TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 14

 

CHƯƠNG IV: MINH LUẬT

TRONG PHẦN 1 CỦA CHƯƠNG IV

(chánh truyện có hai mươi vị, phụ có năm vị).

1. Truyện ngài Đạo Tuyên chùa Tây Minh ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Đạo Tuyên, họ Tiền, người ở xứ Đan Đồ, có thuyết nói Sư là người xứ Trường Thành. Đó trước phát xuất từ sau Quảng Lăng Thái Thú Hộ, đến lúc Thái Sử Linh Lạc soạn tập “Thiên văn tập chiêm” một trăm quyển, Cha của Sư húy là Thân, làm Phủ Quân Trần Lại Bộ Thượng Thư, đều là khuôn cao Đạo lệnh, nhân hạnh chu toàn, đức lớn trăm đời, quân tử muôn năm. Lúc mang thai, mẹ của Sư mộng thấy ánh trăng soi suốt trong bụng. Lại mộng thấy có vị Phạm tăng nói rằng: “Thai nhi bà đang mang chính là Luật Sư Tăng Hựu đời Lương!” Ngài Tăng Hựu tức là Tăng Hộ chùa Ẩn Nhạc ở Diệm Khê thời Nam Tề. Và Ngài (Đạo Tuyên) theo vị ấy xuất gia.

Theo “Sùng thọ Thích Giáo” chép: Sư ở trong thai mẹ mười hai tháng, sanh ngày mồng 8 tháng . Năm chín tuổi, Sư đã biết làm Phú. Năm mười lăm tuổi, Sư nhàm chán thế tục, siêng năng tụng tập các kinh, đến nương Luật Sư Trí Quân mà thọ nghiệp, qua năm sau, Sư xuống tóc, cái gọi là dứt bỏ kết phược, lìa dục nhuộm y, bèn thuộc Đạo tràng Nhật Nghiêm. Năm hai mươi tuổi, Sư ra sức hộ trì tinh chuyên khắc niệm, cảm được xá-lợi hiện trong rương báu. Vào niên hiệu Đại Nghiệp (60617) đơi Tùy, Sư nương Luật sư Trí Thư thọ giới cụ túc. Đến khoảng niên hiệu Võ Đức (618-627) thời Tiền Đường, Ngài nương tựa ngài Trí Thư học luật, vừa mới nghe một biến, liền bàn tính tu thiền. Ngài Trí Quân quở rằng: “Phàm muốn đến xa phải từ gần, nhân nhỏ nhiệm mà biết rộng rãi, tu xả có lúc, công nguyện phải đủ. Chưa nên bỏ ngay Luật học như thế” và ép buộc Sư nghe được hai mươi biến. Sau đó, Sư mới tĩnh tọa ở sơn lâm, tu tập định tuệ. Sư ẩn tích tại hang Phong Chưởng ở Chung Nam. Tại chỗ Sư ở thiếu nước, có vị thần chỉ Sư xuyên thủng đất hơn một thước, thì có dòng suối nước tự tuôn trào. Bấy giờ, gọi chỗ Sư ở là Bạch Tuyền. Các thú dữ thuần phục, có chỗ nương cậy, có hoa thơm phảng phất, cỏ lạ mọc lan tràn. Cuối đời Tùy Sư dời đến ở tinh xá Sùng Nghĩa, lại dời đến chùa Phong Đức. Sư thường những lúc ngồi một mình, có thần Hộ Pháp đến báo rằng: “ở thôn Thanh Quang kia có chùa Tịnh Nghiệp, đất sẽ là thế báu, Đạo có thể tu thành”. Sư nghe lời đó bèn xem xét, đốt hương công đức, thực hành Định Bát-Chu. Bấy giờ, có đàn rồng đến lễ yết, hoặc nam hoặc nữ hóa thành hình người. Có vị Sa-di tán tâm tán loạn nhìn ngó bất chánh. Rồng bừng bừng phát giận, sắp muốn cả đánh, liền truy hối nhả độc xuống giếng, trình bày đầy đủ rồi bỏ đi. Sư mới bảo người bít lấp miệng giếng, có người lén mở, thường có khói xông lên. Xét về mọi sự thần biến, hoặc như có người đưa tặng một hộp hoa lạ, hình dạng giống như hoa táo, lớn cỡ quả du, mùi thơm ngào ngạt, mấy năm vẫn còn thơm. Lại có người dâng cúng quả lạ, như lệ cuối mùa, mùi vị ngon ngọt mà sắc thanh khiết. Ở trên nhân gian chẳng có.

Đồ chúng thường muốn Sư nêu bày ân sự, trước là ngầm thông. Sư dùng định lực xem xét căn cơ, tùy bệnh mà cho thuốc, đều cùng một loại như thế. Có xử sĩ Tôn Tư Mại thường ở ẩn tại núi Chung Nam, cùng Sư giao tiếp kết bạn dưới rừng. Cứ mỗi lần qua lại bàn luận suốt đêm. Bấy giờ, gặp lúc trời nắng hạn, có vị tăng người Tây Vực đến kết đàn cầu mưa tại hồ Côn Minh. Nhà vua ban chiếu bảo Hữu ty chuẩn bị đầy đủ hương hoa cúng cụ. Trong vòng bảy ngày nước trong hồ dâng lên vài thước. Có một người già ban đêm đến chỗ Sư xin cầu cứu, trong dáng vẻ vội vàng, thưa rằng: “Đệ tử là rồng ở hồ Côn Minh, hiện thời không mưa là do ý trời, chẳng phải do đệ tử. Nay có vị tăng người Hồ lấy lợi nơi đệ tử, khinh thường lời của Thiên tử mà cầu mưa, nên mạng sống của đệ tử chỉ còn trong sớm tối, cúi xin Hòa-thượng dùng pháp lực che chở cho!” Sư bảo: “Ta không thể cứu được ông, nên ông hãy mau đến cầu xin Tôn tiên sinh”. Người già đó liền đến hang đá của Tôn Tư Mại, kêu oan hai ba lần, bảo rằng: “Luật sư Đạo Tuyên chỉ bày cho tôi, nên mới dám đến đây!” Tôn Tư Mại bảo: “Ta biết tại cung rồng ở hồ Côn Minh có ba mươi bài thuốc, nếu chỉ bày cho ta thì ta mới cứu nhà ngươi”. Người già nói: “Phương thuốc ấy hiện tại cõi trên chẳng cho phép truyền ngay, nay việc gấp gáp vì sao lại tiếc rẻ”. Giây lát chọn bưng phương thuốc mà đến. Tôn Tư Mại bảo: “Ngươi hãy mau trở về, chớ sợ vị hồ tăng ngươi Hồ!” Từ đó, nước hồ dâng mạnh, chỉ vài ngày tràn ngập cả bờ, thuật của vị tăng người Hồ sắp hết, không thể làm nữa.

Lúc ban đầu, Sư mới tới chùa Tây Minh, có chiếu sung Sư vào chức Thượng tòa. Khi Pháp sư Huyền Trang đến ở, lại có chiếu ban tham dự phiên dịch. Lại đưa tiễn chân thân sang chùa Vô Ưu Vương ở Phù Phong, gặp sắc lệnh Tăng bái v.v… dâng tấu khải Triều Tể. Hộ pháp lại như thế đó. Sư lựa chọn “pháp môn văn ký, Quảng Hoằng Minh Tập, Tục Cao Tăng truyện, Tam Bảo Lục, yết-ma giới sớ, Hành sự sao, nghĩa sao v.v…” hơn hai trăm hai mươi quyển. Sư mặc ba y đều là vải sợi gai, ngày ăn một bữa, chỉ thuần là đậu. Đi thì gậy roi, ngồi chẳng dựa giường. Chấy rận theo đi ở vậy trừ thọ. Đất gỗ tự đắc vững mình quên thân.

Sư có dựng lập một cái đàn, bỗng nhiên có vị tăng lông mày dài đến đàm đạo. Sư biết đó là ngài Tân-Đầu-Lô. Lại có vị Phạm tăng đã chứng đắc quả thứ ba đến lễ đàn, khen ngợi rằng: “Từ sau khi Đức Phật diệt độ đến thời tượng pháp, hưng phát Tỳ-ni chỉ một mình Sư”. Mùa xuân niên hiệu Càn Phong thứ 2 (667), Sư thầm cảm Người trời đến đàm luận về luật tướng, nói rằng: “Trong “Sao văn Khinh Trọng Nghi” có sự sai lầm, đều do lỗi của người phiên dịch, chẳng phải lỗi của Sư. Xin Sư cải chính lại”. Nên nay lưu hành các tác phẩm phần nhiều là bản sửa lại. Lại có người trời nói rằng: “Từng soạn “Kỳ hoàn đồ kinh”, tính theo số trang ở nhân gian độ chừng trăm quyển”. Sư liền hết lòng khẩu chiêm, mỗi mỗi đều sao chép hai quyển thượng hạ. Lại có khẩu truyền kệ tụng, gọi là “Phó Chúc Nghi” mười quyển.

Vào niên hiệu Trinh Quán (627-60), Sư từng ẩn cư tại núi Vân Thất, thuộc Thấm Bộ. Có người thấy Thiên đồng hầu hạ hai bên. Ở chùa Tây Minh, ban đêm Sư hành đạo bước đi sẩy chân, trước thềm có vật nâng đỡ, bước đi trên hư không chẳng hại gì, nhìn kỹ mới thấy đó là một gã thiếu niên, Sư liền hỏi: “Người là ai mà trong đêm lại ở đây?”. Gã thiếu niên đáp: “Tôi chẳng phải là người thường, mà chính là Na-tra, con của Thiên Vương Tỳ-Sa-môn. Vì hộ pháp nên ủng hộ Hòathượng đã lâu”. Sư nói: “Bần đạo tu hành vô sự, sao phiền Thái tử? Thái tử có uy thần tự tại, vậy ở Tây Vực có thể làm nên Phật sự, xin hãy đến đó!”. Thái tử nói: “Tôi có răng Phật và tay báu, tuy từ lâu đầu mắt còn xả bỏ, dám chẳng dâng hiến”. Nói đoạn liền dâng cho Sư. Sư bảo trọng ghi lục cúng dường. Lại nữa, trước sân thềm có vị trời đến lễ yết nói với Sư rằng: “Luật sư sẽ sanh lên tầng trời Đổ-Sử”. Và mang đến một cái bao, nói đó là hương Táo Lâm. Sau đó mười tuần (100 ngày) Sư an tọa thị tịch. Lúc đó là ngày mồng 3 tháng 10 niên hiệu Càn Phong thứ 2 (667), Sư thọ bảy mươi hai tuổi, năm mươi hai hạ lạp. Nhiều môn nhân an táng ở hang đá Đàn Cốc, sau đó xây ba ngôi tháp.

Vua Cao Tông ban chiếu trang nghiêm các tháp, đắp họa chân hơn tượng của Sư, do người thợ đắp tượng Hàn Bá Thông đắp vẽ. Bởi vì truy kính đạo phong của Sư. Từ ngày đăng đàn thọ giới cụ túc cho đến ngày thị tịch, trong quãng thời gian đó, đệ tử đến Sư thọ pháp truyền giáo có đến trăm ngàn người. Trong đó, đích thân Sư độ thì có Luật sư Đại Từ, truyền pháp thì có ngài Văn Cương v.v… chiếc răng Phật do người trời trao phó, Ngài kín bảo ngài Văn Cương giữ gìn hộ trì, thỉnh đến Đông tháp ở chùa Sùng Thánh. Đến đầu niên hiện Thái Hòa (827), Thừa tướng Vi Công Xử Hậu xây lập tháp ở Tây Lang.

Sư giữ luật tiếng tăm vang dội tới Tây Trúc, sự biên tập tốt đẹp của Sư lưu truyền khắp trong nước. Cho nên, Tam Tạng Pháp Sư Vô Úy đến Đông Hạ triều yết, nhà vua hỏi: “Ngài từ xa có mệt nhọc chăng? Muốn dừng nghỉ ở nơi nào?” Ngài Vô Úy tâu rằng: “Lúc ở Tây Trúc thường nghe luật sư Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh nghiêm trì giới luật bậc nhất. Nên tôi xin muốn đến đó để nương tựa”. Nhà vua liền ban sắc chấp thuận. Sư giữ giới cấm bền bỉ, bắt chấy rận bỏ vào trong giấy lụa rồi bỏ dưới đất. Ngài Vô Úy nói: “Tiếng đánh hữu tình trên đất”. Tất cả các mật hạnh có chế có già, nên có thể biết đó. Đến niên hiệu Đại Lịch thứ 2 (767), vua Đại Tông ban sắc cho Tam Cương ở chùa nầy. Nếu nghe chùa ấy có Đại đức luật sư Đạo Tuyên truyền trao chiếc răng và Xá-lợi của Đức Phật Thích-ca, Sư liền dâng đến cửa Ngân Đài phía hữu, trẫm muốn được xem và đảnh lễ. Đến tháng 10 niên hiệu Đại lịch thứ 11 (776), lại ban sắc trong nội cung thường năm xuất ra một hộp hương đưa đến chỗ thờ Cố Luật sư Đạo Tuyên ở chùa Tây Minh, vì nước nhà mà đốt hương cầu nguyện.

Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 10 (870) đời vua Ý Tông, các Samôn Tả Nhai, Hữu Nhai như Linh Tiêu, Huyền Sướng v.v… dâng biểu xin truy phong hiệu Sư. Tháng 10 năm đó, vua Ý Tông sắc truy phong Sư thụy hiệu là “Trừng Chiếu”, tháp hiệu là “Tịnh Quang”. Nhân trước kia, Sư ở lâu đài tại Chung Nam nên gọi là “Nam Sơn Luật Tông”, niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất (72), Linh Xướng Thái Thú Lý Ung, và niên hiệu Hội Xương thứ nhất (81) Công Bộ Lang Trung Nghiêm Hậu Bổn, mỗi vị đều làm văn bia khen ngợi đức hạnh của Sư.

Liên hệ thử bàn:

Luật Tông, hễ Phạm thì hỏi tâm, tâm có hư thực, nếu chưa đắc đạo, khởi ý tưởng che giấu, thì phạm tội trọng. Nếu thật có trời rồng đến chỗ ta mà nói, thì Phạm trọng vời lấy tội, đồng với phỉ báng A-lahán. Ngài Đạo Tuyên thường có người trời làm sứ giả, hoặc dâng răng Phật, hoặc sung cấp sứ, chẳng phải do Sư tự nói. Như sai bảo rồng đến chỗ Tôn tiên sinh, đâu phải Sư tự nói ư? Còn như trong khoảng thời gian thuộc niên hiệu Càn Phong (666-668), có trời thần hợp đạp, hoặc biên chép “Kỳ Hoàn Đồ kinh”, “Phó Chúc Nghi” v.v… thả chẳng phải là ngụ ngôn ở quỷ vật. Ông chẳng thấy trong Luật Thập Tụng nói các Tỳ-kheo còn nói: “Mục-Liên phạm tội nói dối”. Phật dạy: “Mục-Liên tùy tâm tưởng mà nói nên không tội”. Lúc Phật tại thế còn như vậy, huống gì ở thời tượng pháp mạt pháp, sự hiềm tật Hiền thánh đó đâu đáng lấy làm lạ. Thêm nữa nói về ngài Vô Úy chẳng phải là người trong niên hiệu khai nguyên (713-72), từ niên hiệu Trinh Quán đến niên hiệu Hiển Khánh (627-661) trở lại, chẳng có ngài Vô Úy chăng?

2. Truyện ngài Đạo Thành chùa Hằng Tế ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Đạo Thành, không rõ Sư là người xứ nào. Sư ở tại Ấp Thiên, giảng về luật thừa. Trăng giới chiếu sáng, tròn đầy chẳng khuyết, bình đức bày thật, đầy mà không nghiêng.

Vào niên hiệu Hiển Khánh (66-661), phô bày tông Tứ Phần, có đồng vụ thị. Bấy giờ, Luật Sư Văn Cương, tuy trước kia nương tựa Đại Sư Trừng Chiếu (Đạo Tuyên), sau kết tập Luật văn mới đến nơi Đường Áo của Sư. Lại các tác phẩm của ngài Hoài Tố đều xuất phát từ môn tịch của Sư. Đến niên hiệu Thùy Củng (68-689), ngài Tam Tạng Pháp Sư Nhật Chiếu phiên dịch các kinh “Hiển Thức” v.v… Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) ban chiếu mời mười vị danh đức để giúp cho việc pháp hóa. Khi đó, Sư cùng các ngài Minh Tuân, Gia Thượng đồng tham dự chứng nghĩa. Do đó mà tiếng tăm bay đến thần điện, địa vị đứng đầu phương Đàn. Gọi đó là Ngô Đồng có lắm chim phụng nương đậu, gọi đó là bãi cỏ thơm có lan tùng rất đẹp. Môn sinh phần nhiều không hơn sự tu tập ở đây. Chẳng rõ về sau Sư tịch ở đâu!

Liên quan thử bàn:

Thành Công và ngài Đạo Thành ở Tương Châu, đời Tùy, tuy đồng hiệu mà thật là khác người. Hai vị đó ai trước?

Thông đáp: “Ngài Đạo Thành ở đời Tùy tinh thông Luật Thập tụng, sau thuật rất nhiều. Còn ngài Đạo Thành ở đời Tiền Đường, mở mang truyền bá Luật Tứ phần, dịch giảng đều hay khéo. Nhưng Sư soạn tập thì mở cho người mê. Xét về phiên dịch và truyền bá của Sư thì đào luyện giáo đạo. Thí như Diệm-ma sau và ánh sáng trước, dường như vật báu hoặc hổ thẹn với vật báu thật, cùng có hay dở, nhưng Dụng thì không hề sót.

3. Truyện ngài Văn Cương trụ chùa Sùng Thánh ở Kinh đô, thời Tiền Đường:

Thích Văn Cương, họ Khổng, người ở xứ Cối Kê. Tằng Tổ của Sư húy là Phạm, làm Trần Đô Quan Thượng Thư, ông nội sư húy là Tự, làm Từ Bộ Thị Lang. Cha của Sư húy là Đảnh, vượt biển để tránh nhà Tùy, chọn gỗ để trở về Thuấn. Vào niên hiệu Trinh Quán (627-60), mới bái Thượng thừa trực trường, vào niên hiệu Hàm Quang trở lại Nho nghiệp, bên cạnh thông hiểu Thích Giáo, cho nên Sư cũng gieo trồng gốc lành đời trước theo tập khí. Lúc mang thai, mẹ của Sư bỏ các tạp thực, có vị tăng dòng dõi Ba-la-môn tu hạnh Đầu-Đà nói với mẹ của Sư rằng: “Nếu đây là bé trai thì sẽ trọn kiếp nối tiếp Tam Bảo”. Từ đó, thường nghe giữa hư không có mùi hương lạ xen lễn nhạc trời, đến ngày sanh Sư, có hạc trắng bay liệng nhóm nhóm như đến trông xem, trong khoảng thời gian đang còn lót tả, sau giờ ngọ Sư đã chẳng chịu bú, còn kiên trì chay tịnh. Lại đến tuổi thay răng sữa, Sư theo thầy hỏi đạo. Năm mười hai tuổi, Sư xuất gia, năm hai mươi tuổi, Ngài thọ giới cụ túc. Tinh lo khổ hạnh, chuyên niệm dứt tâm. Ngài chỉ ăn dùng lương khô, rau lê…, mặc áo gai, nằm chiếu cỏ. Tiết tháo thường xem xét, miệng không nói quá lời.

Sư tìm đến Luật sư Đạo Thành ở kinh triệu thọ học luật tạng. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư giảng luật, năm ba mươi tuổi, Sư đăng đàn. Mỗi lần khuyên tu, Sư nghĩ sâu, lắng nhìn và nghe lại. Trong sạch như nước đứng, cao vợi tợ đoán sơn. Hoặc gió mưa vẫn yên ở, hoặc ngày đêm riêng đắc, nên bình cát tường thường ở trong tay chẳng bỏ. Oai đức đón gió chẳng dứt hơi khí, Nhạn ra khỏi lồng, bay giữa hư không. Sư khởi dựng nhà tầng dưới tự nhiên thành tựu. Chỉ một giọt cam lồ, miệng dụ như kiếm bén làm thương tổn người, hãy thận trọng! Rất rộng lớn! Từ đó, người khắp tám phương tìm đến cầu học, luật Tứ phần mãi lược lưu truyền. Hạng người đến hỏi điều lợi ích, nâng tay áo che kín mây, hạng người khen ngợi phát tiếng như sấm sét hãi hùng. Lâu sau, Sư trông thấy giữa trời mưa dầm, mọi người tỏ vẻ lo âu, Sư thương tưởng đó mới ngồi thẳng tư duy, bỏ dựa vách nhà lâu đến nửa đêm, lửa bốc lên nửa khoảnh chỉ còn trống sau lưng, cao vợi như ngọn núi đứng. Hàng thức giả cho đó là Sư đắc thần thông nhờ nơi định lực, nên Nhật Nguyệt linh tích, u hiểu ngầm cảm. Điềm lành ở tập sự, ứng cảm tại Di ngôn. Chung quanh đều lấy làm lạ. Sư bảo: “Chân thật vô tướng, sắc trần vốn không, chánh giác viên thường, đại bi lắng định, chẳng nên chấp lấy”. Thế nên, một thời Sư làm pháp chủ, thầy của cả bốn đời vua. Đồng như Ca-diếp vào thành, gặp vua Batư-nặc mà thuyết giới. Ngoài cửa Trúc Viên, riêng có vị Sa-di ở cuối cành cây cao, rộng nghe tiếng chim… Do đó, được thấm nhuần rộng khắp, vào tri kiến được sâu, muôn bệnh đã lành, được thuốc vui mừng, nhất tâm chẳng nhiễm, mở trói phiền não.

Ngài lại cung thừa Ty luân, đến kinh đô tham dự phiên dịch. Sư truy luận chuyên dụng, xa hợp như nhân, kiều thành đầy triều, Đàn thí địch quốc. Song Sư chỉ nương Bồ-tát, tận dụng trang nghiêm, Sư trải qua hơn hai mươi ngôi già-lam. Hễ các nơi tháp miếu Sư dâng hoa kính lễ. Còn chích máu viết kinh đến sáu trăm quyển, đăng đàn thọ giới cụ túc đến mấy ngàn vị. Sư rất khổ tiết rất ân cần vào biển vô ngã, chẳng ngủ, chẳng ăn, gieo ruộng vô sanh.

Niên hiệu Trường An thứ (70), Sư vâng sắc đến chùa Vô Ưu Vương ở Kỳ Châu, đón rước Xá-lợi. Niên hiệu Cảnh Long thứ 2 (708), vua Trung Tông thỉnh Sư vào Nội Đạo tràng hành đạo, đưa rước chân thân Xá-lợi sang chùa Vô Ưu Vương nhập tháp. Năm đó, tại cung Càn Lăng, Sư làm thầy cho chư ni trong cung thọ giới. Sư lại an cư nhập hạ ở trong cung. Vì nhị Thánh nội Ni giảng luật Tứ Phần một biến. Vua Trung Tông vui mừng kính chuộng, Sư độ làm đệ tử. Vua ban dâng thập vật, ba ngàn xấp lụa màu. Nhân Sư tấu trình về việc của đạo tràng linh cảm, ngày mồng 7 tháng 6, ngự trác đề bảng là chùa Linh Cảm. Các chùa mời các bậc Thạc Đức để làm tiêu biểu. Phàm ở đó, phía tả là Ngự túc, phía hữu là Thượng lâm, Nam đài chung sơn, Bắc hồ vị thủy. Ngàn cửa cung quyết hóa ra Vân Tiêu, vạn nương Tinh kỳ trời xoay vốn thấp.

Vào niên hiệu Tiên Thiên (712-713), vua Duệ Tông lại tại biệt điện thỉnh Sư làm giới sư truyền giới Bồ-tát. Phi chúa bao quanh, theo hầu bái lạy. Trên trời Đâu-suất gần mà nghe lời pháp, trong thành Vương-Xá đồng nghe tịnh giới. Ân chỉ ban tặng hơn ba ngàn xấp lụa sống. Sư đều giao phó cho thường trú tùy việc tu sửa dựng xây. Hoặc đất vàng quấn tường, để tăng thêm thượng giá. Hoặc phường báu, lầu cao, hay trang trí toàn khuôn mẫu. Hoặc Giảng đường, Lầu kinh, Xá-lợi Tịnh độ. Hoặc hiên lang đồ vật, bếp kho vườn rừng, đều do tín thí pháp tài chu cấp Tăng Bảo. Vừa sắp chỉ bày bến mê, dẫn dắt lên đường giác, rửa nhà lửa nóng, vớt đắm dòng độc. Mà vội dời thần phút chốc củi hết. Tuy có ứng hóa, sao nhanh vội thế!

Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 1 (727), ngày 1 tháng 8, Sư an nhiên thị tịch, thọ chín mươi hai tuổi, tới ngày mồng tháng 9 năm đó, nhập tháp ở bên cạnh chùa. Nghe tin buồn vội đến thọ tang, đón rước dự táng, hương hoa phướn lọng, Tăng Tục Hoa di đông đảo, lấp bít thành châu… mây dồn che cảnh, bởi cả mấy muôn người. Trong đó có các pháp lữ của Sư như Hoài Tố, Mãn Ý, Thừa Lễ ở Kinh Triệu, Sùng Bạt ở Tương Dương, Phụng Lâm ở Phù Phong, Hằng Cảnh ở Giang Lăng, Danh Khác ở Truy Xuyên v.v… hơn trăm vị, đếu nói rằng: “Sông trí đổi thuyền, rường cột ngôi nhà pháp!” Có các đệ tử của Sư như: Đạo Ngạn ở Hoài Nam, Thần Tích ở Thục Xuyên, Tuệ Khải ở Kỳ Lũng, Thần Tuệ, Tư Nghĩa, Thiệu Giác, Luật Tạng, Hằng Hoàng, Sùng Nghiệp ở Kinh Triệu v.v… hơn năm mươi vị đều dùng mắt từ vào nơi cửa độ, kim quan chẳng truy, tro xương không đáp. Bèn thỉnh Thái Thú Hoạt Đài Lý Ung làm bia, Ung Tượng đổi dòng họ Ban. Vì hai người đồng truyện, hẳn trăm hạnh đều ngang vai. Chẳng nhục trước Hoài Tố, chẳng thẹn sau Đạo Tuyên. Lý bắc hải đề phẩm chẳng trái ư?

