng được nghe hay về ở!

Thích Đề Hoàn Nhơn là: Nếu nói cho đủ thì phải nói “Thích Ca Đề Bà Nhơn Đề”, Tàu dịch Thiên Chủ, rõ có 5 tên, sợ nhiều không nói.

Nhắc lại: Thời kỳ Phật Ca Diếp nhập diệt, có một người nữ phát tâm làm tháp, lại có 32 người phụ giúp, nay người nữ đó được làm vua trên cõi Trời Đao Lợi, thống nhiếp cả 4 phương 32 cõi trời. Lại trong kinh A Hàm nói: Người nữ đó khi còn làm người thật hành việc đốn thí (bố thí triệt để), nay làm đặng ông chủ, cho nên nói là Thiên Chủ.

Chữ Đẳng là: Luôn 32 trời bạn, nhẫn đến còn nhiều trời dân nữa vậy. Chữ “vô lượng” là: Nói thêm cho hết, thời gồm cả cõi trời Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới, hết thảy các cõi trời.

Song, chữ Thiên là trời, mà tiếng “trời” có nhiều nghĩa: Trời là ngày vì ngày rất dài; Trời không buồn rầu vì thường hưởng sự vui; Trời là đèn sáng vì chẳng có tối tăm.

Chữ “đại chúng” là: Trên chư thiên, sắp xuống thì là người và thần A Tu La, chung hết tất cả chúng sanh trong 6 đường vậy. Một thuyết nữa nói: Gồm văn trước, các hàng Bồ Tát và Thinh Văn, đồng kêu là “đại chúng”.

“Chung kết” là: Văn trước nói: “Cùng các chúng đại Tỳ Kheo cu hội”. Văn đây chữ “Cu” là cũng nói cùng với các vị Bồ Tát, chư thiên, và đại chúng đồng “cu hội” vậy.

Hoặc có người gạn hỏi: Chúng ở cõi trời Vô Sắc thời không tai, không thân, còn loài ngạ quỉ, địa ngục thời rất tối, rất khổ, đâu cho dự hội mà nghe kinh này? Song chúng sanh ở cõi trời Vô Sắc là không sắc thân thô, chớ không phải là không sắc thân tế. Cho nên khi đức Phật, ngài nhập Niết Bàn, các người ở cõi trời Vô Sắc rơi nước mắt như mưa. Thời có thân đến, có tai nghe cũng là vô ngại. Đến như các nơi địa ngục, ngạ quỉ trừ những người nghiệp nặng, hoặc ngăn cách chẳng thông, còn như những kẻ nghiệp nhẹ chưa chắc là mất phần.

Huống lại hào quang đức Phật soi vào đâu, dù là địa ngục hoặc thiên tử tức Diêm La Vương cũng chứng đặng pháp Đốn và Viên. Thế thì Phật thuyết kinh này, hào quang chiếu khắp 10 phương, đâu biết loài ngạ quỉ và địa ngục chẳng được nghe ư?

Sớ: Xứng lý thời tự tánh thấu trên, suốt dưới là nghĩa La Hán, Bồ Tát, chư thiên, đại chúng đồng cu hội.

Sao: Pháp này là pháp bình đẳng, không có phân biệt cao thấp. Trên thời suốt đến chư Thánh, trên cũng được dự hội. Dưới thời suốt đến lục phàm, dưới cũng được dự hội. Bởi cả pháp Tứ Đế, pháp Thập Nhị Nhơn Duyên, pháp Tứ Đẳng, pháp Lục Độ, pháp Ngũ Giới, pháp Thập Thiện và Vạn Hạnh, nhẫn đến tám vạn bốn nghìn, các cửa trần lao lăng xăng, duy có một cái tâm này, vì ở trong tánh chơn thật không sai không khác. Mặc dầu long, xà (rồng, rắn) hỗn tạp (lộn lạo), Phàm, Thánh giao tham (đua chen), nhưng ở trong đó, Phật pháp vẫn trụ trì (như như) xưa sao nay vậy (bình đẳng).

CHÁNH TÔN PHẦN (phân ra làm 4 phần)

A. Tường trần y, chánh linh sanh tín nhạo: Rõ bày y báo, chánh báo đều tốt sạch để cho chúng nảy lòng tin ưa.

B. Chánh thị nguyện hạnh linh sanh tu chứng: Chỉ ngay nguyện hạnh ra, khiến cho chúng biết để mà tu chứng.

C. Giao dẫn Phật ngôn linh đoạn nghi hoặc: Lẫn nhau dẫn lời Phật nói để cho chúng dứt lòng nghi lầm.

D. Hỗ chương nan sự linh thiết cảm phát: Lẫn nhau rõ sự khó khăn để cho chúng nảy lòng cảm thiết.

A. TƯỜNG TRẦN Y CHÁNH LINH SANH TÍN NHẠO (phân ra làm hai phần)

1. ĐỐI CƠ: Đối với người đương cơ.
2. THỊ PHÁP: Chỉ bảo y chánh.

1. ĐỐI CƠ

Nhĩ thời Phật cáo trưởng lão Xá Lợi Phất.
(Bấy giờ Phật bảo Ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất)

Sớ: Từ văn đây sắp xuống thuộc về phần chánh tông, về trước là phần tự dẫn, về sau là phần lưu thông (truyền bá). Duy có văn đây là chánh nghĩa sở tôn trong một bộ kinh vậy.

“Nhĩ thời” là: Đương thời đủ sáu món thành tựu kia. “Phật cáo” là vì kinh này không ai phát khởi (mở lời hỏi), Phật tự kêu ông Thân Tử mà nói. Bởi vì kinh này cứu đời cần kíp nên không đợi ai thỉnh.

