TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 26

 

CHƯƠNG CHÍN: HƯNG PHƯỚC.

TRONG PHẦN THỨ NHẤT CHƯƠNG IX

(chánh truyện có mười bốn vị, phụ có hai vị).

1. Truyện ngài Pháp Thành ở kinh đô, thời Hậu Chu. (Theo niên biểu thì phải là thời Tiền Đường).

Thích Pháp Thành, vốn họ Vương, tên là Thủ Thận. Làm quan đến chức Giám sát ngự sử. Gặp lúc Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) nghi ngờ Nhị Tín khốc lại la chức, Sư bèn lánh quan pháp, xin xuất gia làm tăng. Sư khổ hạnh tiết chế tinh tấn đối với việc hóa đạo. Tiếng phát thì âm hưởng liền theo, hạnh cao ngay thẳng.

Vào niên hiệu Trường An (701 – 70), Sư đến chợ ở phía tây Kinh Triệu, đục thông một lỗ hổng lớn gọi đó là “Hải Trì” (ao biển). Chi phân Vĩnh An Cừ ghi chú ở đó, dùng làm nơi phóng sinh. Phía trên ao có Phật ốc, lầu kinh đều thành chỗ tạo dựng. Lúc đục ao, gặp được phiến đá xưa, có bài minh rằng: “Trăm năm là chợ, sau đó là ao”. Từ đời Tùy dựng lập kinh đô lấy làm chợ, đến lúc ấy là trăm năm. Niên hiệu Nghi Phụng thứ 2 (677), có người nhìn hơi khí nói rằng: “Ở phương này có hơi khí khác lạ!” Vua Cao Tông thời tiền Đường bèn ban sắc đào bới, thấy được một cái hòm đá, trong hòm đựng xá-lợi Phật hơn muôn viên, ánh sáng mầu sắc rực rỡ bền chắc, nhà vua bèn ban sắc ở tại đó xây dựng chùa Quáng Trạch, cũng ban rải xá-lợi đến chùa Kinh và các châu phủ mỗi nơi bốn mươi chín viên. Võ Hậu (tức Võ Tắc Thiên – 68 – 70) bèn thiết đặt Đài Thất Bảo và đổi biển ngạch chúa. Sư ở tại chùa đó hành hóa, khuyến khích mọi người, phần nhiều lấy sự sùng phước làm việc chính của mình.

2. Truyện ngài Nghiệp Phương trụ chùa Chiêu Quả, ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường.

Thích Nghiệp Phương là Pháp tôn của Thiền sư Giải Thoát. Thân Sư cao bảy thước năm tấc, dáng mạo hiên ngang, duỗi tay dài quá gối, lông mày dài mấy tấc, mắt có tròng đôi, mọi người nhìn thấy đáng sợ. Sư lễ Phật tụng kinh không mệt mỏi, nối pháp ngài Giải Thoát. Sư động hợp vô hình, chẳng bỏ lợi vật, lại tu Phạm cung.

Bấy giờ, ở phủ Thái Nguyêncó một sĩ nữ đắp một tôn tượng Bồtát Văn-thù, sắp đưa lên núi, vừa đến bên bờ sông Hổ Trì sóng lớn lại dâng cao, Sư bèn đứng cách bờ đốt hương khải cáo, nước dòng sông từ từ giảm xuống. Khi tôn tượng đã đưa qua, nước lại dâng tràn. Sau, Sư thị tịch, xây tháp thờ ở phía Tây bắc cách chùa một dặm. Nhục thân Sư đến nay hiện còn và có nhiều thần dị.

3. Truyện ngài Quang Nghi trụ chùa Thanh Long ở Thượng Đô, thời Tiền Đường.

Thích Quang Nghi, họ Lý, vốn dòng Tôn Thất thời tiền Đường. Cha của Sư là Lang Da Vương cùng Việt Vương dấy binh muốn lấy lại Bổn Triều, trùng hưng Đế Đạo, nhưng không khắc phục được, bị Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) đánh giết mà không chua xót. Sư lúc còn nằm trong tã lót, được mẹ nuôi bồng chạy trốn. Sau đó vài năm, Võ Hậu trộm nghe Lang Da có người con còn sống giữa dân gian, bèn bàn mưu phải bắt gấp, mẹ nuôi đem Sư đến đất Phù Phong bán Sư cho một nữ công để người nầy nuôi nấng.

Năm tám tuổi, dáng mạo Sư khác bao trẻ khác, thần ngộ vượt cao. Mẹ nuôi nghi sợ bắt gặp tướng mạo thì bại lộ nên rất lo sợ, bèm sắm chiếc áo lót bằng vải bố và bỏ tiền cất ở bụng. Ở dưới rừng dâu, bảo Sư “nên đi, sắc lệnh đã dò tìm chớ khinh thường, ta lo sợ cùng chết mà không ích lợi gì, ngươi thông minh dĩnh ngộ, sẽ có thể tự đứng vững. Nếu một mai giàu sang phú quý, chớ quên bà già này!”. Nói xong bà đứng khóc, Sư cũng thương cảm không cầm lòng được, mẹ nuôi sau đó qua đời. Sư mịt mờ đi đến nghịch lữ, nô đùa với bọn trẻ. Có Quận Thúc phu nhân đi sang chỗ ở của chồng bèn dừng nghỉ tại đó, thấy Sư nhóm tụ mà dáng mạo khôi ngô sáng sủa, nhân đó thương xót, bèn gọi Sư đến hỏi rằng: “Nhà của cháu ở đâu mà một mình đến đây vậy?” Sư đáp rằng: “Trang trại ở gần đây, nhân lúc nhàn rỗi nên cùng đùa vui”. Phu nhân bèn đem thức ăn và tiền cho Sư, Sư bèn mở áo và cất tiền vào trong. Bóng chiều dần qua, Sư lần dò đi đến nơi thôn vắng, gặp một lão tăng, gọi Sư rằng: “Này đứa nhỏ! Nay ngươi chỉ một mình, nhà đã bị phá hoại, vậy sẽ đi về đâu?” Sư kinh ngạc đứng sững. Vị lão tăng lại bảo: “Xuất gia nhàn rỗi thoải mái và không lo sợ, vậy ngươi có muốn chăng?” Sư đáp: “Đó vốn là ước nguyện của con!”. Vị lão tăng nắm tay Sư dẫn đến dưới tàng cây Đại Thọ, bảo Sư đảnh lễ các Đức Phật mười phương, quy y thường trú Phật Pháp Tăng rồi, nhân đó cắt tóc cho Sư và lấy ra cho Sư chiếc y ca-sa để đắp mặc, kích cỡ xứng với thân, Sư chấp trì cầm nắm như vị Tỳ-kheo đã mấy mùa hạ. Vị lão tăng mừng bảo rằng: “Đây là tập tánh khiến, hãy khéo giữ gìn tăng hạnh!” Và bèn chỉ về hướng Đông bắc mà bảo rằng: “Cách đây vài dặm có một ngôi chùa, ông nên đi đến đóbái yết vị trụ trì và nói là ta bảo ông đến xin làm đệ tử ở đó!” Nói xong, vị lão tăng tự nhiên biến mất, mới biết đó là bậc Thánh Tăng.

Ngài theo y lời đó, thưa cùng vị trụ trì chùa ấy. Vị trụ trì kinh hãi đối với lời nói đó, nhân đó mà giữ Sư lại. Trải qua mười năm, Sư đã thấu rõ kinh luật, khéo giỏi Thiền Quán. Đến lúc vua Trung Tông lên ngôi (70), nhà Đường lại hưng thịnh, vua Trung Tông ban sắc tìm kiếm con của Lang Da, Sư bèn đến trước chúng tăng trong chùa nói rõ sự việc. Bấy giờ, tăng chúng thảy đều kinh hãi. Nhân đó Sư đến chỗ Phù Phong Lý Sứ Quân, tức là cha của Sư. Lý Sư Quân trông thấy mà buồn vui lẫn lộn, bèn mời Sư ở tại nhà, và viết trạng văn tấu trình, cố thỉnh Sư mà không thể được. Lý Sứ Quân có một người con gái tuổi tác cũng bằng Sư, khi trông thấy Sư mà lòng vui mừng, muốn đi đến tình khúc. Sư sợ hãi trốn tránh. Một hôm, gặp Sứ Quân phu nhân ra, cô gái ấy trang điểm sắc phục, người đi theo cũng đông, đến cố cưỡng bức, Sư cố chống cự, trăm mối chẳng hề đoái hoài. Sư bảo rằng: “Thân bất tịnh xin hãy tắm gội, sẽ đợi lệnh”. Cô gái ấy vâng dạ rồi bảo lấy nước ấm tắm gội. Khi cô gái ấy bước ra, nhân đó Sư đóng cửa. Cô gái ấy trở lại cửa, đã không thể vào được, tự trông qua khe cửa. Sư bèn cầm con dao cạo tóc xoay nhìn lại mà nói rằng: “Vì có căn này nên bị ham muốn bức bách, nay nếu dứt bỏ đi thi lấy gì mà bức bách?” Cô gái ấy lo sợ bèn ngăn cản, nhưng chẳng thể ngăn được. Sư bèn cắt đứt dương vật, quăng dưới đất và Sư cũng bất tỉnh. Cửa đã không mở, bỗng chốc Sứ Quân phu nhân cùng đến, cô gái ấy bèn tình thật tỏ bày. Phu nhân bèn phá cửa vào xem thì Sư cũng dần tỉnh lại. Bèn bảo thầy thuốc khiêng đến nhà tơ tằm, dùng lửa đốt trên đất, lấy rượu đắng rưới vào. Sư ngồi ở trên dùng mỡ đắp vào. Hơn tháng sau thì vết thương được lành. Sứ Quân tấu trình Sư là con của Lang Da Vương. Vua Trung Tông có ban sắc chiếu cho các trạm đưa Sư về kinh đô, dẫn đến yết kiến thăm hỏi rất cảm động. Vua Trung Tông ban chiếu mời Sư nối ngôi vua cha, Sư khẩn thiết từ chối, thệ nguyện làm tăng, chẳng thể nào lung lay.