Kế nữa, tại Truy Châu có Luật sư Danh Khác, tinh ròng luật tạng, thiết tha chuyên cần cầu giải, thường ở bên cạnh pháp tịch của luật sư Đạo Tuyên, đích thân hỏi về Sao Tự Nghĩa, Sư cũng đích thân lục tùy hỷ Linh Cảm Đàn, ban danh ở kinh. Về sau lại giúp sức làm ngời sáng pháp môn của ngài Văn Cương.

4. Truyện ngài Hoài Tố trụ chùa Hằng Tế ở Kinh đô, thời Tiền Đường:

Thích Hoài Tố, họ Phạm, tổ tiên Sư là người xứ Nam Dương. Tằng tổ của Sư húy là Nhạc, ở triều vua Cao Tông, được chọn làm Giáng Châu Khúc Ốc Huyện Thừa. Ông nội của Sư húy là Huy, làm Diên Châu Quảng Võ Huyện Lệnh. Cha của Sư húy là Cương làm Tả Võ Vệ Trường Sứ, cho nên trở thành người xứ Kinh Triệu. Mẹ của Sư họ Lý, bà nằm mộng thấy mây sấm chấn động kinh hãi, nhân đó mang thai Sư. Đến lúc sanh Sư có ánh sáng Thần soi chiếu khắp phòng. Thấy vậy, bèn tìm thầy đoán mộng, nói rằng: “Người con này rất quý, sẽ làm thầy dạy của bậc Vương giả”.

Từ thuở bé Sư đã thông minh, khí độ rộng rãi. Hàng thức giả nói: “Ngài học chắc chắn thành công, tài đáng vượt cách”. Tai nghe miệng tụng đều đáng gọi là Lão thành. Năm lên mười tuổi, bỗng nhiên Sư phát ý muốn xuất gia. Tánh tình lanh lợi, cha mẹ khó bề cản trở. Niên hiệu Trinh Quán thứ 19 (66), Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang từ Tây Vực vừa mới trở về, Sư liền đến cầu xin làm thầy. Mây và rồng mà đồng vật, trăng và sao cùng sáng soi, đều treo giữa trời họ Thích, rực rỡ cảnh tượng sáng trong. Ban đầu, Sư tìm kinh luận, chẳng phí thời gian. Sau khi thọ giới cụ túc, về sau, Sư chuyên ròng Luật bộ. Có luật sư Pháp Lệ ở quận Nghiệp, danh khí một phương, tông sự luật Ngũ phần. Người lạc hướng thảy đợi Sư chỉ nam, kẻ được đường đều suy tôn Sư là người chỉ nẻo về quê cũ. Sư soạn thuật sớ mười quyển, riêng là Mạng gia. Được tiếp Ngài (= Hoài Tố) mà biết thành luật tượng, nghiên cứu học tập ba năm mới thấy được các vết lỗi, Sư bùi ngùi than rằng: “Người xưa, nghĩa chương chưa thể toàn thiện!”

Niên hiệu Hàm Hanh thứ nhất (670), Sư phát khởi tâm mạnh mẽ, riêng soạn bộ“Khai Tứ Phần Luật Ký”. Đến năm Bính tý (676) tức niên hiệu Thượng Nguyên thứ 3, Sư trở về kinh, vâng sắc ở tại chùa Thái Nguyên tây, bên cạnh được nghe luật sư Đạo Thành giảng dạy, Sư chẳng ngừng ghi chép. Đến niên hiệu Vĩnh Thuần thứ nhất (682) thì mười quyển hoàn thành, một nhà mới lập. Đàn hợp cổ sớ có mười sáu lỗi. Tân sớ có năm trăm điều. Truyền cánh đến hổ đánh bắt mà có biết đều sợ, nương gió đến chấn động rầm rầm mà không chỗ xa xôi nào chẳng nghe. Sự hoằng hóa thích hợp, sự truyền trao rất nhiều. Sư lại soạn “Câu-xá luận Sớ” mười lăm quyển, “Di giáo kinh sớ” hai quyển, “Sao” ba quyển, “Tân sớ Thập Di sao” hai mươi quyển, “Tứ phần Tăng Ni yếtma văn” hai quyển, “Tứ phần Tăng Ni giới Bổn” mỗi loại một quyển, “Nhật Tụng Kim Cương Kinh” ba mươi quyển. Sư giảng Đại Luật đã sớ giải hơn năm mươi biến. Ngoài ra, Sư viết kinh vẽ tượng, nhiều không thể tính biết số lượng.

Tại Bổn tự nơi biệt viện, bỗng nhiên Sư thị hiện bị bệnh. Sức lực vẫn tự nhiên. Ngài bảo với Tú Chương rằng: “Tôi luật hành lắm khiếm khuyết, báo thân này sắp dứt rồi”. Khi đó, giữa hư không có tiếng nhạc trời réo rắt, Sư an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi, năm mươi ba hạ lạp. Ngày an táng có chim hồng chim hạc bay nhiễu quanh tháp kêu buồn đến chiều tối mới bay đi!

Sư soạn thuật Tông Tát-Bà-Đa, Sư dùng pháp Mật Bộ duyên với Hóa Địa Bộ, xuất ra Hóa Địa từ Hữu Bộ sanh, nên xuất thọ thể lấy vô biểu sắc. Sư lại bác bỏ hai tông rằng: “Tướng Bộ vô tri thì mở lớn trong lượng, được tự lấy Đại tiểu hạnh. Nam Sơn phạm trọng thì bàn luận với

Thiên thần, là tự nói Đắc Pháp của bậc thượng nhân, đại để, Sư sớ giải lưu xuất, gọi đó là Tân Chương. Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-72), luật sư Tân ở Tung Sơn soạn “Sức Tông ký” để giải thích đối chiếu với cựu sớ của luật sư Pháp Lệ, lại gọi đó là “Đông Tây Tháp Luật Tông”, vì lấy chỗ truyền Tập mà đặt tên. Vào niên hiệu Đại Lịch (766-780) Tướng Quốc Nguyên Công lại tấu trình xin thiết lập giới đàn tại chùa Bảo Viên ở Thành Đô để truyền “Tân Sớ”. Dùng tiền bổng lộc để soạn “sớ” bốn mươi bản, “Pháp Hoa kinh sớ” ba mươi bản, giao phó cho ngài Quang Dực ở chùa Bảo Viên truyền hành. Sau đó, Nguyên Công mời Như Tịnh Công soạn tự truyện của Sư, Vi Nam Khương Cao soạn Linh Đàn Truyền Thọ Tỳ-ni, “Tân Sớ ký” có được sự truyền thừa tiếp nối, khắc danh vào đá, ngôn từ đẹp đẽ, nét bút mề mại. Là khẩu thật ở đất Thục.

5. Truyện ngài Đạo Ngạn ở Quang Châu thời Tiền Đường:

Thích Đạo Ngạn, họ Đường. Nhiều đời ở tại Dĩnh Xuyên, đó là một dòng họ lớn, là con cháu của Hán Thượng Thư Lệnh Lâm; Tư Không Trân, Ngô Thượng Thư Bộc Xạ Cố, Ung Châu Thứ sử Bân, Lương Trấn Bắc Tướng Quân Dao. Vĩnh gia đi về phương Nam, dời tới Quang Châu, áo mão người vật chói sáng xưa nay. Sư vừa mới sanh đã chẳng đồng như bọn trẻ, có khí khái kỳ đặc. Ở độ tuổi tết tóc đã có dáng dấp của bậc lão thành. Đến tuổi đội mũ gắn liền trường lớp, nhanh chóng ngang bằng Phần Điển, Sư còn sợ sự thấy nghe chưa rộng rãi, nghề nghiệp có sai sót, bèn bềnh bồng sông Hoài tìm tới Thù Tứ, thâm cứu Võ huyệt, bước lên Khổng Đường, trải qua nhiều năm lắm chốn. Theo sự cổ xúy của Hàng Lâm, lội dòng sóng giữa biển học, thảo luận Bách gia, bàn bạc Tam giáo, Sư mới than rằng: “Học người xưa vào làm quan quấn vàng nhặt tía, đó là Nho giáo. Thưởng thức thông, nếm thử bách, nương hạc cỡi rồng, đó là Đạo giáo, không ra khỏi luân hồi, chẳng phải nghĩa bè dụ. Đâu như ba thừa diệu chỉ, sáu độ hoằng công, thâu nhặt thế gian, nắm giữ cả sa giới.

Sư bèn xuống tóc xuất gia, rửa tâm tìm đạo, nhất âm nêu bốn câu rành thông, học tu luật nghi, vào sâu thiền tuệ. Đêm mộng thấy Ca-diếp đến làm thầy dẫn lối, sáng sớm xem đọc chân kinh rõ ràng phù hợp với mộng thầm. Do đó, thanh danh vang dội, xa gần đều nghe tiếng. Làm bến bờ của xuất thế, hẳn là lãnh tụ của kinh hành, các bậc Long tượng ở mười phương đều là khuôn p phép, uyển loan khắp muôn nước không dám răn đáp. Hướng như xoay lại đó, khéo biết đến kia khác đường. Tài bàn luận hẳn gồm cả bốn khoa, sức cứu đời nhã hợp với ba kiệt. Có như Pháp sư sơ ở đất Việt, Bí tạng tinh vi không gì chẳng luyện rõ. Đạo cao gồm hoàn vũ, đức trọng dường Khâu sơn. Sư nghe Thiện như kinh sợ đồng thanh tương ứng, cưỡi thuyền đến Sở, chống tích sang Ngô. Mây móc một khi đã vén thì chuông trống đồng vang động. Kỳ Nha khế hợp, Trừng Thập liền phương. Từ đó, Sư thường trụ chùa Long Hưng ở Cối Kê. Các hàng sĩ thứ ở Dương Châu, Việt Châu hay Thích tử ở Giang Hoài, đông đúc ô hợp, ngõ hẹp thiếu người ở, ít lên cửa nguyên lễ, lại thấy Sư lên chợ. Sư thân tuy còn trong bó buộc mà tâm đồng như hư không. Chẳng chọn hiền ngu, không kẻ sang hèn, sắc diện ôn hòa tiếp đãi, khéo dẫn dụ siêng năng xét soi, sáng tỏ chẳng mỏi mệt, chuông lớn hẳn ứng, đều trông trời rót biển, hư đi thật về. Lợi ích đó rộng lớn thay! Không thể xứng được. Bấy giờ, gọi Sư là Đại Hòa-thượng, lên tòa Vô Úy, giảng luật mộc-xoa, dung mạo cử chỉ trang nghiêm, từ biện rõ trong giảng nói. Nối liền tan rã, lý sạch mảy may. Người chiêm ngưỡng thảy đều do lòng thật, kẻ nghe nhận được chưa từng có. Do đó, các bậc cao Tăng Đại sĩ tâm say thần ngã, bỏ hết những gì thấy nghe xưa cũ, bội phục Tân nghĩa. Khắp cả thế gian đều biến đổi. Đạo Sư hành hóa hưng thạnh.

Vua Trung Tông tinh ròng Bạch nghiệp, đến nghề huyễn thân, nghe mà lấy làm lạ, bèn sai sứ thỉnh, trước sau có đến mấy lần, nhưng Sư mới vào triều cùng với vài vị Đại Đức đồng ở nội điện. Vua Trung Tông Nhân lúc việc triều chính rảnh rỗi, đích thân xem duyệt thanh ngôn. Tuy mắt trời thường ngó lại mà Thánh uy khó phạm. Phàm vua thẳng mắt đối đáp, không ai chẳng kinh hồn, nên đều trông trời nhìn gió để dứt nghe bặt thấy. Sư, trong dáng vẻ tuy trọng nhưng hạ lạp chưa cao, nên còn vấn vít ngồi nơi dưới chiếu, cách xa các bậc tiên bối. Tiếc rằng nhà vua có ngôi vị Luân Vương, chẳng đứng dậy đón rước, cho rằng ta là sau Xá-na, mới an nhiên ngồi. Nhà vua thấy Sư cao thượng, nên kính phục sự tôn nghiêm, riêng ban tặng y bát, đặc biệt tỏ bày sự sủng ái, nhân đó thưa hỏi pháp vị của Như Lai. Ngài liền vì làm thầy trao truyền giới Bồ-tát. Nhà vua dẫn dắt thân quyến ở sáu cung vây quanh cúng dường, và bèn đắp họa ở cung Lâm Quang, ngự chế ca ngợi Đồ họa.

