TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 21

 

CHƯƠNG SÁU: CẢM THÔNG

TRONG PHẦN 4 CỦA CHƯƠNG VI

(chánh truyện có mười tám vị, phụ có ba vị).

1. Truyện ngài Thần Anh trụ viện Pháp Hoa ở núi Ngũ Đài thời Tiền Đường:

Thích Thần Anh, không biết Sư họ gì. Có túc duyên ngộ đạo, năm mới lên tuổi tết tóc, Sư theo thầy, phúng tụng siêng năng, suốt ngày đêm chẳng trễ nải, biếng lười. Năm đang tuổi Sa-di, Sư được thọ giới Cụ túc. Sau mới chống tích, ôm bát du tìm hỏi tri thức. Sớm thông được huyền thoại, giỏi cả Kinh Luận. Sư lần lượt đến tham yết Thiền sư Thần Hội. Ngài Thần Hội nói với Sư rằng: “Ông có duyên ở núi Ngũ Đài, nên chóng sang đó chiêm lễ Bồ-tát Văn-thù và tìm hỏi di tích”.

Đã được sự chỉ bảo, vào trung tuần tháng 6 niên hiệu Khai Nguyên thứ , Sư đến núi chiêm lễ, ghé dừng nghỉ nơi tăng trù một ngày. Sau khi thọ thực xong, Sư đi đến Tây Lâm, bỗng thấy một Tu Viện đề hiệu là Pháp Hoa. Sư bèn vào trong, thấy một ngôi tháp Đa Bảo, đẹp đẽ rực rỡ, đồng như trong kinh Pháp Hoa nói. Ở đó có bốn cửa bằng Ngọc thạch, công đức nhỏ nhiệm sáng rỡ, thần công khó lường, mặt sau có lầu của Hộ Quốc Thiên Vương, phía trên có tôn tượng hai vị Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền bằng ngọc thạch. Ở trước Tam môn có mười ba gian, trong cửa hai bên có hành cung đạo tràng. Đó là nghi trượng của Bồ-tát Vănthù và Phổ Hiền. Ngoài tam môn, núi Trạng Đài có mười ngôi chùa, mịt mờ ngoài vật, trông xem mênh mông, thần tình lâng lâng. Sư thử ra viện, lại thấy có chúng tăng, khác hẳn những điều thường thấy, lại nhiều việc lạ lùng, dự nghi chưa quyết định, Sư lại ra cửa đi về hướng Đông chừng ba mươi bước, bỗng nghe tiếng khua đóng cửa, đưa mắt nhìn lại thì không hề thấy vật gì. Sư bèn buồn khóc tự nhủ: “Đại Thánh giật tỉnh ta ư? Ở chốn này hẳn có duyên!” Bèn đến chỗ tháp Đa Bảo, Sư dựng am mà ở. Sư phát nguyện rằng: “Ta nương tựa Hóa Viện, xây dựng một cơ sở mà trú trì”. Sư ở chừng một tháng, tín thí đến như rừng, người quy y đông nhiều. Bèn kiếm tìm công thọ, có người cao giá thệ chẳng đáp trả, Sư bèn đến Dịch Châu xa ngàn dặm lấy ngọc thạch để tạo công đức, nhiệm mầu sáng rỡ, công đức đều thấy. Vách tường đó là vết tích của Ngô Đạo Tử bạn của Vương Phủ. Sáu Pháp tuyệt diệu, được mọi người mến chuộng. Viện đó xây dựng trước sau hoàn tất, nhân đó đặt hiệu là “Pháp Hoa”. Ngài giảng pháp và trụ trì. Ở đó bằng thẳng như kéo cắt. Sau, tự nhiên không bịnh, Sư gọi môn nhân dặn dò mà thị tịch, thọ bảy mươi lăm tuổi. Mộ tháp hiện nay vẫn còn.

2. Truyện ngài Ngưu Vân trụ chùa Hoa Nghiêm ở núi Ngũ Đài thời Tiền Đường:

Thích Ngưu Vân, họ Triệu, người ở xứ Nhạn Môn. Thuở bé, Sư tợ như chẳng có tinh thần, đưa vào trường làng tập học mà cả ngày không biết một chữ. Chỉ khi thấy tăng ni thì chắp tay có dáng mạo như sợ sệt.

Năm mười hai tuổi, cha mẹ Sư đưa sang viện Thiện trụ ở chùa Hoa Nghiêm trên núi Ngũ Đài cầu xin xuất gia, đảnh lễ Ngài Tịnh Giác làm thầy. Thường ngày luôn bảo vác củi, gánh nước. Bấy giờ mọi người xem thường Sư ngu độn, phần nhiều hay đem điều trái ngược kết quy về Sư. Sau khi giới cụ túc, Sư càng khó tụng tập. Đến năm ba mươi hai tuổi, Sư mới dự nói rằng: “Ta nghe trên núi Ngũ Đài, thường có Bồ-tát Vănthù hiện hình, nay ta cất bước đến dó, nếu được thấy Bồ-tát Văn-thù thì chỉ cầu được thông minh để học tụng Kinh Pháp!” Khi đó, Sư mạo hiểm xông vào trong tuyết lạnh, tâm tình chẳng thối lui sụt, đi đến đảnh Đông Đài, thấy có một ông lão ngồi đốt lửa. Sư hỏi rằng:”Tuyết lạnh như vậy, ông từ đâu đến?” Ông già đáp: “Tôi từ dưới Tứ Xuyên đến”. Sư hỏi: “Đi đường nào mà không thấy dấu giầy?” Ông lão đáp: “Tôi đến đây trước khi tuyết phủ”. Và lại hỏi Sư rằng:”Ông có tâm nguyện gì mà đi trong sương tuyết đến đây, há không khổ nhọc ư!” Sư đáp: “Tôi tuy là một vị tăng mà tự hận ngu dốt, không tụng niệm được Kinh Pháp, đến đây, muốn được trông thấy Bồ-tát Văn-thù để cầu xin có được quả báo thông minh!” Ông lão bảo: “Kỳ lạ thay!” Lại hỏi tiếp: “Đến xứ này mà không thấy được Bồ-tát Văn-thù thì muốn đến nơi nào nữa?” Sư đáp: “Muốn lên Bắc Đài”. Ông lão bảo: “Ý tôi cũng vậy”, và tiếp: “Xin mời Sư đi trước!” Sư bèn đi khắp đảnh Đông Đài rồi cáo biệt ông lão và từ hướng Tây mà đi.

Đến sẩm tối, Sư mới tới Bắc Đài, lại thấy một ông lão ngồi đốt lửa, Sư kinh hãi lấy làm quái lạ hỏi rằng: “Vừa cùng từ biệt ở Đông Đài, do đâu ông lại đến đây trước?” Ông lão bảo: “Sư không biết đi đường tắt nên mới đến trễ!” Sư tuy vâng nhận lời nói đó mà trong tâm vẫn do dự, nhưng nghi đây là Bồ-tát Văn-thù ứng hiện!” Sư bèn xưng gọi mà đảnh lễ sát chân. Ông lão nói: “Tôi là người phàm tục không nên làm lễ”, Sư chỉ tham thiết lễ tình thuộc chẳng dời. Giây lâu ông lão lại bảo: “Hãy thôi lễ lạy, đợi tôi nhập định xem ông đời trước tạo hạnh nghiệp gì mà hôn mê ngu độn như vậy!” Ông lão bèn nhắm mắt, trong chốc lát lại mở mắt bảo Sư rằng: “Đời trước ông làm trâu, nhờ chuyên chở Kinh Tạng nên đời nay được xuất gia làm tăng mà ám độn. Ông hãy đến bên cạnh Long Đường lấy một cái vạc đến đây, tôi sẽ cắt bỏ thịt dư trên đầu ông thì liền sáng suốt”. Sư bèn được vạc độ cho. Ông lão bảo: “Ông hãy nhắm mắt, đợi tôi bảo mở mới mở”. Nhân đó Sư nhắm mắt, kế đến dường như tâm đang ở trong vạc mà thân không đau khổ. Tâm hoát nhiên tỏ rõ, tợ như trong nhà tối mà có ngọn đèn sáng, đêm dài mà có ánh trăng tròn. Sư mở mắt bèn thấy ông lão ứng hiện hình tượng Bồ-tát Văn-thù và nói với Sư rằng: “Từ nay về sau ông tụng niệm Kinh Pháp qua tai liền không quên mất, lại có nhân duyên rất lớn đối với Viện Giản Đông ở chùa Hoa Nghiêm. Ông không được lui sụt”. Sư bèn vừa buồn vừa khóc, tiếp chân mà lạy, trong khoảnh khắc chưa ngẫng đầu lên thì Bồ-tát đã biến mất.

Sau đó, Sư xuống núi, tay chân chẳng tổn hại gì, tất cả các kinh điển, xem qua mắt một lần, miệng liền đọc tụng. Tháng năm sau, Sư đi nhiễu quanh tháp A Dục Vương, hành đạo tụng kinh. Đến đầu canh thấy một luồng ánh sáng thẳng từ đảnh Bắc Đài đến nền tháp rất lâu mà chẳng tan. Ở trong luồng ánh sáng đó hóa hiện một ngôi lầu tháp, phía trước có bảng vàng đề là “Thiện Trụ”. Sư nhớ lại lời dự ghi của Bồ-tát bèn y cứ theo lầu báu hiện trong luồng ánh sáng mà xây dựng. Sư mở mang đạo pháp, mọi người đều quý trọng.

Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 23 (73) tự nhiên không bịnh mà Sư thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, bốn mươi bốn hạ Lạp. Tên Sư mất chữ trước, nhân theo sự ghi nhận của Bồ-tát Văn-thù mà biết được bổn tích là trâu nên người đương thời gọi Sư là Ngưu Vân.