Sao: Phàm nói chữ “nhĩ thời”, chắc trước có lời duyên khởi (mở đầu) cho nên nói “đương thời” vậy (6 món thành tựu). “Phật tự thuyết” là: Các kinh đều có Thông (chung) Biệt (riêng), hai bài tự: Thông là bài tự Chứng – Tín. Biệt là bài tự Phát – Khởi. Như Kinh Pháp Hoa thời tướng Bạch Hào của đức Phật phóng quang là mở đầu giáo pháp nhứt thừa (nhứt thừa Thật tướng). Kinh Duy Ma thì ngài Duy Ma thị tật (giả bệnh) nơi thành Tỳ Da là khai hiển pháp môn bất nhị. Còn kinh Viên Giác, kinh Kim Cang cho đến các kinh, phần nhiều nhơn có người hỏi trước, sau đó Phật mới vì đó mà diễn nói.

Nay kinh này không phải vậy, cho nên nói: “Không người phát khởi”.

“Cứu đời cần kíp” là gì? Chúng sanh đời mạt pháp căn độn chướng sâu, rất khó đặng hạng người tu theo hai pháp giải thoát và thiền định! Nên Phật dùng lòng đại bi thương xót thuyết ra một môn trì danh niệm Phật này để cứu cấp chúng sanh bằng cách chấm dứt đường sanh tử vì đi tắt ra khỏi 3 thế giới mà còn e không kịp nên chẳng đợi ai thỉnh cầu.

Ví như có người xảy mắc chứng bệnh quá ngặt, sanh mạng chỉ còn trong hơi hoi hóp dù ta sẵn có phương thuốc hay đối chứng mà còn y đó bào chế thì e trễ nãi ngày giờ, thuốc chưa làm xong, mạng đã chết trước.

Chi bằng, đã sẵn có thuốc làm rồi, đổ vô miệng là tức thì sống ngay. Nếu người có lòng nhơn, phải cho lập tức, đâu lẽ còn đợi người kia sắm lễ ân cần vậy sau mới là cho thuốc!? Phật cứu chúng sanh cũng y như thế.

Sớ: Hỏi: Với các kinh khác thì không luận; chỉ như bổn giáo hai kinh đều có người phát khởi; sao riêng kinh này chẳng như thế có? Đáp: Vì ý chỉ càng thiết, cũng là có phát khởi bằng cách không phát khởi đó thôi.

Sao: “Bổn giáo hai kinh” là kinh Thập Lục Quán và kinh Đại Bổn, đồng bộ với kinh này, cả hai đều chuyên nói về pháp tu Tịnh Độ, cho nên goi là bổn giáo.

Quán Kinh thời do bà Vi Đề Hi bị đứa con ác nghiệt (vua A Xà Thế) làm hại, nên bà chán cõi đời ngũ trược mà cầu sanh nước thanh tịnh. Bà bạch đức Phật rằng: “Con nguyện sanh về thế giới thanh tịnh, không muốn ở thế giới ác trược cõi Diêm Phù Đề này”.

Đấy là do mẹ con vua A Xà Thế làm người phát khởi.

Kinh Đại Bổn nói: “Một bữa nọ dung nhan đức Thế Tôn khác thường, thị giả là ông A Nan thấy vậy, bạch hỏi: “Từ khi con theo hầu Phật, chưa từng có lúc nào được thấy dung nhan Phật như ngày hôm nay. Phải chăng Phật nghĩ nhớ các đức Phật đời quá khứ hay là chư Phật kiếp vị lai, cho nên có sự khác thường như thế?”

Phật bảo: “Quí quá thay A Nan! Có các vị chư thiên mượn đệ tử đến hỏi hay đệ tử tự hỏi như thế?

Này A Nan! Câu hỏi của đệ tử đó nó có phước đức hơn gấp trăm lần, nghìn lần, muôn lần đối với kẻ đã trải qua nhiều kiếp đem của bố thí cho các thánh nhơn như Thinh Văn, Duyên Giác, chư thiên, nhơn dân, nhẫn đến các loài bò bay máy cựa ở đầy trong một châu, trong bốn châu thiên hạ, cũng chẳng bì kịp câu hỏi của đệ tử!

Sở dĩ vì sao? Bởi chư thiên, nhơn dân, cho đến loài bò bay máy cựa đều nhờ câu hỏi của đệ tử mà được độ thoát”.

Đây là do vì lấy dung nhan vui vẻ của Như Lai làm nhơn duyên phát khởi kinh Đại Bổn.

Nay có người hỏi nạn rằng: Các kinh có người phát khởi, thôi xin gác lại khoan luận. Chỉ như hai kinh này bổn giáo Tịnh Độ (gốc dạy tu Tịnh Độ) đều có người phát khởi. Kinh đây (Di Đà) cũng chẳng khác gì hai kinh kia, vì lẽ gì lại riêng không nói? Cho nên lập lời đây để giải rõ: Nghĩa là Phật thuyết hai kinh tuy cũng là một tâm đại bi thiết yếu, riêng dạy pháp vãng sanh. Song mà pháp quán tinh vi, môn nguyện rộng lớn, như đã nói trong bài tự văn trước, chưa bằng kinh này, chỉ chuyên sự trì danh, liền sanh nước kia, rất là cần yếu mà lại cần yếu, cho nên ý Phật đối với đây cũng đã thiết yếu mà lại càng thiết yếu, vì các chúng sanh làm bạn bất thỉnh vậy.

