TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 25

 

CHƯƠNG TÁM: ĐỌC TỤNG

TRONG PHẦN 2 CỦA CHƯƠNG VIII

(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có năm vị.)

1. Truyện ngài Minh Độ trụ chùa Thạch Bích ở Tinh Châu, thời Tiền Đường:

Thích Minh Độ, không biết Sư là người xứ nào, tập học kinh luận, ba nghiệp siêng năng, tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, giúp cho Tịnh nghiệp, lấy sự từ bi tế đọ làm tâm.

Khoảng cuối niên hiệu Trinh Quán, có chim cáp làm ổ nơi cột nhà, mớm nuôi hai chim con, Sư thường đem cháo thừa đến ổ mớm cho ăn, lại chú nguyện cho nó rằng: “Mong nhờ năng lực ta trì tụng kinh mà lông cánh chóng mọc”. Bỗng nhiên hai chim con sớm học tập bay bị rơi xuống đất và đều chết cả. Sư bèn chôn nó. Hơn mười ngày sau, Sư mộng thấy hai đứa bé đến thưa với Sư rằng: “Chúng con vốn thọ nghiệp loài nhỏ sanh bằng trứng, nay nhờ Thượng nhân nuôi nấng, trì tụng Kinh pháp mà hồi hướng, được chuyển sanh lên làm người. Cách chùa nầy về phía Đông chừng mười dặm là nhà của chúng con!” Sư im lặng ghi nhớ việc ấy, mãi đến mãn mười tháng, Sư đến dò hỏi ở nhà đó, quả thật có hai vợ chồng vừa mới sanh hai đứa con. Sư vào nhìn nó, chỉ mới sanh vài ngày mà Sư gọi nó là “Cáp Nhi”, một lúc nó xoay đầu như nhận biết. Hơn một tuổi nó đã biết nói và đều được lớn lên. Không biết về sau Sư tịch ở đâu.

2. Truyền ngài Thanh Hư trụ chùa Tuệ Nghĩa ở Tử Châu thời Tiền Đường:

Thích Thanh Hư, họ Đường, người ở Tử Châu. Sư lập tánh cương quyết, thông tuệ khó lường. Bỗng nhiên, Sư hồi tâm, chuyên trì tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, ba nghiệp đều siêng năng không hề biếng trễ. Sư thường hay ở nơi núi rừng trì tụng, có bảy con nai thuần đi nhiễu như lắng nghe, khi Sư dứt tiếng thì nó bỏ đi. Lại nữa, các phòng nhà ở gần lửa cháy rui mè đều rụi hết, chỉ có phòng nhà của Sư lửa dữ bay qua, không hề bị cháy.

Vào niên hiệu Trường An thứ 2 (702), một mình Sư đến chùa Ngộ Chân, ở Lam Điền, tại phương trên phía Bắc viện xưa kia không có giếng nước. Sức người không thể làm nổi, phải đi lấy nước từ khe suối xa, xách gánh mang về rất cực nhọc. Bấy giờ, Đại Sư Pháp Tạng là bậc tinh thông Kinh Hoa Nghiêm, nghe Ngài trì kinh rất linh nghiệm mới thỉnh Ngài đến tìm cầu suối nước. Ngài bèn vào nội các Di-lặc, đốt hương trì tụng kinh đến sáng sớm ngày thứ 3, bỗng trong tâm thấy như có ba ngọc nữ ở lưng chừng núi về phía Tây Bắc của lầu dùng dao con khoét móc đất tùy tiện mà có nước. Ngài ghi nhớ kỹ chỗ đó, bèn đến đào bới, quả nhiên có được dòng suối ngọt, dùng hoài chẳng cạn.

Đến niên hiệu Trường An thứ (70), Sư nương tựa chùa Thiếu Lâm. An cư kiết hạ trên đỉnh núi, ở đó có ngôi Phật thất rất rộng rãi, mọi người đều không dám đến vì cho rằng đó là nhà của quỷ thần. Từng có vị luật sư ỷ cậy mình có giới hạnh, ban đêm đến đó tụng luật, thấy một người to lớn cầm mũi mâu đến đâm, đuổi xuống núi, vị Luật sư sợ quá tắt thở. Lại có vị tăng hành trì Hỏa Đẩu Kim Cương Chú. Bấy giờ rất được mọi người kính trọng, hỏi vị tăng ấy rằng: “Sức Ngài trì chú không ai địch nổi vậy có thể đến ở lại đêm tại đó có được chăng?” Vị tăng ấy bảo: “Ở đó đâu đáng sợ gì!”. Rồi bén mang hương đèn vào ngồi trì chú. Không bao lâu vị thần xuất hiện đưa tay nắm lấy chân vị tăng ấy ném xuống dưới khe suối, bảy ngày sau vẫn chưa nói năng gì được, tinh thần hôn mê. Sư nghe thế bảo rằng: “Quỷ vật là loài hạ thú mà dám như vậy ư?” Bèn sang đó tụng kinh như thường, ban đêm nghe ở Đông đường có tiếng động rất mạnh, Sư liền trì niệm chú “Thập nhất diện Quán Thế Âm”. Lại nghe ở trong nhà như có hai con trâu đánh nhau, tượng Phật đều lung lay. Chú đã mất hiệu, Sư trở lại tụng trì Bổn Binh Nhất Hiệp, tự nhiên lần lượt mọi ảnh hưởng đều bặt dứt. Từ đó, n gười ở không còn phải lo sợ, thần bèn dời đi nơi khác.

Đến niên hiệu Thần Long thứ 2 (706), Sư vâng chiếu vào cung cầu mưa, hết mười bốn ngày thì tuyết rơi, vua Trung Tông cho là chưa cứu giúp được hy vọng đương thời, bèn khiến về chùa tiếp tục cầu thỉnh, Sư bèn ở trong điện Phật tinh tấn Khẫn cầu và đốt một ngón tay, vừa mới tròn đêm mà mưa khắp ngàn dặm, ngón tay Sư bình phục như cũ.

Do mới gặp cơn mư lớn, phòng ốc trong chùa đều thấm ngập, riêng phòng viện của Sư không khổ, như không bị chìm ngập. Tất cả các điều linh nghiệm dị kỳ nơi Sư thảy đều như vậy.

3. Truyện ngài Thiểu Khương trụ Đạo tràng Tịnh Độ ở núi Ô Long, thuộc Mục Châu, thời Tiền Đường.

Thích Thiểu Khương, họ Chu, người trụ núi Tiên Đô ở Tấn Vân. Mẹ của Sư họ La, nhân mộng thấy đi đến núi Đảnh Hồ, gặp được Ngọc Nữ tay bưng đóa sen xanh trao cho và bảo rằng: “Đây là hoa Cát tường, nay cho bà, sau này sẽ sanh quý tử, cần phải bảo trọng yêu quý!” Đến ngày sanh ra Sư, có ánh sáng mầu xanh khắp phòng và có mùi hương thơm tợ như hoa sen. Tới lúc Sư còn buộc tã mà mắt mầu xanh biếc, môi đỏ như son, răng được một tướng của Phật. Sư thường ngồi ngay thẳng mỉm cười. Bấy giờ trong làng có người giỏi xem biết tướng đến xem rồi bảo rằng: “Đứa bé này tương lai có tướng tài giỏi, không nói thì tôi chẳng biết”.

Năm Sư bảy tuổi, cha mẹ dẫn Sư vào chùa Linh Sơn, nhân ngày Phật đản kính lễ Thánh dung, mẹ của Sư hỏi có biết chăng? Bỗng nhiên, Sư nói rằng: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni!” Mọi người đều nghe đều lấy làm lạ. Bởi từ lúc sinh ra đến nay Sư chưa từng nói năng điều gì. Do đó, cha mẹ Sư cho phép xuất gia. Năm mười lăm tuổi, Sư tụng đọc kinh đã trọn năm bộ. Sư thọ giới tại chùa Gia Tường ở Việt Châu, lại đến chùa đó tập học tỳ-ni. Sau năm năm, Sư đến chùa Long Hưng ở Thượng Nguyên nghe học Kinh Hoa Nghiêm, Luận Du-già.