3. Truyện ngài Đạo Nghĩa ở chùa Thanh Lương, núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:

Thích Đạo Nghĩa, người xứ Cù Châu, thuộc Giang Đông. Vào khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713 – 72) Sư đến núi Ngũ Đài, dừng ở Viện Chúc thuộc chùa Thanh Lương. Vị Điển tọa mời khắp mọi người chuyển củi mang vác vật nặng leo lên cao. Luôn có những dáng vẻ khó khổ, Sư mang một đôi giầy tre thay đổi cùng mọi người mang vác. Nhân đó, Sư đắp mặc luôn ba áo nạp. Từ Đông Bắc mà đi có tới ba dặm. Lại ở núi Lăng-già đi xuống gặp một vị lão tăng dáng mạo già xấu dắt một đồng tử, tên tự là Giác Nhất. Lão tăng đi trước, đồng tử mời Sư vào chùa Đông Biên uống trà rồi hãy đi. Sư bèn theo vào chùa, đảnh lễ khắp các Viện. Thấy một lầu cao ba tầng, trên dưới có chín gian, tất cả đều mầu vàng lánh sáng cả mắt. Lão tăng bảo Sư hãy sớm trở về chỗ ở, ở đó núi lạnh khó ở. Sư vâng lời từ giã đi ra khỏi chùa mới chừng năm bước, ngoảnh nhìn lại chỉ thấy toàn là núi rừng, mới biết đó là ngôi chùa hóa hiện. Sư bèn trở về Trường An. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766) Sư bày tỏ nguyên do cớ sự ấy, tấu trình với Bảo Ứng Nguyên Thánh Văn Võ Hoàng Đế (tức vua Đại Tông) mong được ban sắc đặt tên chùa là “Kim Các”, tuyên bảo mười tiết độ trợ duyên. Bèn mời người đến tính toán vật liệu. Có một vị Sa-môn tên Thuần-đà vì tính toán đất cát cây gỗ, xây dựng chùa Kim Các. Ngài Thuần-đà vốn là tăng chúng ở trong viện Hỷ Thước, thuộc chùa Na-Lan-Đà ở Tây Vực. Sau khi chùa xây dựng xong, vua sắc tặng danh hiệu Bất Không Tam Tạng. Không lường biết về sau, Sư tịch ở đâu.

4. Truyện ngài Pháp Chiếu trụ chùa Trúc Lâm ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:

Thích Pháp Chiếu, không rõ Sư là người xứ nào. Vào niên hiệu Đại Lịch thứ 2 (767) Sư trụ chùa Vân Phong ở Hành Châu, chuyên tu không biếng trễ. Một hôm, tại tăng đường, theo chúng ăn cháo, bỗng nhiên Sư thấy trong bát cháo có áng mây lành năm mu. Trong áng mây có ngôi chùa, cách phía Đông Bắc chùa trong khoảng năm mươi dặm lại có mốt quả núi. Dưới núi có khe, phía Bắc khe có một cửa đá, đi vào khoảng năm dặm lại có một ngôi chùa, có bảng vàng đề là “chùa Đại Thánh Trúc Lâm”. Tuy mắt thấy rõ ràng nhưng tâm Sư vẫn hoài nghi. Ngày khác đến giờ thọ trai, lại cũng thấy trong bát có áng mây năm mầu, trong mây hiện rõ các chùa trên núi Ngũ Đài, đều là đất vàng, không có núi rừng dơ xấu, toàn là ao đài lầu quán, thuần là các báu trang nghiêm. Bồ-tát Văn-thù ở trong một muôn thánh chúng, lại hiện ra các cõi nước thanh tịnh của các Đức Phật. Đến lúc ăn xong mới biến mất. Tâm nghi ngờ Sư vẫn chưa quyết dứt. Trở về viện, Sư hỏi chư tăng:

“Có vị nào đã từng đến núi Ngũ Đài chăng? “ Khi đó có hai Ngài Hỷ Diên và Đàm Huy nói đã từng đến, và nói đều phù hợp như những gì Sư thấy trong bát, nhưng vẫn còn chưa được tin tức về núi Ngũ Đài.

Đến mùa Hạ niên hiệu Đại Lịch thứ (769), tại chùa Hồ Đông ở Hành Châu có lập một đài cao. Suốt chín tuần phát khởi năm hội niệm Phật đạo tràng. Vào giờ Mùi ngày mùng 2 tháng 6, từ xa trông thấy mây lành trên cao che phủ đài chùa. Trong áng mây có lầu gác, trong lầu các có vài vị Phạm tăng, vị nào cũng cao một trượng, cầm tích trượng hành đạo. Khắp thành quách Hành Châu đều thấy Phật A-di-đà và Bồtát Văn-thù, Phỏ Hiền và một muôn vị Bồ-tát đều dự trong Pháp hội đó. Thân tướng các Ngài cao lớn. Những người trông thấy đều khóc mà thiết lễ. Đến hướng Tây thì biến mất. Chiều hôm đó, Sư ở ngoài đạo tràng gặp một ông lão, nói với Sư rằng: “Sư trước phát nguyện sang thế giới vàng ròng phụng hầu đức Đại Thánh, sao nay không đi?” Sư lấy làm lạ hỏi rằng: “Thời gian đường xá khó khăn làm sao đi được?”Ông lão nói: “Chỉ mau gấp đi, dường xá không gây hiểm trở”. Nói xong, liền biến mất. Sư kinh hãi vào đạo tràng, trùng phát thệ nguyện thành khẩn, ước chừng mãn Hạ sẽ đi. Dẫu cho lửa nhóm sông băng cũng không bao giờ lùi bước.

Ngày 13 tháng 8, Sư phát xuất từ Nam Nhạc cùng vài người đồng chí hướng, quả nhiên không trở ngại gì, tới ngày mùng tháng niên hiệu Đại Lịch thứ (770) thì đến Huyện Ngũ Đài, xa thấy ở phía Nam chùa Phật Quang, quả như chỗ thấy trong bát không gì sai khác. Canh tư đêm đó, thấy một luồng ánh sáng từ dưới Bắc Sơn soi chiếu thẳng đến Sư, Sư mịt mờ đi vào trong nhà hỏi mọi người: “Đó là điềm gì? Tốt xấu thế nào?” Có một vị tăng đáp rằng: “Đó là ánh sáng không thể suy nghĩ bàn luận của Đức Đại Thánh, thường đáp lại đối với những người có duyên”. Sư nghe rồi liền sửa sang oai nghi, tìm theo ánh sáng mà đến chùa. Ở phía Đông Bắc chùa trong chừng năm mươi dặm quả nhiên có ngọn núi, dưới núi có khe. Phía Bắc khe co một cửa đá, thấy có hai đứa trẻ mặc áo xanh, chừng tám chín tuổi, mặt mũi xinh đẹp đứng ở trước cửa. Một người xưng là Thiện Tài, một người xưng là Nan-đà, cùng ngắm nhìn vui mừng thăm hỏi làm lễ, dẫn Sư vào cửa. Theo hướng Bắc đi tới khoảng năm dặm, thấy có một lầu cửa vàng, dần đến nơi cửa, thì đó là một ngôi chùa. Trước chùa có bảng vàng lớn đề là “Chùa Đại Thánh Trúc Lâm”. Mỗi mỗi đều như những gì đã thấy trong bát. Chu vi khoảng hai mươi dặm, có một trăm hai mươi phòng viện, đều có tháp báu trang nghiêm, đất ở đó thuần bằng vàng ròng. Dòng chảy, cây hoa đầy đủ trong đó. Sư vào chùa, đi vào trong giảng đường, thấy Bồ-tát Văn-thù ở phía Tây, Bồ-tát Phổ Hiền ở phía Đông, mỗi Ngài đều ngồi trên tòa sư tử, tiếng giảng pháp rõ ràng nghe được. Chung quanh Bồ-tát Văn-thù có hơn muôn vị Bồ-tát và Bồ-tát Phổ Hiền cũng có vô số Bồtát vây quanh. Sư đến trước hai vị Bồ-tát đảnh lễ và thưa hỏi: “Hang phàm phu trong đời mạt pháp cách Thánh xa xôi, sự nhận biết yếu kém, cấu chướng rất sâu nặng, Phật tánh không do đâu mà hiển hiện. Biển Phật pháp thì mênh mông, chẳng hay tu hành pháp môn nào là thiết yếu nhất, cúi mong Đại Thánh xé trừ lưới nghi của con!” Bồ-tát Văn-thù dạy rằng: “Nay ông niệm Phật, chính là đúng lúc. Trong các pháp môn tu hành, không gì hơn niệm Phật. Cúng dường Tam Bảo, phước tuệ song tu. Hai pháp môn ấy là cần yếu nhất. Vì sao? Vì trong đời quá khứ, ta nhân quán tưởng các Đức Phật, xưng niệm danh hiệu Phật, cúng dường các Đức Phật, nên nay thành tựu trí Nhứt thiết chủng. Cho nên trong tất cả các pháp Bát-nhã Ba-la-mật, thiền định sâu mầu, cho đến các Đức Phật đều từ niệm Phật mà sanh. Nên biết niệm Phật đứng đầu trong các Pháp. Ông phải thường niệm Pháp Vương Vô Thượng, không để dừng nghỉ”. Sư lại hỏi: “Phải niệm như thế nào?” Bồ-tát Văn-thù đáp: “Phía Tây thế giới này có Đức Phật A-di-đà, nguyện lực của Đức Phật ấy không thể suy nghĩ bàn luận. Ông phải xưng niệm nối nhau, đừng để đứt quãng. Sau khi qua đời chắc chắn sẽ vãng sanh, không bao giờ còn lui sụt”. Nói lời ấy rồi, hai vị Bồ-tát mỗi vị đều duỗi tay xoa đảnh đầu Sư mà trao thọ ký, dạy rằng: “Ông đã niệm Phật, nên không bao lâu sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-Đề. Nếu người thiện nam tín nữ nào phát nguyện, mong chóng được thành Phật thì không gì hơn pháp môn hành tri niệm Phật, có khả năng mau chứng Vô Thượng Bồ-đề”. Dạy xong, hai vị Bồ-tát cùng nhau nói kệ. Sư nghe rồi mừng vui hớn hở, lưới nghi đều dứt sạch. Trở lại đảnh lễ. Đảnh lễ xong lại chắp tay. Bồ-tát Văn-thù dạy rằng: “Ông hãy sang viện của các vị Bồ-tát lần lượt lễ bái”. Thọ giáo rồi, Sư lần lượt đảnh lễ chiêm ngưỡng, và đến vườn trái cây bảy báu. Trái cây ở đó vừa mới chín, lơn như cái bát. Sư bèn lấy ăn, ăn xong thân ý thư thái, rồi trở lại trước Bồ-tát đảnh lễ mà giã từ thối lui. Sư trở lại thấy hai đứa bé mặc áo xanh tiễn ra ngoài cửa. Lễ bái xong, ngẩng đầu lên, thì mọi cảnh tượng đều biến mất. Sư càng buồn cảm gấp bội, bèn dựng lập trụ đá ghi dấu, ngày nay vẫn còn.