“Không phát mà phát” là: Vì chúng sanh hiện tiền ưa đắm sanh tử không cầu ra khỏi; tự hay phát khởi lòng đại bi của Phật nên ngài mới thuyết kinh này không đợi ai thỉnh.

Sớ: Phật chỉ kêu một mình ông Xá Lợi Phất để bảo là: Lệ như văn trước nói duy người có trí mới tin nổi kinh này. Lại bảo một mình ông tức là bảo tất cả chúng. Ngài Tịnh Giác nói: “Vì pháp hiệp bốn mốn Tất Đàn vậy”.

Sao: “Lệ như văn trước” là: Tức là ý nghĩa bắt đầu nói ông Thân Tử do vì ông có trí huệ thậm thâm. Xét thấu các cơ tịnh và uế, dung thông tột ngành sự và lý, mới hay tin thọ không nghi. Như trên hội Bát Nhã, bắt đầu nói ông Tu Bồ Đề, do kinh Bát Nhã luận lý Chơn Không mà ông Tu Bồ Đề là người hiểu lý Chơn Không đệ nhứt trong chúng.

“Bảo tất cả” là: Phật bảo một mình ông Thân Tử, tức là bảo tất cả hàng Thanh Văn, Bồ Tát, nhơn, thiên, đại chúng hiện tiền và bảo tất cả các chúng sanh đời vị lai nữa…

“Bốn món Tất Đàn” là: 1. Ông Thân Tử là đệ tử hầu bên tả, các kinh phần nhiều để ông ở trước hết là phép như thế. Đây là phép Tất Đàn Thế Giới. 2. Ông Thân Tử là bực trí huệ đệ nhứt, trong chúng đều tôn ngưỡng, nếu ông tin Tịnh Độ thời chúng cũng tin theo. Đây là phép Tất Đàn Vị Nhơn. 3. Vì người không tin cõi Tịnh Độ, tự hổ mình không bằng ông, liền đổi bỏ tà chấp. Đây là phép Tất Đàn Đối Trị. 4. Vì khiến kẻ quen tập pháp Tiểu Thừa, bắt chước hướng tới Đại Thừa cầu sanh Tịnh Độ, cứu cánh thành Phật. Đây là phép Tất Đàn Đệ Nhứt Nghĩa.

Sớ: Lại chẳng những Trí là năng tín, mà được thành tựu quả Phật cũng đều do Trí.

Sao: Kinh Hoa Nghiêm, quyển thứ 22 nói: “Tất cả các đức Phật trang nghiêm thanh tịnh, đâu chẳng phải tất cả đều do Trí”. Thế thì biết đức Phật A Di Đà cũng do Trí này, thành tựu công đức Tịnh Độ, mà các chúng sanh tu phép Tịnh Độ ấy do Trí mà sanh Tín, thời Tín mới là chánh Tín, do Trí mà phát Nguyện, thời Nguyện mới được rộng lớn, do Trí mà khởi Hạnh, thời Hạnh mới mầu nhiệm, cho đến thành Phật, thường phải do đấy.

Bởi Trí nó là cái lý mầu để suốt nhơn thấu quả, thành thỉ thành chung nữa, chứ chẳng những chỉ làm môn tín giải mà thôi.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh nó có trí tự nhiên là nghĩa Phật tự kêu ông Xá Lợi Phất để bảo pháp trì danh.

Sao: Không nhơn mà chiếu, không nghĩ mà biết, tánh mầu sẵn sàng chẳng tự đâu mà đặng. Thế cho nên tiếng kiền chùy chưa động, không ai thưa thỉnh mà Phật thoạt nhiên tự nói, nói mãi không gián đoạn.

2. THỊ PHÁP (phân ra làm hai phần)

A. TỔNG TIÊU (nêu chung)
B. BIỆT THÍCH (giải riêng)

A. TỔNG TIÊU (phân ra làm hai phần)

1. Tiêu độ hiển y (nêu cõi để rõ y báo)
2. Tiêu chủ hiển chánh (nêu chủ để rõ chánh báo)

1. NÊU ĐỘ HIỂN Y

Từ đây qua phương Tây mười muôn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc.

Sớ: Độ là cảnh sở y, gọi là y báo. Phật là người năng y, gọi là chánh báo. Bây giờ trước nói cảnh sở y (cảnh nương tựa).

Chữ Thị là đây, là chỉ cõi này mà nói; nghĩa là: Từ thế giới Ta Bà đây cứ nhắm hướng Tây đi tới, gọi là “qua”.

Cõi Phật là: Một thế giới đại Thiên gọi là một cõi Phật, qua cõi Phật như vậy tới mười muôn ức; nghĩa là: Cách phương này xa lại càng xa, chẳng phải như cái cõi cách mười muôn tám nghìn dặm (10.800) nói trong kinh Pháp Bửu Đàn vậy.

Nếu cứ sự cứ lý, cũng chưa lấy làm xa. Chữ Thế là Đời, chữ Giới là Xứ, Cực Lạc tiếng Phạm (Sumati) Tu Ma Đề, Tàu dịch: An Lạc, cũng dịch An Dưỡng, cũng dịch: Thanh Thái, cũng dịch: Diệu Ý; tên tuy có khác một chút, chớ cũng là một nghĩa Cực Lạc.

Song cõi có nhiều nghĩa: Với trong 4 cõi, ở đây có nói Cực Lạc là cõi Đồng Cư mà cũng kể luôn ba cõi trước. Lại với cõi Thọ Dụng, cõi Pháp Tánh và cõi Biến Hóa, cả ba cõi đồng ý đây.

Lại: “Mười cõi” cũng đồng ý đây. Lại Phật dù không cõi, nhưng vì hóa độ chúng sanh tại đâu nói cõi cũng chẳng ngại gì.