Đầu niên hiệu Trinh Nguyên (78) Sư vào điện Phật chùa Bạch Mã ở kinh đô Lạc Dương, thấy có vật phát ra ánh sáng, bèn tìm tòi lấy xem thử là kinh pháp gì, mới biết đó là quyển “Hành Tây Phương hóa đạo” của Đại Sư Thiện Đạo. Sư thấy vậy rất vui mừng, chú nguyện đó rằng: “Nếu ta có duyên với Pháp môn Tịnh Độ thì xin cho tập văn nầy ánh sáng lại hiện”. Sư phát thệ nguyện vừa xong, quả nhiên lại thấy sáng loáng, trong ánh sáng đó có hóa Phật và các vị Bồ-tát nhiều vô số. Sư bèn đến trong ảnh đường thờ Đại Sư Thiện Đạo. Từ chân tượng hóa thành thân Phật, nói với Sư rằng: “Ông y theo tôi thi thiết lợi lạc chúng sanh đồng sanh An Dưỡng”. Sư bỗng như có sở chứng, bèn hướng về phương Nam đi đến chùa Quả Nguyện ở Giang Lăng, gặp một vị Pháp Sư nói với Sư rằng: “Ông muốn giáo hóa người, nên đến xứ Tân Định, duyên của Ông ở đó”. Nói xong, liền biến mất, chỉ còn mùi hương và ánh sáng, hướng về phía Tây mà đi. Đến lúc Sư đến Mục Quận, vào thành khất thực có được tiền, Sư bèn dụ trẻ con xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà, cứ một câu thì trao cho một tiền. Qua hơn một tháng, trẻ con đông dức kính mến niệm Phật, ai niệm nhiều thì cho tiền, như vậy suốt một năm, tất cả kẻ nam người nữ hễ thấy Sư, thì liền xưng niệm “A-di-đà Phật”, Sư bèn lập ra Đạo tràng Tịnh Độ ở núi Ô Long, lập đàn ba cấp, nhóm họp mọi người vào nửa đêm hành đạo xưng tán. Trong hai mươi bốn tiết thường năm thì xưng dương tịnh bang, hễ gặp ngày trai, thì nhóm họp hơn ba ngàn người do Sư giáo hóa lên tòa, khiến kẻ nam người nữ trông thấy khuôn mặt Sư thì liền lớn tiếng xưng niệm “A-diđà Phật”, Phật từ trong miệng ra, liên tiếp niệm mười câu thì có mười Phật nối nhau tuôn ra tướng trạng như xâu chuỗi nối liền. Sư bảo rằng: “Ngươi nào thấy được thân Phật thì được vãng sanh”.

Đến tháng 10 niên hiệu Trinh Nguyên thứ 21 (80), Sư chỉ dạy đại chúng, dặn dò chỉ khuyên gấp tu Tịnh Độ. Nói xong, Sư ngồi kiết già, tự thân phát ra ánh sáng màthị tịch. Sắc trời biến đổi, gió dữ nổi lên bốn phương, trăm giống chim kêu buồn, núi Ô Long cùng lúc biến thành mầu trắng. Nay mộ tháp Sư hiện còn tại Tử Nham ở Đông Đài thuộc Vu Chân, trải qua năm tháng lâu dài chỉ còn lại nền đá vuông, bên cạnh nền đá có đất, tương truyền đất đó trị bịnh được. Dân chúng trong châu, hễ mắc các chứng bịnh, đều đến đó đốt hương xin lấy đất, uống vào phần nhiều đều lành. Bốn góc nền đá giống như vết bánh xe.

Liên hệ thử bàn:

Ngài Thiểu Khương thuật kệ tán dựa theo tiếng của Trịnh Vệ, biến thể mà thành. Chẳng buồn, chảng vui, chẳng oán, chẳng giận. Được khúc vận trung bình, thí như người thầy thuốc khéo dùng kẹo mật bôi thoa trộn vào thuốc khó uống để dẫn dụ trẻ nhỏ đưa vào miệng. Nếu chẳng phải đại quyền nhập giả thì sao có thể vận dụng phương tiện độ người nhiều vô cực như vậy.

4. Truyện ngài Pháp Chánh trụ chùa Khai Nguyên ở Giang Châu thời Tiền Đường:

Thích Pháp Chánh, không rõ Sư là người xứ nào. Tâm Sư rỗng rang, cẩn tu quyết hạnh, giữ gìn ba nghiệp, chế ngự sáu căn. Thường ngày Sư tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã hai mươi mốt biến, hành trì kính cần không hề biếng trễ.

Đầu niên hiệu Trường Khánh (821), Sư mắc bịnh bị chết giấc. Sư kể lại rằng: “Đột nhiên đến coi u Minh, gặp Minh Vương, Minh Vương hỏi Sư rằng: “Sư bình thường tu tạo ruộng phước gì? Và được thiện quả thế nào?” Sư bèn đem việc tụng kinh mà trả lời. Minh Vương bèn dẫn Sư đến điện, mời Sư lên tòa gấm và thỉnh đọc tụng kinh bảy biến. Từ Minh Vương trở xuống cho đến các người thị vệ không ai chẳng chắp tay. Mọi thứ trạ hỏi đánh đập, mách cáo luận bàn dưới thềm thảy đều dừng lặng, không có tiếng động. Sau khi Sư tụng kinh xong, Minh Vương sai một người đưa Sư trở về nhân gian, và tự thân Minh Vương bước xuống thềm cấp vái chào đưa tiễn nói với Sư rằng: “Thượng nhân lại được sống ở đời ba mươi năm, chớ phế bỏ sự tụng trì!” Sư theo kẻ sứ đi được vài dặm, đến một cái hố lớn, tự n hiên bảo Sư cúi đầu nhìn xuống, và bị kẻ sứ xô rớt như rơi giữa khoảng không, tức khắc Sư liền sống lại.

Ban đầu, khi mới chết giấc chỉ có mặt Sư chẳng lạnh, đến lúc Sư sống lại, kể lại việc ấy, khiến người dời tâm cải thiện chẳng phải một. Sau, hơn tám mươi tuổi, Sư mới thị tịch tại chùa Sư ở.

Kế nữa, có Ngài Thích Hội Tông ở huyện Công An, thuộc Kinh Châu. Ban đầu Sư xuất gia làm tăng, không có nghề gì khác. Bỗng nhiên mắc phải bịnh độc cổ chỉ còn da bọc xương. Nhân đó, Sư khổ thiết phát tâm tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, để đợi hết số. Đến qua năm mươi biến, Sư mộng thấy một người bảo há miệng, kéo trong cổ họng ra hơn mười cọng tóc. Đêm đó, Sư mộng thấy ói nhả con giun đất dài hơn một tấc. Hơn tháng sau, nhân đó, Sư lành bịnh. Lúc ấy nhằm khoảng đầu niên hiệu Trường Khánh (821). Có Sa-môn Hạnh Đỗ trông thấy việc ấy. Sau không biết Sư tịch ở đâu.

5. Truyện ngài Thích Thủ Tố trụ chùa Đại Hưng Thiện ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:

Thích Thủ Tố, lập tánh cao xa, chẳng giống như đồng bạn. Sư trụ chùa Hưng Thiện ở Kinh Triệu, thường lấy sự tụng trì làm việc gấp. Nơi viện Sư ở vắng vẻ, có bốn gốc ngô đồng xanh tốt đều do tay Sư trồng.

Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821), các hàng khanh tướng thường đến thăm viện Sư. Đến giữa mùa Hạ tự nhiên cây ngô đồng chảy mồ hôi rất dơ y phục của người, như dầu mỡ mà không thể tẩy giặt. Bấy giờ, Tướng quốc Trịnh Công Nhân cùng Thừa Lang lánh nắng, lại ghét nó nhỏ giọt thấm rít, bèn thưa với Sư rằng: “Đệ tử xin chặt bỏ cây này giùm thầy, mỗi nơi trồng lại một cây thông có được chăng?” Đến chiều tối, Sư cười đùa chú nguyện, bảo với các cây ngô đồng rằng: “Ta trồng các ngươi đã hơn hai mươi năm nay, ngươi đổ mồ hôi thấm rít khiến người nhàm ghét đồng như loại cây xấu, không thể thôi nhỏ giọt. Năm sau nếu còn như vậy, ta sẽ chặt làm củi!” Từ đó bèn dứt bặt, không còn chảy mồ hôi nữa.

Ngài lập nguyện không ra khỏi viện, trì tụng Kinh Pháp Hoa ba mươi bảy ngàn bộ. Ban đêm thường có con hạc thuần đi nhiễu lắng nghe kinh. Đến giờ thọ trai thì chim thước đến trong tay Sư mổ lấy thức ăn. Có vị tăng khác dùng thức ăn để dụ các loài chim, đều kinh hãi kêu la mà chết. Đầu niên hiệu Trường Khánh (821), có Sa-môn Huyền U, đề ở Viện đó rằng: “Ba mươi năm tụng ba muôn bộ Kinh Pháp Hoa. Nửa đời chân chẳng đạp bụi trần nơi cửa Viện”. Người thời bấy giờ cho là trụ cú. Không rõ về sau Sư mất ở đâu.

Liên hệ thử bàn:

Người chích cây sơn thường lo nó ít giọt, vì mến thương nên khó cầu. Người chặt cây cao sợ nó nhiều cay đắng, chán ghét mà dễ được. Ôi! Cây ngô đồng xanh tốt chảy ra mồ hôi, thật ở đời ít nghe. Đến lúc Ngài Thủ Tố rầy la nó thì năm sau dứt vết. Há có người đệ tử xuất gia chẳng như cây gỗ vô tình kia ư? Đã chẳng có khả năng làm sơn cùng vật cách biệt dơ bẩn vì cao cùng ăn thêm mùi vị của nó ư? Nếu được sự đánh mắng của thầy bạn, lấy khiến hoàn toàn thanh tịnh. Truyền rằng: “Có lỗi thì chớ sợ sửa đổi”. Theo trong bổn giáo thì “Hối tội thanh tịnh”, như vốn không khác, cần suy nghĩ đó!