Với bài Từ rằng:

“Giới Châu sáng sạch
Giòng tuệ trong veo
Thân bó buộc cùng năm thiên
Tâm thung dung tám định
Học cùng chân Điển
Quán suốt thật tánh
Duy trì pháp vụ.
Giềng mối thống lãnh Tăng chính.
Luật tạng nhờ đây mà lan truyền hương thơm
Tượng giáo nhờ đó mà rạng ngời hưng thạnh”.

So với Linh Đài ảnh tượng, lâu gác đan thanh, công đức có ý nghĩa khác nhau, vua tôi khác lễ, lựa chọn người làm cương quản, thống soái tăng đồ, lãnh trách nhiệm của Hữu ty. Cho rằng Sư là bậc Đức thạnh rộng lớn, chí hạnh cao xa, nghĩ trùm mưa móc, đặc biến chương trình trải khắp thành đô, Bạch Mã, Trung Hưng. Cương duy tổng vụ của các chùa Trang Nghiêm, Tiến Phước, Võng cực v.v… đều vâng thừa sắc mạng, hợp sâu với tâm chúng sanh. Thiên hạ lấy đó làm vinh hạnh, là điều xưa nay chưa từng có.

Vua Trung Tông có hoài bão võng cực, truy phước nhân tâm, trước tiên tại trường an xây dựng chùa Tiến Phước, việc chẳng đến lúc, người làm phiền nhọc. Bèn ban sắc cho Sư cùng với Công Bộ Thượng thư Trương Tích cùng trông coi công việc đó. Sư bèn mở rộng phương tiện, ban rải từ bi. Người hoặc con lại phục dịch, không lưu giữ việc chuyên, tổn phí ước lược công cán gấp bội, nhà vua rất vui mừng, từng mời đến ban thưởng. Lúc nào tối sáng đã mang đội ân trời, nói thù đáp ân đất bèn trở lại Quang Châu, độ ngươi, xây dựng chùa. Từ đó vườn uyển kỳ đà tạo dựng tăng phường, Tỳ-kheo Câu-lân bèn làm người báu. Việc đó hoàn tất đâu hối hận gì? Sông biển một từ, sương sao hai kỷ. Thường nhớ nghĩ chỗ thành đạo, lại bức hối mong chung lậu. Bèn rời bỏ thượng kinh về đến bổn xứ. Sắp bày đoái hoài thọ mạng, tinh chọn môn nhân xuất gia như Hạnh Siêu, Huyền Nghiễm, đáng gọi là người tài giỏi, liền truyền ngọc báu nơi búi tóc, giúp ban lời của miệng vàng, rồi Sư nằm nghiêng bên hông phải mà phô bày thân bào huyễn.

Đến ngày mồng 10 tháng 8 năm Đinh Tỵ (717) tức niên hiệu Khai Nguyên thứ , Sư thị tịch tại Đạo tràng chùa Long Hưng ở Cối Kê, thọ sáu mươi bốn tuổi. Biển khô làm sao nương ở, núi đổ làm sao cậy nhờ! Trời người cảm động, tăng tục khóc buồn, đến dự đưa tang lễ, chế phục tính tới số muôn. Các đệ tử như Sa-môn Nghĩa Hải ở chùa Long Hưng kiêm tự chủ chùa Tuệ Võ, Đô Duy Na Đạo Dung, Hoài Tắc ở chùa Đại Võ, Đạo Siêu ở chùa Đại Thiện, Tư nhất ở chùa Tề minh, Hoài Oánh ở chùa Hồng ấp, Tuệ Châu ở chùa Vân Minh, Hoài Ngạn ở chùa Hương Nghiêm, Đạo Cương ở chùa Bình Nguyên, Tử Võ ở chùa Đại Vân thuộc Hồ Châu, Tuệ Toản ở chùa Hưng Quốc v.v… Đẹp lạ là bẩm chất khuê chương, thành đồ vật nương nhờ mài giũa, đội sức chỉ dẫn mê mờ, mang ân quát vũ. Nghĩ muốn truyền lưu hương thơm ở cõi trần để đề danh trên Trinh Thạch, bèn thỉnh lễ bộ thị lang Diêu Dịch soạn văn bia ghi lại đức hạnh của Sư.

Trước kia, Sư vốn là đệ tử tài giỏi của Luật sư Văn Cương, đến lúc vua Trung Tông kính trọng đạo đó, khắc rằng: “Ở giang biểu phần nhiều hành trì luật thập tụng, chư Tăng tại Đông nam kiên chấp không biết Luật Tứ Phần”. Sư bèn tấu thỉnh vua mặt sắc ban lệnh chấp hành “Nam Sơn Luật Tông”. Tông đó hưng thạnh hoằng truyền ở Giang Hoài là do công sức của Sư.

6. Truyện ngài Chân Biểu ở chùa Kim Sơn nước Bách Tế, thời Tiền Đường:

Thích Chân Biểu, người xứ Bách Tế, gia đình ở tại Kim Sơn, nhiều đời sống bằng nghề săn bắn, Sư bước đi nhanh nhẹn, khéo giỏi cung tên.

Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-72), ngoài việc rượt đuổi thú, Sư đến nghĩ nơi ruộng sâu, bẻ cành liễu bắt ếch xỏ thành một xâu để dưới nước, định làm món ăn, bèn vào núi giăng lưới bắt thú. Nhân rượt đuổi nai nên từ đường ở phía bắc núi trở về nhà, quên lấy xâu ếch đó. Đến mùa xuân năm sau, trong lần đi săn, nghe tiếng ếch, Sư đến trong nước thấy xâu ếch năm trước khoảng ba mươi con vẫn còn sống. Khi đó, Sư bùi ngùi tự trách rằng: “Khổ thay! Tại sao ta vì miệng bụng mà khiến cho chúng phải chịu khổ cả năm như thế”. Sư bèn bẻ gãy cành liễu, từ từ nhẹ nhàng thả chúng đi. Nhân đó Sư phát chí nguyện muốn xuất gia.

Sư tự nghĩ rằng: “Như ta từ giã cha mẹ cắt đứt ân ái trong nhà. Vẫn còn khó lìa biển tham dục, chẳng tỏ lộ lồng ngu mê”. Do đó, Sư trốn vào núi sâu, dùng dao cắt tóc, khổ chí sám hối, nâng thân đập đất, chí cầu giới pháp, phát thệ nguyện cầu mong Bồ-tát Di-lặc trao truyền giới pháp cho mình. Ban đêm Sư gia công gấp bội ban ngày, đi nhiễu quanh khấu gõ, tâm tâm không xen hở, niệm niệm tha thiết. Trải qua bảy ngày đêm, đến rạng sáng, thấy Bồ-tát Địa Tạng tay cầm gậy vàng vì Sư mà sách tấn, phát giáo phát giới, duyên tác thọ tiền phương tiện. Sư cảm nhận điềm ứng đó, vô cùng mừng vui, khắp thân mạnh mẽ hơn trước. Đến hết ngày thứ 1, có con Đại quỷ hiện tướng đáng sợ xô Sư té xuống hang núi nhưng toàn thân Sư không thương tổn gì. Ngài lại lăn lóc leo lên Thạch Đàn, tướng ma quỷ lại tăng thêm chẳng thôi, trăm ngàn manh mối. Mãi đến sáng ngày thứ 21, có con chim cát tường cất tiếng kêu rằng: “Bồ-tát đang đến!” Sư thấy mây trắng dần dần lan tỏa, lại không có cao thấp, núi sông đều bằng phẳng, trở thành thế giới ngàn mầu. Đâu-suất thiên chủ đi lượn, nghi vệ nối tiếp vây quanh Thạch Đàn, gió mưa hương hoa, chẳng phải cảnh vật của phàm tình ở thế gian. Khi đó, Đức Từ Thị từ từ đi bộ đến Thạch Đàn, duỗi tay xoa trên đảnh đầu Sư, bảo rằng: “Lành thay! Đại trượng phu cầu giới như thế!” Đến lần thứ 2, lần thứ 3, thì núi Tô-mê-lô có thể duỗi tay mà buông. Khi đó tâm Sư không hề thối động, Đức Từ Thị mới trao pháp cho. Thân tâm Sư hòa duyệt như đang ở cõi thiền thứ 3, ý thức và lạc căn tương ưng nhau. Bốn mươi hai ngàn sông phước thường chảy, tất cả công đức bỗng phát thiên nhãn. Đức Từ Thị đích thân trao cho Sư ba pháp y và bình bát, lại ban tặng Sư danh hiệu “Chân Biểu”.

Khi đó, dưới đầu gối lại xuất ra hai vật, chẳng phải ngà, chẳng phải ngọc, mà đó là chế thẻ kiểm, một vật đề chữ cửu (số 9) và một vật đề chữ bát (số 8). Cả hai vật, Đức Từ Thị đều trao phó cho Sư, bảo rằng: “Người cầu giới, trước tiên phải sám tội, tội là tánh của trì phạm. Lại thêm một trăm lẻ tám thẻ, trên mỗi thẻ đặt ghi danh mục một trăm lẻ tám phiền não. Như người cầu giới hoặc chín mươi ngày, hoặc bốn mươi ngày, hoặc hai mươi mốt ngày hành trì tinh tấn, đến lúc kỳ hạn đã mãn, đem hai thẻ và Cửu Bát trộn chung với một trăm lẻ tám thẻ đó, đối trước tôn tượng Phật, ngửa trông giữa hư không tung số thẻ đó rơi xuống đất để kiểm nghiệm tướng tội đã diệt hay chưa diệt. Nếu một trăm lẻ tám thẻ bay quanh bốn phía, chỉ hai thẻ Cửu và Bát nghiễm nhiên đứng giữa tim đàn, tức là đắc Thượng thượng phẩm giới. Nếu các thẻ tuy xa, nhưng, có một vài thẻ xúc chạm hai thẻ Cửu và Bát, thì rút lấy xem đó là tên phiền não gì, thì bên bảo người trước lại nên sám hối, chỉ đem thẻ trùng hối phiền não hòa với hai thẻ Cửu Bát, ném thẻ phiền não ấy đi, gọi đó là Trung phẩm giới. Nếu các thẻ vùi lấp hai thẻ Cửu Bát, thì tội không diệt, và không đắc giới. Giả sử lại gia tâm sám hối qua chín mươi ngày thì đắc hạ phẩm giới”. Đức Từ Thị lại dạy Sư rằng: “Bát tức là Tân huân, Cửu tức là Bổn hữu”. Dặn dò xong, thiên trượng đã trở về, núi sông mây tạnh. Khi đó, Sư trì thiên y, mang bình btrời giống như vị Tỳ-kheo năm hạ, dò theo đường xuống núi. Cỏ cây vì Sư mà che phủ không có đường khác lạ, không khe hang cao thấp. Chim bay thú chạy thuần phục dẫn đường trước, lại nghe giữa hư không có tiếng bảo khắp trong thôn xóm rằng: “Bồ-tát xuống núi sao chẳng đón rước?”

Khi đó, dân chúng nam nữ có người trải tóc che bùn, có người cởi áo lót đường, có người dùng nệm giạ nâng đỡ chân, có người dùng hoa đẹp khỏa lấp hố hầm, Sư đều biểu lộ nhân tình, mỗi mỗi đều bước lên. Có một người nữ đem nửa xấp bạch điệp ra trải giữa đường đi, Sư dường như e ngại tránh sang một bên. Người nữ đó lấy làm lạ cho rằng không bình đẳng. Sư bảo: “không phải tôi chẳng có tâm từ, không bình đẳng, nhưng vừa trông xem tấm lụa đều là lợn con, vì sợ thương tổn sanh mạng nên tôi tránh ngộ phạm ấy vậy!” Nguyên vì người nữ đó gia đình vốn làm nghề mổ giết buôn bán, mà mua được tấm vải đó. Từ đó thường có hai con hổ đi theo hai bên, Sư bảo nó rằng: “Không lâu nữa, ta sẽ vào Phu Quách hai ngươi hãy thể vì dẫn đường giúp ta. Đến chỗ có thể tu hành mới đi thong thả.” Đi khoảng chừng ba mươi dặm, tới một sườn núi, hổ ngồi xoạc đùi ở trước. Khi đó, Sư treo tích trượng trên cành cây, lót cỏ mà ngồi. Các hàng tín sĩ từ bốn phương chẳng khuyên mà lại cùng nhau xây dựng một ngôi chùa, đặt tên là “chùa Kim Sơn”. Người sau đến cầu giới, hằng năm người sám tội rất đông. Hiện nay trong ảnh Đường, đạo cụ của Sư vẫn còn.

Liên quan thử bàn:

Ngài Chân Biểu đổi tâm thay hạnh, một ngày đi ngàn dặm, quả thật đáng được Đức Từ Thị trao cho giới pháp. Song, trong năm mươi pháp thọ thì đó là pháp thọ gì? Thông đáp: gần Thượng Pháp Kiến Đế tự thệ. Phát thiên nhãn thông là chứng sơ quả, nhị quả. Phi Đế Lý hiện quán mà sao chuyên cứ nơi Thạch Đàn và trước tháp Đa tử tự phát thệ là đồng.