Lại nữa, từ ngày mùng 8 tháng , niên hiệu Đại Lịch thứ (77), Sư nghỉ ở dưới lầu phía Tây Chùa Hoa Nghiêm, mãi đến ngày 13, Sư cùng hơn năm mươi vị tăng đồng đến hang Kim Cương, tới chỗ Ngài Vô Trước được thấy đức Đại Thánh, thành tâm kính lễ hồng danh ba mươi lăm Đức Phật. Sư mới đảnh lễ mười biến, bỗng thấy tại chỗ đó rộng rãi trang nghiêm, có cung điện lưu ly. Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền cùng muôn vị Bồ-tát và Phật-Đà-Ba-Lợi đều trụ tại đó. Sư thấy rồi chỉ tự mừng vui, sau đó theo chúng tăng trở về chùa. Vào canh 3 đêm đó, trên lầu phía Tây Viện Hoa Nghiêm, bỗng nhiên Sư thấy nửa núi phía Đông của chùa có năm ngọn đền Thánh to hơn cả thước, Sư bèn chú nguyện rằng: “Xin phân thành trăm ngọn đèn kết quy về một bờ”. Bèn phân như ý nguyện. Sư lại chú nguyện phân thành ngàn ngọn đuốc, nói xong bèn phân thành số ngàn, hàng hàng đối nhau, khắp cả nửa núi. Sư lại một mình đến hang Kim Cương, cầu nguyện được trông thấy đức Đại Thánh. Hết canh 3, Sư thấy một vị Phạm tăng xưng là Phật Đà Ba Lợi, dẫn Sư cùng vào chùa Thánh (nói rõ trong chuyện Ngài Giác Cứu).

Đến Đầu tháng 12, Sư vào đạo tràng niệm Phật của Viện Hoa Nghiêm tại chùa Hoa Nghiêm, tuyệt thực làm kỳ hạn, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Đến đầu hôm ngày mùng 7, trong lúc đang niệm Phật, Sư lại thấy một vị tăng vào Đạo tràng, bảo Sư rằng: “Ông thấy được cảnh giới ở núi Ngũ Đài, vì sao không nói?” Nói xong liền biến mất. Sư nghi vị tăng đó cũng định không nói. Hôm sau, vào giờ Thân, cũng trong lúc đang tụng niệm, lại thấy một vị Phạm tăng, tuổi chứng tám mươi, đến nói với Sư rằng: “Sư thấy được cảnh giới linh dị ở núi Ngũ Đài, sao không truyền bá chỉ bày cho khắp chúng sanh biết, giúp cho những người thấy nghe phát tâm Bồ-đề, gặt hái được lợi lạc lớn lao ư?” Sư nói: “Thật không có tâm niệm che dấu bí ẩn về Thánh Đạo, chỉ sợ người sanh nghi phỉ báng. Vì thế nên không nói”. Vị Phạm tăng ấy bảo: “Đức Đại Thánh Văn-thù hiện tại núi này còn vời sự phỉ báng, huống gì cảnh giới mà ông thấy được, chỉ khiến chúng sanh những người thấy nghe phát tâm Bồ-đề làm duyên trống độc”. Sư nghe lời ấy rồi bèn tùy sự nhớ biết mà ghi chép lại.

Bấy giờ vào niên hiệu Đại Lịch thứ 6 (771) vào tháng giêng, có Sa-môn Thích Tuệ Tùng ở Giang Đông cùng các Sa-môn Sùng Huy, Minh Khiêm… hơn ba mươi vị ở chùa Hoa Nghiêm, theo Sư đến hang Kim Cương, đích thân gần chỉ bày viện Bát-nhã, dựng trụ đá để ghi dấu. Khi đó cả đồ chúng thành tâm chiêm ngưỡng. Buồn vui chưa thôi, bỗng nghe có tiếng chuông, âm vang êm ái, tiết giải rõ ràng, cả chúng đều nghe, rất đối kinh dị. Xét những điều đã thấy thật không luống dối, nên viết lại trên vách thất, khiến khắp mọi người thấy nghe đều phát tâm cao quý, cùng cầu Phật tuệ. Từ đó về sau, Sư lại y cứ vào chỗ chùa Trúc Lâm hóa hiện đã thấy mà xây dựng một ngôi chùa trang nghiêm rực rỡ và lấy hiệu là “Trúc Lâm”.

Lại nữa, đến ngày 13 tháng 9, niên hiệu Đại Lịch Thứ 12 (777) Sư cùng tám vị đệ tử ở Đông Đài, đôi ba phen thấy ánh sáng mầu trắng, kế đến có mây lạ kéo đen nghịt. Trong mây mở thấy ánh sáng năm mầu soi suốt thân mình. Trong ánh sáng ấy lại có vòng sáng mầu hồng, Bồtát Văn-thù cưỡi sư tử lông mầu xanh, cả chúng đều thấy rõ. Kế đến có tuyết mịn rơi xuống và vòng sáng năm mầu phủ trùm cả hang núi. Các đệ tử cùng thấy với Sư như Sa-môn Thuần Nhất, Duy Tú, Quy Chính, Trí Viễn, Sa-di Duy Anh, Ưu-bà-tắc Trương Hy Tuấn, v.v…

Sau, Sư dốc lòng bền chặt, tu luyện không bỏ thiếu, và không rõ về sau Sư tịch ở đâu! Ráng Châu Binh Duyện Vương Sĩ chiêm thuật lại bài ký chùa Thánh.

Liên hệ thử bàn:

Các Đức Phật thành tựu ba thân hẳn ở ba cõi nước. Hiển bày chánh báo, y báo trang nghiêm, Bồ-tát chưa thấm tên cõi nước mà chỉ gọi là trụ xứ, tu nhân làm thanh tịnh cõi nước Phật, tùy sanh vào nhà Phật. Nên trong kinh Hoa Nghiêm có phẩm nói về “Trú xứ của Bồ-tát “. Kinh Bát Tự Đà-la-ni chép: “Đại nguyện lực của Bồ-tát Văn-thù cùng Phật đồng cảnh giới”. Cảnh giới thanh tịnh thì nói Pháp thanh tịnh, cho nên ba cõi nước nghĩa ngang nhau.

Có người hỏi rằng: “Trong các kinh nói Phật trụ tại thành VươngXá v.v… há chẳng phải là trú xứ ư?” Thông đáp: Ở đây nghĩa thì đồng mà tên gọi thì khác nhau. Hoặc có thể là trên đạt được kiêm luôn cả dưới. Lại như cung viện Đâu-suất là Tịnh Vực của bổ xứ. Các núi Bảo Đà Lạc, Thanh Lương, Chi Đề v.v… đều là những cõi nước do tịnh thức của các vị Bồ-tát biến hiện ra. Như vậy thì Tịnh Độ và trú xứ nghĩa đồng mà tên khác. Như chỗ Ngài Pháp Chiếu vào chùa Thánh Trúc Lâm được trông thấy Bồ-tát Văn-thù là tịnh cảnh. Ngoài ra như các chỗ khác tới đỉnh núi thấy ông lão và hai đứa trẻ, v.v… là uế độ được trông thấy bậc Thánh.

5. Truyện ngài Thường Ngộ ở Bí Ma Nham, thuộc núi Thanh Lương, thời Tiền Đường:

Thích Thường Ngộ, họ Âm, người ở xứ Uyển Dương. Xuất gia tại chùa An Tập ở Yên Bắc. Bụng dạ Sư phóng khoáng, đạo mạo thanh bạch cao kỳ. Sư ẩn dật nơi chốn lâm tuyền, lánh thoát thanh danh lợi lộc.