6. Truyện Hoa Nghiêm Hòa-thượng ở U Châu thời tiền Đường:

Thích Hoa Nghiêm Hòa-thượng. Không biết Sư họ là gì. Sư trụ ở phía Bắc thành U Châu, thường tụng Kinh Hoa Nghiêm làm tịnh nghiệp, nên người thời bấy giờ thường lấy đề kinh mà gọi Sư. Những lúc Sư tụng kinh, khắp cả thành đều nghe như ở dưới sân vậy.

Vào niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên (696 – 697), Hàn Quốc Công Trương Nhân Nguyện đến làm đô đốc U Châu, ban đêm nghe tiếng tụng kinh từng phẩm rõ ràng, đến sáng ngày, nói với phu nhân rằng: “Đêm qua ở phía Bắc thành có tiếng của Đạo nhân tụng kinh, nghe như ở trước nha thự, Bà có nghe như thế chăng?” Phu nhân hỏi: “Đó là xứ nào ở xa mà có thể được nghe vậy?” Trương Nhân Nguyện bảo: “Nếu không tin thì hãy sai đứa bé chạy ngược sang dò xét thử”. Quả nhiên trở về báo lại không sai lầm. Trương Nhân Nguyện bèn thỉnh Sư vào thành. Khi gặp gỡ nhau, Sư hỏi Trương Nhân Nguyện rằng: “Có nguyện sao chẳng báo ư?” Trương Nhân Nguyện đáp rằng: “Hiện tại đang sắm sanh năm trăm bộ pháp phục ca sa để đi cúng dường La-hán”. Sư bảo: “Chớ đi đâu xa, chỉ cần đưa đến cúng dường chư tăng chùa Trúc Lâm ở núi Mã An thuộc phía Tây U châu” Đến lúc Trương Nhân Nguyện sai sứ mang hương, pháp y, các vật.. lên núi Phật Lũng đã xa, tìm chùa Trúc Lâm, thì không thấy dấu vết gì, cứ thế vào sâu, leo lên núi cao, thấy một ông lão, bèn hỏi, Ông lão bảo:”Cứ đi theo tôi”. Đợi thấy mây tan thì chùa hiện, mọi cảnh vật của thế gian chẳng có, vào chùa lần lượt cúng dường pháp y ca-sa, cuối cùng thiếu hai người, thừa hai phần. Vị lão túc ấy bảo: “Hãy mang hai phần ấy về, một phần cho Trương Nhân Nguyện và một phần cúng dường Hoa Nghiêm Hòa-thượng”. Từ đó mới biết Sư là người trong chùa Thánh Trúc Lâm mà đến. Người Sứ ở lại trong chùa một đêm, sáng ngày đi ra thì đã qua năm sau rồi.

Sư hành hóa đã lâu, sau Sư an tọa mà thị tịch, nhục thân không khô héo rã nát. Dân chúng ở Phạm Dương phần nhiều hay nguyện cầu, bấy giờ có nhiều điều ứng nghiệm. Tháp thờ Sư gần đây nhân bị chiến tranh mà hư hoại.

Liên hệ thử bàn:

Từ một miệng tuyên tụng làm sao có thể vào thấu tai mọi người ở xa gần ư? Thông đáp: Gần thì như năng lực nguyện trì Kinh Thiện Pháp, xa thì một lời giảng nói mà tùy loại nghe hiểu. Hoa Nghiêm Hòathượng là một thành viên trong chùa Thánh, suy đoán có thể biết.

7. Truyện ngài Văn Chiếu ở núi Bách Thê thuộc phủ Hà Trung thời Tiền Đường:

Thích Văn Chiếu, không rõ Sư là người xứ nào. Vốn người thuần phát chậm chạp, nhưng thấy tượng Phật thì liền vui mừng. Một sáng nọ, Sư đến chùa Bách Thê, đảnh lễ Pháp Sư Đàm Diên, vẽ ảnh xuất gia. Sư chuyên tụng các kinh mà không biết giải thích, thường tự tức giận bởi bẩm thọ tánh trí tối tăm. Bỗng nhiên Sư như giả ngủ, thấy Pháp Sư Đàm Diên thân cao một trượng, mắt sáng như xẹt bắn tứ phía, bảo với Sư rằng: “Điều muốn của ông, ta làm sao có thể làm cho toại nguyện, ta có một quyển kinh thông minh, ông mong cầu điều đó phải phải kính cẩn mà trì, lấy sự cảm ứng như cúi xuống mà lượm nhặt hạt cải dưới đất”. Bèn lấy trong tay áo ra trao cho Sư, thì đó là Kinh Kim Cương Bát-nhã. Sư liền cầm lấy đọc tụng bảy biến rồi liền thức giấc, Kinh như ở tại mắt. Sau đó, Sư niệm tụng không trệ ngại, như đã tập học từ lâu. Khoảng giữa cổ họng và lưỡi của Sư khúc chiết trầm bổng tự nhiên biến vào tiết tấu chẳng phải điệu thường. Từ đó Sư thông minh, mỗi ngày một thay đổi, biện luận hợp với miệng. Người thời bấy giờ cho đó là Bồ-tát Quan

Âm giúp đỡ cho Sư, Sư còn bảo:”Thầy ta là Chu Tùy quốc sư. Tất cả các biên tập nghĩa sớ của ta đều nương mộng mị mà thần trao. Ta không hổ thẹn vì đã giúp đỡ.

8. Truyện ngài Pháp Chiếu ở Thiểm Phủ thời Tiền Đường:

Thích Pháp Chiếu, không rõ Sư là người xứ nào, đi đứng thường thô tháo, Sư du phương bất thường.

Đầu niên hiệu Trường Khánh (821), Sư vào nghịch Lữ đụt mưa, trời mưa lắm bùn dơ, đã quá ngọ mà khất thực không được, Sư bèn sai đứa bé mua thịt lợn, nấu với mấy cái bánh Hồ, ăn đến gần hết, không hề tỏ vẻ hổ thẹn và xem chung quanh như không có người. Mọi người khách đều mắng nhiếc, có gã thiếu niên như muốn đánh Sư. Sư rất khác lạ tự nhiên chẳng đối đáp gì. Đến tối Sư tụng Kinh Kim Cương, vốn không có đèn, mà cả phòng đều sáng tỏ, có mùi hương lạ xông ngát, tất cả có hai mươi mốt người khách, đến lễ bái sám tội lỗi. Mỗi người đều cúng thí y vật. Sư vẫn ngồi xọac chân như không thấy gì. Sau không biết Sư tịch ở đâu.

9. Truyện ngài Tuệ Phổ trụ tại Thiền Viện Thanh Trước, ở huyện Quảng Tế, thuộc Kỳ Châu, đời Đường.

Thích Tuệ Phổ, họ Tống, người ở xứ Kỳ Thủy, thuộc trong bổn quận, tánh Sư phóng khoáng, thông minh tài giỏi. Sư vâng giữ giới pháp, gìn giữ sạch như băng tuyết.

Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (817), Sư đến vùng Quảng Tế. Ở đó đất linh núi đẹp, nên Sư nguyện trụ ở đây. Ban đầu, Sư định tụng Kinh Đại Niết-bàn, trải qua một năm, cuối cùng thông suốt bốn mươi hai quyển. Người nghe nói khen rằng: Cả bốn pho Kinh lớn mà như là ôn tập chẳng suy lường mà có thể đạt được ư! Có người nghi đó là nói vọng suốt bộ có loạn tâm, kế đến nêu lên đề phẩm để thử nghiệm, đề không rít sáp vướng mắc. Ít lâu sau, số đó không ai chẳng kính phục. Sư cũng chẳng để ý, tự thân trồng tỉa nấu ăn các thứ đủ dùng mà thôi. Lót cỏ để nằm, mặc áo vải cừu để qua năm tháng, suốt ngày đêm tiếng tụng kinh không dứt. Như vậy trải qua ba mươi năm, mọi người trong ấp cũng như các hàng học giả thảy đều kính trọng, sửa sang viện Vũ.

Đến mùa Đông niên hiệu Đại Trung thứ 03 (89), tự nhiên không bịnh, Sư nhóm chúng cáo từ rồi ngồi kiết già mà thị tịch, an nhiên như đang lắng đọng tư duy. Đệ tử dùng bùn thơm ràng rịt rồi đón rước vào trong tháp Sơn Tiêu, đề hiệu là Niết-bàn. Đến nay hương hỏa vẫn không dứt.