Hoặc có thuyết nói rằng: trao thẻ kiểm để nghiệm tướng tội diệt, trong các Thánh giáo không thấy có văn đó, vậy, chẳng đồng với các vị trời truyền trao, hoặc là ma quỷ làm, không thể làm Hậu pháp ư? Thông đáp: nếu bày thiện ghét ác, thì lợi ích chẳng khác. Di-lặc Thiên chủ là Thiên truyền trao, chắc chắn chẳng phải ma quỷ. Trong các Thánh giáo, có sám hối cầu hiện điềm lành để chứng minh tội đó diệt hay chẳng diệt. Nhưng sau khi Đức Phật diệt độ, ngài Di-lặc xuất hiện ở DiêmPhù-Đề giảng nói Du già, há có thể đó là pháp đời sau hay sao? Trong luật thập tụng nói rằng: “Tuy chẳng phải do Phật chế, nhưng những vị ở các phương vì thanh tịnh mà nói ra thì không thể chẳng vâng hành.

7. Truyện ngài Tú Công trụ chùa Thập Lực ở An Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tú Công, người xứ Tề An. Lúc còn nhỏ, Sư đã có ý muốn

lìa tục, mãi đến tuổi mười tám, Sư bèn đến Thục Quận, đảnh lễ luật sư Hưng. Sư đọc tụng kinh điển dễ như ôn tầm. Lại nương tựa đó mà đăng đàn thọ giới cụ túc. Quả thật Sư thông đạt Tỳ-ni mới làm đệ tử thượng túc, được Hưng Công truyền luật. Như vậy trải qua bốn năm. Sư đến Trường An, vào môn tịch của luật sư Đạo Tuyên làm khách nương tựa, Sư siêng năng quên cả khổ nhọc, trải qua mười sáu năm chẳng lìa rương gậy, Sư nghiên cùng các bộ sâu mầu, hun đúc mấy nhà, đem thủ sớ làm Tông Bổn. Sư hướng đến Hoàng Châu đáp trả nơi sanh thành, kế lại sang An Lạc mở mang giảng dạy. Tiếng hay vang vọng, các vương mục thủ chợt cùng vâng theo. Sư chính vì giáo hóa hàng xuất gia, nên đều nêu tế hạnh. Có luật sư Trinh Cố ở thượng tịch, cởi mũ cho các môn sanh, danh tiếng thanh tịnh hiển bày, ngoài ra đều có Hậu Điện. Các sự nghiệp thành tựu của Sư nhiều chẳng thể kể xiết. Sư thọ hơn bảy mươi tuổi, thị tịch tại Bổn phòng ở chùa Thập lực.

8. Truyện ngài Linh Ngạc trụ chùa Sùng Thánh ở Kinh đô, thời Tiền Đường:

Thích Linh Ngạc, không biết Sư là người xứ nào, siêng năng tha thiết học hỏi, chẳng ngại tìm thầy. Vào niên hiệu Càn Phong (666-668), Sư trụ chùa Tây Minh, đích thân tham dự pháp tịch của luật sư Đạo Tuyên. Song, Sư chẳng câu nệ thường ở một nơi, nên hoặc đến chỗ Ngài Văn Cương, hay gần gũi cận ngài Đại Từ đều cầu thỉnh học hỏi điều ích lợi. Cuối cùng Sư sợ mất ý của Luật Sư Đạo Tuyên, nên tùy theo chỗ giảng dạy, thâu nhặt những điều được nghe, gọi đó là ký, để giải san bổ sao. Như vậy thì nghiên cứu soạn bộ “Nghĩa chương” chỉ có ngài Đại Từ và Sư (Linh Ngạc). Sư lại riêng soạn bộ “kinh trọng Quyết”, Cổ Huyền Trụ ở Uyển Lăng đích thân xem đọc văn bản, nên dẫn đó để giải thích bộ “Lượng Xứ Khinh Trọng Nghi”. Trong biến cố Kim Cách, bộ “Khinh trọng Quyết” bị tiêu mất, không tìm lại được!

9. Truyện ngài Mãn Ý chùa Sùng Phước ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Mãn Ý, không biết Sư người xứ nào. Sư thần cách cao vợi, thức lượng khoan hòa. Kinh luận thông hiểu, lại chuyên tinh về luật học. Cuối niên hiệu Võ Đức (627), Sư gặp được luật sư Pháp Lệ ở Nghiệp Đô, sớ giải luật Đàm Vô Đức, Sư bèn đến làm sáng tỏsự truyền thọ. Như vậy, Sư giảng giải dẫn dắt suốt ba mươi năm, rồi mới truyền trao cho Luật sư

Đại Lượng ở chùa Quán Âm, ngài Đại Lượng lại truyền trao cho ngài Đàm Nhất ở Việt Châu, suốt một thời gian mở mang hưng thạnh, vốn lưu xuất ra nhiều bậc Long tượng, tất cả đều không qua môn tịch của Sư.

10. Truyện ngài Sùng Nghiệp trụ chùa Tây Minh ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Sùng Nghiệp, không biết Sư là người xứ nào. Ban đầu, Sư cùng ngài Đạo Ngạn ở Dặc Dương tập học Tỳ-ni tại pháp tập của ngài Văn Cương. Sư chuyên cần phục dịch, tôi luyện giũa mài chẳng hề biếng trễ. Khoảng niên hiệu Hoàng Tứ, Sư được suy cử đến ở Nguyên Trường, cùng nổi tiếng ngang hàng với Ngài Danh Khác ở Truy Châu, Sư trội vượt Cương Nghị quá xa. Tiếng tốt vang tới chốn cung đình. Vua Duệ Tông giữ tâm phúc Đạo, ban sắc lấy cung cũ để xây chùa An Quốc. Lại có chiếu mời Sư vào Thừa Minh để huân tu ở điện riêng, truyền giới Bồ-tát cho nhà vua. Vật thí dồi dào đều xả bỏ để tu sửa Điện Vũ chùa Bồ đề, vì trước kia chẳng thuận tiện xây dựng lớn ở đó.

Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-72), Sư bị bệnh nhẹ, dặn bảo với đệ tử rằng: “Cơ duyên ta giáo hóa đã đến cùng, thọ mạng sắp hết. Các ông phải bền chắc đề phòng, chớ có buông lung!” Nói xong, Sư thị tịch tại phòng riêng trong chùa Sư ở. Sư là pháp tôn nối pháp ngài Nam Sơn vậy.

11. Truyện ngài Huyền Nghiễm trụ chùa Pháp Hoa ở Việt Châu, thời Tiền Đường:

Thích Huyền Nghiễm, họ Từ, nhà Tấn dời đến Phương Nam, nhân làm quan tại Gia Ký, nên làm huyện tộc.

Năm mới mười hai tuổi, Sư giã từ cha mẹ theo thầy, vâng thờ ngài Tăng Huy ở Phú Xuân. Niên hiệu Chứng Thánh thứ nhất (69), Vũ Hậu ân ban chế điệp độ người. Sư bèn theo vài vị tăng thuộc chùa Huyền Lưu. Sư thuở bé đã thông minh, lớn lên thì khôi ngô, tính cách cao vợi, phong nghi lạnh lùng. Đến tuổi hai mươi, Sư mới theo luật sư Đạo Ngạn ở Quang Châu tìm hỏi thọ giới cụ túc. Sau đó, mới đến Thượng Kinh nghiên cứu luật phạm. Gặp được luật sư Mãn Ý ở chùa Sùng Phước, và Luật sư Dung Tế đều là những bậc danh tượng một phương và là đệ tử tài giỏi của ngài Nam Sơn. Sư có khả năng thăng đường, thấy chỗ sâu kín, đều được ấn khả. Do đó mà đạo tôn giới khiết, danh tiếng vang cả đến chốn kinh đô, An Quốc trao ghi và sung và hàng Đại Đức.

Sau, Sư trở về Giang Tả, riêng hành hóa luật Tứ Phần, nhân đó soạn “Phụ thiên ký” mười quyển, “Yết-ma thuật chương” ba thiên. Đến nay, tăng chúng xa gần truyền nhau biên chép. Trước kia, Luật Sư Đạo Ngạn ở Quang Châu, có lần nằm mộng thấy vì Thần tăng bảo rằng: “Huyền Nghiễm sẽ là bậc Pháp khí, cớ sao dùng pháp Tiểu thừa mà chỉ dạy?” Sau đó, ngài Đạo Ngạn mới bảo Sư tuyên dương Bát-nhã. Do đó, Sư nghiên cứu tính sâu, tư duy góp nhặt cựu học, soạn bộ “Kim Cương nghĩa sớ” bảy quyển. Chỗ các bậc Cổ Đức không hiểu là điều các bậc Tiên Đạt không rõ. Ta thì phát huy quang minh như chỉ trong lòng bàn tay, thệ nguyện một đời này sẽ tuyên giảng trăm lần. Bấy giờ, tại tinh xá Việt ấp xưng dương Pháp Hoa. Ở đời Tấn, Sa-môn Đàm Dực từng kết am trên đỉnh núi, nhập định Pháp Hoa tam-muội, cảm được Bồ-tát Biến Cát. Đồ chúng trông xem tháp báu Đa Bảo vọt lên để chứng minh, Kinh cung như chuyển luân bay đi mà nghe pháp. Hai con quạ vì thế bày hiện điềm, đến nay vẫn còn bay liệng kêu hót, sáu con voi vì đó mà lộ vẻ kỳ đặc, lúc này vẫn còn ẩn hiện. Không thể được mà suy nghĩ bàn luận. Bởi vì đó gọi là tin sâu phước của Như Lai là núi ẩn của Bồ-tát. Sư mới khảo bàn là bốc xem, buộc bát nương gá sâu, kiến lập giới đàn, vời nhóm luật hạnh, như, Cao Tăng đời Yên, Thượng Sĩ Hành đời Phù Tần, số như lúa mè, tính đồng tre lau. Phục ứng thưa hỏi điều ích lợi, dẫm đạp giày gai, vác lọng dù. Sư vẫn yên tọa chẳng ra, ròng rã suốt ba mươi năm.

Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 2 (736), vua Huyền Tông chú sớ “Kinh Kim Cương Bát-nhã”, hạ chiếu ban khắp trong nước đều nên tuyên giảng. Đô Đốc Hà Nam Nguyên Ngạn xung đích thân thỉnh Sư khơi sáng mặt trời Thánh, Sư bèn mở mang u tán, đáng hợp Thiên tâm, giúp người mù thấy được ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, người điếc nghe được âm vang của sấm sét. Sự diễn xướng của Sư thật có hiệu lực. Phàm kẻ ham ưa Tiểu pháp mê mờ tự ngã thành bệnh, Người thông Đại lực hiểu rõ pháp đạo khai không.Nếu phàm phu hiểu được ba quy y, mỗi lúc chạm lý thì mịt mờ sự. Từ ngài Ưu-Ba-ly về sau còn có các hoặc bệnh như thế, mà Sư giữ giềng mối Tiểu pháp, diễn xướng Đại pháp. Ngộ Phật cảnh chẳng phải có, hiểu cõi ma là không. Nên có khả năng khiến Niết-bàn và sanh tử là như một, phiền não và Bồ-đề như nhau. Phát tâm mà lên quả vị Phật-Đà chẳng phải ta thì ai? Tăng tục quy tâm đáng là bậc Nhân chẳng ai bằng.

Xưa kia, Pháp sư Tăng Hộ thường ở nơi Thạch thành, ngồi yên xoay mặt vào vách rêu, ngưỡng trông trung phong như có tượng Phật, nguyện tạo mười trượng để vẽ cảnh Đâu-suất, nguyện lành chưa thỏa, thì ngài Tăng Hộ thị tịch! Đời Lương, vua Võ Đế ban chiếu thỉnh luật sư Tăng Hựu gấp truyền kinh lý, khắc họa quy mô, ý tượng mới thi hành bỗng chốc núi gò đổ ngã, toàn thân hiện ngồi, cả thảy cao hơn trăm thước. Tuy vàng đá tơ trúc, bốn trờ cúng thí, thường nghe công đức trang nghiêm Thập địa, sửa khắc thượng quyết. Sư bèn trong nghiêng y bát, ngoài dấn Đàn Na. Trải khắp mầu vàng ròng, đúc dùng tướng bạc trắng. Đồng; thiếc; chì; khải; cầu; ngọc; lan; can; bảy báu do đó mà hỗn thành, tám trân nhờ đó mà đầy đủ. Tuy Bảo Tích hiến lọng, cõi hiện ba ngàn, Ca-diếp dâng y, vàng hơn mười muôn. Như Tu-di hiện giữa biển lớn, tợ mặt Nhật ló trên núi cao. Đó lại là công đức không thể suy nghĩ bàn luận của Sư! Nên Thứ sử lạc châu là Từ Kiệu, Công bộ Thượng Thư Từ An Trinh, đều đem tông thất thiết lễ bạn đạo. Quốc tử Tư nghiệp Khương Hy, Tiễn Thái Tử Tân khách Hạ Tri, chương Triều Tán Đại Phu Huyện Lệnh Lâm an ở Hàng Châu, Chu Nguyên Thận cũng dùng phép làng để đủ hợp với Bạn Pháp.

