TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 89

Hỏi: Chư Phật chỉ có một Pháp thân, tại sao nói ba thân sai biệt ?

Đáp: Căn cứ vào dụng phân ba, thể chỉ một. Thức Luận nói: “Như vậy Pháp thân có ba tướng sai biệt:

1- Tự tính thân, là pháp giới chân tịnh của chư Như Lai, là chỗ nương của thọ dụng biến hóa bình đẳng, lìa tướng lặng lẽ bặt các hý luận, đầy đủ công đức chân thường không bờ mé, là thật tính bình đẳng của tất cả pháp. Tự tính này cũng gọi là Pháp thân, vì là nơi nương tựa của pháp công đức to lớn.

2- Thọ dụng thân, có hai loại:

– Tự thọ dụng, nghĩa là chư Như Lai tu tập vô lượng tư lương phước tuệ, khởi lên vô biên công đức chân thật và sắc thân cực viên tịnh thường khắp, lặng lẽ tương tục tận thuở vị lai luôn tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn.

– Tha thọ dụng, nghĩa là chư Như Lai do bình đẳng trí, thị hiện thân vi diệu công đức thanh tịnh chỉ ở nơi tịnh độ, các Bồ-tát trụ Thập địa, hiện đại thần thông, chuyển chính pháp luân, giải quyết các điều nghi khiến họ thọ dụng pháp lạc đại thừa.

3- Biến hóa thân, nghĩa là chư Như Lai do thành sự tri biến hiện vô lượng tùy loại hóa thân ở nơi tịnh uế độ, các Bồ-tát chưa lên các Địa, nhị thừa và dị sinh, xứng hợp cơ nghi hiện thần thông thuyết pháp, khiến mọi người đều được lợi lạc”.

Thế nên chuyển diệt ba tâm được ba thân: một là căn bản tâm, tức thức thứ tám chuyển được pháp thân; hai là y bản tâm, tức thức thứ bảy chuyển được báo thân; ba là khởi tự tâm, tức sáu thức trước chuyển được hóa thân.

Một là đoạn đức, đoạn tất cả phiền não tức là pháp thân; hai là trí đức, bao gồm bốn trí là báo thân; ba là ân đức, thương xót nuôi dưỡng tất cả hữu tình là hóa thân.

Từ nhất tâm khởi lên bát giải thoát, lục thông, thành tựu tam thân, tứ trí, bát thức, trọn không có một lý một hạnh từ bên ngoài đến, mà đều từ tự thức làm ra nhất tâm mà chuyển, cho đến một thân vô lượng thân, như kinh Hoa Nghiêm nói vô lượng thân vân trùng trùng vô tận đều từ tính khởi vô ngại viên dụng.

Lại Cổ đức hỏi: Nói pháp thân đó, pháp là nghĩa quỹ trì; quỹ là quỹ tắc, khiến vật sinh giải, tức pháp thân, vì hay khiến ba căn bản trí mà sinh sự hiểu biết. Trì là nghĩa nhậm trì, chẳng bỏ tự tính, nghĩa là giữ gìn thể ngưng lặng của pháp thân, vì chẳng bỏ tự thể vô vi. Chẳng hạn như ngay lúc căn bản trí chứng như, chẳng khởi kiến giải về như, năng sở thầm hợp một thể, như ánh sáng mặt trời hợp với hư không chẳng phân kia đây, là không phân biệt làm sao có kiến giải chân chính. Nếu có nghĩa quỹ giải là có phân biệt; nếu có phân biệt thì đâu khác với hậu đắc trí ?

Đáp: Luận về phân biệt có ba thứ:

1- Tùy niệm phân biệt, sát-na niệm sau nối tiếp niệm trước.

2- Kế đạc phân biệt, so đo cùng khắp.

3- Tự tính phân biệt, tự động duyên cảnh chẳng vướng mắc danh ngôn.

Hiện tại căn bản trí chứng chân như, chỉ cần không tùy niệm phân biệt và kế đạc phân biệt gọi là vô phân biệt, nhưng chẳng ngại có tự tính phân biệt. Như người uống nước tuy không nói ra nhưng lạnh nóng tự biết, cho nên biết cũng có nghĩa quỹ.