Vua Trung Tông ban sắc cho Sư trông coi đồ chúng, tùy ý xây dựng một lan-nhã và tự do hoằng hóa. Tánh Sư ưa thích núi Chung Nam, nhân đó mà đến trụ chùa Pháp Hưng. Tại các cửa hang, Sư xây dựng am liêu Lan-nhã có đến mấy mươi nơi. Pháp do tiếng đạo vang xa, bàn nói động đến lòng người, nên hoặc đi đường núi dài cả mười dặm mà các hàng tăng tục thị giả thường đến số lượng mấy trăm ngàn vị, đón rước chăm sóc tiếp đãi rất chu đáo như khanh tướng. Sư thường ở trong tịch định, hoặc nói việc tương lai để quyết đoán tốt xấu, đều không sai lầm, nên mọi người càng quy hướng rất đông.

Đến ngày 23 tháng 6 niên hiệu Khai Nguyên thứ 23 (73) trước hết Sư dặn dò đệ tử phải cẩn thận giữ gìn thân miệng, chớ ồn ào ba hoa, ý của các vị Tổ Sư không việc gì khác. Tĩnh lặng thì chân pháp hiện tiền. Ngoài ra đề xướng đều chẳng được gì cho mình. Sư nói rất thiết tha khơi mở. Nhân đó, đầu xoay về hướng Bắc gối cánh tay phải và nằm nghiêng hông bên phải mà thị tịch. Đó là điềm lành Đại Niết-bàn. Sư có căn dặn trước nên an táng ở phía Nam gò Thiếu Lăng, nên bèn đục gò làm thất, tôn trí nhục thân Sư rồi bít lại, nơi kim quan thường tỏa ra mùi hương lạ xông ngát, diện mạo Sư vẫn như lúc sống. Xe tổ vừa ra thành, có đến mấy trăm con hạc trắng kêu la giữa hư không, mây nhiều mầu che phủ xe dài đến mấy mươi dặm. Kẻ tăng người tục khóc than buồn thương, phần nhiều đều mặc hiếu phục. Tại chỗ đất an táng Sư, bèn xây chùa Thiên Bảo. Các đệ tử của Sư đều ở lại đó mà giữ gìn.

4. Truyện ngài Tự Giác trụ chùa Đại Bi ở Trấn Châu, thời Tiền Đường.

Thích Tự Giác, người ở xứ Vọng Đô, thuộc Bác Lăng. Thuở nhỏ, Sư tỏ vẻ nhàm chán thế tục, không bao lâu thưa với cha mẹ già rằng: “Con thích theo Phật để cứu độ đời!” Cha mẹ Sư kinh ngạc quát mắng bảo Sư thôi đi, nhưng Sư vẫn không tủi thẹn, trở lại bái lạy cầu xin. Bèn gượng đến lễ ngài Tri Khâm ở chùa Khai Nguyên trong Bổn Bộ. Ngài Tri Khâm thấy chí khí Sư khác hẳn bao người, bèn đặt tên là Tự Giác và răn bảo Sư rằng: “Ông nghe tên nên suy nghĩ nghĩa”. Sư liền thưa: “Hạt giống Phật theo duyên sanh khởi, chỉ nghe là biết sự dạy răn!” Thế rồi, Sư tụng kinh và cách mông độ.

Đến niên hiệu Chí Đức thứ 2 (77) Sư đủ tuổi, và thọ giới cụ túc tại Trấn Châu, liền đến chùa Thiền Pháp ở huyện Linh Thọ học tập kinh luận. Sư chuyên cần học tập suốt chín năm, và đều thấu đạt chỗ sâu mầu. Sư nói: “Sẽ đến núi Thái Hành, trên một tảng đá dựng lập am tranh, ở đó rộng chừng ba mẫu, có một khe suối nhỏ, làm lan-nhã, há chẳng vui thích ư!”

Ngày 39 tháng 9 niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766), Sư đến ranh giới huyện Bình Sơn. Ở đó có Tùng Lâm Sơn Viện, quả ứng như sự mong cầu, Sư bèn ẩn tích tự vui sống. Đến tháng năm sau (767), trời hạn hán, Sư đi chân trần kinh hành, suốt mùa đông vừa qua, Sư mặc áo để bày vai phải, ở đó rừng thưa hang núi, Hổ sói quen vết khắp cùng, ngài chỉ lượm trái hái lá, ngày chỉ ăn một bnữa vào giờ mão. Bấy giờ, Hằng Dương Tiết Độ Sứ Trương Quân lo sợ hạn hán, nghe Sư tinh ròng khổ nhọc, nên đích thân vào núi thỉnh Sư cầu mưa. Trương Quân nói với Sư rằng: “Tôi không biết thuật chấp chính, khiến lụy đến trăm họ, ba năm qua trời hạn hán, do khổ mà gây ra tội lỗi, tôi tự trách vốn không bổ ích, nghe nói Long Vương thường đến nương tựa Sư để nghe pháp, quên việc ban thí mưa. Xin thỉnh Sư rũ lòng từ cứu hạn hán, có như Bạch Thủy, như niệm thương sanh. Xin thỉnh Sư tạm nghỉ thiền định, vào nơi quân phủ!” Sư bèn chí thành kính cẩn khải cáo Long Thần, chưa được mấy khắc, trời liền mưa lớn, hai hôm sau báo đã đủ. Trương Quân càng quy hướng ân cần kính trọng, như con phụng hiếu thờ cha mẹ.

Sư kể từ lúc mới vào đạo đến nay, học theo thệ nguyện của các Đức Phật ở nhân địa, Sư cũng phát bốn mươi chín đại nguyện. Trong đó, nguyện thứ nhất là thân lớn tùy theo Bồ-tát Đại Bi, kế là nguyện tạo đúc tượng chùa Đại Bi. Và lúc Sư mở lời thì đều hưởng ứng, Đàn Việt đến đông đúc dùng vàng để cúng dường. cổ vũ đúc thành tượng cao bốn mươi chín thước, phạm tướng trang nghiêm, mắt tay đầy đủ. Và khoảng chừng một năm, chùa cũng hoàn thành. Tức hiện nay là ngôi chùa lớn ở ngọn núi thuộc phía Tây của thành. Sư bèn đứng trước Đàn tụng niệm đến canh ba, thấy hai luồng ánh sáng thần, bên trong sắc mầu vàng ròng. Và trong ánh sáng rực rỡ ấy thấy có Đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí theo hầu hai bên, Đức Phật duỗi cánh tay vàng, gọi “Tự Giác”, dần dần mây hạ xuống xoa vào đỉnh đầu Sư và bảo: “Giữ nguyện chớ đổi thay, không nên biếng lười phế bỏ, lợi vật là trên hết, ông đi ta sẽ tùy theo ý ông!” Nói xong, mây liền tan biến mịt mờ không dấu vết. Sư dùng nguyện tâm thù đáp đã hoàn tất, bèn trở về núi rừng, chọn nơi sống trọn đời.