Niên hiệu Khai Nguyên thứ 26 (738), vua Huyền Tông ban chế độ người, chọn phỏng sứ Thứ sử Nhuận Châu là Tề Cán, Đô Đốc Việt Châu là Cảnh thành chọn phỏng Lư Kiến Nghĩa, Thứ Sử Tứ Châu là Vương Bật, không ai chẳng dừng cờ xe nơi cảnh tịnh, bẩm thọ vâng thừa pháp huấn. Tề Bật mới dùng thuyền kết chở, đón rước Sư đến các quận Đan Dương, Dư Hàng, Ngô Hưng ban lệnh cho các vị tăng mới độ, đích thân Sư trao giới cụ túc. Từ Quảng Lăng đến tận Tín An điạ phương cách xa cả ngàn dặm. Tăng lục thọ pháp vượt ngoài muôn người. Phải lễ kinh Phật danh một trăm biến, lập đại hội vô già mười lượt. Và vào trong nội cảnh trú trì khắp không thể sánh ví. Phàm nắm giữ giáo pháp, truyền trao từ miệng Phật sanh, Sư có các môn nhân như Đàm Tuấn, Sùng Mặc ở chùa Pháp Hoa, Sùng Nhất ở chùa Long Hưng, Trí Phù,

Xứng Tâm, Sùng Nghĩa ở chùa Khai Nguyên, Hoài Tiết ở chùa Hương Nghiêm, Hồng Bái, Giác Dẫn, Quán Đảnh ở chùa Bảo Lâm đều chẳng làm nghiêng bát dầu, không làm thủng phao nổi, kinh chẳng nói vậy ư? Như rừng Chiên Đài thì cây Chiên Đàn bao bọc, như Sư Tử đầu đàn thì đàn sư tử vây quanh. Tin oai thần của Sư là có, mà công đức của pháp chủ chẳng khắc. Sư sắp biết ba cõi chẳng an, trăm loài đều diệt tận. Đời nay đã đến hơi thở cuối cùng, kiếp khác ứng hiện ngay ở trước tâm! Đến năm Nhâm ngọ (72) tức niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất, cơ duyên hóa đạo của Sư đã mãn. Ngày 3 tháng 11, Sư thị hiện bị bệnh ở trên giường dây, tới ngày mồng 7 vào giờ ngọ, Sư an tọa thị tịch ở viện Giới Đàn, thọ sáu mươi tám tuổi. Mãi đến ngày 2 tháng 11, an táng dưới núi Tần thuộc phía Nam của chùa. Xây hai ngôi tháp cao, ánh sáng chói vượt mây trắng, trồng ngàn gốc thông, sắc đẹp bao trùm cả trăng sáng.

Kinh thỉ thì Thần Ung; Sùng Hiểu, Trú Trì thì Duy Trạm, Đạo Chiếu đều đích thân hộ trì thánh trường, truyền trì trí ấn. Ngoài ra, Sư còn có ba ngàn môn nhân, năm trăm đệ tử, nương pháp sâu mầu của Bát-nhã, thọ trì mật hạnh của Tỳ-ni. Đều gọi là chuyên môn, chẳng đợi chờ Di-lặc. Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 1 (76) tức năm Bính thân, Vạn Tề Dung soạn văn bia, tán dương đức hạnh của Sư.

12. Truyện ngài Đức Tú trụ chùa Linh Trí ở Hàng Châu thời Tiền Đường:

Thích Đức Tú, họ Tôn, người ở xứ Phú Dương, từ thuở thiếu thời Sư ra khỏi vực trần, sớm nương nơi Phạm Vũ, tròn đầy giới hạnh, giữ gìn phao nổi, chẳng định thường sư, lưu thần nơi Luật phủ, ngoài việc giảng đàm, Sư thường buồn thương Thần quỷ thiếu ăn, những lúc đêm khuya sư hay cấp thí cho chúng ăn uống. Dân chúng ở vùng Chiết, Nhuế đều khuynh thành kính phục. Đến lúc Sư thị tịch, tại núi Sư ở có nhiều việc linh dị. Lúc đó là đầu niên hiệu Thiên Bảo (72), khi đón rước thần tòa nhập tháp thì từ giữa trời có bảy viên xá-lợi rơi xuống. Môn nhân dùng bình đựng. Lúc bít cửa tháp lại thấy được trên răng Sư phát sanh xá-lợi lăng xăng rơi xuống. Người sau lại dùng nhiều viên gạch lớn đắp thành tháp. Có người trong làng nói rằng: “Ở đó thường có con rắn trắng nằm cuộn quanh giữ tháp. Nên các trẻ nhỏ hái củi, chăn thú chẳng dám đến gần tháp”.

13. Truyện ngài Ái Đồng trụ chùa Khai Nghiệp, thời Tiền Đường:

Thích Ái Đồng, họ Triệu, vốn là người xứ Thiên Thủy, gia đình nhiều đời làm quan. Từ thuở nhỏ, Sư đã trội vượt, ân ban cho đến làm con nhà Phật. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư giảng luật Di-Sa-tắc, xa gần đến thọ học như loài lông vẩy tôn sùng Côn phụng.

Trước kia vào thời Nam Tống, Tam Tạng Pháp sư Giác Thọ người nước Kế-tân dịch thành bộ luật nầy. Nhân đó trích ra yết-ma một quyển. Bởi vì thời vận đổi dời, bản đó lưu lạc, tìm lại không được nên các hàng học giả không do đâu mà y cứ. Sư bèn y ăn cứ trong đại luật sao xuất ra yết-ma một quyển. Nên học giả tông đó hưng thạnh mở mang truyền bá, việc đó mới toàn hảo.

Vào niên hiệu Thần Long (70-707) dưới thời vua Trung Tông, rất thạnh việc phiên dịch mở mang truyền bá. Sư cùng các ngài Văn Cương v.v… đồng tham dự dịch trường, và suy cử Sư làm chứng nghĩa. Các bộ kinh do Ngài Nghĩa Tịnh dịch ra đều có có công sức của Sư. Sư soạn “Ngũ phần luật sớ” mười quyển, lại di chúc cho luật sư Huyền Thông ở chùa Tây Minh lo việc nhuận sắc. Sau, An Sử Thục nhiễu loạn đốt cháy tiêu chùa, nên nay không còn loại ấy!

14. Truyện ngài Luật sư Thuyên ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:

Luật sư Thuyên, người huyện Ngũ Đài, ăn mặc theo người xuất gia, đến tuổi hai mươi thọ giới cụ túc. Sư có nghi tắc thanh nhã, giữ gìn chừng mực, tập học Tỳ-ni làm chính, thực hành hạnh Bồ-tát. Ngoài việc dạy dỗ đồ chúng ra, Sư giữ sự nghiêm mặc không phiền nhiễu xa gần, có việc gì Sư thảy đều dự biết. Nên mọi người cho rằng Sư Đắc Tha tâm thông. Ngày ăn một bữa, áo xấu che thân, chẳng cất giữ hạt gạo, phòng không vải vóc. Sư vốn tiết dụng, nhanh nhẹn không ai bằng. Ngày Sư thị tịch, có mây lành ùn đến bít kín, tiếng nhạc trời nghe văng vẳng. Tăng chúng cả chùa đều nghe mùi hương lạ phảng phất. Sư mới nhóm họp tăng chúng trong chùa, rồi chắp tay dặn dò, từ biệt môn nhân, xong, Sư ngồi kiết già mà thị tịch.

15. Truyện ngài Pháp Thận chùa Đông Hưng ở Dương Châu, thời Tiền Đường:

Thích Pháp Thận, họ Quách, người xứ Giang Đô, ở độ tuổi bé thơ còn bồng ẵm mà Sư phát chí muốn sống ở cửa Không. Thân ái ràng buộc chẳng đoạt được ý chí Sư. Sư theo Luật Sư Thành ở Diêu Đài thọ giới cụ túc. Đến nương tựa Đông tháp ở chùa Thái Nguyên mà hiểu suốt văn Luật, dứt sạch nghi ngờ. Các bậc hiền giả thời bấy giờ đều suy phục, hoặc một lời chiết phân đối với trượng biểu, tinh lý tự đắc trong Hoàn Vũ. Tiếng tăm rung chuyển chốn kinh kỳ, như rạng đông trong ngày đẹp trời, chúng Tăng các chùa đều thỉnh Sư làm cương lãnh. Sư im lặng trở về phương Đông.

Khi đã trở về Dương Đô, Phú Duẩn quận xin thỉnh Sư tụng Kim Cương Bát-nhã kinh Như Ý Luận. Bát-nhã là tâm Phật, ta đắc tâm đó, chúng sanh cũng đắc. Như ý thắng nguyện, ta nguyện như ghế, chúng sanh cũng thế. Cho rằng Thiên Thai chỉ quán bao trùm nghĩa của tất cả các kinh, pháp môn Đông Sơn là tất cả Phật thừa. Sắc không cả hai đều mất, định tuệ song chiếu, không thật có nên không thể xưng gọi. Đối với Sư, nắng nóng chẳng bận tâm, ăn chẳng cầu no, ở không đổi tòa, bốn phương cúng thí, Sư đều quy về của đại chúng. Một thân có không đều ở dưới thấp nhất, kẻ sĩ triều đình vâng mạng qua lại. Ra đường chỉ ngợi khen, trọn năm trăm số. Chẳng bước đến ngạch cửa lấy làm rất xấu hổ. Ngưỡng mong tiếp nhận được cái liếc nhìn như tẩy rửa cơn đói khát. Sư cùng người con nói dựa vào hiếu, cùng kẻ bề tôi nói dựa vào trung, cùng với người trên nói dựa vào nhân, cùng với người dưới nói dựa vào lễ. Đem Phật chỉ dạy lấy Nho thực hành hợp thành một. Hàng học giả rơi dòng lầm lẫn, nên gần gũi bắt chước theo kinh luận, Sư mời lại nghe nhận. Nên xây dựng tăng phường lớn để cảnh tỉnh quần mê, nên vẽ rộng bức tranh nhân địa của Bồ-tát, khéo giữ gìn sanh mạng, nên cứu giúp tuổi thọ của chúng sanh. Dùng văn tự độ người, nên miệt mài nơi bút mực. Vì tất cả các pháp đều là Phật pháp, nên gồm nhặt dòng Nho. Vì ngã mạn chướng ngại, nên tự mang y bát. Vì khuôn phép là trách nhiệm nên thẳng hơn trong chúng tăng. Vì phát huy đạo tông nên chỉ hành cung lễ. Vì cảm mộ Di tích nên nước khác chẳng xa. Vì Long Tượng tham bàn nên lại đến Kinh Quốc. Vì khuôn phép nghiêm minh, nên tinh nghiên Luật Bộ.

Hoàn Môn Thị Lang Lư Tạng dùng tài cao danh trọng, ít chú ý hèn kém, chỉ một lần gặp Sư mà mến mộ pháp vị tuần hoàn, chẳng thể lìa khỏi tòa. Lúc lui về, khen ngợi rằng: “Trong vũ trụ phải tin có cao nhân!” Hoàn môn ở trong viện thiết trí kinh tạng, dùng hương hoa để trang nghiêm, trời đất không ngằn mé, tượng pháp thường còn. Thái Tử Thiếu Bảo Lục Tượng Tiên, Binh Bộ Thượng Thư tất cấu Thiếu Phủ Giam Lục Dư Khánh, Lại Bộ Thị Lang Nghiêm Đĩnh Chi, Hà Nam Duẫn Thôi Hy Dật, Thái Úy Phòng Quan Trung Thư Thị Lang Bình Chương Sự Thôi Hoán, Lễ Bộ Thượng Thư Lý tranh, Từ Nhân vương xương linh soạn lang Kỳ Mẫu Tiềm thêm sự chiêm ngưỡng phụng thờ, cầu xin Sư đồng quét tước. Sư có sự cảm động đến cả triều đình tế thần như thế.

Ngày 1 tháng 10, đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 7 (78), sáng sớm tắm gội xong, đến thẳng giường ngồi kiết già, tâm hướng phụng Tây phương, mãi đến sẩm tối thì thị tịch tại biệt viện chùa Long Hưng, thọ tám mươi ba tuổi, sáu mươi hai hạ Lạp. Đệ tử tăng tục ở Tứ Nghi thuộc phương Bắc, ở phương Nam vượt quá biên lãnh. Cả ngàn họ hướng vọng buồn khóc, đến dự lễ tang có đến muôn người.