Niên hiệu Đại Trung thứ (80), Sư chống tích lìa đất Yên, một mình dấn bước đang lúc gió tuyết lạnh rét, ngàn dặm vượt qua năm non, đến giảng đường Bồ-tát ở chùa Hoa Nghiêm, chiêm ngưỡng tôn dung Bồ-tát Văn-thù. Xả thí ngón giữa tay phải, dùng mỡ thơm rót vào lửa nóng mà đốt. Ánh sáng vượt cao soi suốt nửa ngày mà sắc mặt Sư vẫn an nhiên. Kế đến, Sư đi khắp các Thánh cảnh trước sau trọn hai năm. Những điềm lành tướng tốt Sư trông thấy không thể ghi lại hết. Sau, Sư đến Tây Đài gặp một Thánh tích xưa đề là “Bí Ma Nham”, là nơi Bồ-tát Văn-thù hàng phục rồng. Sư cúi đầu trong chốc lát, bỗng thấy mây nhẹ ánh sáng mầu vàng rực rỡ lóe mắt, dần phân thành tường ngắn phương thế như thành, tất cả đều là thế giới vàng ròng. Hóa sự vừa xong, Sư bèn hỏi về chỗ đó, có một vị tăng bảo rằng: “Đó là chỗ các cổ đức thường dừng ở, nước tặng hiệu là Kim Quang Chiếu Đại Sư. Danh tiết cao vợi, thần dị chẳng thể lường, ghi chép đồ ký mọi người đều chiêm ngưỡng”. Sư buồn vui lẫn lộn cảm động thời gian lâu mà chẳng thôi, bèn cất am ranh ở đó, tẩy rửa lo nghĩ, gạn lọc tinh thần. Sư nhập Tam-ma-đề thường mỗi lần là bốn mươi chín ngày. Chim bày mưa hoa, người nhóm mây hương, phẩy cao tay áo, vén y phục đến quy y đông như chợ. Sư bèn xây cất miếu Phật tăng phòng, suốt mười bảy năm chẳng xuống núi. Hằng ngày đem chín hội Tạp Hoa, năm bộ Đẳng Pháp, ngoạn thưởng Pháp vị, thời khóa tinh cần, chẳng để tấc bóng luống không. Sư hiểu rõ Thánh lực ngầm thông, Đạo vượt cảnh phàm, sự hoặc lễ hỏi, chủ trương khác chẳng tìm, các hàng sĩ thứ ảnh hưởng tựa nương khắc niệm như Thánh.

Mãi đến cuối thời vua Ý Tông (87) Sư sửa đổi khuôn phép cũ. Hoặc vỗ tay lớn, hoặc gỗ đá phát tiếng lạ, giống như thọ Ký của Thường Bất Khinh, đồng như giả vờ khờ dại của Sở Khách, đến lúc họa phát, ở trung nguyên giặc cướp giao thẳng san bằng, vất bỏ cung hồ loạn lạc mông trần. Nhân đó xét lời Sư nói rất khế hợp. Bấy giờ, gặp lúc Hà Đông Võ Hoàng từ xa nghe chân đức đến núi rất kính tin. Qua tháng , niên hiệu Văn Đức thứ nhất (888) sai Thứ Sử Hiến Châu là Mã Sư Tố truyền ý muốn thỉnh mời, Sư nói: “Ân sủng trong đời là phù hoa, vì sao lụy đến tôi như vậy ư?” Và kiên trì chống cự, xa bày xác thực chẳng dời đổi. Đến ngày 18 tháng 7, năm đó, Sư gọi đệ tử đến bảo rằng: “Các ông nên giữ gìn giới luật, khéo sống những ngày còn lại. Ta cùng các ông quyết biệt!” Nói xong, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi mốt hạ Lạp. Môn nhân là Thái Văn v.v… buồn thương nghẹn ngào. Tới ngày 18 tháng niên hiệu Long Kỷ thứ nhất (889) trà-tỳ, thâu nhặt được mấy mươi viên xá-lợi. Văn Công kiên trữ hiếu tư, biểu dương xây dựng linh tháp, ngậm buồn vào ra tìm đến Thiên Phủ, Võ Hoàng ban tặng thêm v.v… Văn Võ tôn sùng, Mục thủ các Châu như Lam Hiến, v.v… lệ khắc thanh bổng, hổ trợ nhân tốt, kiến tạo mộ tháp. Đến ngày 2 tháng 9 là xây xong gò tháp.

6. Truyện ngài Vĩnh An ở phủ Thành Đô thời Tiền Đường:

Thích Vĩnh An, người ở xứ Hồng Nhã, thuộc My Châu. Thân hình Ngài nhỏ thó, sắc mặt đen sạm, nói năng thô lỗ mà thức lượng khoan thứ. Đại khái là không thể lường được.

Tháng 3 niên hiệu Đại Trung thứ 8 (867), Sư đến thành đô, tới yết kiến phủ Soái Bạch Công Mẫn Trung xin tấu trình biển ngạch chùa, Sư dùng túc bạt My dư mà đến, mọi người đều chưa từng thấy, Ngài bước lên nhà xí mà tiểu tiện. Nên người thời bấy giờ gọi Sư là “Vô Lậu Sư” và an trí Sư ở chùa Thánh Thọ, trong mười ngày Trung Lệnh sai năm, sáu vị tăng ngày đêm cùng nhau gìn giữ mà dò xét. Trong ngoài ăn uống với người thường, không giải y mà đi, bỏ ý hai hàng, tỏ rõ sự tích chứa của mười ngày. Đại tiểu tiện nơi nào rốt ráo không thể biết. Tư Đồ Bạch Công tấu trình biển ngạch. Đến ngày Sư bèn giã từ My Bộ. Phán quan Lư Cầu thấy thế cho là Sa-di nhỏ. Có người bảo: “Sư ấy tuổi đã ngoài tám mươi vậy!”

Liên hệ thử bàn:

Người dân xứ Thục cho rằng Ngài Vĩnh An là Vô Lậu Sư là chẳng đúng. Hễ dứt phiền não, thì chẳng còn tùy tăng, nên không bao giờ gieo trồng, chứa nhóm, mới gọi là Vô Lậu. Nay sự thừa thải của thức ăn uống kết quy về chín lỗ bài tiết. Ngài Vĩnh An dừng hai lỗ chẳng lưu xuất. Trong Luận Du-già chép: “Không có phần bức não bên trong, nhưng vị thứ ấy nhẫn trú khó biết. Ăn nếm như thường, do duyên gì chẳng lưu xuất ở hai lỗ bài tiết. Về Quán, trong Luận Đối Pháp nói có Thanh Tịnh

Y chỉ Trụ, thực là thực hiện hai thứ, y chỉ trụ thực thì đó là La-hán và Bồ-tát, chư Phật vậy. Nếu thế thì Ngài Vĩnh An là thị hiện y chỉ trú thực. Tuy ăn mà chẳng ăn, cặn bả uế đục làm sao sanh? Cho nên, dùng chánh danh để gọi thật thể của Sư.

7. Truyện ngài Tuệ Văn trụ chùa Linh Thạch ở Cù Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Văn, người xứ Tín An, Sư thường khuyên đàn việt tu tạo phước nghiệp là trên hết. Sư từng nói: “Chưa dự được Thánh vị, còn trôi lăn trong năm đường, nếu không có phước lấy gì nương tựa”. Ngài từng ở Cốc Giang chú đúc tôn tượng thân vàng trượng tám. Trong Châu quận chưa chấp thuận đồng từ đâu có. Sư lại bảo: “Chờ đợi bảy đại thí chủ”. Tự nhiên có hai vợ chồng ở huyện Thanh Khê đem cái gương đến xả thí. Sư chú nguyện cho họ rằng: “Cái gương cổ này lúc chú đúc nếu nằm ngay trước tim Phật, ấy mới là sự chí thành phát tâm của hai vợ chồng”. Đợi đến lúc rã khuôn tượng, quả nhiên gương kia nằm ở ngực tôn tượng Phật.

Ngài lại từng đến Dự Chương khuyến hóa, quyên được vài dật vàng ròng, bỗng gặp giặc muốn cướp lấy. Trong lúc gấp rút Ngài bèn ném vàng xuống nước và nói rằng: “Sợ tổn mất ruộng phước của quân tử, xin tự mò lục mà thả tôi”. Sư đi rồi, bọn giặc lặn hụp xuống dưới nước tìm cầu mà không được. Khi Sư về tới Châu thì vàng đã thầm ở trong phòng viện. Như người làm việc nặng nhọc dùng thợ chẳng lánh cơ hiềm. Được vật thấy nhiều, sư nắm cá xỏ suốt cho các người thợ. Lại ở đường núi có hổ báo, Sư gặp nó, bèn lấy gậy gõ vào đầu nó bảo: “Ngươi chớ hại người. Ta tạo công đức sao chẳng đến kết duyên?” Ngày hôm sau, hổ ngậm con heo đồng đến bỏ trước mặt Sư rồi chuôi đuôi mà đi. Phàm Sư đề cử làm việc gì thì đều thành tựu. Mọi người quy hướng kính tin như dòng chảy. Sư thường hiển hiện lắm điều kỳ dị.

8. Truyện ngài Vô Lậu trụ hạ Viện Linh Võ ở Sóc Khương, thời Tiền Đường:

Thích Vô Lậu, họ Kim, là con thứ ba của vua nước Tân-la. Tại bổn thổ dùng địa cư ấy Đích Trưởng, sắp lập Trữ Phó, mà Sư từ thuở bé đã kính mến sự khiêm nhường của Diên Lăng, nên nguyện làm Thích Ca Pháp Vương Tử. Bèn trốn nương thuyền biển đi đến Trung Hoa. Muốn tới năm xứ Ấn Độ đảnh lễ tám tháp thờ Phật. Sư đã qua sa mạc, vượt đến Vu-điền, ở phía Tây sắp đến thành cổ ở Thông Lãnh, vào trong Đại Già-lam. Trong đó các Tỳ-kheo đều là những vị tăng không thể suy lường, hỏi Sư rằng: “Ý của hữu lậu thường đến, chưa có kỳ tiết mà đến Thiên Trúc?” Có vị tăng bảo rằng: “Xưa ghi vô danh chưa thể liền đi. Tại đây có ao rồng dữ, hãy đến đó giáo hóa, nếu có ứng nghiệm mới có thể chóng vượt”.