Đêm rằm tháng 2 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 11 (79), có vị thần hiện nửa thân hình, tướng trạng như Tỳ-Sa-môn, nói với Sư rằng: “Năm nay Sư diệt độ!” Sư bèn đưa tay cảm tạ vị thần và nói rằng: “Đi ở là định phận, tôi xin nghe lời!” Đến ngày 1 tháng 6 năm đó, ngài lặng lẽ thị tịch. Môn nhân muốn đón rước thần khám trở về chùa núi, mọi người ở Châu Phủ tha thiết muốn giữ lại, cuối cùng xây tháp cúng dường tại phía Nam chùa Đại Bi. Lúc đó là ngày mùng 8 tháng niên hiệu Trinh Nguyên thứ 13 (797).

Chùa Đại Bi là một kỳ tích của Hằng Dương, có lắm điều cảm ứng ngầm thông. Đến đầu niên hiệu Hiển Đức (9) thời Hậu Chu, có sắc lệnh đúc tiền đồng khắp chín phủ, các tượng đồng trong nước đều bị phá hủy. Bấy giờ, mọi người trong Châu đem tiền để chuộc lại tượng đó, nhưng không được chấp thuận, bị đem lên lò nấu đúc, những người có chân định thảy đều đau buồn thương tiếc. Lúc than nóng đốt cháy, từ trên đỉnh xuống đến ngực Tôn tượng trở thành nước đồng chảy. Bỗng chốc người coi chừng bị chết, do đó đành bãi bỏ. Mãi đến thời Bắc Tống; Thái Tổ Thần Đức Hoàng Đế (960 – 976) đúc lại khiến Tôn tượng được hoàn thành, thay thế sám hối việc trước đây.

5. Truyện ngài Tuệ Vân ở chùa Tướng Quốc nay là xứ Đông Kinh, thời Tiền Đường.

Thích Tuệ Vân, họ Diêu, người ở xứ Hồ Tương, tánh thức trong sáng, khí mạo rộng lớn.

Niên hiệu Lân Đức thứ nhất (66) thời vua Cao Tông, lúc đó Sư vừa mới mười tuổi, tự nhiên có ý chí xuất trần, cha mẹ Sư bày ra nhiều việc để ngăn cản, nhưng tâm Sư chẳng phải như chiếc chiếu nên không thể cuốn lại. Cha của Sư buồn bực trước chí nguyện đó. Sư đến nương tựa Thiền Sư Sơ Tổ ở Nam Nhạc, được Sư chỉ dạy, và Sư có tài năng thông minh, ưa thích pháp vị kinh giáo, trầm lắng như vậy. Đến tuổi hai mươi, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Nam Nhạc, tự chuyên hộ trì pháp giới, lại giỏi tỳ-ni. Sau đó, Sư thôi giảng, chuyên làm việc phước. Sư mở lời thì có người hưởng ứng, cải hóa phong tục, lập sự nghiệp dứt bặt riêng tư, các hàng sĩ thứ đều kính trọng vâng theo. Sư mới đến Trùng Hồ và tới Kinh Dĩnh, dấu vết khắp giang nam, mang theo đãy chống tích trượng, chuyên việc khuyên người, khiến xả bỏ bệnh san tham. Tùy nơi mà cho sửa chữa chùa chiền hơn hai mươi ngôi, đều thành công mà không chấp trước.

Niên hiệu Cửu Thị thứ nhất (700) thời Võ Hậu, Sư muốn hành hóa ở Giang bắc nhưng nhân duyên chưa đủ. Đến niên hiệu Trường An thứ nhất (701), Sư đến xem xét ở Lương Uyển, ban đêm nghỉ tại Phồn Đài, nhìn về phía bắc bờ sông, thấy có khí lạ xông giữa trời. Sáng hôm sau, Sư vào thành tìm xem thì đó là nơi ao cong trong vườn ở phía Tây bắc nhà của Hấp Châu Tư Mã. Sư lần bước đến bên bờ ao thấy trong làn sóng có ảnh cung trời, lầu gác cao thấp, ngọc châu chất chồng, khung cửa họa vẽ nghi tượng cửu trùng, uốn lượn cả ngàn hình dáng. Ngài trực nhận đó là cung điện của tầng trời Đâu-suất. Sư thấy sự việc kỳ lạ đó, mừng vui suốt cả tâm can, tự nói rằng: “Tôi nghe trong kinh Trí Nghiêm nói ảnh của cung điện hiện trên đất lưu ly, đó là cảnh giới chẳng thể suy nghĩ bàn luận. Nay quyết định phỏng theo đó mà xây dựng phạm cung để đáp lại điềm ứng hiện đó”. Và Sư bèn chống tích đến trụ chùa An Nghiệp.

Đến năm Bính Ngọ (706) tức niên hiệu Thần Long thứ 2, Sư đến chùa Báo Thành ở huyện Chúc, thuộc Bột Châu, phát nguyện vì nước mà mô tả tôn tượng đức Di-lặc cao một trượng tám thước, khuyến mộ mọi người cúng thí vàng đỏ. Bấy giờ, Đàn Việt cúng thí chuyển vận đến chất như gò, Sư bèn mời các thợ khéo, chỉ một lần đúc liền thành tựu. Tôn tượng có tướng tốt đặc biệt, đến tháng 6 năm Canh Tuất (710) tức niên hiệu Cảnh Long thứ , Ôn Vương (Lý Long Mậu) nhường ngôi cho Duệ Tông là chú, năm đó cũng đổi niên hiệu Cảnh Vân năm thứ nhất, Sư an trí tôn tượng nơi biệt điện mới xây dựng nơi góc phía nam thuộc Đông Lang của chùa. Ban đầu Sư bảo: Sửa tài mới bàn dựng bảng, các Đàn Việt bàn luận lăng xăng chưa thành tạo dựng.

Qua năm Tân Hợi (711) tức niên hiệu Cảnh Vân thứ 2, phía bắc Kinh Phường của chùa Phước Tuệ được đổi với nhà của Tân An Điển Ngọ Trịnh Cảnh. Sự việc mới khởi công, bèn đào được tấm bia cổ, biết được đó là “Vào năm Ất Hợi () tức năm Thiên Bảo thứ 6 thời Bắc Tề xây dựng chùa Kiến Quốc do vua Văn Tuyên Đế (Cao Dương) là con nối dõi Cao Hoan”. Mọi người trông thấy đó đều kinh hãi khen ngợi, đồng như ngài Xá-lợi-phất thương đàn kiến đùn đống! Thái Phỏng Sứ Quân đều cho là lạ đôi ba phen, bèn men theo bia ký đó mà đổi tên Phước Tuệ thành chùa Kiến Quốc, đồng thời đón rước thánh tượng đức Di-lặc và Điện Tài ở chùa An Nghiệp đến chùa phụng thờ.

Đến ngày 13 tháng niên hiệu Thái Cực thứ nhất (712) vua Tuệ Tông đổi niên hiệu là Diên Hòa. Năm đó, Hình Bộ Thượng Thư Vương Chỉ Âm làm Thái Phỏng Sứ, đến Lăng Giao tuyên cáo sắc lệnh “Tất cả các chùa viện nào không có danh ngạch đều phá hủy hết”. Tất cả tượng Phật đồng sắt thâu gom về gần chùa. Sư dời chỗ đúc tượng và xây dựng Môn Lang Điện Vũ, còn thiếu mầu vẽ, gặp sắc lệnh mới ban nên thôi nghỉ công việc. Sư tới trước tượng đức Di-lặc, đốt hương rơi lệ, khẩn thiết kính lễ cáo bạch rằng: “Nếu cón có cơ duyên với nơi này thì xin ứng hiện điềm lạ để sách tấn cải ngộ chúng sanh!” Chỉ trong khoảnh khắc, trên đầu tượng phát ra ánh sáng mầu vàng chiếu soi khắp trời đất. Các hàng sĩ thứ khắp thành đều khen ngợi cho là ít có. Khi đó những người sanh tâm phỉ báng bị mù cả hai mắt, lại có người lưỡi sưng to cả thước. Mọi người xa gần rao truyền lẫn nhau cùng tranh nhau đến chiêm lễ, xả thí chất cao như núi, mới hoàn toàn chiến thắng. Tôn tượng ngồi duỗi một chân, mọi người đến chiêm ngưỡng đều cúi đầu lễ lạy. Những người sống trong ác báo, thì Sư hướng về tôn tượng để sám hối lỗi lầm cho họ. Trong chốc lát, ngưới mất ánh sáng được thấy lại, kẻ bị cuốn lưỡi bèn nói được, và nguyện đều làm kẻ phục dịch trong chùa để đánh chuông quét tước. Thái Phỏng Sứ chí Âm Hạ Lan Vụ Đồng ghi lại điềm lành đó tấu trình. Vua Tuệ Tông lại ngầm phù hợp trong mộng tưởng nên ban sắc đổi bảng hiệu chùa “Kiến Quốc” thành “Tướng Quốc”. Bởi lấy các vua do tướng Vương Long Phi, và ban sắc Đại Đức Minh Cán ở chùa Phật Thọ Ký đồng cùng kiểm hiệu Công Đức, không để Châu Phủ phiền nhiễu. Trung Thư Xá Nhân Giả Tăng, Thị Lang Thôi Chiểu, Cấp Sự Trung Lư Dật, Trung Thư Thị Lang Bình Chương Sự Sầm Hy đều quyên bổng lộc cùng tạo nhân duyên, hoặc mở đầu phát tâm, hoặc thí sức ngoại hộ. Vào niên hiệu Tiên Thiên (712 – 713), hành truyền thần đến lộ để, vua Huyền Tông lên ngôi (712). Đến ngày 1 tháng 8, vua Huyền Tông ngự viết biển ngạch tên chùa. Sư vâng sắc, sai Đại Đức Chân Đế cùng hai người đệ tử, một người Phẩm Quan mang phướn đẹp do vua ban và biển ngạch chùa đến, đón nhận để treo lên.