Hỏi: Biến hóa thân và tha thọ dụng thân là tâm chân thật hay là tâm hóa hiện ?

Đáp: Hai thân này là hóa, nhưng hóa chẳng lìa chân. Thức luận nói: “Hai thân này tuy không có tâm và tâm sở chân thật mà có tâm và tâm sở pháp hóa hiện”. Thần lực của bậc vô thượng giác khó lường nên có thể hóa hiện pháp không hình chất. Nếu chẳng như thế, Như Lai làm sao hiện tham sân v.v… Nếu Phật đã đoạn tham sân từ lâu thì làm thế nào Thanh văn và loài bàng sinh v.v… biết tâm Như Lai ? Vì thật tâm của Như Lai, Bồ-tát Đẳng giác còn chẳng biết, kinh này nói hóa ra vô lượng loài đều khiến cho có tâm. Lại nói thành sở tác trí của Như Lai hóa thành ba nghiệp. Lại nói biến hóa có y tha tâm, vì y tha thật tâm tướng phần hiện; cho đến tự tính pháp thân chỉ có thường lạc ngã tịnh chân thật, lìa các tạp nhiễm, chỗ nương các điều thiện, công đức vô vi, tướng dụng sai biệt không sắc tâm. Tự thọ dụng thân đầy đủ vô lượng công đức chân thật diệu sắc tâm. Nếu tha thọ dụng thân và biến hóa thân chỉ có vô biên công đức tợ sắc tâm lợi lạc tha dụng hóa tướng. Thế nên pháp thân thanh tịnh diệu thể của Như Lai chẳng đến chẳng đi, như bóng, như tượng, như nhật nguyệt của Tứ thiên vương hiển hiện trong nước trong sạch chẳng ra chẳng vào; như cung điện của Kiều-thi-ca hiện ra trên đất lưu ly chẳng phải có, chẳng phải không. Luận Niết-bàn Vô Danh nói: “Pháp thân vô hình ứng vật có hình, Bát-nhã vô tri đối duyên liền chiếu, vạn cơ chợt đến mà không quấy nhiều, thần thiên khó sánh mà chẳng liên can; lự động như đi trên mây thì thần rỗng như hang núi nào có tâm nơi ấy!”

Tình này hệ thuộc vào động tĩnh, nếu đã vô tâm đối với động thì tĩnh cũng không có hình tượng đối với đến đi. Vì đến đi chẳng nhờ hình tượng nên không đồ vật nào mà chẳng có hình; vì động tĩnh không do tâm nên không cảm nào mà chẳng ứng. Vậy thì tâm sinh nơi có tâm, tượng xuất nơi có tượng. Vì tượng chẳng phải do ta xuất nên vàng đá lưu xuất mà chẳng hao tổn; vì tâm chẳng phải do ta sinh nên sử dụng hằng ngày mà chẳng nhọc nhằn; rối rắm từ kia, nơi ta làm gì đâu! Do đó trí khắp vạn vật mà chẳng nhọc, hình đầy tám hướng mà chẳng lo; thêm mà chẳng đầy, bớt mà chẳng thiếu; trong bệnh tật há có sự chấm dứt thọ mạng tại Song Thọ; linh giác tắt lịm nơi kim quan, nhục thể cháy rụi ư ?

Thế nên chư Phật chẳng xuất thế, cũng chẳng nhập niết-bàn, vốn ngộ chân tâm thành đạo; chân tâm vô hình há có ẩn hiện sao ? Chỉ tùy có tâm của chúng sinh căn cơ thuần thục mới cảm để thấy thân báo, hóa. Những gì thấy nghe đều là bóng dáng trong tâm chúng sinh, nên nói tâm sinh nơi có tâm, tượng xuất nơi có tượng. Vậy thì chư Phật không tâm không thân thì làm gì có lo nghĩ mệt nhọc! Pháp sư Phục Lễ nói về nghĩa ba thân như sau: “Pháp thân như tính hư không mây tụ thì tối, mù tan thì sáng, tính nó vốn thường hằng. Báo thân như mặt trời trong hư không càng lên cao càng chiếu sáng, thể nó hằng còn. Hóa thân như bóng soi đáy nước; lặng trong thì hiện, nước đục thì ẩn; ẩn hiện chẳng thường, vãng lai vô định”.