Sư theo lời thỉnh mời đó, bèn đến nơi bờ ao, chỉ thấy một chiếc giường người Hồ, Sư bèn ngồi. Đến lúc đêm sáp hết, bỗng nhiên sấm sét vang dậy, quái vật nhả khí, bồng bột các thứ biến hiện làm lóa mắt bất thường. Sư nhắm mắt không nhúc nhích, thí như cây gỗ đứng chót vót, làn gió nhẹ có thể làm khuynh động ư? Gìn giữ giây lâu, có con rắn lớn trương đầu lên đùi vế Sư, Sư rất thương tưởng nó nên trao cho pháp ba Quy y rồi nó bò đi. Nó lại hiện hình ông lão đến cảm tạ, thưa rằng: “Được Sư độ thoát, nghĩa không ở lâu, ba ngày sau tôi sẽ xả bỏ y báo đau khổ của loài lông vảy, được sanh về nơi tốt lành. Từ đây di về phía Nam có một tảng đá lớn, đó là chỗ đệ tử xả bỏ thân hình, cũng mong Sư khi rảnh rỗi có thể sang tìm nhặt hài cốt cho”. Sau, thấy thân nó lớn dài ngã trên tảng đá, tăng chúng trong chùa đều thầm lặng mà hứa thuận. Lại nói rằng: “Người cầu nguyện sang Thiên Trúc, ở đây có Thánh tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, cầu nguyện không luống ứng, nên hãy đến khẩn cầu. Nếu được điềm lành thì nên đi, chớ nghi ngờ”. Sư bèn đến đứng trước thánh tượng nhập thiền định suốt bốn mươi chín ngày, thân bị bịnh hư thủng, song không nghiêng tựa. Chợt có một con chuột nhỏ như viên đạn gặm vỡ ngang chân trái Sư, nước mủ mầu vàng tuôn chảy chừng vài đấu mà lành. Đến lúc mản hạn, Sư có được điềm ứng. Chúng tăng nói với Sư rằng: “Thấy Sư hóa duyên hợp tại đất nhà Đường (Trung Hoa), tâm còn hóa vật lợi ích lớn nhiều. Chân nỏi mệt mà du phương không thêm sự thấy nghe, chẳng nên gượng hóa. Dó là điều Sư đáng biết vậy”. Trong ý Sư cho đó là lời của Thánh Hiền hẳn không nói khống. Lúc sắp đi lại bảo với Sư rằng: “Gặp Lan thì trụ”.

Trên đường trở về có một ngọn núi tên là Hạ Lan, Sư mới nhớ lại lời dự ghi trước, bèn vào trong đó, có được hang cốc cỏ trắng, Sư liền kết cỏ dựng am mà ở. Tự nhiên, binh lính An Sư nổi loạn ở Lưỡng Kinh phản đảng. Vua Huyền Tông bèn đến đất Thục, Túc Tông huấn luyện binh lính Linh Võ. Vua thường mộng thấy một người thân mầu vàng ròng xưng niệm danh hiệu Phật Bảo Thắng ở trước ngai vàng. Hôm sau đem việc trong mộng hỏi người hầu cận. Có người trả lời rằng: “Có vị Sa-môn mà không biết rõ hành trạng, tung tích hiện ở tại Bắc Sơn, và thường tụng niệm danh hiệu Đức Phật ấy”. Vua Túc Tông mới tuyên cáo thỉnh mời, nhưng Sư không xuất định. Vua bèn bảo Sóc Phương Pháp Nguyên Soái Trung Thư Lịnh Quách Tử Nghi gần gũi sang dụ thỉnh Sư, Sư bèn chấp nhận đến. Vua trông thấy Sư liền nói rằng: “Thật là người thấy trong mộng!”. Đến lúc Yết Lỗ bình yên, Thúy Hoa bình phục, Vua thỉnh Sư an trú trong nội tự, thiết lễ cúng dường. Sư xem như khỉ khinh khóa vàng, chim chán lồng chạm, nhiều lần Sư dâng biểu trình bày muốn trở về chỗ ẩn cũ. Trong tâm vua rất quyến luyến mến trọng nên đáp chiếu muốn Sư ở lại thêm một thời gian, chưa dược toại nguyện trở về núi, thì không bao lâu Sư đã thị tịch. Một ngày nọ, trên cánh cửa phải của nội cung, Sư hóa hiện thành hai chân, thân hình cách hỏng đất chừng vài thước. Quan lính giữ cửa lên tấu trình, vua liền cưỡi kiệu bộ đích thân đi đến chỗ đó, thấy được di biểu của Sư xin đưa về an táng dưới núi, nơi Sư ẩn cư ngày trước. Vua liền y cứ theo đó. Mọi sự trong lễ tang đều do các quan lo liệu cung cấp. Vua mới truyền bảo môn phiến thiết đặt lễ điện, sai Trung Thứ Giám Hộ, Hàm bộ đưa dẫn.

Trước kia, Sư hành hóa phần nhiều là ở huyện Hoài Viễn, nhân đó mà thiết đặt dinh sở, gọi đó là Hạ Viện, lễ tang đến đó, thần tòa không thể giở lên được, mọi người bàn với nhau dời vào an trí trong nhà riêng. Lúc đó nhằm niên hiệu Thượng Nguyên thứ 3 (762). Đến nay, chân thể Sư vẫn an nhiên không biến hoại. Trong chỗ Sư nằm là cửa cấm, là chỗ hiện điềm ở đương thời, hiện nay vẫn còn.

9. Truyện ngài Bảo Đạt trụ chùa Linh Ẩn ở Hàn Châu, thời Tiền Đường:

Thích Bảo Đạt, không biết Sư là người xứ nào, Sư ẩn cư tại danh sơn, cao lớn đạo vọng, hiệu là Sát Lợi Pháp Sư. Sư thường xuyên hành trì Mật chú. Trong phòng viện của Sư có sàng giường Ấn Sa và gương chiếu Phật.

Sư đến Chiết Giang, gặp lúc gió to sóng lớn, làm hại rất lớn. Khi triều dâng lên thì sóng bắn lên các núi trên Kim Hồ. Sư buồn thương cho cảnh đất dâu mè đều biến thành sông, bèn trì tụng chú để ngăn cản bớt tai họa bởi sóng thần. Đêm dó giữa cơn sóng dữ dưới sông có một người to lớn, đội mũ cao đen, mặc áo mầu đỏ dẫn theo tùy tùng rất đông mà đến, thưa với Sư rằng: “Đệ tử là Ngô Ngũ Viên, báo thù rửa hận, chẳng phải người khác. Với từ tâm vì vật của Sư, đệ tử đã vâng mạng!”. Nói xong liền biến mất. Sáng hôm sau, chúng tăng trong chùa lấy làm lạ hỏi rằng: “Đêm qua có tiếng náo động xe ngựa là của ai đến vậy?” Sư bèn kể lại đầu đuôi sự việc ấy. Sư có sự thầm cảm thần lý phần nhiều đồng loại như vậy. Từ do ở bờ phía Tây cát đất bồi đắp, chỉ chừng một năm trả lại sự gieo trồng ích lợi cho bá tánh. Bấy giờ, mọi người cùng khen ngợi Sư hợp nhiên mà phô diễn sự hoằng hóa. Về sau, không biết Sư mất ở đâu.

Liên hệ thử bàn:

Giường Ấn-Sa là gì? Thông đáp: Kẻ sĩ có Đạo ở nơi núi rừng hẳn chẳng có đồ vật quý báu, nghi là dùng cát sông theo khuôn phép khéo léo tạo thành giường. Gương chiếu Phật là gì? Thông đáp: Tức gương đèn vậy. Vì vào khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (78 – 80) có Lục

Hồng Tiệm nhiều lần đến núi ấy ghi chép, ghi lại về Sư Bảo Đạt tiết kiệm mà dụng tâm điều độ.

10. Truyện ngài Ẩn Phong trụ núi Bắc Đài ở Đại Châu thời Tiền Đường:

Thích Ẩn Phong, họ Đặng, người ở xứ Thiệu Võ, thuộc Kiến Châu. Thuở bé Sư ngu độn, chẳng vâng lời cha mẹ. Sau khi xuất gia thọ giới, Sư bắt đầu du phương tham quán. Được Thiền Sư Nam Tuyền ở Trì Dương bảo lấy bình tắm, đề cử tương ưng mà được Nguyện Công chấp thuận. Về sau Sư nối Pháp Thiền Sư Mã Tổ!

Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821), Sư nói đến núi Ngũ Đài, xuất phát ra đi từ Hoài Tây, gặp phải Ngô Nguyên Tế cậy binh lính chống cự Vương mạng, quan quân giao nhau với giặc, đánh nhau chưa phân thắng bại. Sư nói: “Ta phải đi hóa giải sự giết hại ấy!” Bèn ném tích trượng giữa hư không, phi thân nhiễm nhiễm tùy đi qua giữa hai bên quân trận. Chiến sĩ mỗi người thấy vị tăng bay qua bất giác rút mác cho vào vỏ, thế rồi, Sư vân du khắp các xứ linh tích, tình cờ đến trước hang Kim Cương, chổng ngược thân mình mà thị tịch, dong dõng tự nhiên, thẳng đứng như cây trồng. Khi đó, mọi người bàn với nhau đào một linh huyệt trước rồi khiêng vác đến mà thiêu đốt, nhưng nhục thân Sư an định như núi, dốc hết sức lực mà chẳng lay động. Xa gần mọi người đến chiêm ngưỡng, trông thấy kinh hãi mà khen ngợi ly kỳ. Sư có người em gái xuất gia làm Ni đi đến Ngũ Đài trừng mắt quát rằng: “Lão Huynh! ngày trước làm điều chẳng theo luật pháp, đến lúc chết còn mê hoặc mọi người. Bây giờ mọi người đều đã biết. Em tuy là cốt nhục nhưng đâu dám kéo dắt sai lầm ư! Xin theo lẽ thường vậy!”. Rồi đưa tay đẩy nhẹ tự nhiên nhục thân Sư ngã té, bèn trà-tỳ và thâu nhặt xá-lợi mà nhập tháp. Đề hiệu là “Đặng Ẩn Phong” có để lại một bài tụng rằng:

“Độc huyền cầm tôi vì anh gảy
Thông bách xanh hoài chẳng sợ lạnh
Vàng khoáng hòa nhau tánh tự khác
Tùy hướng trước anh thử lấy xem!”