Sao: “Y báo” là: Thân nương cõi để ở, cho nên kêu cảnh giới là sở y, tùy theo nghiệp mình gây tạo cảnh sở y (cảnh ở) có tốt và xấu cho nên là báo. Câu: “Từ cõi ta đây” là: Cõi Ta Bà và Cực Lạc cũng ở trong cõi Hoa Tạng, hai cõi trông nhau như ngang hàng.

Nay nói chữ “Quá” là: Qua, là từ cõi đây nhằm hướng Tây mà đi ngang suốt qua. “Một cõi đại thiên”: Cõi tam thiên đại thiên thế giới vậy, trong bài lục phương sau có nói.

“Mười muôn ức” là: Con đường từ đây qua Tây phương lấy số ức tính đó sẽ có 10 muôn, nghĩa là: Qua một cõi Phật, mười cõi Phật, nhẫn đến một ức cõi Phật.

Lại từ một ức cõi Phật, mười ức cõi Phật, nhẫn đến mười muôn ức cõi Phật, cho nên nói “xa đó lại càng xa” vậy. Song, số ức có 4 thứ: mười muôn, trăm muôn, nghìn muôn, và muôn muôn, cũng đều đặng kêu là số ức, nay chưa được biết chỉ về số ức nào vậy.

Trong Đàn Kinh nói: “Mười muôn tám nghìn dặm” là lầm chỉ cõi Tây Vực là Ấn Độ đây vậy, cũng trong bài lục phương sau có giải rõ.

Câu nói “xa cũng chưa lấy làm xa” đủ có hai nghĩa: 1.- Cứ theo sự, kinh Pháp Hoa nói: “Thế giới phương Đông rất nhiều, lấy đất nghiền thành bụi, mỗi hột bụi, kể một thế giới thời mười muôn ức cõi”, cũng chỉ là phần rất ít vậy thôi.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một thứ thế giới”, vậy là ngoài cõi Ta Bà còn có 13 số sát trần thế giới để vây giáp vòng. Nay cõi Cực Lạc chỉ qua mười muôn ức cõi đâu đủ làm xa.

2.- Cứ theo lý thời câu nói “mười muôn ức” ấy, đối với tâm lượng sanh tử của phàm phu mà nói vậy thôi. Nếu Tịnh nghiệp thành, khi lâm chung, tâm ở trong định, tức cái tâm ấy thọ sanh cõi Tịnh Độ như câu: “Phân minh tại mục tiền” (Tịnh Độ rõ ràng ở trước mắt) là vậy, cũng nào từng xa?

Chữ “Thời” là: Đời quá khứ, hiện tại, và vị lai. Chữ Xứ là: Bốn góc và trên dưới… Riêng một mình chữ “thời”, riêng một mình chữ “xứ”, thời nghĩa thế giới chẳng thành, thời và xứ hiệp mới kêu là “thế giới”.

Chữ Cực Lạc dịch có nhiều tên, mà nói chữ Cực là nói rõ cái nghĩa vui tột bực, chẳng phải tất cả những cái vui cõi nhơn thiên bì kịp; cho nên riêng nêu chữ Cực vậy.

Bốn cõi là: 1.- Cõi Thường Tịch Quang. Kinh nói: “Phật Tỳ Lô Giá Na, Pháp thân Ngài khắp tất cả xứ. Chỗ ở của Ngài, gọi là cõi Thường Tịch Quang”. Đây là chỗ người chứng quả tột bực ở.

2.- Cõi Thiệt Báo Trang Nghiêm. Vì do tu pháp chơn thật, cảm đặng phước báo tốt đẹp, bảy báu trang nghiêm, đủ năm món trần tịnh diệu, cũng nói là cảnh vô chướng ngại; do tâm tức cảnh (sắc), cảnh tức tâm, vì tâm cảnh không hai, nên lỗ chơn lông và cõi Phật dung chứa lẫn. Đây là cõi của bực Pháp thân đại sĩ ở.

3.- Cõi Phương Tiện Hữu Dư mới dứt 4 cái trụ hoặc thuộc về đường phương tiện, chưa hết vô minh, nên gọi là “hữu dư”. Đây là cõi của bực thánh nhơn tam thừa ở.

4.- Cõi Phàm Thánh Đồng Cư: Đây là cõi chung của tứ thánh, và lục phàm ở lẫn lộn nhau mà phàm không thấy thánh!

Bốn cõi tuy hơn thua chẳng đồng, nhưng cũng có phân riêng cõi tịnh và cõi uế. Nay nước Cực Lạc đã nói rằng có Bồ Tát, Thinh Văn, Chư Thiên và nhơn dân thì cùng với Ta Bà đều gọi là cõi Đồng Cư. Nhưng mà ở cõi này thì đất đá gai chông, bốn thú lăng xăng, nước kia thời bát đức, thất trân, chúng nhơn thiên rỡ rỡ, đây cũng là cõi Đồng Cư mà thanh tịnh vậy.

“Cũng luôn ba cõi trước” là: Tùy theo căn cơ mỗi người có khác nên chỗ cảm thấy cũng lạ nhau. Như: Có người ở cõi Đồng Cư mà thấy cõi Thiệt Báo, có người ở cõi Đồng Cư mà thấy cõi Tịch Quang, có người ở cõi Đồng Cư mà thấy cõi Phương Tiện, có người ở cõi Đồng Cư mà chỉ thấy cõi của mình (Đồng Cư).