Sư hoá đạo ở Vườn Lương, thân vinh ở Cây Phước. Trăm tuổi có hạn, bốn tướng đổi dời, Sư thị tịch tại biệt viện trong chùa, an táng tại chùa Đông Giao, nay thuộc xứ Đông Kinh, tháp hiện nay vẫn còn. Bấy giờ, tôn xưng Sư là “Tạo Tự Tổ Sư”. Sau Sư thị tịch, đến niên hiệu thứ (7), xây dựng Đại Các, đề hiệu là “Bài Vân”. Vào niên hiệu Chí Đức (76 – 78) thời vua Túc Tông, xây dựng Đông Tháp, đề hiệu là “Phổ Mãn”. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 10 (77) mới hoàn tất.

Co thuyết nói là vị tăng xây dựng tháp có khả năng phân thân hành hóa, khó lường biết được giai vị phẩm trật. Văn-thù, Duy-ma là bạn của Vương Phủ đắp họa hình tượng Ngô Đạo Tử. Lại nữa, niên hiệu Khai Nguyên thứ 1 (726), vua Huyền Tông Đông phong ban sắc cho xa chính đạo sang nước Vu-Điền để phỏng tả hình dạng Thiên Vương về đắp họa trên tường vách chùa. Sa-môn Trí Nghiễm khuyến mộ chúng họa vẽ tượng Tam Thừa nhập đạo theo thứ lớp tại tường vách phía bắc nhà kho phía tây, đề xưng là tuyệt diệu kỳ đặc. Nay Điện Vũ đều xây dựng lại sau biến cố hỏa tai vào niên hiệu Đại Thuận (890 – 892). Vào thời Bắc Tống, vua Thái Tổ (960 – 976) sửa sang lại, hàn lâm tiếp đãi chiếu, Cao Ích vẽ tranh trên tường vách. Bấy giờ được đề cao là khéo léo của bút mực.

6. Truyện ngài Huyền Lãm trụ chùa Hoa Nghiêm ở Hàng Châu, thời Tiền Đường.

Thích Huyền Lãm, họ Trữ, Tổ Tiên Sư là người xứ Hà Nam. Do làm ăn ở Tiền Đường nên nhà Sư ở đó. Sư ra đời ứng với đức sáng, vừa mới sanh mà hiểu biết cao rộng, thấu đạt được thật tướng. Lấy sự sùng thiện làm gốc. Từ khởi niệm ban đầu đến lúc xả bỏ gia tục, Sư nương tựa ngài Tuệ Sưởng. Ngài Tuệ Sưởng đức hạnh đầy đủ, chúng dùng đều sung túc. Tuổi cao hạnh trọng, từ lâu làm bậc thầy khuôn phép, đến lúc thấy Sư không một khoảnh khắc trái với đức nhân, nên bảo với môn nhân rằng: “Đạo vô thượng lấy sự thanh tịnh làm chính. Nếu nhất niệm dùng được tâm ấy, thì tôi chưa thấy học chẳng đủ. Tại Giang Biểu không có chân tăng đã từ lâu, nay có thể dùng ông này (tức Huyền Lãm) làm pháp cổ ư? Khiến mọi người xa gần đều nghe biết thế. Đó là dự làm chỗ đúc luyện, tạc tượng khác nhau đến như vậy.

Tại bổn ấp có ngôi chùa cổ tên là Hoa Nghiêm, Sư đem đất bao tang gần nơi gò mộ của ngài Huyền Lễ, thuộc thời nhà Tùy chẳng tranh giành pháp vũ, buông thỏng suy đồi, vết tích danh tướng Hác Thiên cũng một thời hoang phế. Đến đầu đời tiền Đường, chiêu mộ những người kính tin xây dựng lại. Vào niên hiệu Văn Minh (68), có sắc chiếu hoàn lại biển ngạch cũ. Dưới chế độ Quảng Luân dời đến bên trái núi Lâm Thủy, qua lại hình thắng. Ban đầu, Sư lấy giới cụ túc nương tựa Thiên Trúc, tiếp đến dùng tăng lục ở một chỗ nhàn cư, và sau nhân lão đức nên thống lãnh ba chùa Hoa Nghiêm. Lần lượt đồng đến nơi đạo. Đạo không đâu chẳng có, nhân nơi giáo mà có thay đổi. Sư thường thương xót mọi vật, lấy từ bi cứu giúp làm trách nhiệm của mình, bèn bàn lấy nửa cái hồ phía trước chùa thông suốt với dòng sông làm hồ phóng sanh. Bấy giờ, Thái Thú Viên Tùng Lễ nhân đó mà khuyên gắng vào sâu cửa từ, cấm xa đến sáu dặm. Tư Mã Dương Mẫn nói có cảm mộng, lại dời đến mười dặm để cho cá trở đầu vẫy đuôi, ngậm ngáp nổi chìm, chẳng phải lo hại, được bảo toàn tánh mạng.

Sư lại đem kinh tượng làm tối ưu thì trước điện họa bốn tượng, trong đó tượng đức Từ Thị làm đầu, đúc ba trăm năm mươi pho tượng bằng đồng mạ vàng, trong đó thánh tượng đức Di-đà làm đầu. Viết kinh hơn hai ngàn pho, trong đó kinh Niết-bàn bảng chữ vàng làm đầu. Công đức ấy vì thuận theo hiện báo, nên Vương Khảo Tông truy tặng, Thứ Sử Hà Châu Hữu Tán Kỵ Thường thị phong Thư Quốc Công vô lượng thì là anh em với Sư. Lượng ngày tu học Lâm Bình Hồ Long Kiến, không đâu chẳng đến xem xét. Thư Công an nhiên chẳng lìa án sách. Khí độ đến như vậy. Vào những năm đầu dưới thời Minh Hoàng, Thư Công hầu giảng, nhà vua vui mừng kính chuộng. Về hầu Thái phu nhân khi tuổi đã cao, anh em đều lấy hoa rải nơi đất sớm tối, nói pháp mà thôi. Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 20 (732), Sư thị hiện bị bệnh, thị tịch tại chùa do Lâm Bình xây dựng, thọ tám mươi bốn tuổi.

Các vị Sa-môn Minh Liễu, Đại Giác, Phổ Hiền, Thần Mãn, Hoài Tuân đều tham dự trong dòng pháp của Sư, đón rước các pháp khí cất giấu dưới nền của động Tế Lệ. Công Bố Thị Lang Từ An Trinh soạn văn bia ca tụng đức hạnh của Sư.

Kế nữa, lại có ngài Thích Thủ Như trụ chùa Ái Đồng ở Mân Trung. Sư có nhiều việc khuyến dụ. Dân chúng ở Việt Thượng quy hướng mây nhóm. Sư xây dựng Tịnh xá để giúp chúng, gấp kíp việc lợi tha. Niên hiệu Khai Nguyên thứ 10 (722), Sư cất nhà tắm tại chùa, đang lo thế đất ở chỗ cao vót mà dòng suối trong nằm ở dưới, khô khan không thể dùng cấp dẫn, đi xa thì sẽ mệt nhọc. Sư lo nghĩ chưa kịp không biết do đâu để đổi làm, thì bỗng một đêm, dưới dòng suối chóng khô cạn, và cách nơi chỗ Sư làm nhà tắm chừng hơn hai mươi bước có dòng suối trong tuôn chảy. Người thời bấy giờ cho đó là do công sức thần ngầm làm dời dòng suối ấy. Dân chúng khắp Thất mân không ai chẳng quy hướng kính tin. Sau, Sư thị tịch tại phòng riêng nơi Ôn Thất.