Liên hệ thử bàn:

Người chết thây nằm xếp chân là việc đồng nhất. Đứng mà quá vãng, ngồi mà xả thân, đó là người tu tam-muội. Ở đây, Ngài Ẩn Phong, đầu chống đất dầy, chân đạp trời xanh, trái với lý thường nên khó lường biết. Người ấy mà chẳng lường được, như đây đặt ngược, xưa nay một người. Và cô Ni, em gái của Sư đưa tay đẩy nhẹ mà ngã xuống bình thường, là lời thóa mạ của nữ ty. Công năng như huyễn, chước hay khéo lớn. Hoặc có người nói: Binh lính của Hoài Tây, Đường Thư sao chẳng ghi chép việc Ngài Ẩn Phong ném bay tích trượng giải trừ chiến trận ư? Thông đáp: Tiểu thuyết lưu truyền hoặc được sự thật. Cho nên chỉ một quyển Kinh Xuân Thu mà năm nhà làm, sử truyện há là đồng nhau?!

Kế nữa, có Ngài Thích Vong Danh trụ chùa Khai Hóa ở Hán Châu. Trước tiên nhân vào chùa thấy được điềm lành ứng hiện giao nhau, bèn phát nguyện xả thân chịu khắc khổ làm kỳ hạn. Ở trong Chánh Điện, Sư lần lượt đốt hương, bỗng thấy đất giữa nền thất đều mầu lưu ly, có vị Bồ-tát nương mây năm mầu giáng xuống sân, bảo Sư rằng: “Sư rất bền chí, trong vòng ba năm sẽ đắc Đạo. Ta cầu chứng cho Ông”. Ngài liền cúi đầu lẽ bái, trong khoảnh khắc bèn không thấy nữa. Tăng chúng trong chùa đến nói rằng: “Trong học viện đều biến thành mầu lưu ly!” và khen ngợi không thôi. Chư tăng ở đó lại chuyên cần tiết chế khổ hạnh.

Lại có vị tăng vong danh ở Đặng Châu, tuổi đã già suy, thường du hành quanh vùng Đặng Châu thuộc đất Nhưỡng. Hằng ngày, Sư ăn thịt hai con chim cưu, Tăng tục đều chê bai, Sư không hề lánh né. Có lần Sư đang ăn uống ngon lành, có một bần sĩ đến xin ăn, Ngài liền tách hai chân của con chim cưu đưa cho người ấy cùng ăn. Ăn xong, Sư súc miệng, hai con chim từ trong miệng Sư bay ra, một con thì đi được, còn một con lăn lóc trên đất, kẻ bần sĩ đó cũng kinh ngạc quái lạ, bèn ói ra thì hai chân con chim cưu hoàn toàn bình phục như cũ, vị tăng ấy thật chẳng ăn thịt chim ấy. Từ đó, mọi người đều sùng kính tôn trọng, gọi Sư là”Nam Dương Trĩ Cưu Hòa-thượng”.

Có người khen ngợi Sư rằng: “Xưa kia Xà-Lê Hương ở núi Thanh Thành uống rượu ăn thịt. Nhưng sau ói nhả toàn thịt gà dê, đều hóa thành nguyên hình, bay nhảy kêu hót mà chạy vào hang huyệt, là đồng.

11. Truyện ngài Tọa Vong Danh ở chùa Lương Sơn thuộc Phủ Hưng Nguyên, thời Tiền Đường:

Thích Vong Danh, không rõ Sư là người xứ nào, ở cách Bao Thành vài mươi dặm, hiệu là Trung Lương Sơn. Vài ngọn núi có màu xanh bất động giữa hư không. Lúc Sư ở Quyết Trung, thì hành vi lạ lùng, nói năng bất thường. Người thường thấy thì chẳng kinh hãi, người mới thấy thì quái lạ.

Bình thường, Sư rất ưa thích uống rượu và ăn thịt, thô trọng công hành, lại cương nhậm việc chúng tăng nhưng thường chiết trung, chư tăng cũng khiếp sợ, gọi Sư là Thượng Tọa. Bấy giờ, trong hàng xuất gia, tất cả đều tập học theo, chỉ Sư là không sợ. Sư xét biết mà lớn lời than rằng: “Chưa trụ tịnh tâm địa, làm sao dám nghịch hạnh? Nghịch hạnh chẳng phải là cảnh giới của các ông!” Vả lại, trong đời thường nói rằng: “Vàng nên dùng lửa để thử”, hãy đợi tôi một ngày, một lúc nào đó thử qua!” Khoảng niên hiệu Khai Thành (836 – 81), bỗng nhiên Sư làm một chiếc bình lớn rồi nhóm họp đồ chúng, bảo rằng: “Ta và các ông di đến rừng Thi-Đà”. Bởi vì núi rừng ở ngoài thành có nhiều mồ mả, chỗ bỏ thây người chết, nên nói như vậy. Sư ngồi xổm dưới đất, mở bình ra, trong toàn là thây chết thối rã, đưa vào miệng liền ăn nuốt, với trạng thái vui vẻ ưa thích. Các vị tăng cùng đi chung đều bịt mũi, thóa nhổ nước dãi dưới đất rồi bỏ đi. Sư lớn tiếng gọi rằng: “Các ông hãy ăn thử thứ thịt này mới nên ăn thứ thịt khác!” Từ đó, các hàng xuất gia đều cảnh ngộ, Sư cảm hóa họ trở thành tinh tấn, xa gần thảy đều quy y kính tin. Bấy giờ, có Hữu Bộc Xạ Liễu Trọng Trình trấn nhậm tại Lương Phủ thường qua lại gần gũi lễ trọng.

Lúc thị tịch, Sư khoảng tám mươi chín tuổi, chân ảnh hiện vẫn còn ở chùa Núi. Đến nay, các xứ Lương Ích, Tam Phủ v.v… chỉ gọi Sư là Hưng Nguyên Thượng Tọa. Tông tích kỳ dị chẳng ít, không thể nói rõ hết được.

Liên hệ thử bàn:

Thượng Tọa (Vong Danh) ban đầu thì như thế mà giáo hóa. Sau thì mọi người đều bắt chước the. Không hề biết người chứng quả, trái ngược với sự hoằng hóa mọi vật nhưng trọn đều là làm Phật sự, lấy đó mà cảnh tỉnh người chưa nảy mầm, cho nên nếu quy về điểm thật, thì đó là như trong Đối Pháp Luận nói các vị Bồ-tát oai đức thị hiện thực lực trụ nên vậy. Nếu có người vọng bảo là đắc quả, trường hợp nầy khác gì loài dã can (chó sói) kêu sủa mà bắt chước sư tử gầm rống ư?

12. Truyện ngài Văn Sảng, trụ chùa Sùng Phước ở Thái Nguyên, thời Tiền Đường:

Thích Văn Sảng, không rõ Sư họ gì và người ở xứ nào. Sư sớm hiểu cõi trần, là ràng buộc quyết mở lưới ái, theo thầy học Đạo. Sư tự nhiên chẳng ngủ, giả sử có đau khổ rất lắm cũng chỉ ngồi kiết già. Đó là hành hạnh trường tọa đầu-đà.

Sau, một mình Sư ẩn cư ở vùng Khâu Lũng, trời mưa dầm suốt tuần, bên cạnh không có thị giả hầu hạ. Có con rắn vào trong tay Sư nằm cuộn tròn. Lúc đó, có người thỉnh Sư chứng trai, cảm thấy quái lạ sao tới giờ mà Sư không đến. Người dó lại đến thỉnh Sư, thấy rắn như thế bèn sợ hãi thất thanh. Rắn bèn từ từ bò xuống. Người đó cố thỉnh Sư sang chứng trai, Sư từ khước bảo là quá giữa ngày rồi không ăn. Cuối đêm gần đến sáng hôm sau, có một con chó sói nhe răng há mồm nhảy nhót, hình trạng như muốn ăn nuốt lấy Sư, Sư xót thương nó đang bị lửa đói thiêu đốt. Lại tự nghĩ rằng: “Đãy thân hình dơ uế này ta không nên luyến tiếc, xả thí cho nó một bữa ăn ngon. Nguyện ta chóng được thành tựu thân bền chắc, và người thọ nhận sự xả thí của ta cùng đồng trở về thiện hội!” trong chốc lát, con chó sói ấy bèn chuôi tai mà đi. Đến ngày Sư thị tịch, giữa hư không có tiếng chuông khánh xen nhau, thời gian rất lâu mới dứt. Môn đồ và mọi người trong làng cùng nhau nhóm họp đón rước an táng. Ngày đó, có mấy mươi lá phướn che rợp giữa hư không, dẫn dường đi trước, có mùi hương thơm lạ xông khắp, cả chúng đều buồn than như mất nơi nương tựa.

13. Truyện ngài Bổn Tịnh trụ chùa Bảo Phước, ở Phước Châu, thời Tiền Đường:

Thích Bổn Tịnh, không rõ Sư là người xứ nào. Ngài có đạo khí cao sáng, người thấy cung kính. Nghe tại xứ Mân Lãnh có nhiều trí thức Thiền tông, nên Sư đến khắp tham vấn. Lại nghe núi Hoắc Đồng ở huyện Trường Khê có lắm động phủ thần tiên, là chỗ trong kinh gọi là Bồ-tát thiên quan nhiếp lãnh đồ chúng cư trú ở đó nói Pháp biển tánh Hoa Nghiêm. Những người hái củi thường được nghe thấy điềm lành như nhạc trời, hương lạ, chim thú, nhưng trong núi chẳng dung chứa kẻ phàm xấu ác, nên phần nhiều lại bị đuổi ra khỏi. Sư vào núi kết cỏ làm thất. Ở đó có một động đá gọi là hang độc, Sư sống cạnh hang đá. Có con rồng ở đó thỉnh thoảng bò ra, biến hiện bất thường. Sư bèn gọi nó mà răn bảo để thuần quen. Lại có các hổ dữ chặn đường làm hại, người hái củi không dám vào sâu. Ngài gõ vào đầu nó răn bảo dặn bò, xong, nó chuôi tai mà di. Có lần trong đêm thanh vắng, có chín người khăn mũ quấn kín đến xin nghỉ lại qua đêm. Sư đều bằng lòng cho ở lại trong am thất. Đến sáng cáo từ, cả 9 người đều hóa thành chim hạc kêu hót vang giữa hư không mà đi. Không biết về sau Sư tịch ở đâu.