Như kinh Pháp Hoa, đức Phật nói: “Ta vẫn an ổn ở cõi này (Đồng Cư) chúng nhơn thiên thường đông đủ”. Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi, Phật dạy: “Trong pháp hội bữa nay, số chúng đông không xiết kể. Hoặc người thấy cõi này bằng núi, rừng, đất, cát, sỏi, sạn; hoặc có người thấy bằng cõi thất bảo, hoặc có người thấy bằng Phật đi kinh hành; hoặc có người thấy bằng cảnh giới bất tư nghì của chư Phật. Đấy là đều theo căn cơ cao thấp của mỗi người mà cảm thấy có khác vậy thôi” (gọi bằng kẻ có nhơn thấy ra nhơn, người có trí thấy ra trí…) (dụ như xem sách, mắt tỏ thấy chữ to, mắt lờ thấy chữ nhỏ).

“Ba cõi đồng như trước” là: 1.- Cõi Pháp tánh; tức là cõi Thường Tịch Quang; 2.- Cõi Thọ dụng; tức đồng cõi Thiệt báo, nhưng có phân: Tự Thọ Dụng và Tha Thọ Dụng; 3.- Cõi Biến Hóa; đồng với cõi thứ ba thứ tư trước, tức cõi Phương Tiện và cõi Đồng Cư.

Thế thời cõi Cực Lạc đây tuy đang ở cõi Biến Hóa nhưng cững có thể ở vào cõi Thọ Dụng và cõi Pháp Tánh được vậy.

“Mười cõi” là: Ngài Táo Bá phân mười thứ Quyền và Thiệt. Tuy thiệt cõi Cực Lạc là quyền chớ chẳng Phật thiệt. Song đấy là cứ quyền đối đãi phân biệt mà nói vậy thôi.

Nếu luận theo lối tùy cơ thời quyền thiệt không nhứt định, sở dĩ vì sao? Ngài Táo Bá đã nói: “Cõi Phật Di Đà vì một phần kẻ phàm phu chấp tướng, chưa tin nổi lý thật tướng của pháp chơn không; do đấy chuyên tâm nhớ niệm, được phần tịnh kia, thời được sanh về cõi Tịnh Độ. Ấy là quyền chớ chẳng phải thiệt”.

Thế thì biết, đây là tại người chấp tướng mà nói, chớ chẳng phải tại người đã nhập lý nhứt tâm. Nếu đặng lý nhứt tâm thời tức quyền tức thiệt nên nói không nhứt định.

Lại với bốn cõi nói trên cũng đã lẽ dĩ nhiên có đủ, chớ chẳng chỉ nên chấp cõi Thường Tịch Quang; vì nếu chứng được cõi Tịch Quang thời đối với ba cõi dưới cũng phải tùy tâm nương gá, chớ chẳng nên bác bỏ mà cho rằng không.

Người mà chưa chứng đặng cõi Tịch Quang, vội bác bỏ mà cho rằng không có ba cõi dưới thời không còn cõi để ở (cảnh nương ở) là lầm lắm vậy. Cho nên kinh Lăng Nghiêm Phật rất quở kẻ không tin phương kia (Tây phương) có thế giới kim sắc (nếu ai chưa phá được cái tướng ngũ ấm).

“Phật không có cõi” là: trong bộ Thập Tứ Khoa Tịnh Độ, lời Sao nói: “Bực Bát đại Bồ Tát sắp lên mới là khỏi hẳn cái khổ lụy của sắc trần, chiếu bản thể độc lập, phép mầu khôn cùng, còn dùng cõi làm chi nữa. Huống hồ chư Phật!” Phật thiệt không cõi, nhưng mà nói có cũng được, là vì do chúng sanh chỗ hiểu thì ít mà chỗ lầm thì nhiều, cho nên lấy cõi phước lạc để dẫn dắt nó khiến cho làm lành. Số là vị Thánh nhân cững dùng tích gần đặng tiếp vật đấy thôi. Cho nên nói có cũng không ngại gì.

Sớ: Riêng chỉ Tây phương, là vị định cảnh xu hướng. Tây phương riêng chỉ nước Cực Lạc là như bài “Vô khổ hữu lạc” sau và trong kinh Vãng Sanh có nói.

Sao: E có người nạn hỏi: Thế giới trong mười phương đều có cõi Tịnh Độ, cớ sao cứ riêng có cảnh Tây phương bảo người cầu sanh về nước kia? Bởi cũng như đường lớn có nhiều ngã tẻ nên mất dê; bắn do chuyên chú mới trúng chim hộc (27). Không dụng hai tâm, công làm chẳng bề bộn. Bộ Thượng Đô Nghi nói: “Qui mạng về ngôi Tam Bảo, cốt phải chỉ phương lập tướng, trụ tâm lấy một cảnh, chúng phàm phu phải buộc tâm như thế còn e chưa được, huống nữa bỏ tướng mà được hay sao?”

Nếu luận đi cúng dường chư Phật khắp trong mười phương, rồi trở về nước còn trong bữa ăn sớm thì việc đó là việc sau khi sanh về Tây phương Tịnh độ rồi. Chỗ gọi rằng: Mới thấy trứng mà muốn được con gà liền, tính chi sớm thế? Lại hỏi: Thế thì kinh Hoa Nghiêm sao lại dạy phải phổ lễ nhiều đức Như Lai mới được? Đáp: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một tức là nhiều, nhiều tức là một”. Nếu biết nghĩa đây, hoặc phổ lễ (nhiều đức Như Lai) hoặc thiên lễ (lạy một đức Như Lai) vẫn khác, vẫn đồng, không đủ nghi vậy.