Sư có các đệ tử tài giỏi như Đàm Nhất ở Cối Kê, Hoài Nhất ở Đất Mân, Sùng Duệ ở Phương Nam, Nghĩa Tuyên ở Tấn Lăng, Tuệ Loan trụ chùa Đàm Sơn ở Tiền Đường, Pháp Du Sùng Nguyên ở Lạc Kinh, Pháp Lệ; Pháp Hải; Duy Dương; Tuệ Ngưng; Minh U; Linh Hựu; Linh Nhất v.v… ở chùa Hạc Lâm không ai chẳng thành nhạo thuyết biện tài, nhập Pháp Hoa tam-muội. Mọi người đều biết, chỗ cậy nhờ của muôn vật. Trên cõi trời cam lồ chánh vị điều nhu, trong loài người là Tượng Vương lợi căn thành thục. Dưới cây Nhạc Âm dòng suối Phước Tuệ chảy dài, trên đỉnh Linh Phong ngưỡng nhìn vầng trăng trong mát. Kim Cương quyết định, phiền não không còn, đàm hoa rộ nở tỏa ngát hương trong, ân pháp thì cảm kích khắp cả quận. Mọi người buồn bã kính thỉnh sắc thân Sư tôn trí vào linh tháp tại gò của Thục cương phía Tây Yên thành. Trong thời Tượng giáo, Ngài Minh U từ thuở nhỏ đến lúc già suy thường ở bên cạnh hầu thờ. Sau, mời Lại Bộ Viên Ngoại Lang Triệu Quận Lý Hoa làm văn bia ghi chép. Tháng 12 năm Quý Sửu (773) tức niên hiệu Đại Lịch thứ 8, Đại Lý Tư Trực Trương Tùng Thân ghi chép, Triệu Quận Lý Dương Băng đề biểu ngạch của tháp, và cũng do chính ngài Minh U chọn địa thế xây tháp. Ngang rộng như tố, cao thấp vừa chừng, chung quanh thông bốn ngã đường, bằng phẳng nhìn suốt ngàn dặm. Môn nhân chung quanh bày thì bày biện, dâng cúng danh hương. Trong pháp nạn Hội xương, ngôi tháp nầy cũng cùng chung số phận bị phá hủy.

16. Truyện ngài Đạo Quang chùa Hoa Nghiêm ở Hàng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Đạo Quang, họ Chữ, xuất gia từ thuở bé, đến tuổi hai mươi, thọ giới cụ túc. Sư đến Hòa-thượng Quang Châu (Đạo Ngạn) học thông Tỳ-ni. Bấy giờ đang mùa hạ, Thiển Đức Sùng đàn tràng chúc vọng, bởi trời ban chân sĩ làm nghĩa hổ Đông Nam, mây mưa từ muội, tiếng Đạo sênh ca. Sư trì kinh Pháp Hoa, xây dựng tháp miếu, mãi đến lúc thị tịch, thân chẳng trễ nải. Tháng 8 năm Canh tý (760) tức niên hiệu Thượng Nguyên thứ nhất, Sư thị tịch tại bổn tự, hưởng thọ bảy mươi chín tuổi, năm mươi tám Hạ lạp.

Ngày đó, mặt trời mờ tối, mưa dầm rả rích, gió dữ trọn buổi sáng cây tốt bị gãy, đó là điềm ứng hết phước nơi Đông độ. Bỗng nhiên khí lành năm mầu dong dõng như lọng che, dời nêu xế bóng chẳng tan, riêng sáng tinh lô, tức là ý vãng sanh Tây phương. Trước lúc chưa thị tịch, ngày mồng 3 tháng 8, thân phần Sư bị bệnh nhẹ, Sư bèn ngưng thần, y cứ sắc thân mà quán chiếu, thấy Đức Phật A-di-đà đầy đủ tướng tốt hiển hiện trước mặt, khắp sân hoa ngọc bích trước đây chưa từng thấy. Đến mờ sáng hôm sau, có một người lạ đến mời Sư làm Hòathượng, Sư bèn mở mắt búng ngón tay, bảo: “Chỉ phát tâm Bồ-đề!” Đến ngày mồng , hoa mạn-đà từ giữa hư không rơi xuống như mưa. Các vị trong môn nhân như Thần Liệt, Nghĩa Tân truy mộ vội vàng, mỗi người tự phân chia pháp vị, lưu bố hành hóa, chăm lo hương hỏa chẳng cùng, v.v…

17. Truyện ngài Giám Chân chùa Đại Vân ở Hàng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Giám Chân, họ Thuần, người ở huyện Giang Dương thuộc Quảng Lăng. Ở tuổi tết tóc mà Sư đã thông minh, khí độ rộng rãi, giỏi về điển yết. Sư theo cha vào chùa Đại Vân, thấy Tôn tượng Phật mà cảm động tâm xưa, nhân đó, Sư trình với cha, xin được xuất gia. Cha thấy Sư có ý chí kỳ đặc bèn chấp thuận. Sư liền đến Thiền sư Trí Mãn được Ngài dạy dỗ.

Niên hiệu Trường An thứ nhất (701), Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) ban chiếu độ tăng khắp trong nước, lúc đó, Sư đang là Sa-di nên phối hợp trụ ở tại bổn tự, sau đổi là Long Hưng. Đến niên hiệu Thần Long thứ nhất (70) thời vua Trung Tông, Sư theo Luật Sư Đạo Ngạn, thọ giới Bồ-tát. Đến niên hiệu Cảnh Long thứ nhất (707), Sư đến Trường An. Tới ngày 28 tháng 3 năm sau (708) Sư trụ tại chùa Thật Tế, Sư nương tựa bên cạnh Luật sư Hằng Cảnh ở Kinh Châu mà đắc giới. Tuy Sư mới phát tâm mà có phong thái của bậc lão thành. Hai kinh Quán, Quang, danh sư hun đúc dẫn dụ, giáo pháp Tam Tạng chỉ vài năm mà gồm thông. Động hẳn nghiêm tầm căn cơ, không hề thưởng phạt. Nói kịp Hoài Hải dùng giới luật để chỉ bày dẫn dụ, hun đúc thành tông thư một phương, hồ băng in vầng trăng đến chân trong sáng, mạo tòa nêu cao âm thanh, nhiều lành ứng đáp.

Bấy giờ, ở nước Nhật-bản có các Sa-môn Vinh Duệ, Phổ Chiếu v.v… từ phương đông đến vì kính mến pháp dùng bổ khuyết. Vào niên hiệu Khai Nguyên (713-72) thì các vị đó tới Dương Châu, bèn đến thưa hỏi Sư; sau khi đảnh lễ dưới chân Sư rồi thưa rằng: “Đất nước chúng con ở dưới biển, không biết khoảng cách đến Tề Châu là mấy ngàn muôn dặm. Tuy có pháp mà không người truyền pháp. Thí như suốt đêm có người ở trong nhà tối không đèn đuốc mà mong cầu, làm sao thấy được! Xin thỉnh Sư hãy dừng nghỉ lợi lạc ở phương này mà làm bậc Đạo Sư ở Hải Đông có được chăng?” Sư quán về nguyên do đó và xét về sự thiết tha của họ, mới hỏi rằng: “Xưa kia, nghe Thiền sư Tuệ Tư ở Nam Nhạc sanh làm Quốc Vương ở nước đó, Phật pháp rất phát triển, phải vậy chăng? Lại nghe Trường ốc nước đó từng sắm sanh hàng ngàn chiếc áo Ca-sa đem đến cúng thí các bậc danh đức tại Trung Hoa và trên mép viền y có thêu lời kệ rằng:

“Núi sông khác cõi
Trăng gió cùng trời
Gởi người con Phật
Kết duyên đời sau”.

Lấy đó mà suy thì đó thật là nơi có duyên với Phật pháp. Sư bèn im lặng mà hứa đi, gọi là Trường ốc tức là Tướng Quốc.

Thật ra là kính mến mười bốn vị như, Tỳ-kheo Tư Thác v.v… mua thuyền từ Quảng Lăng mang kinh luật pháp lìa bờ, phát xuất lúc đó là tháng 6 niên hiệu Thiên Bảo thứ 2 (73) vậy. Đến phố Việt Châu, dừng ở nơi biệt thự Phong sơn. Ban đêm, Sư mộng thấy điều rất linh dị. Vừa mới ra biển, gặp phải sóng gió dữ dội, người và thuyền đều bị đắm, có người ném cây sạn… hương, nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: “chớ nên ném bỏ”. Khi đó thấy ở đầu và đuôi thuyền mỗi nơi đều có thần đem giới giáp chống đỡ. Chốc lát, gió ngưng lặng, bỗng trôi dạt vào biển rắn. Rắn ở đó dài hơn ba trượng, mầu vặn vện như gấu. Sau lại xuống trong biển, cá ở đó dài hơn cả thước, bay đầy trong hư không. Thứ đến một bể cá thấy toàn chim bay nhóm họp trên lưng thuyền, muốn nhận chìm đó. Vừa kịp lên khỏi biển chim thì thiếu nước, ghé vào một đảo nhỏ, có ao nước trong rất sâu, mọi người uống cảm thấy ngọt và mát. Tiếp đến là tới được nước Nhật-bản. Vua nước đó rất vui mừng đón rước vào trong một ngôi chùa lớn ở trong thành để an nghỉ.

Trước tiên, Sư thiết lập đàn tràng trước điện Lô-Xá-Na, truyền giới Bồ-tát cho vua nước đó, và tiếp theo là các hàng phu nhân, Vương tử, v.v… Sau đó Sư bảo các Sa-môn hữu đức ở nước đó đủ số mười vị, độ cho các Sa-di Trừng tu v.v… tất cả bốn trăm vị. Sư dùng nghi thức tác pháp bạch tứ yết-ma. Có vương tử nhất phẩm Thân Điền sửu nhà thành chùa, đặt tên là “Chiêu đề”, cúng thí một trăm khoảng ruộng nước. Từ đó về sau, Sư luôn giảng giải luật tạng, người đến thọ học rất đông. Ở nước đó tôn xưng Sư là “Đại Hòa-thượng”, là vị Thỉ Tổ mở mang giới luật.

18. Truyện ngài Thủ Trực trụ chùa Linh Ẩn ở núi Thiên Trúc, thuộc Hàng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Thủ Trực tự là Kiên Đạo, người xứ Tiền Đường, họ Phạm, là cháu đời thứ tám của Tín An Thái Thú Hoàng đời Tề. Sư đến tuổi hai mươi, các bậc quân tử đều quý trọng. Sớm có ước mong của Khâu Viên, chẳng đoái hoài sự ban tặng của Huyền…

Sư đến Đại sư Viên trụ chùa Chi Hình ở Tô Châu cầu thọ giới Cụ túc. Đêm đó trong mắt Sư phát ra luồng sáng xa hơn cả trượng, giữ rất lâu mới tắt mất. Đó là ứng nghiệm của sự đắc giới. Sau, Sư đến nương tựa Chân Công ở Giang Lăng, suốt ba năm luyện hạnh. Sư tìm lễ khắp trong nước hơn hai trăm quận, các nơi có thánh tích Sư đều đến. Sư được Tam Tạng Pháp sư Vô Úy truyền cho giới Bồ-tát. Nghe Đại sư Phổ Tịch đang truyền dạy kinh Lăng-già Tâm Ấn, giảng Khởi Tín Tông luận hơn hai mươi biến, Nam Sơn Luật sao bốn mươi biến, như một cơn mưa bình đẳng thuận theo cả hai căn cơ Đại Tiểu, trong một viên âm không hề khác nhau. Sư bèn lập nguyện tụng kinh Hoa Nghiêm, lại nửa đêm mộng thấy vị Thần ban cho một viên ngọc báu, đến lúc thức dậy vẫn còn mơ màng như viên ngọc còn nắm trong tay. Năm đó, Sư vào núi Ngũ Đài đọc tụng kinh Hoa Nghiêm hai trăm biến, tìm lại tâm xưa. Đọc xem Đại Tạng kinh ba lược, mở rộng thêm chánh kiến.

Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 26 (738), vua Huyền Tông có ban chế đề cử chư tăng cao hạnh, Tăng tục thỉnh chánh danh thuộc chùa Đại Lâm, sau dời tịch đến Thiên Trúc, trụ tại núi Linh Ẩn, lúc đó là niên hiệu Đại lịch thứ 2 (767). Đến tháng 3 niên hiệu Đại Lịch thứ (770), Sư đang trụ viện Tịnh Độ thuộc chùa Long Hưng, nói với những người chung quanh rằng: “Bậc chí nhân nương chân như mà đến, nương chân như mà đi. Chỉ bày tâm ấy, mà hàng phàm phu ham muốn dùng sợi dây dài để ràng buộc vầng mặt trời trong sáng kia, làm sao được ư? Nay tôi như mặt trời xế bóng trên đầu cây dâu, đâu có lâu dài!”. Đến ngày 29 tháng 3, Sư thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi, bốn mươi lăm hạ lạp.

Suốt quãng thời gian Sư lâm đàn, độ người rất nhiều, trong đó có những vị nổi tiếng như Biện Tú ở Động Đình, Hạo Nhiên; Huệ Phổ, Đạo Trang ở Hồ Châu, Thanh Giang, Thanh Nguyên ở Cối Kê, Trạch Lân, Thần Yển ở Hàng Châu, Đạo Tấn ở Thường Châu, Trú Công soạn bài minh trên tháp.

19. Truyện ngài Nghiêm Tuấn ở chùa Đại Minh ở Hồng Châu, thời Tiền Đường:

Thích Nghiêm Tuấn, họ Phàn, người ở xứ Duy Châu. Cha của Sư giữ chức Hợp Châu Trường Sứ Chiêu Vương Phủ Tư Mã. Tánh Sư vốn thấp kém nhưng học tập thông minh lanh lợi. Năm mười chín tuổi, Sư ứng cử khoa thi Tiến sĩ, chợt gặp phải trà liêu, nghĩ lo báo đáp cù lao!