10. Truyện vị Khách Tăng ở xứ nay là Đông Kinh, thời Tiền Đường:

Không biết Sư tên họ là gì. Vào niên hiệu Trường Khánh (821 – 82), Sư từ xa đến. Tướng trạng sư thô bạo. Thấy tịnh nhân ở trong chùa, Sư bèn quát bảo: “Cho ta tiền để mua rượu”. Chư tăng trong chùa thấy thế tức giận, Sư chẳng giữ giới hạnh, đã làm nhục tăng phường của mình quá đỗi, bèn đoạt lấy cái bình trên tay Sư quăng vào gốc cây bách ngoài vườn chùa. Chiếc bình tuy cứng nhưng bị vỡ, rượu trong bình ngưng đọng lại chẳng chảy, dính vào thân cây như ngọc xanh, quậy mà chẳng tan, ngửi không nghe mùi hôi, Chư tăng trong chùa kinh hãi lấy làm la, hỏi Sư về nguyên do. Sư bảo: “Tôi thường trì tụng Kinh Kim Cương Bát-Nhã, cần phải uống vật ấy một chén, thì tán tụng mới rõ ràng lưu loát, đó là lệ thường, còn không có thì không thể được, các vị thượng nhân chớ lấy làm lạ!” Chư tăng trong chùa dùng dằng trong chốc lát rồi xỉu mặt đem đồ vật đến gốc cây hứng lấy rượu ấy đều chảy xuống trong đồ vật, không sót một tý nào. Mọi người đều trông nhìn, lâu sau đến nếm thử, bỗng chốc đồ vật ấy dòn vỡ mà cảm thấy ngon lành. Không biết Sư qua lại phương xứ nào.

11. Truyện ngài Linh U trụ chùa Đại Ôn Quốc ở Thượng Đô thời Tiền Đường:

Thích Linh U, không rõ Sư là người xứ nào. Tánh Sư vắng lặng thuần trực, chuyên cần tụng tập. Tình cờ bị bịnh mà chết giấc, mịt mờ đến chốn Minh phủ, dẫn đến chỗ vua Diêm-la, vua hỏi Sư thường tu hạnh nghiệp gì? Sư đáp: “Bần đạo trì Kinh Kim Cương Bát-nhã đã được mấy năm”. Diêm Vương chắp luôn miêng xưng”Tốt thay!” Rồi bảo Sư đọc tụng. Sư bèn đọc tụng chương đoạn rõ ràng. Tụng xong, Diêm Vương bảo: “Chưa thật sự tốt lành! Vì sao? Vì xét còn thiếu một tiết văn. Tại sao chỉ xỏ hoa bị đứt vậy? Sư thọ mạng tuy đã hết, nhưng, sẽ thả trở lại nhân gian mười năm, phải khuyên tất cả mọi người thọ trì kinh điển ấy. Chân bản kinh ấy là trên bia đá tại chùa Chung-Ly ở Hào Châu!” Như thế mà đã trải qua bảy ngày, Sư sống lại, Sư bèn tấu trình và vâng sắc viết lại bổn chính thật của kinh ấy, thêm câu của Diêm Vương nói vào sau câu: “Không Pháp nào nói được, ấy mới gọi là nói Pháp”.

Liên hệ thử bàn:

Xuân Thu Hạ Ngũ chẳng dám xem thường mà thêm thắt, Phật pháp cũng nên như vậy, không được vọng vẽ vời! Thông đáp: Ngài Linh U được văn kinh trên bia đá ở chùa Chung Ly, phù hợp không có sai sót.

Như chỗ thêm lẫn lộn của Ngài Đạo Minh khiến người nghi ngờ, không khỏi vời lấy giả dối, phép sửa đổi bày xin khuyên đó thay!

12. Truyện ngài Duy Cung trụ chùa Pháp Tánh ở Kinh Châu, thời Tiền Đường:

Thích Duy Cung, không rõ Sư là người xứ nào. Thuở nhỏ, Sư xuất gia tại chùa Pháp Tánh. Sư ưa thích bức hiếp kẻ dưới. Phần nhiều kết bạn với hạng người không ích lợi. Tuy trái với pháp hạnh của vị tăng nhưng Sư còn siêng năng trì tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, ít hở môi răng. Bọn trà rượu bài bạc tụ tập nơi cửa nhà, luống dối cùng bảo rằng: “Làm tăng mà không liêm sĩ”. Sau Sư mắc bịnh mà tịch.

Cũng tại chùa Pháp Tánh, có Ngài Linh Vị, hành tung cũng tương tợ như Ngài Duy Cung, nên người đương thời cho đó là: Một ngôi chùa mà có đến hai người tệ hại.

Tình cờ, Ngài Linh Vị đi ra khỏi chùa chừng một dặm, gặp sáu bảy người thiếu niên to lớn, ăn mặc rất đẹp, mỗi người đều nắm nhạc cụ như Quy Tư Bộ, hỏi Sư rằng: “Duy Cung Thượng nhân ở đâu?” Sư bèn chỉ chỗ Ngài Duy Cung đang ở, Sư nghĩ là họ đến chùa hành hương trỗi nhạc cúng Phật. Đến sáng sớm hôm sau trở về lại chùa nghe tiếng chuông báo là Ngài Duy Cung thị tịch, Sư mới hiểu những vị gặp gỡ ấy là các vị trời, bởi nương năng lực mầu nhiệm của kinh sẽ được sanh về cõi tịnh. Và cũng dùng sự tích ấy mà khuyên Ngài Linh Vị tấn tu. Ngài Linh Vị cảm ngộ mà kính phục, chư tăng đều kính trọng, sau trở thành bậc cao.

13. Truyện ngài Thích Toại Đoan trụ chùa Đức Nhuận ở Minh Châu, thời Tiền Đường:

Thích Toại Đoan, họ Trương, không rõ từ đâu mà Sư đến chùa Đức Nhuận cầu thầy. Sư là người chất trực trong sạch, chẳng giao du bừa bãi. Thầy Sư trao cho Bộ Kinh Pháp Hoa, Sư đọc tụng như ôn lại. Đến lúc tuổi già, Sư vẫn chuyên cần không biếng trễ. Trong mười hai thời, luôn trì tụng không thôi nghỉ.

Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 2 (861), bỗng nhiên Sư ngồi kiết già mà thị tịch. Chỉ chốc lát, từ trong miệng Sư mọc ra bảy cánh hoa sen mầu xanh. Xa gần mọi người đua nhau đến chiêm ngưỡng đảnh lễ. Người trong xóm cùng nhau xây khám ở dưới Đông Sơn. Hơn hai mươi mươi năm sau, tại mộ tháp Sư thường luôn có ánh sáng phát ra. Sau, đào lên xem, hình chất Sư vẫn như lúc sống. Mọi người bèn đón rước về chùa sơn phết. Nay gọi là viện Chân Thân hiện vẫn còn. Chùa đó vốn là thư đường của Ngô Thái Tử Thái Phó Đô Hương Hầu Hám Trạch, sau xả thí làm chùa nên biển ngạch chùa lấy chữ “Trạch”, nay tức là chùa Phổ Tế.

Liên hệ thử bàn:

Lúc thị tịch, miệng Ngài Toại Đoan mọc hoa sen là sao? Nghe nói lúc các bậc Luân Vương ra đời thì trên đường trong biển mới mọc hoa ấy. Nay vào thời Tượng Pháp, Mạt Pháp há cũng có thế ư? Thông đáp: “Vì cảm người mà ứng, chẳng thể lấy thời gian mà hạn cuộc. Thí như loài lân vốn là loại không có ở Trung Quốc, nhưng, vì cảm Minh Vương mà đến, cũng đồng giống như vậy.

14. Truyện ngài Thần Trí trụ viện Bảo Thọ ở Gia Kỵ, thuộc Việt Châu, thời Tiền Đường:

Thích Thần Trí, là người xứ Nghĩa Ô, thuộc Vụ Châu, vốn họ Lực. Tổ tiên Sư họ Lực. Sau thời Hoàng Đế Thần Mục, trong thời nhà Hán có Lỗ Quận Tướng Lực Quy, nhân làm quan ở Duyện Châu, bèn trở thành người đất Lỗ. Tổ khảo của Sư đều là điền chủ mà chất phác nương nhau.

Sư thuở nhỏ có tiết tháo ngay thẳng, tha thiết muốn xin bỏ tục, đến chùa Vân Môn, tôn Ngài Duy Hiếu làm thầy. Năm mười hai tuổi, Sư chỉ ăn một bữa vào bữa trưa, trì chú Đại Bi Tâm, ứng Pháp đăng đàn thọ giới cu túc, Sư luôn nghiêm khắc kính cẩn tinh tấn. Bỗng nhiên gặp lúc pháp nạn Hội Xương, Sư hình phục tuy khác mà thệ quyết làm tăng, mài chẳng mỏng mà nhuôm chẳng thấm. Đến đầu niên hiệu Đại Trung (87), đạo pháp phục được hưng, Sư đi khắp Kỵ Dương, khảo cứu Thiền thất. Sư bảo: “Dựng đình thì cá ở nơi rừng chằm. Nên thay! Xứ này là rừng chằm của ta”. Sư thường trì chú vào trong chén nước để cứu các thứ bịnh, mọi người uống phần nhiều đều lành, bá tánh đua nhau kéo đến, thường ngày Sư cung cấp vô số, họ gọi Sư là “Đại Bi Hòa-thượng”.