“Vô khổ hữu lạc”: Rõ thấy trong văn sau. Lại kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh nói biết bao cõi nước Phật, thế sao cứ riêng cầu về nước Cực lạc? Đáp: 1.- Do nhơn tốt vì mười niệm làm nhơn tức đặng vãng sanh vậy. 2.- Do duyên tốt vì 48 lời nguyện phổ độ chúng sanh vậy.

Sớ: Hỏi: Quán Kinh nói: “Nước Cực Lạc cách đây chẳng xa”. Kinh Di Đà đây nói: “Mười muôn ức cõi”. Thế thì hai kinh nói chỗ gần xa vì sao chẳng đồng vậy?

Đáp: Bởi vì là: Gần mà tức xa, xa mà tức gần. Nếu y theo luận Phật Địa thời cõi Tịnh Độ xa hay gần gì cũng đều bất khả tư nghì.

Sao: “Cách đây chẳng xa” là trong Quán Kinh nói: “Bấy giờ đức Phật Thích Ca, bảo bà Vi Đề Hy rằng: “Hoàng hậu nay có biết chăng? Nước Phật A Di Đà cách đây chẳng xa”. Kinh đây nói tức xa, tức gần. Bởi do cách đây chẳng xa là nói đối với nước Cực Lạc, chỉ qua 10 muôn ức cõi nên cách đây chẳng xa vậy.

Qua mười muôn ức là nói đối với nước Cực Lạc cách đây chẳng xa vì chỉ qua mười muôn ức cõi. Tâm bao trùm cả pháp giới thì cái gần nào mà chẳng phải là xa? Mười phương pháp giới chỉ trong một tâm duy nhứt thì cái xa nào mà chẳng phải là gần, lẫn nhau để nói, vốn không ngại gì.

Câu “bất khả tư nghì” là Luận Phật Địa nêu câu hỏi: “Cõi Tịnh Độ vượt qua chỗ đi của Tam giới như thế là nó cũng đồng một xứ sở với tam giới, hay là tam gới với nó đều riêng khác ư?”

Đáp: Có thuyết nói: Ở cõi trời Tịnh Cư. Có thuyết nói: Ở cõi Tây phương v.v… Song giáp vòng tròn của nó cũng không biết bao cùng tột. Vì khắp cả mười phương pháp giới, không thể nói rằng: Ở ngoài ba cõi hay ở trong ba cõi, cứ tùy theo chỗ hợp của ông Bồ Tát mà hiện (Tịnh Độ) hoặc hiện ở cõi Tịnh Cư, hoặc ở Tây phương v.v… Thời biết nước Cực Lạc Tịnh Độ vượt khỏi thường tình; không phương sở nào chẳng phải là phương sở, không ở đâu mà không đâu chẳng ở, không nên chấp cho như cõi Đồng Cư mà làm chỗ luận nhứt định.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh kiên cố thanh tịnh là nghĩa Tây phương. Tự tánh không chướng, hết lỗi là nghĩa qua mười muôn; tự tánh ngang trùm dọc suốt là nghĩa thế giới.

Sao: “Kiên cố” là vì phương Tây thể thuộc kim, có nghĩa kiên cố, tức tự tánh chơn thường bất dịch (chẳng đổi) vì muôn đời như vậy. “Thanh tịnh” là: Lại có hai nghĩa: Vì phương Tây đương không khí nghiêm tịnh, có nghĩa “trừng thanh” (lóng trong), tức tự tánh các vọng vốn không, vì thể nó lộ ra gió Tây, vì phương Tây đương sắc bạch, có nghĩa trong sạch, tức tự tánh các nhiễm không sanh, xưa nay một sắc.

“Không chướng hết lỗi”là: Tự tánh vốn không phiền não, như thập khổ, thập ác, thập triền và thập sử v.v… đều vượt khỏi cả nên có cái nghĩa quá xa; thế thì biết kiên cố thanh tịnh là phương Tây mới là tột hết phương Tây, không phải cứ nêu chỗ mặt trời lặn xa ngút mới gọi là “qua”, còn đâu đâu chẳng phải là không qua vậy, ai có thể tính kế số đường dặm? Vì là ngang suốt 10 phương, dọc tột ba đời, chẳng phải gần chẳng phải xa, chẳng phải giữa, chẳng phải bìa!

Thế thời, từ đây qua cõi Phật số vi trần, bất khả thuyết, bất khả thuyết, không thế giới nào mà chẳng phải cõi Cực Lạc, đâu lại chỉ có một thế giới mới gọi là Cực Lạc ru?

2. TIÊU CHỦ HIỂN CHÁNH

Bỉ độ hữu Phật hiệu A Di Đà kim hiện tại thuyết pháp (Cõi kia có Phật hiệu A Di Đà hiện nay đang thuyết pháp.

Sớ: Nghĩa chữ “kỳ” (kia) là chỉ văn trên: Có cõi ắt có người, chỉ Phật là người năng y. Phật ắt có hiệu để chỉ ra hiệu (tên) của đức Phật đó là A Di Đà. Ba đời đều có Phật, lựa khác ông Phật quá khứ và vị lai nên nói là ông Phật hiện tại. Mỗi vị Phật nào cũng đều độ sanh; chỉ phép độ sanh là thuyết pháp. “Hiện tại thuyết pháp”: Như kinh Đại Bổn và trong kinh Đại Vân đã nói.

Sao: Kinh Đại Bổn nói: “Ông Phật kia, chẳng phải ông Phật quá khứ, chẳng phải ông Phật hiện tại và cũng chẳng phải ông Phật vị lai. Bởi do Ngài đáp lại cái chí nguyện của Ngài nên hiện ở Tây phương thôi, thế giới Ngài tên là Cực Lạc, hiệu ngài là A Di Đà”.