14. Truyện ngài Pháp Giang, trụ chùa Pháp Tụ, ở phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:

Thích Pháp Giang, người xứ Giang Đông, vân du đến chùa Pháp tụ ở Mân Thục. Chùa đó do Thục Vương Tú xây dựng vào đời Tùy. Trong chùa có tháp Xá-lợi do vua Văn Đế (Dương Khiêm) xây dựng vào niên hiệu Nhân Thọ (601 – 60, đời Tùy). Sư lấy tâm từ thương xót làm bổn hoài, biết được nhiều điều trái ngược, nhưng sự việc xảy đến thì không chút sai lầm. Sư từng ở trong phòng, bảo với môn nhân rằng:”Ở ngoài có hơn muôn người đều đội khăn, thân hình lại bị co quắp đang tìm đến ta để xin cứu giúp. Ông mau ra cửa mà đón rước”. Người đệ tử ấy ra tìm xem chẳng thấy người nào, lấy làm quái lạ sao lời thầy nói mà lầm loạn như thế. Đợi chốc lát, có mấy mươi người mang vác đồ vật bằng vành tre trong đựng đầy ốc đi đến. Sư bảo: “Họ đã đến rồi!”, bèn bảo đem tiền mua chuộc lấy và thả xuống sông.

Kế nữa, ở Trường An có chùa Đại Hưng Thiện vốn là chùa XáVệ đời Tùy. Đến niên hiệu Tiên Thiên (712 – 713) thời Tiền Đường, chùa bị lửa thiêu đốt, điện vũ cháy sạch chỉ còn lại nền móng. Đến niên hiệu Minh Khánh có Đạo sĩ Lý Vinh ở Đông Minh Quán, vốn người xứ Ba-tây, khéo giởi việc bạc đồ, thường cùng chư tăng tranh hơn thua. Lý Vinh đến Huyền Đô Quán, nhân dẫn các Hoàng Quan chỉ vào đống tro tàn mà diễu cợt rằng: “Nói thiện mà không hề thiện, nói hưng mà lại chẳng hưng. Như Lai cháy rụi hết, chỉ còn một nhóm tăng”. Trong tăng chúng có người tức giận dị tông chê bai như thế, bèn gấp chiêu mộ khuyến hóa xây dựng kết cấu mới lại rộng lớn hơn trước, có đến mười hai mẫu đất. Hóa duyên tuy ngày một hưng thạnh, đầy ngàn vạn mà chưa thể thành. Tăng chúng gãi đầu trù trừ chưa biết giải quyết cách nào để chóng hoàn thành! Bỗng nhiên có một vị tăng y phục rách rưới hình sắc gầy ốm, mang một chiếc đãy rách đến kết duyên, nói rằng: “Phải sớm xong điện Phật”, rồi đưa chiếc đãy và bước đi. Mở ra xem thì toàn là vàng ròng, cân tất cả có một ngàn lượng. Mọi người lúc đó đều lấy làm lạ, do đó đàn việt ngày một thêm đông đảo, Chánh Điện chóng được hoàn thành.

15. Truyện ngài La Tăng trụ núi Trà Lung ở Cửu Lũng thuộc Bành Châu, thời Tiền Đường:

Thích La Tăng trụ chùa Thục Thánh. Bên trong, Sư là người đã đắc quả vị, có lần bị bịnh nằm ở núi Ngũ Đài, các vị tăng đồng hội đều chẳng thể lường biết, thấy Sư không hề biếng trễ, gần chín tuần thì bịnh Sư lành. Lúc sắp từ biệt, Sư nói rằng: “Thâm cảm nổi niềm đau khổ mà nhọc phiền chăm sóc, nay tôi được bình phục, là do nhờ công sức của các Sư. Tôi ở tại núi Trà Lung ở quận Cửu Lũng thuộc kiếm ngoại. Ngày sau có dịp du phương xin chớ quên ghé thăm!”. Cuối năm vị tăng ấy đến đất Thục, trải qua hỏi khắp các ngọn núi, các người già hái củi 26 đều bảo là “chưa từng nghe tên núi ấy”. Vị tăng ấy mới than rằng: “Ôi! Sự luống dối của người bị bịnh Thiền!”. Khi sắp quay đầu trở lại, thì gặp một đứa bé ở núi bảo rằng: “Tôi là người nhóm cát ở núi ấy”. và liền dẫn đường đi trước. Bỗng chốc thấy điện tháp uy nghiêm, phòng viện hành lang hoàn bị, quả nhiên gặp được vị tăng mắc bịnh ngày trước (La Tăng) đứng chờ đón tại cửa từ lâu, lúc đó trời sắp tối, Sư (Vị tăng mắc bịnh) nói với vị tăng ấy rằng: “Chùa này nếu người chưa đắc Lậu Tận thông thì không đến được. Nhưng vì ông và tôi có túc duyên một lần gặp gỡ”. Vị tăng ấy nói: “Muốn ở lại qua đêm có được chăng?” Sư bảo: “Chưa thể được, ông nên khắc cần tu chứng, đến đây đâu khó gì!” Rồi bảo đứa bé hồi nãy đưa Sư trở về. Vị tăng ấy xoay đầu nhìn lại chỉ thấy vách núi cao vót, sam hội dâu xanh mà thôi. Lúc đó nhằm niên hiệu Khai Thành (863 – 81).

Bấy giờ, lúc Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền soạn truyện gặp được vị tăng rất thông hiểu địa lý, bảo là đất Tri huyền làm về sau là đất an Doanh Triệu, được núi trước cảnh Chu, núi đó hình trạng như bức tường thấp, tuy có cao thấp không đều mà bên trong bằng phẳng. Bỗng chốc có vị lão túc trong xóm bảo là: “Xưa kia tương truyền gọi đó là núi Trà Lung”.

16. Truyện ngài Khế Thử trụ huyện Phụng Hoá ở Minh Châu, Thời Tiền Đường:

Thích Khế Thủ, không rõ Sư họ gì, có thuyết nói Sư là người xứ Tứ Minh. Thân lùn, ngực to, mũi nhăn bụng lớn, nói năng bất thường, ngủ nghỉ tùy tiện. Sư thường dùng gậy mốc mang đầy vải bố vào trong quán chợ, thấy vật liền xin, đến nỗi tương giấm cá cũng bốc nhón lấy đưa vào miệng, dành lại chút ít để vào trong đãy. Người đương thời gọi Sư là”Trường Đinh Tử Bố Đại Sư”. Sư từng nằm trên tuyết mà trên thân không có tuyết. Mọi người lấy đó làm quái lạ. Sư nói kệ rằng:”Di-lặc chân Di-lặc”. Người đương thời đều chẳng hiểu những câu ấy. Có người nói rằng: “Ngài là Đức Từ Thị thùy tích!”. Sư lại lên trên cầu lớn mà đứng, có người hỏi: “Hòa-thượng làm gì đứng đây?” Sư bảo: “Ta đứng đây tìm người”. Sư thường đến người xin nếm thử. Trong quán tiệm thì đều là vật bán, mà trong đãy vải của Sư đều là trăm vị cung cấp thân có dư. Sư chỉ điềm tốt xấu của người thì hiện tướng bày điềm. Những lúc trời nắng gắt thì Sư kéo lê guốc gỗ lên trên chợ cầu, chổng đùi mà ngủ, lúc mưa bão thì Sư mang giầy cỏ, mọi người lấy đó mà nghiệm biết.

Vào khoảng niên hiệu Thiên Phục (901 – 90), Sư thị tịch tại Phụng Xuyên. Dân chúng trong làng cùng nhau lo an táng. Sau ở châu khác lại thấy bóng dáng Sư cũng mang đãy vải mà đi. Ở các vùng Chiết Giang phần nhiều vẽ hình tượng Sư phụng thờ.