Vào niên hiệu Đại Trung (87 – 860), Sư đến xứ Kinh Triệu. Bấy giờ, Thăng Bình Tướng Quốc Bùi Công Hưu nằm mộng thấy Sư đến. Tới lúc trông thấy vô cùng mừng vui, con gái của Tướng Quốc bị quỷ thần nhiễu hại. Sư trì chú chữa trị bảy ngày liền được bình phục. Tướng Quốc liền tấu trình xin đề biển ngạch cho Viện Sư ở là “Đại Trung Thánh Thọ”, bèn ban tặng một quả chuông Tả Thần Sách Quân, màn gấm của Thiên Hậu, Kinh tạng năm ngàn quyển, Bùi Quân Hưu viết chữ trên tấm biển ngạch của điện.

Đến tháng 12 năm Bính Ngọ (886) thuộc niên hiệu Quang Khải, Sư thị tịch tại núi Đông Bạch, thọ sáu mươi tám tuổi, bốn mươi tám hạ lạp, rước linh tòa về an táng tại núi ở phía Nam Kỵ Dương.

15. Truyện ngài Thích Tùng Thẩm trụ chùa Thiền Trí ở Dương Châu, thời Hậu Lương:

Thích Tùng Thẩm, không rõ Sư họ gì. Từ thuở nhỏ, Sư bỏ nhà vào chùa Thiền Trí ở Giang Đô, trì tụng Kinh hơn mấy muôn lời. Chùa đó là cung điện cũ của vua Dương Đế (60 – 617) đời Tùy.

Niên hiệu Hàm Thông thứ (86) thời Tiền Đường, Sư thọ giới cụ túc tại chùa Phụng Phước ở Yên Đài. Nơi các pháp tịch giảng luật đàm kinh Sư đều biết khắp và đến nghe học. Sau, gom ba y thành ngũ nạp, các danh sơn thắng tích Sư đều đến chiêm lễ. Cuối cùng, Sư trở vè Hoài Điện, mọi người đều suy cử Sư đứng đầu chư tăng, suốt thời gian năm, sáu năm mỗi mỗi thảy đều nghiêm túc, nhưng Sư thường trì tụng Kinh Tịnh Danh, chưa từng sai sót với ngày giờ đã hạn định.

Đến ngày 18 tháng 03, niên hiệu Trinh Minh thứ 2 (916) thời Hậu Lương, Sư phát bịnh, qua hôm sau, hơi thở Sư nhẹ dần mà thị tịch. Nhan sắc vẫn như thường. Sau khi trà-tỳ thâu nhặt được ba mươi viên xá-lợi cứng chắc và sáng, mài giũa vẫn không hao sút. Bèn chất sắp làm mộ. Sa-môn Linh Hộ ở Quân Nguyên soạn bài minh trên mộ.

16. Truyện ngài Hồng Sở trụ chùa Đại Vân ở Ôn Châu, thời Tiền Đường:

Thích Hồng Sở tự là Phương Ngoại, họ Đường, người ở xứ Vĩnh Gia. Vừa mới sanh mà hình thể của Sư đã khác hẳn bao trẻ khác, đến tuổi búi tóc, khí độ Sư rộng rãi. Ngoài Sư, các anh em của Sư đều xả tục, vượt đến chùa Long Cung, Sư bèn xin cha mẹ đi theo, như lưới thưa cá thoát, lồng cao hạc bay, tợ cây đỗ trồng ở Lan Châu, tơ mới mà nhuộm sắc đỏ, khuyên gắng lẫn nhau, tụng tập càng thông.

Năm hai mươi ba tuổi, Sư thọ giới cụ túc, sau đó trở về bổn quận. Bấy giờ, Châu tướng Chu Bao biết danh tiết Sư nên khâm kính càng ân cần. Vào niên hiệu Đại Thuận (890 – 892) thời Tiền Đường, ở phía Nam thành có chùa Đại Vân bị hoang phế, Sư bèn dâng biểu tấu trình muốn xây dựng lại. Vua Chiêu Tông chấp thuận thỉnh nguyện ấy. Do đó, trăm thợ cùng làm, tự thân Sư đứng ra chủ trương, thi lợi trình công, chẳng lỗi nơi vốn, mà Sư giảng kinh lễ tượng, vô tướng đoạt luân.

Đầu niên hiệu Càn Hóa (911) thời Hậu Lương, Võ Túc Vương họ Tiền mở giới đàn độ tăng tại chùa Long Hưng ở Hàng Châu, thỉnh Sư thân lâm làm tôn chứng ở giới đàn, và nhân đó tấu trình vua Thái tổ (Chu Ôn) ban tặng pháp y sắc tía và danh hiệu. Sư cố từ chối chẳng nhận và không hề đắp mặc. Sư tự nói: Lượng đức đâu xứng mặc áo pháp môn mạng số”. Bấy giờ, có thi nhân Trịnh Thuyết đi đến phương Nam phỏng hỏi Pháp Sư Hồng Tĩnh, tình cờ gặp được Sư, mới biết Sư là bậc cao hạnh, bèn làm thơ tặng Sư rằng:

“Trên giá, áo tía móc chẳng mặc
Đầu bàn chữ vàng ngồi xem mãi”.

Tánh Sư khoan dung từ hòa, mọi người không hề thấy Sư tỏ vẻ nóng giận, thần khí thanh thản thông tuệ, gò má đầy đặn, cái bụng to phệ, mắt chẳng nhìn tà vạy, muốn ngó nơi nào thì xoay cả mình lại, lời của thế tục Sư chẳng khinh thường. Ngài giảng Kinh Pháp Hoa có đến năm Pháp tòa. Một hôm, trong giảng đường của Sư bỗng nhiên có mọc hoa sen, hạt trùng lá kép, mùi thơm phảng phất.

Đến ngày mùng tháng 6 năm Nhâm Thìn (932) thuộc niên hiệu Trường Hưng thời Hậu Đường, Sư không bịnh mà thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Kẻ tăng người tục như trẻ thơ tỏ vẻ kính mến, năm đó dời tháp về tại sườn núi ở phía bên phải chùa Từ Vân.

Thuở bình sanh, Ngoài việc giảng dạy, Sư còn thâu đêm hành đạo tụng kinh. Trong đêm sắp tịch, ánh đèn tự nhiên tắt mất, tiếng Sư tụng kinh nhỏ dần. Sư bảo với môn nhân rằng: “Nhọc các ông phải lo mọi việc, nay ta sắp đi!” Tại giường chỗ Sư nằm trước kia có con rán mầu trắng mình lớn như cổ tay, thường cùng nằm đó, những người lớn răn trẻ nhỏ chớ vọng quấy phá. Sư có soạn “Thượng Sanh Kinh Sao”, chích máu viết một bộ kinh Pháp Hoa. Đến nay, dân chúng xứ Vĩnh Gia đều gọi Sư là “Báu lạ trong tăng bảo”.

17. Truyện ngài Thích Hồng Cử trụ tại núi Tiểu Tùng ở Ôn Châu, thời Hậu Đường:

Thích Hồng Cử, họ Đường, người ở xứ Vĩnh Gia, sớm xuất gia tại chùa Long cung ở Việt Châu. Ban đầu, Sư tụng Kinh Pháp Hoa toàn bộ. Sau khi được độ, Sư lần gót đến Trường An tập học luật. Nhân đó đọc văn bia ở chùa Hóa Độ. Bấy giờ có các cử nhân cùng dự nghe, thấy Sư mà đoán biết có lắm hạnh, lấy làm lạ, biết Sư có thể đọc thuộc lòng văn bia, nên thỉnh Sư đọc. Các Nho sanh dò xét văn ấy, rõ ràng không hề sai. Lại cùng dẫn đến chùa Sùng Thánh cũng vậy. Và Sư có trí nhớ dai, được mọi người suy trọng. Nói Sư trở về quê cũ thỉnh thọ hai chúngy chỉ. Sư giữ tế hạnh, từ thuở bé đến lớn, Sư không hề quát mắng chó mèo, huống gì là người khác. Nhưng ngày đêm hành đạo tụng kinh đều có quỷ thần giúp đỡ che chở, hoặc vì đốt đèn, hoặc thay thêm hương, đều do quỷ vật làm.