Chữ Đại Vân là kinh Đại Phương Đẳng. Đại Vân nói: “Bấy giờ đức Thế Tôn Thích Ca hớn hở mỉm cười, từ trên gương mặt của Ngài, phóng vô lượng hào quang. Ngài Đại Vân Mật Tạng Bồ Tát hỏi duyên cớ.

Phật dạy: ‘Thế giới bên Tây phương, có nước tên là An Lạc, ông Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, hiện tại đang thuyết pháp và bảo một vị Bồ Tát rằng: Bên thế giới Ta Bà có Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện nay đang thuyết pháp về kinh Đại Vân, ngươi nên qua đó mà nghe. Nay vị Bồ Tát đó sắp qua đến đây”.

Thế thì chính đương khi bên nầy đức Thích Ca thuyết pháp thì bên kia Phật A Di Đà cũng đương thuyết pháp, cho nên biết chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai mà là hiện tại thuyết pháp.

Sớ: Phàm nói hiện tại, cũng có hai nghĩa như: Đức Thích Ca, đức Di Đà đều gọi là hiện tại, nhưng có một chút chẳng đồng.

Sao: “Một chút chẳng đồng” là: Đức Thích Ca là vị Phật thứ tư trong Hiền kiếp (kiếp hiện tại) nên kêu là ông Phật hiện tại, nhưng đã thị tịch nơi chốn Song Lâm khó thấy tướng hảo, chỉ nghe danh tốt và còn để lại ba tạng kinh giáo và ảnh tượng ngài mà thôi!

Còn đức Phật A Di Đà thời trong ngày này, giờ này, chính ở nước kia hiện đang thuyết pháp. Thế thì đức Thích Ca hiện tại mà đã quá khứ. Di Đà hiện tại vẫn hiện tại vậy.

Người xưa nói: “Khi Phật còn tại thế, ta bị trầm luân, nay được thân người, Phật đã diệt độ mất rồi”. Ôi, buồn cho tấm thân nhiều nghiệp chướng không thấy được kim thân của đức Như Lai, cảm mộ thương than đến nỗi thế nầy!

Nay đức Thích Ca tuy diệt độ, nhưng đức Di Đà đang còn; miễn sao vãng sanh liền đặng gần gũi, thế mà không tin, không nguyện, luống uổng thương than cũng là vô ích, thật là rất lầm.

Sớ: Lại với hiện tại đây là cứ theo đương thời đức Thích Ca còn ở đời mà nói, chứ thiệt ra thời suốt đến đời trước, đời sau, cũng còn đời sau và đời sau vô tận đều kêu đời hiện tại.

Sao: “Đời trước đời sau” là: Đức Thích Ca trước khi chưa ra đời, đức Di Đà cũng hiện tại đang thuyết pháp, đức Thích Ca đã diệt độ mất rồi, đức Di Đà cũng hiện tại thuyết pháp, nhẫn đến ngày nay cũng vẫn còn hiện tại.

“Đời sau, đời sau vô tận” là: do đức Phật Thích Ca thuyết pháp, chỉ ở trong 49 năm từ đức Ca Diếp sắp về trước, đến Phật Di Lặc về sau dầu số năm nhiều đi nữa, cũng có hạn lượng, chưa bằng đức Di Đà thuyết pháp rất là lâu xa, chư Phật chẳng bằng. Thế cho nên chẳng những trong thì giờ này, còn gọi hiện tại, mà đời sau đời sau đến vô tận đời sau cũng vẫn còn kêu là hiện tại thuyết pháp.

Hỏi: Sau khi đức Di Đà, kế bổ xứ Quán Âm, đâu đặng nói đức Di Đà vô tận? Đáp: Đức Di Đà trụ thế mấy kiếp mới bổ đức Quán Âm, có từng biết số chăng? Kia, đức Quán Âm còn nói: trụ vô ương số kiếp vô ương số kiếp, bất khả phục kế kiếp mới trao lại cho đức Thế Chí (28) thời với đức Di Đà ở lâu đời khá biết; đâu chẳng phải cũng hữu tận bằng vô tận đó ư? Huống đức Thế Chí mà bổ cho đức Quán Âm hằng không thời kỳ bát nê hoàn (vào Niết Bàn). Tuy nói rằng đức Thế Chí nhưng thiệt ra thì cũng như đức Di Đà thuyết pháp không khác vậy. Đây gọi là đời sau và đời sau vô tận; thế nào mà chẳng được?

Sớ: Lại, hiện tại ở đây là cứ nơi đức Thích Ca đối với đức Di Đà mà nói, chớ thiệt thời hiện tại của đức Di Đà tức là hiện tại của đức Thích Ca.

Sao: Ngài Trí Giác nói: “Trong kinh giáo Tổng Trì nói: 37 vị Phật đều là một bản thân Phật Tỳ Lô Giá Na hiện ra”, nghĩa là: trong tâm đức Phật Giá Na chứng cõi Tự Thọ Dụng, thành ra năm trí. Trước dùng trí Pháp Giới Thanh Tịnh tự ở giữa trung ương, kế dùng bốn trí tủa ra bốn phương thành bốn đức Như Lai, và trí Diệu Quán Sát kia tủa ra phương Tây thành ông Phật Vô Lượng Thọ ở thế giới Cực Lạc”, thời một vị Phật mà hiện ra hai cõi. Cho nên Ngài Thanh Lương nói: “tức đức Bổn Sư vậy”.