17. Truyện ngài Trí Biện trụ chùa Khai Nguyên ở Nghiệp Đô, thời Tiền Đường:

Thích Trí Biện, không biết Sư là người xứ nào. Thuở thiếu thời, Sư rất giỏi giang, lúc lớn lên siêng tu Phạm hạnh. Đối với các kinh luận hễ một lần nghe qua thì liền nhập thần, Sư tuyên giảng ngôn từ rõ ràng lưu loát. Mỗi lúc lên đài tòa tự nói năng siêu tuyệt, nhưng có điều buồn lo là thính chúng không khế hợp căn cơ. Sư đo lường như rót nước vào đồ vật, vật vật chẳng không, buộc ta riêng không, là tội với ý Phật, Sư bèn mang vác hòm sách đi khắp các danh sơn để tìm hỏi các bậc trí giả. Cuối cùng Sư đến chùa Hành Nhạc dừng ở hơn một tháng. Sư thường ở tại trai đường của chùa, lúc nhàn rỗi riêng tự tìm thích nghĩa sớ. Lại tự trách lỗi mình rằng: “Chẳng biết nghĩa giải thích có trái ý Thánh không? Đang suy nghĩ miên man, tình cờ ngẩng đầu thấy một lão tăng đang chống gậy bước đi và hỏi Sư rằng: “Sư đọc kinh luận gì và thấu suốt nghĩa lý gì vậy?” Sư nghi trong danh sơn này, trong dấu vết xe nầy có các bậc La-hán lẫn lộn trong phàm tình, không sao lường biết được, nên bèn tự thuật bổn duyên, nhân đó thêm phần hối trách. Lại thưa rằng: “Kính mong bậc Hiền đạt chỉ dạy, xin hết lòng nghe nhận, khóa buộc miệng lưỡi chẳng còn giảng nói!” Vị Lão tăng ấy cười, bảo: “Sư hiểu biết rộng, há không biết nghĩa đó! Đức Đại Thánh còn không thể độ được người vô duyên, huống gì hàng sơ tâm ư? Sư chỉ vì vô duyên với chúng sanh!” Sư liền hỏi: “Há trọn đời như thế sao?” Vị lão tăng ấy bảo: “Tôi thử vì ông mà giúp kết duyên” Và bèn hỏi Sư rằng: “Nay sư có được bao nhiêu của cải lương thực”. Sư đáp: “Từ Bắc đến Nam rách cả xiêm y giày dép, đã trải qua muôn dặm nên mọi vật mang theo đều hết. Hiện tại tôi chỉ thọ trì Pháp Y chín điều mà thôi!” Vị Lão Tăng ấy bảo: “Chỉ từng ấy cũng được. Hãy nên bán Y, lấy đó đổi vật để làm các thứ cháo nhừ, bánh bột, dầu ăn… Sư nghe lời đó bèn làm, có chừng vài mươi người ăn và cùng đem đến chỗ hoang vắng rải tán bánh bột, đốt hương, quỳ thẳng chú nguyện rằng: Những ai ngày nay thọ nhận sự cúng thí của tôi, xin nguyện đời sau sẽ làm quyến thuộc Phật pháp với tôi, tôi sẽ giáo hóa cho đến thành tựu quả Vô Thượng Bồ-đề”. Sư nói xong, chim quạ đua nhau bay xuống mổ lượm ăn trên đất; dế, kiến, ruồi, sâu nhiều vô số kể. Vị Lão tăng ấy bảo: “Hai mươi năm sau, ông mới nên trở về khai giảng Pháp tịch, nay hãy vân du các nơi, chưa nên giảng thuyết!” Nói xong, liền bỏ đi. Từ đó, Sư càng thêm tinh tấn Đạo lực, chẳng mệt mỏi nghiên mài, nghĩa vị thấm đượm rất nhiều, chỉ khí vẫn tại truyền trao. Hai mươi năm sau, Sư lại trở về Hà Bắc, hoằng hóa hưng thịnh tại Nghiệp Đô, Thính chúng đông đến hàng ngàn người, đều là độ tuổi hai mươi trở xuống, còn người già không có đến vài ba người.

Liên hệ thử bàn:

Trong hiện tại có địa vị cuối cùng, biến dịch khó đổi dời. Sự tu nhân ngày nay chắc chắn vời lấy quả tương lai. Nay ngài Trí Biện nương theo sự chỉ dạy của vị tăng lạ bảo hai mươi năm sau đợi chờ đồ chúng nghe Pháp. Mỗi mỗi đều như lời vị tăng lạ nói. Như vậy thị hiện đời này tu, hiện đời này đắc quả, chẳng phải luống dối. Trong sách Thi nói: “Đợi nước sông trong lắng, người sống thọ bao nhiêu, sắp biết người sống lâu, nước sông trong thường thấy”.

18. Truyện ngài Ninh Sư ở phủ Phụng Tường, thời Tiền Đường:

Thích Ninh Sư, người xứ Kỳ Dương, mất tên hiệu, nên người đương thời dùng dòng họ để gọi người. Sư qua lại bất thường, chỉ có xuất xứ là như bình thường.

Năm thứ nhất khi vua Chiêu Tông mới lên ngôi (889), Sư ở trong chùa Núi. Bỗng nhiên Sư nằm chết giấc, thân thể vẫn ấm nóng, chốc chốc sắp tẩm liệm, tăng chúng vây quanh gìn giữ mà không dám tẩm liệm. Ba ngày sau, Sư sống lại, mọi người lấy làm lạ đua nhau thăm hỏi. Sư kể lại: “Tôi bị Minh Ty dẫn đi. Ban đầu đến gặp một phán quan hỏi rằng: “Hòa-thượng thọ sao không có lộc?” Rồi gọi một vị quan lại bảo cùng xem xét, quan lại nói “chỉ có ba thạch lá sen”. Nhân đó bảo ghi vào sổ sách. Lại bảo một người khác dẫn tôi đi xem khắp các nơi. Mới đi vào một cửa, thấy mấy điện đường, mỗi nơi đều có đề bảng. Tôi dời bước đến một điện đề là “Lý Khắc Dụng”, nhìn qua song cửa thấy một con rồng đen mà mất một mắt, có trụ sắt đứng ở trong khóa, bị trói buộc trong lưới đó. Tiếp theo đến một điện khác đề là “Chu Toàn Trung”, là da xanh trán trắng hổ khóa buộc như trước, mà trước có hình trạng ăn nuốt máu thịt người vung vãi. Tiếp theo đến một điện khác đề là “Vương Kiến”, có giường bằng vàng ròng và một thỏ trắng nằm trên. Tiếp theo lại đến một điện khác đề là”Lý Mậu Trinh”, có đủ thứ mũ mão như vương giả, chung quanh có vài cô gái hầu. Tiếp theo đến một điện khác đề là”Dương Hành Mật”, qua song cửa thấy la liệt đen tối, không thể nhìn rõ. Tôi hỏi sứ giả: Các hình trạng quái lạ ấy là gì?” Sứ giả đáp:”Ấy là vương giả trong tương lai”. Bên trái có vài điện, nhìn vào thấy tối đen. Sứ giả chẳng cho dẫn đến, bèn quay trở lại chỗ cũ. Phán quan tại sảnh bảo sứ giả: “Khéo đưa Sư (tôi) trở về, và sư chỉ cẩn trì tụng nhiều Kinh Công Đức”. Tôi hỏi: “Kinh gì là Kinh Công Đức?” Phán quan đáp: “Đó là Kinh Kim Cương Bát-nhã. Kinh ấy tại cõi tối tăm (minh gian) công lực cứu giúp không gì sánh bằng”. Mãi đến lúc sống lại, nhìn bốn phía giây lâu, và kể lại việc trước. Mọi người nghe kinh hãi bèn truyền đạt đến quan. Hậu Kỳ Soái lấy làm quái lạ cho là to tát xa vời và luống vọng đều chẳng tin.

Sau đó, Mậu Trinh quả nhiên được phong làm Tần Vương, Lý Khắc Dụng uổng lạm giết hại, gọi là rồng một mắt. Dòng họ Chu cách mạng nhà Đường, tàn hại sao nỡ chặt cánh lóc thịt, đấy chẳng phải hổ là gì? Thục Vương Kiến thuộc Thơ cản trở binh lính từ cũ. Đến năm Đinh Mão (907), thuộc niên hiệu Thiên Hựu, tiếm ngụy hiệu, dùng vàng làm giường trang sức. Mỗi mỗi đều phù hợp. Sư từ đó thường đoán trúng, chỉ uống nước lá sen mà thôi, đối với các thức ngon lạ đều là nghịch miệng chẳng ăn. Dân chúng ở vùng Tần Lũng thường thỉnh Sư nhập minh, dự nói mọi việc lành dữ, không hề sai lạc.. Hoặc thỉnh Sư chứng trai, tranh biện ao sạch sen non, gọi Sư là “Nhập Minh Hòa-thượng”. Sau, Sư thị tịch ở Kỳ Hạ.

Liên hệ thử bàn:

Lời nhập minh và giấc mộng hơi giống nhau. Mục Vương sắp hóa người vui mừng. Tần Mục được Thượng Đế cắt thuần, hình thể ở tại nhân gian mà thần đến cõi trên. Lời trước đã phát, việc sau chắc vậy, cho nên biết sáu Hầu tám Trưng lường xét chẳng luống dối. Ngài Ninh Sư nhập minh cũng như Mã Tuần ở thời Hậu Đường thấy được dưới Thiên phủ, cho Lộ Vương là Thiên tử. Mọi cảnh vật hình tượng đề bảng trong điện mà Sư thấy cuối cùng đều phù hợp theo lời kể lại. Có người cho đó là mộng tưởng, mộng tưởng có chứng cớ. Cho đó là thần du, thần du chẳng sai quấy. Cùng biết mộng và tỉnh chỉ là một, tối sáng có khác. Như trong Nhiếp Luận nói: Như các thứ trong mộng, đến lúc tỉnh, tất cả mọi thứ chỉ có Thức!” Có như Cổ Mãng Quốc ngủ nhiều đến năm tuần, lúc tỉnh lại lấy mông làm thật, lấy tỉnh làm vọng. Nếu vậy thì mọi việc làm lúc tỉnh là điềm trước của mộng. Và lấy thật ở trong mộng, ấy là chân thật. Mộng và tỉnh trái dụng, đó còn chỉ là một. Ngài Ninh Sư quả nhiên chẳng luống vọng, khi thời Hậu Lương cách mạng Tiền Đường, hai Lý Vương Dương đều chống đối Thiên tử. Các điện xa trông được chẳng phải thừa, cát cứ quần hùng thiên bá hay sao? Điều Sư ăn lá sen cùng việc Sa-môn Pháp Khánh đời Tùy là đồng, nên những ghi chép trong chốn u minh, như Khương Hà Đức, kế nữa là Lý Sơn Long vào cõi tối mà trở lại nói mọi sự đều ứng nghiệm. Trong kinh nói rằng: “Thí như người ngủ mộng thấy biết tất cả mọi vật, có thân mà chẳng dời bổn xứ.

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

(Quyển 21 hết)