Hóa Phật là dụng của báo thân viên ứng; báo thân là thể của bi trí làm thành. Bi lấy sự cứu độ rộng rãi làm lý, trí lấy sự quyền biến khéo léo làm nghiệp. Do đó nhân nơi giáng tích, tùy vật hiện thân. Thân tích là dụng, bi trí là thể. Thể là gốc, dụng là ngọn, y thể khởi dụng, nhiếp ngọn về gốc. Muốn tìm sự khác biệt, lý có thể đúng sao! Báo thân tức hóa, hóa thân tức pháp. Hóa thân là pháp lý vi diệu, xin mượn ví dụ cái bóng để trình bày: Bóng mặt trời trong nước chẳng từ ngoài đến, chẳng từ trong ra, chẳng đây chẳng kia, chẳng khác chẳng một, chẳng không hình trạng, chẳng có bản chất, chợt có chợt mất; tượng bám mà động, tính linh mà lặng. Chấp thật là thành vọng; biết vọng là rõ thật. Mặt trời như thế nào ? Nếu nó từ ngoài đến thì ở ngoài nước tồn tại chăng ? Nếu nó từ trong ra thì trong nước đã có sẵn sao ? Nếu nói nó ở đây sao ở kia chẳng thấy; nếu nói nó ở kia sao ở đây chẳng thấy. Nếu nói là dị thì một thấy có hai sao; nếu nói là một thì hai thấy thành một sao ? Nếu nói là không thì cái thấy có thể mất sao ? Nếu nói là có thì tìm cái thể từng được chăng ? Nghĩa là sự sinh của nó không từ đâu sinh; sự diệt của nó không đi về đâu, vậy thì bất sinh bất diệt, tính tướng lặng lẽ, đường tâm ngôn dứt. Đây gọi là thấy thật tính của nước và bóng. Thấy tính của bóng là có thể thấy thật tính của hóa thân. Thấy tính của hóa thân là chứng thể của pháp thân. Kinh Tịnh Danh nói: “Phật thân là pháp thân”, “quán thân thật tướng, quán Phật cũng thế”. Kinh Bát-nhã nói: “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng là thấy Như Lai”, “lìa tất cả các tướng thì gọi là chư Phật”. Thế nên dở chân hạ chân, đạo tràng hiện ra vô tận; nhắm mắt mở mắt, chư Phật hiện tiền bất diệt.

Như trên đã nói nhất thể tam thân, lý sự tương thành, thể dụng giao triệt, bất xuất bất tại, ẩn hiển đồng thời đều là bản tông chính nghĩa của nhất tâm. Thế nên một thân nhiều thân đều là pháp giới, một pháp được ngộ là pháp giới vô ngại là lý của sự, hoàn toàn ở trong nhiều; những gì hiện ra là sự của lý, hoàn toàn ở trong một.

Lại thành hoại nhất tế, duyên khởi đồng thời, như lúc mới tạo các tượng báu, mười năm tượng thành, trăm năm tượng hoại đều tại thời gian duyên khởi được tượng báu, vì trăm năm chẳng đi, hiện tại chẳng trụ. Trong duyên khởi các tượng báu không có cái thể thành hoại để thuyết minh trí tuệ vạn hạnh ba-la-mật, 37 đạo phẩm, các thiện pháp làm thành thân Như Lai. Nhưng trong mỗi duyên không có ngã, không có tác giả, không có cái thể thành hoại mới gọi là Chính giác.

Hỏi: Pháp thân chư Phật lặng lẽ minh tịnh làm sao khởi ra tướng của sáu căn ?

Đáp: Một vì ngay tướng rõ chân, đâu trái đại dụng, hai vì sự nghiệp thù thắng lợi tha chẳng đoạn hóa môn. Như luận Bảo Tính nói: “Do y theo tự lợi lợi tha thành tựu nghiệp nghĩa”. Có bài kệ:

Vô lậu và cùng khắp
Pháp bất diệt thường hằng
Thanh lương chẳng biến đổi
Chẳng thoái chỗ tịch tĩnh
Thân chư Phật Như Lai
Như hư không vô tướng
Diệu sắc thường lặng lẽ
Sáu căn thật sáng sạch
Phật nhãn thấy các sắc
Tai nghe các âm thinh
Mũi hay ngửi mùi hương
Lưỡi hay nếm các vị
Thân cọ xát tam-muội
Ý biết tất cả pháp
Trừ các hạnh rối rắm
Phật lìa tướng hư không.