Sớ: Song chư Phật thuyết pháp nhiều cách chẳng đồng. Nay đây y báo chánh báo đều thuyết rõ như kinh này và kinh Đại Bổn cùng trong Quán kinh đã nói.

Sao: “Nhiều cách chẳng đồng” là như thuyết pháp bằng tiếng nói, bằng mắt xem, nhẫn đến bằng cơm thơm v.v… cho nên thế giới Cực Lạc chẳng những thuyết pháp bằng lời nói của Phật, mà y, chánh cũng đều thuyết pháp như kinh Đại bổn nói: đức Phật A Di Đà vì các hàng Bồ Tát, Thanh văn, chư thiên, thế nhơn rộng nói Đại Giáo (Đại Thừa) diễn đủ pháp mầu, ai nghe cũng mừng rõ vui thích, tâm được tỏ ngộ, mỗi người đều có chỗ sở đắc. Lại nói phương Đông có hằng hà sa số chư Phật đều khiến vô lượng Bồ Tát, ThanhVăn đi đến chỗ đức Phật A Di Đà nghe thuyết diệu pháp. Bốn góc trên dưới, chư Phật cũng sai Bồ Tát đi nghe thuyết diệu pháp. Như thế đây là: Chánh báo thuyết pháp.

Kinh đây chép nước, chim, cây, rừng diễn ra diệu pháp, cùng kinh Đại Bổn và Quán kinh như trong bài văn sau dẫn rõ; đây là: Y báo thuyết pháp.

Lại kinh Đại Bổn nói: “Hoa sen nước kia, phóng ra vô lượng hào quang, trong hào quang phóng ra vô lượng đức Phật, mỗi mỗi chư Phật, đến thuyết diệu pháp”. Đây là Y, Chánh đồng thời thuyết vậy.

Sớ: Có chỗ nói thuyết pháp là ứng thân và báo thân. Lại có chỗ khác nói: Ba thân đồng thuyết, tùy cơ mỗi người thấy chẳng đồng.

Sao: “Ứng thân Phật thuyết” là: Có chỗ nói Pháp thân Phật một mực không thuyết. Báo thân Phật đủ thuyết mà không thuyết, còn ứng thân Phật nhứt định thuyết; thế thời sự thuyết pháp của đức Phật kia chính là ứng thân. Song cũng gồm báo thân nữa; như kinh Đại bổn nói: “Thân Phật cao hơn tất cả thân của người thế gian”. Quán kinh nói: “Thân Phật cao sáu mươi vạn ức na do hằng hà sa do tuần”. Thế thời đâu phải nhứt định là thân một trượng sáu thước!

Song trong kinh nói: Báo thân và Hóa thân đều chẳng phải là Phật hiện thật, cũng chẳng có thuyết pháp thì đâu đặng nhứt định rằng Pháp thân không thuyết. Đó là tùy cơ mỗi người ngó thấy, chỗ thấy chẳng đồng thôi (chớ kỳ thật ba thân đồng thuyết).

Sớ: Rất đáng tiếc thay muôn dặm, trăm thành, vì cầu ông tri thức trèo non vượt bể, mới nói rằng lễ chốn Đạo Tràng; há nên với Phật vạn đức Như Lai hiện tại thuyết pháp, làm ngơ chẳng đoái hoài, đành đọa chốn Đông Thành! Thế thời gọi là đáng thương xót lắm!

Sao: “Vạn lý” (muôn dặm) là: Ông thầy hỏi ngài Đại Tùy: “Chừng kiếp hỏa tai nổi dậy, đốt cháy chưa biết cái ấy (thức tâm) hoại hay là không hoại?” Đại Tùy đáp: “Hoại”.

Ông thầy hỏi: “Như thế thì nó đi theo kiếp hoại hay sao?” Đáp: “Đi theo”. Ông thầy hồ nghi mãi, không giải quyết, phải qua lại muôn dặm, khắp cầu ông tri thức cắt nghĩa mới đặng đại ngộ.

“Trăm thành” là: ngài Thiện Tài trải qua các phương một trăm mốt cái thành tham cầu 53 ông thiện tri thức.

Dẫn lời đây, để so sánh đức Phật A Di Đà là ông tri thức tối cao vậy. “Trèo non vượt bể” là: Non Nga Mi và non Phổ Đà v.v…

Dẫn lời đây, để so sánh thế giới Cực Lạc Tây phương là chốn Đạo Tràng tối thắng. Song người xưa lặn suối, trèo non; ấy là vì muốn gần gũi bậc hiền thánh. Ngày nay giong ruổi Đông, Tây chỉ là xa xem ảnh tượng mà lại trải đủ con đường hiểm trở gian truân, chẳng nài sự lao khổ! Đâu đặng với đức Từ Tôn hiện tại, bỏ qua không đến, khác nào bà lão mẫu ở Đông thành đồng sanh một ngày giờ với đức Phật, mà không thấy chơn dung của ngài. Há chẳng phải đồng bạn đó chớ chi? Với ông Phật quá khứ và vị lai thế tất khó gặp, còn ông Phật hiện tại cũng bỏ qua, cho nên nói đáng thương xót.

Sớ: Xứng lý thời tự tánh thể vẫn linh tri, là nghĩa “cõi kia có Phật”. Tự tánh chính nay vẫn hiển hiện là nghĩa “hiện tại thuyết pháp”.

Sao: Mãn buổi hầu bên Phật mà chẳng thấy kim dung Ngài, trọn ngày ngồi trong pháp hội mà chẳng nghe được đạo mầu, thành thử để Ma vương lộn vào cõi Phật; tà pháp chen với lý chơn tôn! Nếy hay quày rõ nguồn tâm Phật Pháp đồng thời đều đủ!