Đến năm Mậu Tý (928) tức niên hiệu Thiên Thành thứ 3, sau cơn bão lụt lớn, lại nắng hạn gay gắt, dân chúng bị đói kém. Có bọn giặc cướp hung dữ xông vào thất Sư ở, Sư tiếp đãi chúng như khách, tự thân làm cơm cháo cho chúng ăn, và bảo: “Từ từ vào nơi núi sâu, chỗ không người, các ông khốn khổ là do thiên tai gây nên”. bọn giặc bái lạy nhận lấy mà đi. Trong hàng đệ tử Sư có người muốn đánh lén bọn giặc mà chưa cụ bị. Sư bảo: Ông chẳng phải là đệ tử của ta, ta thả chúng nó vĩnh viễn vào nơi rừng sâu. Các ngươi thôi bỏ ý khinh thường đánh lén chúng!”

Đến năm Quý Tỵ (933) thuộc niên hiệu Trường Hưng, bỗng nhiên Sư không bịnh mà ngồi kiết già thị tịch. Đến canh ba, ba lần đưa tay gõ vào cửa khám, các đệ tử gào khóc đến mở xem, Sư bảo: “Ta bảo với các ông thay xiêm y mới cho ta, vì ở cõi Phật, các thượng thiện nhân chê trách ta mặc đồ bất tịnh”. Thay y phục xong, Sư bèn thị tịch. Bảy ngày sau trên đảnh đầu Sư vẫn nóng ấm. Bấy giờ, trong viện Sư ở có ba con chó rất lớn hay gặm cắn hung dữ. Ngày dời tháp, nó đi theo người như thuần quen. Khi đó trong rừng bầy nai xúm xít, chim bay xen lẫn, chó chẳng vồ đuổi, cầm thú chẳng kinh chạy. Sau khi an táng, có con hổ đi nhiễu quanh mộ tháp gầm thét. Sư chiêu cảm tình của loài vật đến như thế.

Sư có đệ tử Hồng Sở đều là bậc cao hạnh, được người đương thời tôn trọng.

18. Truyện ngài Đạo Hiền ở phủ Phụng Tường, thời Hậu Đường:

Thích Đạo Hiền, không rõ Sư là người xứ nào, Sư trì tụng Kinh Khổng Tước Vương làm thời khóa hằng ngày. Sau Sư thọ Pháp Du-già Quán Đảnh. Công phu Sư trì minh càng lắm ứng nghiệm. Thường đêm mộng thấy Phật dẫn dắt Sư đi, từng bước đạp trên mây như đi trên vật gì bền chắc. Thường đi không biết bao nhiêu dặm mà chỉ và nói với Sư rằng: “Đây là nước Ma-kiệt-đà, đó là nước Chiêm-Ba, đó là Nam ẤnĐộ, Kia là Tây Ấn-Độ, nọ là nước Ca-Thấp-Di-La v.v… vừa đi vừa ghi nhận, mừng vui hớn hở không gì bằng. Đến lúc tỉnh ngộ thì thầm hiểu biết Phạm âm của năm xứ Ấn-Độ. Bấy giờ, có Sa-môn Tây Vực đến Kỳ Hạ, có các vị Hồ tăng ở phía Bắc Thông Lãnh thường ngụy xưng là người của năm xứ Ấn Độ. Sư bèn dùng một thứ tiếng mà tiếp chuyện với họ, trước hết dò xem mà hỏi rằng: “Ông là người nước nào?”. Bắc Nhung Nam Phạm không dám cấp đó, kẻ tăng người tục khắp cùng Lũng Để, đều bẩm thọ thừa lãnh Mật tạng, xưng tôn Sư là A-Xà-Lê.

Đến cuối niên hiệu Trường Hưng (93), Vua Minh Tông băng hà, lập Lý Tùng Hậu (tức vua Mẫn Đế) lên ngôi. Bấy giờ, Phụng Tường Thanh Thái (tức Lý Tùng Kha) chẳng vâng thừa mạng lệnh, sai Vương Tư Đồng dẫn binh lính đánh Lý Tùng Hậu. Lý Tùng Kha bèn đi vòng quanh thành tự giữ, và hỏi Sư rằng: “Nguy ách quá lắm như thế này phải làm sao?” Sư đáp: “Mời Đậu Bát Lang đến hỏi thì sẽ biết được thắng thua”. Lý Tùng Kha bèn ra khỏi thành an ủi động viên dân chúng, còn Đậu Bát Lang thì mặc giáp cầm giáo đến trước ngựa, làm bộ dạng nghinh đấu, nhảy nhót rồi cởi giáo ném áo mà bỏ chạy. Sư bảo: “Đó là hiện tượng lính địch ở phía ngoài ắt sẽ hàng”. Quả nhiên đúng lời như Sư nói: Lý Tùng Kha bèn đẩy binh lính mà đi về hướng Đông, thỉnh Sư cùng đi, về đến kinh đô Lạc Dương bèn lên ngôi. Và đổi hiệu là “Thanh Thái (93). Sư bèn tâu rằng: “Đặt tên niên hiệu không tốt. Vì sao? Vì nước trong thì thấy đá”. Đến hai năm sau (936), vua Phế Đế, Thanh Thái ban sắc dời đến Tinh Châu, bị Thạch Kính Đường (tức vua Cao Tổ Thời Hậu Tấn) là Thiên Bình Quân mới cản trở binh lính tự bền chặt, ngầm liên kết Khiết Đan, Trường Khu vào Lạc Thành, vua Phế Đế bèn tự thiêu, quả ứng lời Sư nói là thấy đá.

Khi binh lính quân Hậu Tấn chưa đến thì Sư đã thị tịch trước tại kinh đô Lạc Dương, nay ở Lưỡng Kinh mở mang truyền bá Đại giáo đều là pháp tôn và tằng huyền của Sư. Đậu Bát Lang là người ở xứ Kỳ, gia đình rất giàu có mà tự mang đồ vật đựng cháo nước, nói năng bất thường, chỉ rãi tóc mặc áo chạy cuồng, giống như Lý Thuận Hưng. Hoặc gặp xe bò xe lừa thì vỗ tay mà cười. Đến khi chết, đem thiêu, trong đống lửa đều hóa thành Bươm bướm mầu vàng ròng mà bay đi, hoặc tay rút lấy áo quạt mà đi, mang về nhà cúng dường.

19. Truyện ngài Nhược Hư trụ tại Lô Sơn ở Giang Châu, thời Hậu Hán:

Thích nhược Hư, Ngài ẩn cư tại Lô Sơn, suốt mấy năm trì tụng Kinh, chẳng bước ra khỏi động đá. Giang Nam Quốc Chúa do Lý rất khâm phục mến chuộng đạo phong của Sư đã nhiều lần thỉnh nhưng Sư chẳng hề đến, chỉ nói là lão tăng không có khả năng. Ninh Tiêu Vương giả quy tâm nhưng lại trốn vào núi sâu. Nếu có cúng dường y vật thì lánh nhường còn hương thì nhận lấy. Vào giữa mùa Hạ trong niên hiệu Càn Hựu (98 – 91), Sư an tọa mà thị tịch, nhục thân không tan rã. Nay dân chúng vùng Bồn Thành thường cúng dường ảnh tướng.

Lại ở tại Đàm Châu có Ngài ThíchVô Danh, thường tụng kinh Pháp Hoa, miệng không nói lời gì khác. Trường Sa Văn Chiêu Vương họ Mã đặc biệt rất trọng dụng kính lễ, thỉnh Sư vào viện Tương Tây ở phủ Thiên Sách để cúng dường. Nhưng Sư nói việc lạ lùng rất kinh hãi. Một buổi sáng nọ, Sư bảo vị tăng trông coi việc ở điện Phật, hãy gấp thỉnh tượng Phật đặt ở hai bên chái nhà. Chư tăng đều cho là Sư phát cuồng, nên nhìn nhau cười. Mọi cử chỉ của Sư rất cấp thiết, chỉ chốc lát, Sư tự vào trong chánh điện, leo lên tòa thờ Phật mà ngồi và tự nhiên thị tịch. Kẻ tăng người tục khắp cả châu tranh nhau lễ bái đốt hương. Bấy giờ nhằm niên hiệu Càn Hựu (98 – 91) thời Hậu Hán.

20. Truyện ngài Hạnh Thao trụ chùa Đại Thiện ở quận Cối Kê, thời Hậu Chu.

Thích Hạnh Thao, họ Trần, người xứ Trường Thành, thuộc Hồ Châu, cha của Sư húy là “Lương”, mẹ của Sư họ Đào, tâm luôn mến thương Sư có khác những người con kia. Sư thông minh lanh lợi vượt trội những trẻ nhỏ tài tuấn trong quận. Cha mẹ Sư có nhiều cách cản trở chí nguyện xuất gia của Sư, nhưng chẳng thể ngăn cấm được.