7. Truyện ngài Huyền Lãng trụ chùa Thanh Thái ở Đông Dương, thời Tiền Đường.

Thích Huyền Lãng tự là Tuệ Minh, họ Phó. Tổ tiên của Sư là con cháu của Phổ Dương Quận Giang Hạ Thái Thú Chửng Công. Dưới thời Tào Ngụy lánh đến Giang Tả, thì là cháu sáu đời của Đại Sĩ Phó Hấp ở đời Lương, nên trở thành người xứ Ô Lương. Mẹ của Sư họ Cát, lúc mới mang thai Sư, bà mộng thấy cỡi xe dê bay nhảy giữa hư không mà cảm thấy thân mình nặng. Từ đó về sau không thích nghe mùi máu huyết tanh nồng, đến lúc sanh ra Sư cũng nằm mộng như trước, sau khi tỉnh giấc, tâm nhẹ thân an, đứa bé (Huyền Lãng) chẳng gào khóc mà mỉm cười.

Năm chín tuổi, Sư xuất gia, thầy trao cho quyển kinh, mỗi ngày phải học qua bảy trang. Ngày 19 tháng nhuận niên hiệu Như Ý thứ nhất (692), Sư được vua ban sắc phối danh chùa Thanh Thái. Năm hai mươi tuổi, Sư đi xa tìm đến Quang Châu chỗ Luật Sư Ngạn, cầu thọ giới cụ túc, trở lại học luật phạm, Sư lại xem rộng kinh luận, tìm cầu chỗ dị đồng, ngài rất tha thiết với Bổn Kinh Niết-bàn. Thường hận người xưa tuy có chương sớ mà phán định chưa bình đẳng xác đáng. Sư đến chùa Diệu Hỷ ở Cối Kê, cùng Thiền Sư Ấn Tông thương bàn luận mật yếu, tuy cùng nhau biên thuật Đại Chỉ, nhưng chưa chu toàn. Nghe Nhất Tông ở Thiên Thai có thể lắng lọc mọi vướng mắc, có thể giúp hướng đến nhất lý, nhân đó, Sư đến chùa Thiên Cung ở Đông Dương chỗ pháp sư Tuệ Uy. Ngài Tuệ Uy bẩm thọ vâng thừa ngài Trí Uy ở Quát Châu, bấy giờ đang rao truyền ngài Tuệ Uy là đệ tử tài giỏi của ngài Quán Đảnh tức thân sau của ngài Từ Lăng. Sư đến gần gũi nương tựa, chẳng lo nghèo khổ, mà thấu đạt được các kinh luận như Pháp Hoa, Tịnh Danh, Đại Luận, Chỉ Quán, Thiền Môn, Phàm Giáo tích của Nhất Tông Sư đều nghiên cứu cùng đến tinh tường.

Sau, Sư lại nương tựa Thiền Sư Cung, trọng tu Quán Pháp, thấu đạt sách Nho, kiêm thông cả đạo tông, không gì chẳng xem cùng. Tuy thông các kiến giải, nhưng chỉ dùng chỉ quán lấy làm lộ trình nhập đạo, làm địa vực an tâm. Tuy kế thừa tư tưởng của các Thánh, nhưng Sư vận dụng bi trí của Đức Quán Thế Âm, làm bến bờ của hành sự. Tâm Sư dạo trong thập thừa, thầm hợp với Tam Quán, lợi vật bằng bốn Tất-đàn, thể biến khắp sáu tức, tuy thấu đạt tâm bày ngoài vật, thân lắng nơi nhân, tình hết ở nhà cũ, mà chí nương gá nơi núi rừng hang hóc, chỉ giữ lấy mười tám món của mười hai hạnh đầu-đà. Sư ẩn dật tại khe núi, nhân đó lấy làm hiệu, “một mình ở một thất” hơn ba mươi năm dùng sợi gai làm áo mặc, lấy gạo thô cùng rau lá nuôi mạng sống. Có nguyện sanh lên cung trời Đâu-suất thì phải tu tạo việc phước, Sư xây điện vách, vẽ tôn tượng đức Quán Thế Âm và Tân-đầu-lô, Sư đốt hương thúc liểm ý niệm, bèn cảm hiện ánh sáng thần năm mầu, kẻ tăng người tục trông thấy đều khen ngợi là việc ít có. Sau đó, hoặc khỉ vượn đến mà bưng bát, hoặc chim bay ngừng lại lắng nghe kinh. Bấy giờ có một con chó bị mù đến nơi cửa núi, gào khóc lăn lóc dưới đất, Sư thương xót nó mà đốt hương, tinh thành sám hối cho nó, chưa đầy mười ngày thì đối mắt nó được thấy.

Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 16 (728). Thứ Sử Vương Thượng Khách thỉnh Sư xuống núi tạm ở dưới thành. Sư khước từ bằng cách cáo bệnh mà trở về ở chỗ cũ. Sau đó, Sư dạy người chẳng tỏ vẻ mỏi mệt, giảng nói không cần đợi chúng đông. Sư đắp mặc một pháp y Uất-đala-tăng hơn bốn mươi năm, sử dụng một Ni-Sư-Đàn trọn đời chẳng đổi, ăn không xem trọng mùi vị, ở riêng một nhà, chẳng phải nhân sưu tìm kinh điển thì không đốt một ánh đèn, chẳng phải nhân thân hầu Thánh dung thì không đi một bước. Sư tu tâm tế hạnh luôn vâng theo sự chế định của luật pháp, nên được các vị Sa-môn từ những chốn xa xôi, các bậc lão thành nơi gần gũi tìm đến đầy nhà, như mùa đông được nắng ấm, mùa hè được bóng mát, không mời mà tự đến. Mái chùa đó đến lúc đổ nát, Sư bèn chỉ trao Sa-môn Linh Bẩm xây dựng Điện Vũ, hình tượng chất chứa đến hai tháp gạch. Việc họa vẽ không dùng đến keo trâu bò, chỉ điều hòa bằng nước thơm. Đỉnh cao giáo pháp của Thiên Thai hưng thịnh đều do từ đó. Một hôm, Sư nói với môn nhân rằng: “Mọi việc của tôi đã hết năm sớm tối!” Tới ngày 19 tháng 9 niên hiệu Thiên Bảo thứ 13 (7) Sư thị hiện bệnh nhẹ mà thị tịch, thọ tám mươi hai tuổi, sáu mươi mốt hạ lạp, xây tháp thờ trên núi.

Thuở bình sanh, Sư có soạn “Pháp Hoa Kinh Khoa Văn” hai quyển. Có các đệ tử được phú pháp như: Ngài Đạo Tân chùa Long Khâu ở Cù Châu, ngài Tuệ Tùng chùa Tịnh An, ngài Pháp Nguyên, ngài Thần Ung chùa Pháp Hoa ở Việt Châu, ngài Thủ Chân chùa Phước Nghiệp ở Thường Châu, ngài Đạo Tuân chùa Báo Ân ở Tô Châu, ngài Đại nguyên chùa Đại Bảo ở Minh Châu, ngài Thanh Biện chùa Khai Nguyên ở Vụ Châu. Còn trẻ đã mến đạo, ý chí cầu thầy, chẳng quá ba năm mà tư duy đã hơn một nửa. Người hành đạo ấy được gọi là “Tả Khê”. Thứ lớp truyền pháp gọi là “Ngũ Tổ”, Sa-môn Thần Huýnh ở Vũ Sơn soạn chân tán.

Liên hệ thử bàn:

Xét từ đời Đường về trước, người cầu giới được tự chọn các bậc danh đức làm thầy. Đời gần đây do Quan độ dẫn thứ lớp an bài. Lập Tư còn chủ, chẳng do chính mình. Ngài Huyền Lãng cầu giới chẳng thế đó ư? Như vậy, thầy trò cùng luyện, ân nghĩa phát sinh. Thoát gặp việc thỉnh thì thí dụ đồng như dã mã (ngựa do bóng nắng mà có).

8. Truyện ngài Tuệ Minh trụ Phật Xuyên ở Hồ Châu, thời Tiền Đường.

Thích Tuệ Minh, họ Trần, là con cháu của Hán Thái Khâu Trưởng Thật, gia đình nhiều đới sống ở Dĩnh Xuyên. Vào niên hiệu Vĩnh Gia (1 – 16) thời Đông Hán dời lần đến phương Nam. Tổ tiên Sư làm Tư Đồ Duyện, Tằng tổ là Trọng Văn Hữu Tả mạng Hữu Tả Trần, được phong là Đơn Dương Công. Ông nôi là huyện lệnh của hai huyện Song Khê và Cốc Thục. Cha Sư làm Lan Lăng Trưởng, mới thành người xứ Lan Lăng. Mẹ của Sư cảm ngày đầu như giữ giới của Phật, chân không thích bước vào vườn trồng các thứ rau tanh nồng, miệng chẳng dùng chén bát có mùi máu thịt, thần thưc trong mộng phảng phất như được nghe Pháp Âm, thế rồi hạ sanh Sư.