Sư đến chùa Phật ở Nam Dương, sau đến lan-nhã ở núi Ngọc Tuyền thuộc Kinh Châu, gặp được Thiền sư Chân chỉ dạy pháp Thiền Quán, Sư vào thành ghé trụ chùa Đại Vân, Ngài giữ gìn Giới ấn, sử dụng không cùng, nương phao nổi mà qua sông, thoáng sang chúng thỉnh lâm Đàn, lại nêu Tông chủ Luật Tạng, kim nghê vâng mạng. Bỗng gặp được Thiền sư Quán Tịnh, chóng tỏ ngộ Tâm pháp.

Niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766) Sư muốn đến núi Thạch Lương, chưa tới Lô Lăng, gặp Ngạn Lỗ Công, mỗi lời khế hợp nhau như keo sơn. Mùa Xuân năm sau (767), Nghi Xuân Thái Thủ Tỷ Tăng Chánh thỉnh Sư. Đến mùa xuân niên hiệu Đại Lịch thứ (769), Hồng Châu thứ sử Lý Hoa Viên Ngoại thỉnh Sư vào trú chùa Đại Minh. Khoảng giữa tháng , bỗng nhiên Sư bảo tắm gội thay áo rồi hướng lên hư không, chắp tay mà thị tịch, thọ năm mươi chín tuổi.

Các đệ tử Viên Ước v.v… đón rước nhập tháp, lập văn bia ở suối lớn trước chùa.

20. Truyện ngài Đàm Nhất trụ chùa Khai Nguyên ở Cối Kê, thời Tiền Đường:

Thích Đàm Nhất, họ Trương, người ở xứ Cái Hàn. Tổ tiên Sư là người Hiên Viên, giúp cho dòng họ rất tốt lành, phụ giúp Hán Hầu lưu lại. Trong khoảng thời Ngụy – Tấn đã hoàn ý mão để kế thừa. Tằng tổ Sư húy là Hằng, làm chức Thái thường khanh ở đời Tùy, theo đường vua đi tới Dương Đô bèn làm nhà ở đất Việt, sanh ra ông nội Sư là Hiếu Liên Dực, Dực lại sanh ra Xứ Sĩ Siển tức cha của Sư, tính tới Sư là đời thứ ở Giang Nam.

Sư sớm gieo nhân thanh tịnh, sanh tánh trí tuệ, thuở nhỏ đã dĩnh ngộ, lúc trưởng thành thì thông minh. Năm mười lăm tuổi, Sư theo Lý Thao tiên sanh tập học Thi lễ, suốt ngày chẳng trái. Năm mười sáu tuổi, nghe pháp sư Lượng ở chùa Vân Môn giảng giải kinh luận, nghe qua một biến Sư thấu suốt nghĩa mầu. Pháp sư Lượng lấy làm lạ, nói với mẹ của Sư họ Mạnh rằng: “Đây là Phật tử, nếu cho xuất gia thì ta sẽ chấp nhận!” Pháp sư Lượng là thầy truyền giới Bồ-tát cho vua Trung Tông, nên Sư nghe mà vui mừng, có ý chí muốn độ đời. Vào niên hiệu Cảnh Long (707-710), Sư vâng thừa ân ban của cha mẹ mà xuất gia, thuộc nơi

Tăng Lục. Năm đủ hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc với Luật Sư Huyền Sưởng ở Đan Dương, Sư học thông bộ “sự sao” với Luật Sư Đàm Thắng ở Đương Dương. Thế rồi, mái gỗ thấy khói, trông nhìn tường vách thấy được chỗ sâu mầu.

Niên hiệu Khai Nguyên thứ (717), Sư đến Trường An, nương Luật Sư Đại Lượng ở chùa Quán Âm và được truyền trao Tỳ-ni Tạng. Sư lại nương Pháp Sư Đàn Tử ở chùa Sùng Thánh học các luận Duy thức, Câu-xá v.v… Sư đến chùa An Quốc theo vị Sa-môn người Ấn Độ thọ giới Bồ-tát. Từ đó Sư thật trọn nghĩa hoa sen chẳng nhiễm bùn, thành đạt ý chỉ cam lồ sâu lắng. Sư truyền đuốc tuệ, rõ làm Phạm Hùng, xa gần đều chiêm ngưỡng như Tông Sư. Nhưng sự bén nhạy có dư, thời gian gồm ngoại học. Sư từng hỏi về Chu Dịch với Tả Thường thị chữ vô lượng, luận bàn về sử ký với Quốc Tử Tư Nghiệp Mã Trinh, bèn suốt cùng mọi nghề săn bắn chài lưới trong trăm họ, bao trùm cả sáu sách, sự thấy biết thêm rộng lớn. Từ đó, đối với Sư thì Nho gia, Điều ngự, Trời, người đều là nhân Phật sự, Công Khanh kính mến, kinh đô lắm nhờ. Bấy giờ, Thừa tướng Yên Quốc Công Trương Thuyết Quảng Bình, Tống Hoàn Thượng Thư Tô Hoài Duyên, Quốc Lăng Trượng Tiên bí thư giam gia tri chương, Tuyên Châu kinh huyện lệnh Vạn Tề Dung vì đồng thanh, đều làm thầy bạn. Tuy chi nhánh đã nhóm họp, luống mừng cho Sư nhóm họp của Tông. Lôi, Lô Khâu chưa gọi là nhiều.

Luật Tứ Phần, do Tam Tạng Pháp sư Phạm Tăng đời Hậu Tần là Phật-đà-da-xá truyền tụng đến Trung Hoa, cùng với Pháp sư La-thập phiên dịch, trao nguyền từ đó đến đất Ngụy, do pháp sư Pháp Thông là người đầu tiên diễn giảng, truyền cho ngài Đạo Thông, Đạo Thông truyền cho Quang. Đến đời Tùy luật sư Lệ thuộc tướng bộ soạn sớ mười quyển, luật sư Mãn Ý chùa Sùng Phước ở Tây Kinh truyền bộ sớ đó rất thạnh hành, và trao truyền cho luật sư Lượng, luật sư Lượng mở mang truyền bá mỗi mỗi đều y cứ theo sớ giải của luật sư Lệ, và đến đầu thời Tiền Đường luật sư Đạo Tuyên ở Chung Nam soạn thuật bộ Tứ Phần luật sao, ba quyển, nói rõ sơ lược về sự đồng dị, Sư tự soạn bộ Phát Chánh Nghĩa Ký, mười quyển, nói về sự lẫn lộn giữa hai tông, phát ra mấu chốt của năm bộ. Hàng hậu học tỏ ngộ như đi đêm có đuốc. Nghi ngờ trước kia tan vỡ, mặt trời lên thì băng tiêu. Mặt trời Phật soi sáng trở lại Trung Hoa, rường cột giáo pháp cao ngất. Trong phát chánh ký bác bỏ Nam Sơn, trong trì phạm có thể thấy rõ.

Đến niên hiệu Khai Nguyên thứ 2 (737), Sư chống tích trượng trở về phương Đông. Năm sau (738), vua Huyền Tông ban chiếu mời Sư trụ chùa Khai Nguyên, Trưởng Sứ Trương Sơ đề cử Sư làm tự chủ, nhân đó mà Sư ở vậy. Tiếng tăm Sư rung chuyển đến Kinh Hoa, đạo cao tới ngô Hội. Sư ban rải lòng đại từ để nhiếp chúng, tu muôn hạnh để hiển bày oai nghi. Thuận phong hỏi đạo như đánh xác xoa vai, người đến thưa hỏi nhiều như sóng chồng chất, mây tụ hội. Hạn lượng luống thọ, Sư tùy đó giảng nói. Nên trước sau Sư đã giảng luật Tứ phần ba mươi lăm biến, san bổ sao hơn hai mươi biến. Các hàng Thích tử ở Giang Hoài cầu thọ giới, nếu chẳng phải do Sư đăng đàn thì là không đắc giới. Hạng thọ trì Tăng luật, Sư độ người có đến cả mười muôn.

Vào niên hiệu Chí Đức (76-78), nước nhà trải qua lắm sự khó khăn, Tăng đồ mạn pháp, ít học kinh giáo. Quốc tướng vương công ra trấn tại đất Việt cho rằng Sư là bậc Danh Đức vốn cao nên thỉnh làm Tăng Thống. Sư hoàn toàn thanh tịnh, mở mang huân tu, chỉ thời gian mười ngày mà bỏ tà nhập về chánh. Sư khéo dẫn dụ ngầm khai hóa đều giống như vậy.

Đầu tiên, Sư vào quan yết kiến Pháp sư Minh Đạt. Ngài Minh Đạt chăm chú nhìn Sư và bảo: “Ông là bậc sư tử trong loài người!” Ngài lại gặp Tỳ-kheo-ni Từ Hòa ở chùa Tuân Thiện và được khen ngợi rằng: “Sư Đàm Nhất Giảng Giải Tỳ-ni, Sư rất thông minh lại không nghi, Sư thật xứng đáng như đồn đãi là bậc Đạt Nhân!”

Vào niên hiệu Thiên Bảo thứ 1 (76), Chế Hà Triều thủy nam khơi Tiền Đường, chùa Đại Vân đang lúc cần kíp, nhân đó thỉnh Sư giảng luật. Học chúng đông đến cả ngàn người, đều phát đại nguyện, thường xưng niệm Ma-ha Bát-nhã, bèn dừng sóng gió, do phước ngũ tư Long Vương, dùng đó để trang nghiêm mong cầu che chở. Giữa đêm 30 tháng , Sư thấy một vị thần áo mão rất hùng vĩ đến cúi đầu bái tạ rằng: “May nhờ Sư ban trải pháp thí nên thay đổi dòng sóng, chưa đến chín mươi ngày mà bãi cát trương xa đến năm mươi dặm”. Tăng tục đều kinh lạ, khen ngợi được điều chưa từng có! Sư làm pháp chủ, mở rộng dấu vết giáo pháp, phát sáng sự phó chúc của các Đức Phật trước, bảo chứng hộ niệm cho các Đức Phật ngày sau. Sư làm kệ bốn câu, người thọ trì rõ được điều chưa rõ. Một lời Sư giảng pháp, người lắng nghe được điều chưa nghe. Há chẳng phải là trời đất thuần tinh, núi sông hiển linh cùng với pháp hiển bày mà sanh, ai có thể huyền thông mật chứng, lớn lao như vậy ư? Trong chùa đúc một quả chuông lớn, xa thì trưng bày họ phù gần cửa Pháp Lôi, sống còn nhiều năm đúc nắn thành quy chế. Sau khi Sư thị tịch ba ngày trở thành nơi đúc tạo. Âm ba vang đến ngàn dặm, khiêng vác muôn câu, bồ lao kêu mà đất rung chuyển, sư tử gồm mà núi ngã lăn, thức tỉnh kẻ tục tai điếc, dẫn dắt người lạc lối, đâu có thể nói hết ư? Pháp tạ hình lìa củi tàn lửa tắt. Đến ngày 17 tháng 11 niên hiệu Đại Lịch thứ 6 (771), Sư thị tịch tại luật viện của chùa, thọ tám mươi tuổi, sáu mươi mốt hạ lạp. Đến ngày 2 tháng 11 năm sau, dời tòa đến núi Tần Vọng, theo nghi thức của các vị Hòa-thượng trước.

Sư một đời niên lạp đã cao, tinh sáng càng giũa mài. Đã không suy yếu, ban đầu không bệnh khổ. Bỗng nhiên Sư bảo cùng thị giả rằng: “Ta sắp quét tước lễ bái phần tháp, quy cốt tại đây”. Sau đó vài ngày, Sư an nhiên thị tịch. Ở phía ngoài Hà Lạc thuộc phía Nam Giang Hoài, y theo chế phục đến tiễn đưa lễ tang đầy núi, phướn đẹp che rải đồng quê, sánh như mẹ của Phu Kịch Mạnh đưa ngàn cỗ xe đến mộ của Khổng Khâu, trồng muôn gốc cây, có thể đồng năm ư?

Ngài có các Môn nhân đệ tử như: Thường chiếu chùa Diệu Hỷ ở Việt Châu, Thanh Nguyên chùa Kiến Pháp, Thần Ngoạn chùa Long Hưng ở Hồ Châu, Đạo Ngang chùa Ẩn Tĩnh ở Tuyên Châu, Nghĩa Tân chùa Long Hưng ở Hàng Châu, Trạm nhiên chùa Quốc Thanh ở Đài Châu, Biện Tú chùa Khai Nguyên ở Tô Châu, Chiếu Lượng chùa Thê Hà ở Nhuận Châu, Pháp Tuấn chùa Long Hưng ở Thường Châu v.v… sớm khai phát người mới học, nhưng nhờ chỉ dạy ba ngàn đệ tử, kính ngưỡng Lương mộc mà thêm buồn thương, tám mươi ngàn môn nhân trông ngóng Chiêu Đàn mà chẳng kịp. Bấy giờ, Từ Công Hoạt ở Cối Kê vốn xưa là Đôn hương Lý soạn văn bia khen ngợi đức hạnh của Sư. Lúc đó là niên hiệu Đại Lịch thứ 11 (776).

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

(Quyển 14 hết).