Niên hiệu Thiên Hựu thứ 2 (90) thời tiền Đường, Sư đến nương tựa Đại Sư Quang Viễn xin xuất gia. Năm mười hai tuổi, Sư tụng Kinh Pháp Hoa, chỉ một tháng lẻ năm ngày thì hết bộ. Tiếp theo, Sư tụng kinh Duy-ma, đều như ngài Đạo An sáng thì thỉnh cầu kinh mà tối thờ lại xếp bổn. Sau đó, Sư đến chùa Long Hưng ở Dư Hàng xin thọ giới cụ túc, bèn đến chùa Song Lâm ở Kim Hoa, chỗ Luật Sư Trí Tân truyền dạy “Nam Sơn Luật Sao”. Sư duổi tiết phục ứng, đồng bạn đều kính trọng. Thường đến giờ ăn thì bỏ gạo còn cám cùng với rau vào trong cái đảnh nhỏ rồi nấu mà ăn, ngoài ra không hề có mùi vị gì. Trong tâm nghĩa giải lý như chẻ cây, đều không tỏ vẻ khó khăn. Sư từng nói với mọi người rằng: “Điều rất tốt lành là chẳng thấy sự tốt lành của vật khác, sự tốt lành của tôi là ưa thích sự không hoang phế!”.

Vào niên hiệu Thiên Thành (926 – 930) thời Hậu Đường, Sư đến ngụ tại U Việt, ưa thích sông núi Nhã Da, xem đọc Đại Tạng Kinh giáo, mặc áo vải sợi gai, chiêu mộ kẻ tăng người tục, đặt “Khán Kinh Đạo tràng”, ở góc Tây bắc chùa xây dựng lầu gác Điện Vũ, làm thành Biệt viện, cúng dường cung phụng chư tăng khắp nơi không để thiếu thốn. Đến tháng 7 năm Nhâm Tý (92) tức niên hiệu Hiển Đức thứ 3 (92) (Đúng là phải nói năm Quảng Thuận thứ 2 chứ không phải là năm Hiển Đức thứ 3 (96)), Sư thị hiện bị bệnh và thị tịch tại viện đó, thọ sáu mươi hai tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp.

Tánh tình Sư thẳng thắn, không rủ rê trước mặt, chẳng oán ghét sau lưng, chân không bước đến nhà giàu sang, đãy chẳng thích chứa vật thừa, phòng không đóng cửa, miệng không nói lời tạp, cũng chẳng xem đọc các sách, lại xem kinh luận. Sư bùi ngùi than rằng: “Âm nghĩa của Quách Di còn quá sơ lược, mà âm nghĩa của Tuệ Lâm thì chẳng truyền!” Bèn soạn “Đại Tạng Kinh Âm sớ” gần năm trăm quyển, nay hiện đang lưu hành chung quanh các tăng phường ở Giang Chiết. Nhưng Sư có điểm kém là không nên gọi là “sớ”. Nếu nói “sớ” thì có thể dùng sớ thông cả một tạng kinh, Sư tiện vượt qua Từ Ân gấp bội trăm bổn. Sư có chí tiết là chuyên tinh trì luật cao xa cả xưa và nay.

21. Truyện ngài Thủ Chân trụ chùa Khai Bảo ở Đông Kinh, thời Bắc Tống.

Thích Thủ Chân, người ở xứ Vạn Niên, thuộc Vĩnh Hưng, họ Kỷ. Thời nhà Hán, tráo Hồng Tự của Đế Tín, là ông nội và cha của Sư, lai lịch tốt đẹp, nhiều đời hiếu hạnh, tràn cả làng quê, nên người trong xóm khéo được hạnh hiếu ấy, bèn gọi là “Kỷ Đinh Lan”, còn Sư tức là sau đó, đến lúc Kỷ Hy Tông mông Trần xa giá lánh giặc mà đến phương Tây. Hàm Cảo thất thủ mà chết bởi tay giặc. Nhân đó mà dời nhà đến đất Thục.

Đến tuổi hai mươi, Sư tình cờ vào chùa Thánh Thọ, thấy Luật Sư Tu Tấn đạo hạnh đáng làm gương cho người, nói năng vượt khỏi thường độ, Sư bèn cởi đai mở mũ kính lạy mà phụng thờ. Khi Thất Chi đã hoàn bị, trước hết Sư đến tham yết Đại Sư Tùng Lãng, học Luận Khởi Tín. Tiếp theo, Sư nương Đại Sư Tánh Quang và được truyền Pháp Giới Quán. Sau, Sư đến đảnh lễ A-xà-lê Diễn Bí và được trao giáo nghĩa Du-già. Tất cả đều thành được tâm yếu, đều thấu cùng chỉ quy. Từ khi minh đạt các pháp, tuyên xướng Diệu Điển, suốt bốn mươi năm Sư không hề biếng trễ, và Sư được ban tặng hiệu là “Chiêu Tín”. Sư giảng Luận Khởi Tín và Pháp Giới Quán tất cả hơn bảy mươi biến, đều dùng đèn truyền đèn, lấy đồ vật gieo vào đồ vật. Đệ tử nối pháp của Sư có hai mươi vị. Khai mở Đạo Tràng Quán Đảnh gồm năm lần, độ các hàng tăng ni sĩ thứ hơn ban ngàn vị. Khai mở Đạo Tràng Thủy Lục gồm hai mươi lần. Thường từ canh năm, Sư luân kết Văn-thù Ngũ Kế giáo pháp, đến chiều tối vào lúc canh 2, Sư lại xoay chuyển Tây Phương Vô Lượng Thọ giáo pháp, xưng niệm tôn hiệu Phật A-di-đà, tu niệm Phật Tammuội, mong được vãng sanh cõi tịnh.

Một hôm, Sư bảo với đệ tử là Duyên Ngộ rằng: “Đức Như Lai há chẳng dạy là” Hơi thở ra khó bảo đảm cho hơi thở vào”. Thọ mạng của ta may mắn, và tuổi trẻ của ông cũng đã già. Nay muốn thuận tục theo đời, định xây hai ngôi tháp. Như thế có được chăng?” Ngài Duyên Ngộ cúi đầu đáp rằng: Trưởng Lão Quảng Độ Xả thí đất ở phía bên phải viện, xin xây tháp có cả năm rồi. Nay Đại Sư giao phó ý ấy, đó là rất tốt đẹp với Trưởng lão. Nhân duyên thầm khế hợp, đâu thể thôi dừng!” Do đó mà nhóm thợ để xây dựng, từ tháng 10 bắt đầu cưa mài, đến tháng 11 thì họa vẽ khắp cùng.

Đến ngày mùng 9 tháng 8 niên hiệu Khai Bảo thứ (971), Sư bảo đại chúng niệm Phật, xưng niệm hồi lâu, Sư bảo thôi nghỉ, rồi Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi ba hạ lạp. Đến ngày 21 tháng 8, trà-tỳ ở cạnh Viện Quảng Trí thuộc phía Bắc ngoài cửa Vĩnh Thái, thâu nhặt được xá-lợi mầu sáng đẹp, đều đem cúng dường.

Kế nữa có Sa-di Di-già, người nước Vu-Điền, chuyên tụng kinh Hoa Nghiêm không hề thôi nghỉ. Vào niên hiệu Thánh Lịch (698 – 700) đời Tiền Đường, trời Đế-thích thỉnh Sư lên cõi trời để tụng trì, và nói rằng: “Mỗi lúc bị A-tu-la nhiễu loạn, nên xin thỉnh Sư đến đây xưng tụng kinh Hoa Nghiêm để cầu trừ dịch hại ấy”. Sư bèn lên tòa, xướng tụng kinh ấy rõ ràng. Khi đó, các chúng A-tu-la nghe kinh bèn hiện oai thần một lúc rồi biến mất.

Lại có Sa-di Đạo Âm, Sư thường xưng tụng kinh Kim Cương. Đầu niên hiệu Bảo Lịch (82) – thời Tiền Đường, nhân từ xa đang trong đêm trở về, giữa đường bỗng gặp Hổ dữ gầm gừ chồm nhảy phía trước, Sư biết không thể thoát khỏi, bèn nhắm mắt ngồi xuống, chỉ thầm tụng kinh Kim Cương, trong tâm mong cầu được cứu hộ, HỔ bèn nằm nơi cỏ mà giữ. Đến sáng, người trong thôn qua lại trông thấy Hổ. Tại chỗ nó ngồi nước dãi chảy trên đất. Sư về sau trì tụng càng thêm cao hạnh.

Thử luận bàn:

Cửa chính yếu để vào Đạo, đó là Tam Tuệ. Nếu lấy Văn Trì thì chẳng gì hơn đọc tụng. Vì sao? Vì ban đầu chỉ y cứ vào Bổn. Bổn lập thì Đạo sanh. Tiếp đến thì xả bỏ giải thích, giải thích lưu giữ thì mặt trăng mất, thí dụ như ngón tay, bóng treo ở bên trời mà lại cho là roi da trên ngựa. Như vậy tức là dính mắc bó buộc, cách đạo càng xa! Nhưng mà căn cơ có tân phát, vết tích hoặc chợt đổi dời, phải khiến xem rộng nghe nhiều. Kế nữa trái với văn mà cao xướng thì ở phẩm vị nào?Trước hết gọi là Pháp sư. Nên trong kinh nói rằng: “Thọ trì, đọc tụng, giải thích, biên chép, đúng như pháp mà tu hành” chính là ở đây nói.