Chưa đến tuổi búi tóc mà Sư cầu xin xả tục, cha mẹ Sư đều chấp thuận, đến lúc Sư thọ giới cụ túc, tức niên hiệu Khai Nguyên thứ 7 (719), tập học luật Tạng, Sư từng nói với mọi người: “Xưa kia, Phồn Hình Thủ làm cho Bá Thành Tử phải trốn. Tôi tuy chẳng bỏ luật nghi, nhưng chán ghét tranh luận lăng xăng như pháp tâm ấn tâm đến vậy ư?”. Sư bèn đi về hướng Tây, tới Phương Nham, chóng mở Tâm địa.

Trong niên hiệu Thiên Bảo (72 – 76), Sư có chí nguyện đến núi Thanh Lương, vừa tới sông Hoài, sông Biện bị binh lính cản trở, Sư vội khuyên các thiền khách đồng gặp cùng đi đến Uyển Lăng. Ở cửa Thạch Thương, đặt ba ngôi Lan-nhã. Có Đại hý đến quấy nhiễu như rồng múa. Bấy giờ, gặp lúc đói kém, bọn giặc cướp sắp đến, thì Sư kêu gọi báo trước, luôn có ứng nghiệm. Trước kia tại làng đó, dân chúng chuyên nghề săn bắn, Sư bèn chuyển hóa, họ đều đốt hết võng lưới, phá các khí trượng. Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ (76) Sư dừng tại đạo tràng Ngư Pha, có ngài Tử Vũ thuộc dòng Bạch Thổ Sử Tông, xa gần đi suốt, người đời chẳng biết. Lúc mới gặp gỡ, Sư bảo: “Nam Tổ truyền giáo, vì sao Bồ-tát đến chậm thế ư?” Ngày khác đồng lên trên đỉnh núi Ngư Pha, thấy ở phía Đông nam có ngọn núi xanh mầu sáng rất đẹp, Sư nói với ngài Tử Vũ rằng: “Tôi và ngọn núi này trước kia vốn có nhân duyên!”.

Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 8 (79). Vua Huyền Tông có ban sắc chế độ người. Châu Tướng Vi Nam Kim dâng tạng văn đề cử các hàng tăng tục có cao hạnh, thỉnh Sư ghi thuộc danh Đạo tràng Ninh Hóa ở trong Châu, Sư cố khước từ đổi lệ là “Phật Xuyên”. Tức ngày xưa, ngọn núi ở chỗ Ngư Pha đứng trông thấy, vào đời Lương, đời Ngô đều làn nền nhà cũ. Theo địa chí chép: “Ở phía nam đỉnh núi xanh, đào được hai tượng Phật cổ, không biết thuộc niên đại nào. Tại chỗ được tượng Phật có suối linh nước phún lên, nhân đó mà gọi tên là “Phật Xuyên” (Sông Phật). Cạnh dòng suối có đền thờ Ngô Vương cũ”. Theo phong tục thì dâm từ lạm dùng hy sinh. Bấy giờ, vào đêm tối, Sư ghé dừng nghỉ nơi miếu, bỗng nhiên sấm sét mưa tuôn kéo đến làm cây rừng đổ ngã, ngói đá lốc bay. Trong chốc lát mưa tạnh, trăng sáng tỏ, thấy một trượng phu dung mạo mạnh mẽ to lớn. Sư bảo rằng: “Quân sĩ! Sống thề làm hiền nhân, chết thà làm minh thần. Cớ sao khiến muôn sanh thường bị huyết thực, đâu biết việc đó ương lưỵ đến nghiệp ấy ư?” Vị thần đáp: “Chẳng phải bổn ý của đệ tử, đó do mọi người tự làm nhứ thế”. Bèn đôi ba phen lễ bái sám hối. Nhân đó mà Sư cho thọ giới Bồ-tát. Vị thần vui mừng nói: “Sư muốn dời chùa, đệ tử nguyên xả bỏ nơi này, vĩnh viễn phụng cúng xây dựng nhà ngồi thiền”. Sau, quả thật, Sư dời chùa đến bên cạnh đền miếu, tự nhiên đào được chiếc mâm đồng, dưới đáy có khắc hai chữ “Tuệ Minh”.

Đến tháng giêng niên hiệu Kiến Trung thứ nhất (780), Sư thị hiện bị bệnh. Ngày đó, đình Thủy Xuân mưa suốt ngày, có Hổ dữ đi nhiễu quanh bờ tường kêu gào buồn thương mà đi. Đến ngày 12 tháng giêng, Sư lặng lẽ thị tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, năm mươi mốt hạ lạp. Qua ngày 12 tháng 2, xây tháp tại núi ở phía tây chùa. Sư truyền pháp cho ba đệ tử: Tuệ Giải, Tuệ Mẫn và Như Tri. Như thường tình Thu Tử nhặt tiêu. Đệ tử thọ Bồ-tát giới là Thứ sử Lô Ấu Bình Ngạn Chân Khanh riêng một mình hỏi tục Đỗ Vị. Bùi Thanh sâu vào thiền vị, giúp cho thợ vẽ soạn bài minh trên tháp thờ Sư.

9. Truyện ngài Tử Vũ trụ chùa Đại Vân ở Hồ Châu, thời Tiền Đường.

Thích Tử Vũ tự là Chân Anh, họ Thẩm, người ở xứ Đức Thanh, thuộc Ngô Hưng. Tổ tiên Sư mất nước ở đất Thẩm, nhân đó mà lấy làm họ. Ngài là con cháu của Thẩm Tử thời xuân thu. Sư vừa mới sinh đã mà tỏ vẻ thông tuệ, chẳng nhờ thầy truyền trao dẫn dắt. Chưa đến tuổi búi tóc mà Sư giã từ cha mẹ, cầu xin xuất gia.

Vào niên hiệu Như Ý (692), có thánh chỉ đại xá độ người. Sư bèn nhuộm áo, cạo tóc, đóng bít việc đời, đến chùa Đại Phước Tiên ở Lạc Kinh, xin được thọ giới. Sư siêng năng thỉnh cầu, trong ba đêm, thấy có vị thần nhân rõ ràng trước mắt, chợt qua chợt lại, hoặc đồng hoặc khác, há có thể chẳng chí thành được ư? Từ đó, Sư đốt đèn Như Lai, đeo ấn Bồ-tát. Đến niên hiệu Chứng Thánh (69) Sư đến “đạo tràng Đại Vân” gìn giữ luật pháp bền chặt, cầm nắm tăng cương, sửa sai cử chỉ, cũng chẳng đáng ư! Sư vốn lai lịch thuần tịnh, không phạm lỗi, chẳng danh dự, khiến các kẻ sĩ trong thiên hạ có người như ngoại đạo, hay xiển-đề.

Tâm như gió thổi, nói năng như suối chảy, sao khuấy nhiễu thánh giáo của ta, diệu môn của ta ư? Sư dùng thong dong mà chỉ bày, lấy phương tiện mà dẫn dụ, không ai chẳng cúi đầu khuất phục mà vâng mạng. Sư thường lễ bái mười lăm ngàn danh hiệu Phật, kiêm lễ sám từ bi, một ngày đêm một vòng, hoặc hai ba ngày một vòng. Ban đêm có chín vị Thánh Tăng xuống tại chỗ ngài lễ sám cùng hành đạo trong chốc lát bèn đi. Hoặc có đêm không đèn đuốc, tâm miệng Sư là niệm, ánh sáng chiếu khắp phòng như đang ngồi dưới ánh trăng. Thường có như thế.

Sư bùi ngùi, vì khắp ấp Đức Thanh chưa có chùa tháp, bèn khởi tâm muốn xây dựng. Sư đề xướng thảy đều hòa ứng, mới thành Tinh xá. Trước sau, Sư đã viết chép ba tạng kinh, gồm tất cả mười sáu ngàn quyển. Đầu niên hiệu Thiên Bảo (72), có Pháp Sư Túc ở Lâm An bị chết giấc qua ba ngày đêm, sắp vào địa ngục, trong minh phủ, ngài thấy Sư bị người dẫn đến trước vua Diêm-la và ngươi ấy nói rằng: “Người này hay giảng kinh Niết-bàn, Diêm Vương nên rộng thứ cho!” Diêm Vương nói: “Chỉ nghe có Sư Nham Luân hay giảng, chẳng nghe tên sư này?” Đôi ba phen cứ như thế, Diêm Vương không chịu, do đó mà thả ra. Từng ở tại làng đó, có người thí trâu, tự nhiên không mang thai mà có sữa chảy ra, cảm thông đến như thế.

Đến mùa thu niên hiệu Thiên Bảo thứ 11 (72), Sư an tọa mà thị tịch, qua mùa xuân năm sau (73), sắp mở linh khám, muốn đón rước nhục thân Sư trà-tỳ, nhan sắc chẳng biến đổi, vẫn như lúc sống. Tuy ở Thiếu Lâm mang thai đã có râu, mùa Xuân ở Kỳ Châu dưỡng tóc, sao lại tốt đẹp như vậy! Đại Lý Bình Sự Nhiếp, Giám Sát Ngự Sử Điêu Đạm, Chủ Khách Lang Trung Diêu, Thứ Sử Dương Tuệ Tài đều quy hướng kính tin.

10. Truyện ngài Duy Thật trụ chùa Hương Sơn, thuộc Từ Khuê ở Minh Châu, thời Tiền Đường.

Thích Duy Thật, họ Thang, người ở xứ Phú Dương. Sư thực hành hạnh đầu-đà, tâm an thiền quán, đạm bạc lắng ở, thường ngồi không ngủ. Ban đầu, Mẹ của Sư ức chế tâm nguyện của Sư, không cho xuất gia. Nhưng rồi, lồng mở chim bay, bờ thủng nước chảy. Sư học theo Đồng Tử Thiện Tài tham lễ khắp nơi, đồng với ngài Ca-diếp luyện hạnh.

Vào niên hiệu Thiên Bảo (72 – 76), Sư đến núi Nhã Áo ở Minh Châu. Ban đêm thầm nghe có tiếng nói: “Nên đến Bồng Lai Thánh tích danh sơn!” Sáng hôm sau, Sư lên núi đó, hang động cheo leo, vách đá vót thành, có nhiều hang động xinh đẹp khác thường, thật chỉ là cảnh linh, có dấu chân Đức Phật rất lớn. Sư hỏi một ông lão ở núi đó thì ông nói rằng: “Vào niên hiệu Khai Nguyên (713 – 72) mới hiện điềm ứng nầy!” Sư bèn có chí ý nguyện nương náu tại đó trọn đời. Bấy giờ, gặp lúc giặc biển Viên Triều như ong kiến nhóm họp, phân chia cướp giật giết người vô tội. Nhưng, đến Hương Sơn, chúng đều chạy trốn. Sư ở nơi giường nhắm mắt, trước đó dùng một tảng đá lớn ngăn che cửa động. Bọn giặc cướp khoảng hai ba trăm tên lại khiêng một tảng đá to lớn hơn hai trượng đến lấp bít miệng hang. Sư dậy, cất tiếng kêu, và đưa tay đẩy ra, bọn giặc đều cúi lạy hối lỗi rồi đi. Dân chúng trong ấp vô cùng kính trọng Sư, bèn xây cất tinh xá, chưa tới năm sau đã hoàn thành. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 8 (773), Thái thú Bùi Sưởng tấu trình xin đề hiệu chùa là Hương Sơn. Vua Đại Tông ban chiếu độ tăng có bảy vị thuộc danh ở dó.

Đến mùa Đông niên hiệu Trinh Nguyên thứ 2 (786), Sư thị hiện bị bịnh, ngồi kiết già mà thị tịch tại chùa, thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi mốt Hạ lạp.

11. Truyện ngài Tăng Nhẫn trụ chùa Long Hưng ở Sóc Phương, thời Tiền Đường:

Thích Tăng Nhẫn, họ Sử, người ở xứ Trần Lưu, thuộc Bái Quốc. Đến tuổi đi học, Sư tời trường làng, các bạn đều yêu mến, ghé mắt liền nhập thần, lại tài giỏi nghệ văn, mới tùy theo kế, thường nêu không ngừng.

Đầu niên hiệu Hội Xương (81), Sư đi khắp vùng Tái Viên, tìm hỏi núi cổ Hạ Lan, vào trong chọn được chỗ đất sạch, là hang Bạch Thảo, Sư phát tâm Bồ-đề, chóng cởi treo mũ Nho, thẳng quy hướng Thích Giáo, mới cắt cỏ bện tranh làm nhà, càng gấp bội tha thiết tinh tấn, các giống dân Khương, Hồ đua nhau tìm đến cúng dâng tô lạc. Đến niên hiệu Hội Xương thứ (8), Tiết Độ Sứ Lý Ngạn giúp tốt danh tiết, đến chùa Long Hưng, lập ra biệt viện, đề hiệu là Bạch Thảo, bởi lấy tên gốc nơi ban đầu Sư tu đạo.

Sư thường chích máu viết chép các bộ kinh. Niên hiệu Đại Trung thứ 7 (83), Lý Ngạn sợ Sư ốm gầy, bèn sang đôn đốc dẫn dụ, nói rằng: “sao Sư chí tu cho mình, thực hành hạnh Tiểu thừa. Sao chẳng kéo dài tiếc lấy sanh tánh, giữ gìn giáo pháp, ích lợi rộng lớn hơn thay!” Sư chấp tình bền chặt, bèn soạn “Tam giáo hủy thương luận” để thấy rõ chí khí. Lý Ngạn đọc qua càng thêm kính trọng. Đến niên hiệu Đại Trung thứ 9 (8), nhân đọc Kinh Đại Bi, nghiên tầm nghĩa lý bốn mươi hai cánh tay, đến đoạn cành tay Vô Úy, Sư sanh nghi ngờ nên kết đàn, trọn tuần cầu thỉnh. Tự giữa hư không hiển hiện Chánh Ấn, hai nắm tay rõ ràng trông thấy. Ngài bèn bảo thợ vẽ cánh tay ấy. Có người dèm pha phỉ báng, Sư bèn tinh thành tha thiết kính cáo. Thợ vẽ rửa bút trong bát đồng, bỗng chiêu cảm một đóa hoa thật tánh, cành nhánh tua nhụy mỗi mỗi đều sáng đẹp, mọi người trông thấy đều kinh hãi ngợi khen.

Đến ngày mùng 10 tháng 7 niên hiệu Hàm Thông thứ 12 (871), Sư thị tịch tại Viện Bạch Thảo, thọ năm mươi chín tuổi. Qua ngày 17 tháng 10, xây tháp thờ tại phía Nam Thủy Quán.

Ban đầu Sư chích máu viết kinh, tổng cộng hai trăm tám mươi ba quyển, đắp họa tôn tượng Lô-Xá-Na, lầu cao ba mươi lăm thước, cửa cao một trượng sáu thước. Khởi dựng họa Đại Bi công đức ba bước, tự soạn “Luận Đại Bi “ sáu quyển, đều cất giữ trong các rương tráp. Sau Tiết độ Sứ Đường Hằng Phu kính ngưỡng di tích Sư, bèn tấu trình xin vua sắc ban thụy hiệu là Quảng Tuệ Đại Sư, tháp hiệu là Niệm Định. Đệ tử của Sư là Vô Triệt cũng là bậc tài giỏi cao xa, mang hai quyển Kinh viết bằng máu và một cành thụy hoa đến cung tấu trình, được triều đình tuyên cáo ban tặng Pháp y sắc tía, thị tịch trong khoảng niên hiệu Thiên Phục (901 – 90). Đến đầu niên hiệu Càn Hóa (911) thời Hậu Lương, Trung Thư Lệnh Tây Bình Vương Hàn Công Tốn ghi chép lại di tích của Sư để tấu trình. Vua Thái Tổ (907 – 911) ban sắc tặng thụy hiệu là “Pháp Không”, riêng tặng tử phương bào. Đến niên hiệu Đồng Quang (923 – 926) thời Hậu Đường, Tùng sự Tịch Chiêu ghi làm văn bia nơi tháp thờ Sư.

12. Truyện ngài Văn Toản trụ chùa Hà Ân ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Văn Toản, họ Trương, người ở xứ Tấn Dương, Dung mạo Sư trang nghiêm. Thuở nhỏ thờ thầy tại chùa Sùng Phước ở Tinh Châu, học cùng các sách, nắm mang Tam thừa. Đến như sách mạng của Kim Bản Ngân Thằng, văn chương của Long Thao Tượng Bí không thứ gì chẳng xem đọc, tình ruộng sóng cả, miệng biển tuyên xướng, mở mang đối dương phúc trời, mỗi mỗi đều vui mừng tin phục. Có chiếu mời phiên dịch, kiêm làm Đại đức các chùa Phật thọ ký ở Hà Nam, chùa An Quốc, chùa Hà Ân chùa Sùng Phước v.v… ở Kinh Triệu. Sư ưa thích tu phước, thiết trăm hội Vô già, phàm thánh lẫn lộn Sư đều bình đẳng cúng thí. Giả sử như gió mây kéo nổi liên tiếp, nhưng đến ngày trai thảy đều tạnh sáng bình yên. Cảm động đến người cầu phước chẳng luống dối. Sư thọ hơn sáu mươi tuổi, thị tịch tại Bổn Viện. Khắp trong địa vực mây giăng buồn như khóc suốt mấy ngày chẳng tan.