Kinh điển lưu truyền đến Trung Hoa, bản Phạn được dịch thành tiếng Hán. Ở phương Bắc, ngài Trúc-Pháp-Lan ban đầu thẳng theo tiếng mà cắt nghĩa, phía nam chỉ ngài Khương Tăng Hội xướng theo Khúc vận mà đọc thông. Ngài Trúc-Pháp-Lan sanh từ dòng họ Nguyệt Chi, Ngài Khương Tăng Hội là người Khương Cư. Hai nhà có hai kiến chấp khác nhau, ẩn tàng vô vi, như Cáo Thỏ trên băng tuyết hỏi đường bên cạnh Khỉ.

Thông đáp: Chư tăng ở Tây Vực chuyên trì bộ loại, hành sự khác nhau, hoặc chấp đích thân được nghe từ Phật nói nên khó sửa đổi, hoặc xưng tông của ta tự có phân nhiều dòng phái, hoặc thẳng điều mà chất thực ư? Hoặc tiếng ca hay, đến nỗi khiến sự truyền trao đều có sự tranh giành giữa thầy trò, nào đây phải đó quấy, ta đúng kia sai, trọn năm mâu thuẫn chưa có lúc nào thôi dứt. Nên có Nhã Mỹ Bái Nặc (chúc tụng) một thời, tụng Già-Đà (kệ tụng) Tam Khế, cảm có xe ngựa mà chẳng hành động, trời người cùng nghe, đó là sự hiệu nghiệm của tiếng khúc chiếc. Như ngài Bàn-Đặc chỉ đọc ít câu, ngài Bạc-Câu-La chỉ một chương ngắn, chỉ sợ quên mà dính môi, đâu rảnh mà khua lưỡi, vẫn được lên hàng Thánh, hoặc cảm lắm điều linh ứng. Đó là sự ứng nghiệm của tiếng đặt thẳng. Nay vì một lời ngăn che đó, chỉ có cảm động đến long thần, sanh các vật thiện, đó là vì đọc tụng Chánh Âm.

Có người nói rằng: Thường nghe ngữ âm của Trời Quang Âm cho nên Phạm Âm chưa chắc, vậy đâu là Phạm Âm ư? Xin nêu hình trạng để chỉ bày! Thông đáp: Các Đà-La-Ni đều là Phạm ngữ. Tiếng Bái-Nặc là Phạm Âm.

Có người nói rằng: Như ngôn âm trong thiên hạ khiến người thích nghe. Cùng với người xứ Tương Dương làm chuẩn cứ, ấy là âm Hán. Âm gá vào Ngữ âm gọi là Hán Âm Hán Ngữ, cho nên biết Ngữ và Âm khác nhau. Cái gọi là Bái-Nặc chính là Âm Phạm, như điệu ca hát của phương này. Vả lại, Âm Phạm thì gấp chóng mà lời thì phô bày giải thích. Phân hiểu thư thả, từ từ dẫn kéo, đó là Bái-Nặc.

Có người nói rằng: Đây chỉ hợp với chư tăng Tây Vực truyền trao, sao dùng của Tư Vương đời Trần và Thái Tể ở đời Tề kiểm kinh chỉ bày Sa-môn ư? Thông đáp: Vì hai vị vua đó trước đã thuần thục Khúc Vận của Thiên Trúc, nên nghe âm hưởng của núi và kinh kệ mới có thuyết truyền trao. Ca tán ngày nay nương gá khúc phép của Lệ Dâm Khuê, âm của Điếm trệ, lại thêm Tương Hoài bao gồm cả mật chú, phu xướng Phạm tấu. Đó thật là Thanh mới. Như nay mở bản Phạm, gọi là Khai đề, chỉ biết đuổi theo câu, tùy theo hàng, đâu rõ suốt chân kinh hay ngụy tạo, sao phân rành chi phẩm, chưa xem xét biệt sanh, năng hiển đã biết, sở thuyên phải hiểu. Đang nghe bỏ bè liền đạt tới quy Tông, thấu đạt tự môn A, vẽ Thể của pháp Thân. Đó là chỗ tới mức của đọc tụng. Như có trường hợp khó thông chữ “Trửu” (chổi) đi đến nhiều gia tộc, gấp bảo miệng tụng một kinh, lại vì thân tham năm chúng. Ỷ vào khả năng tụng thuộc lòng để khỏi bị gọi là vị tăng cơm cháo ư! Như tình cờ lắng trong, trùm đầu về nhà.

Có người nói: Quốc Triều độ giới sao trái với kinh ư? Đâu chẳng nghe ngôn từ của Yết-Ma chỉ là nói tuổi đủ hai mươi, y bát đầy đủ, chẳng nghe nói niệm tụng kinh là tăng thượng duyên? Thông đáp: Đó là lời của bọn phá diệt Phật pháp, không biết mà nói. Bậc thượng căn cảm giới, quả chứng sẽ cùng theo, sao lấy số trang kinh mà khảo thí ư! Bậc hạ căn thoát xả tụng trì, vào pháp chỉ nương bạch nghiệp. Đại Sư Nam Sơn (Đạo Tuyên) nói rằng: “Mới lên cạo tóc, liền phải xem thông”. Thêm nữa, đầu thời Hậu Chu, phần nhiều độ tăng ni, ban sắc cho linh tạng cân nhắc phẩm chất hạnh nghiệp, hoặc giảng hoặc tụng, quyển bộ rất nhiều, tùy có văn nghĩa thảy đều xem hết. Bấy giờ, cùng xét lường thông kinh hiểu ý, là bậc nhất. Đây là tinh chọn tụng kinh thông nghĩa làm thềm cấp vào đạo. Không thấy văn nầy rất đau tiếc. Thời nhà Lương tương truyền gọi đó là “Kinh Sư”, Đại Sư Đạo Tuyên chẳng y theo mà sửa đổi gọi là “đọc tụng”.

Ở đây, gom nhóm các Sư từ thời tiền Đường đến thời Bắc Tống. Rút tỉa lắm điều lành, tông quy về cao hạnh, có cảm thần túc, miếu độ khổ nhân kinh. Ngài Pháp Trí vãng sanh cảm ánh sáng mầu vàng ròng soi chiếu khắp chỗ hoang vắng. Ngài Minh Tuệ hành đạo chiêm đoán tướng cầu vồng soi suốt đến cõi trời. Hoặc được thỉnh ngồi trước các vị La-hán, hoặc trì minh cứu bệnh tật khắp Thành Dương. Hoặc được thơ vua biếu tặng tiễn đưa, thấy Bồ-tát Đại Thế Chí đến đón rước, hoặc sứ giả bắt lấy mà không thể được. Hoặc yêu quái cáo chồn tự biến hình. Tốt đẹp thay! Ngài Nguyên Kiểu đến thì cây lý mọc thành lùm rực rỡ, ngài Sở Kim cảm vào mộng của Đế Vương, Viên Quang trên đỉnh, Tam-muội hiện tiền. Gặp tụng kinh Hoa Nghiêm phát ra ánh sáng mầu vàng ròng ở khóe miệng, sau đọa địa ngục, nương tòa báu mà đến Tây Phương. Ba lát dao khua chém chỉ thương tổn nơi ống trúc. Tiếng tụng kinh từ chùa Thiên Phước vang vọng tới tai vua, kiểm chứng trở lại chẳng ăn dùng chi cả. Tiếng khương chẳng dứt nơi xâu chuỗi. Hoặc thọ thêm ba mươi năm. Hoặc sái cổ độc nơi vài mươi sợi tóc, hoặc kinh âm vang khắp cả yên lũy, hoặc vốn đủ tại chùa Chung Ly. Hoặc Nhạc tượng Quy Tư, hoặc miệng nở hoa sen, hoặc quỷ thần lánh chú. Hoặc trên đất liền mọc lên hoa sen, hoặc mộng Hoa Tư mà đều thông hiểu Phạm Âm. Hoặc ngồi nơi tòa Phật mà liền thị tịch. Các Bậc Thượng Đức, Pháp Sư như thế, khảm ngọc tùy phương, xâu hoa theo thứ lớp. Thêm là trống vàng, đánh khua đều thành âm vang sám hối, miệng là ống sáo ngọc, thổi huýt đó phát ra khúc điệu thần tiên. Nhân nương truyền nhau, dời cậy riêng tuyên, có thể gọi là da lót Pháp Hoa, chân đi Kinh Tạng, khiến pháp âm chẳng dứt bặt, khéo giao phó ba thừa, thảy đều thành Phật không còn sót, lại tuyên bày tám biện tài. Nên có lời thơ rằng:

“Chặt cây Kha, chặt cây Kha, đó thì chẳng xa.
Trông nhìn lại chúng tôi không quên lấy, chính là ở đây”.

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

(Quyển 25 hết).