13. Truyện ngài Hoài Ngọc trụ chùa Sùng Phước ở phủ Thái Nguyên, thời Tiền Đường.

Thích Hoài Ngọc, họ Hứa, người ở Tinh Châu. Thuở nhỏ Sư sáng suốt thông lợi, mỗi ngày xem đọc đến ngàn từ, sớm bày mầm bén nhọn, chóng trội vượt đồng hàng. Đến lúc trưởng thành, giới hạnh tiết tháo Sư càng cao vợi, trường phạm khuôn phép. Sư chí ở tu tập, chẳng gián đoạn đây kia. Hạ ở chùa vũ, kinh có thiếu khuyết thì tu bổ liền, tượng có rách nát tức khắc sửa sang, ba nhậm kỷ cương, riêng có sùng kiến. Sư so sánh Đại Tạng kinh hơn hai mươi bổn. Trời rất rét lạnh hay nắng nóng quá độ, Sư chẳng phế bỏ thời khóa sớm tối, trang nghiêm thêm viện tịnh độ, làm việc tùy sức, càng thêm rực rỡ. Vua Đại Tông ngợi khen, giao phó Sư làm chủ đạo tràng Quán Đảnh, có đầy đủ tất cả chân ngôn bí quyết. Sư thọ sáu mươi ba tuổi, thị tịch tại bổn viện.

14. Truyện ngài Đại Bệnh Sư trụ chùa Đại Phạm ở Tấn Châu, thời Tiền Đường.

Thích Đại Bệnh, ngài người ở xứ Thiên Thai, thuộc Đài Châu. Sư họ Trần, vì Sư có phát đại nguyện hết báo thân này chịu mọi thứ bệnh thay cho chúng sanh, nên chẳng nêu tên gốc.

Sáng hôm Sư chào đời, có ánh sáng lành chiếu soi khắp phòng. Thôn xóm chung quanh đều lấy làm lạ. Năm bảy tuổi, Sư chịu tang cha, buồn thương hầu như mất trí. Sư thưa cùng mẹ cầu xin xuất gia, mẹ Sư vừa mở lời can ngăn, Sư bèn chặt ngón tay. Bà con thân thuộc đôn đốc khuyên răn. Sau đó mẹ đưa Sư đến chùa Quốc Thanh. Khi giới châu hoàn bị, Sư phát chí du phương, ban đầu Sư đến dừng tại nơi hiện nay là Đông Kinh. Tiếp theo, Sư đến Hà Dương, cầu mưa cho dân chúng, căn cứ theo kinh mà vẽ hình tượng tám vị Long Vương, thiết lập đạo tràng, khải cáo chú nguyện xong rồi ném xuống các dòng sông. Cả chúng đều trông thấy các hình tượng vẽ hoặc chìm hoặc nổi, bất định. Trong khoảnh khắc, mây giăng đầy trời, sấm sét nổi vang, mưa tuôn xối xả, khắp ngàn dặm đều tràn ngập. Từ đó mọi người quy tâm kính mến rất đông. Trước đây trong ba thành thường có gió giữ mưa đá, tổn hại đến lúa mạ, thành tường ngăn đổ ngã, mọi người cho đó là do rồng dữ gây nên. Sư vì trì tụng mật ngữ, sau trải qua một năm mọi sự tốt lành, mất hẳn mối lo sợ ấy. Dân chúng khởi tâm lập dựng Đường Vũ như đền thờ sống.

Năm Đại Lịch thứ nhất (766). Sư lên núi Thái Hành, đi đến Hoắc Sơn, vào nơi sâu xa, cất am tranh mà ở. Có kẻ trộm lấy chén bát của Sư ăn, bỗng chốc thấy hai con Hổ đứng cản đường, lại gặp Sư, kẻ trộm mới cúi đầu tỏ bày hối lỗi. Sư an ủi xong, bèn đưa tay xoa đầu hổ. Sư nhiều lần nhiếp phục thú dữ như thế. Kẻ trộm ấy vốn là tiều phu hái củi, xin nguyện nương tựa Sư thực hành hạnh khổ. Trong đó có miếu sơn thần, khắp vùng Tấn Giang tương truyền thần ấy thọ hưởng máu thịt, Sư bèn vào miếu khuyên thần thọ quy giới, dứt bặt sự giết chốc muông sanh. Tượng đá thần ấy thường theo khuyên lãnh thủ, ngoái nhìn lại thần phụ, nhưng không tỏ vẻ trả lời. Sư bèn cắt tóc cho thần và triệt phá thần phụ (vợ của thần), mọi người trong làng lấy làm lạ, rao truyền khắp châu ấp. Thái Thú tức giận việc làm của Sư, bảo rằng: “Triều đại Đường ta đây từ ban đầu Vua Cao Tổ khởi dựng đến nay, khốn khổ đã lâu, thần đó hiện hình chỉ đường để đón rước nghĩa sư, sau đó từ tảng đá lớn tạc thành tượng, thiết cúng chẳng thiếu sót. Nay vị sư hói ấy không tướng trạng gì mà dám làm như vậy”. Bèn sai người bắt trói đem về giam giữ tại chùa Gia Truyền, khóa chốt rất nghiêm ngặt. Đến hai mươi ngày sau, mở cửa ra, thấy Sư lặng lẽ thiền định. Khắp cả thành đều đến chiêm ngưỡng kính lễ, nghe tiếng khánh, Sư thư thả xuất định. Thái Thú mời gấp mà Sư chẳng đến, đến nỗi ra lệnh chém đầu, Sư bèn chặt một ngón tay giao kẻ sứ mang về. Thái Thú cảm động, đích thân đến đón rước, thỉnh Sư về trụ chùa Đại Phạm, xây tháp gạch để tôn trí xương ngón tay Sư. Từ đó, các hàng Đàn Việt kề vai chen chân đua nhau tìm đến. Có người bỏ chất độc vào rượu đút lót một cô gái nghèo đem đến cúng thí. Sư đã biết trước, cô gái mang rượu đến, thưa với Sư: “Nhà thiếp ủ men nấu rượu cảm thấy ngon, nên chiết rót đem dâng cúng Hòa-thượng để cầu phước, huống gì Phật còn chẳng trái nguyện của chúng sanh, v.v…” Sư bảo: “Ngươi cũng là Phật”. Nhưng cô gái ấy sợ phải uống trở lại, bèn bày tỏ đầy đủ sự tình. Sư cầm lấy chén rượu nếm thử, chỉ chốc lát hơi rượu thấm vào cổ, đất dưới chân bị nứt ra, mọi người nghe kinh hãi quái lạ, việc dùng rượu cúng dường bắt đầu từ đó. Dân chúng ở vùng Tây Hà thuộc phần thấp bị bệnh, Sư chỉ cho nước sạch mà uống vào thì lành hẳn. Hễ gặp lúc đói kém, Sư xin thức ăn để ban thí. Sau, Sư đến Triệu Châu, cứu nạn đói kém, thiết lập đạo tràng thí thực, trước sau có đến tám hội. Xa gần nương nhờ, đạo cảm có nhiều thứ.

Đến ngày mùng 8 tháng 7 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 19 (803), Sư lặng lẽ ngồi kiết già mà thị tịch. Bốn chúng lúc đầu cho rằng Sư thiền định như trước kia ở chùa Gia Tuyền, bèn sắm sanh hương hoa cúng dường. Cách năm sau, da thịt dần cứng lại mới biết thật là Sư đã thị tịch, bèn sơn phết và dùng vải lụa vẽ đó. Đến thời vua Võ Tông phá hủy tháp tượng, bất kể lớn nhỏ đều bị phá hết, mọi người cùng bàn thỉnh dời vào lò nung, thế rồi mọc lên một lùm cỏ điềm lành, hình dáng cái như lọng bao phủ xung quanh che chở gió mưa. Đến lúc vua Tuyên Tông lên ngôi (87), trùng hưng Phật giáo, phong hiệu Tỳ-kheo xây một ngôi đình nhỏ, thỉnh dời chân hình Sư tôn trí vào đó. Xương ngón tay Sư chặt tôn thờ tại chùa Gia Tuyền đến nay đã hơn trăm năm, mà gân thịt và móng đều sáng đẹp như mầu vàng ròng. Hoặc gặp lúc chiến tranh thành hủy sụp đổ, ngón tay ấy bị mất, sau có người mang đi lành nạn, việc xong trở về lại như cũ, đó cũng là âm phúc. Đến nay, mọi người ở Bình Dương rất tôn sùng kính tin.

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG THỜI NHÀ TỐNG.

(Quyển 26 hết)