Lại có bài kệ:

Như hư không vô tướng
Lại hiện các sắc tướng
Pháp thân cũng như thế
Đầy đủ tướng sáu căn.

Lại có bài kệ:

Tượng thân gương Như Lai
Lại chẳng lìa bản thể
Cũng như tất cả sắc
Chẳng lìa khỏi hư không.

Như trong kinh Pháp Hoa nói về sáu căn thanh tịnh, mắt thấy tất cả sắc, tai nghe tất cả tiếng, mũi ngửi tất cả hương, lưỡi biết tất cả vị, thân hiện tất cả cảnh, ý biết tất cả pháp.

Hỏi: Nếu chúng sinh có thể độ thì cõi chư Phật tăng, cõi chúng sinh giảm; nếu chẳng thể độ các loài thì hạnh nguyện đều vứt bỏ, làm thế nào hội thông để đoạn tà kiến ?

Đáp: Kinh nói: “Tất cả phàm phu ngu si vì chẳng như thật biết nhất pháp giới, vì chẳng như thật thấy nhất pháp giới nên khởi tà kiến cho là cõi chúng sinh tăng, cõi chúng sinh giảm”. Do đó chỉ vì chẳng như thật rõ nhất pháp giới tâm nên thấy tăng giảm.

Lại kinh nói: “Vì tướng cố định của chúng sinh chẳng thể được”. Lại kinh nói: “Vì cõi chúng sinh vô tính, vì cõi chúng sinh vô biên”. Cổ đức nói: “Nói tóm lại, cõi chúng sinh cũng như hư không, giả sử người có vô lượng thần thông thù thắng trong vô lượng kiếp đi khắp hư không, tìm biên tế của hư không trọn không thể tận, chẳng phải vì không tận mà chẳng gọi du hành, chẳng phải do du hành mà khiến được biên tế; nên biết trong đây Phật độ sinh đạo lý cũng thế, chẳng phải do sẽ đắc mà khiến có chung, chẳng phải do vô chung mà nói có vô đắc. Thế nên nếu hỏi tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật thì dù chúng sinh rất nhiều nhưng hẳn phải có chung tận, không gì chẳng thông. Luận Khởi Tín nói nghiệp tướng bất tư nghì thì cảnh giới chư Phật, vì sao bất tư nghì ? Vì phi nhất phi dị, chẳng có chẳng không, chẳng phải nói năng suy nghĩ có thể đoán định, tình giải đo lường nên gọi là nghiệp tướng bất tư nghì. Nghiệp tướng bất tư nghì này vì cùng với chúng sinh tạo ra cảnh giới sáu căn. Luận Bảo Tính nói: “Thân chư Phật Như Lai như hư không vô tướng, là bậc thắng trí tạo ra cảnh giới sáu căn, thị hiện sắc tướng vi diệu, phát ra âm thanh nhiệm mầu, khiến ngửi hương Phật giới, ban pháp vị của Phật, chạm xúc tam-muội, khiến biết rõ pháp thâm diệu, thường hóa độ chúng sinh, đây là dụng của chân như, nên gọi là bất tư nghì nghiệp.

Dụng của bản giác này cùng với tâm chúng sinh xưa nay không hai, chỉ vì bất giác chạy theo dụng nên chẳng hiện, trong tâm ấy nếu xứng hợp căn thì dụng hiển hiện mà chẳng tác ý ngã hiện sai biệt, nên gọi là tùy căn tự nhiên tương ứng thấy không gì chẳng lợi ích, là tướng của bản giác tùy nhiễm. Do đó Bồ-tát có thể thực hành phi đạo thông đạt chính đạo; nếu vào môn Tông Cảnh, đạo cứu cánh thì nhiễm tịnh do tâm, vô phi vô chính; nếu vào môn phương tiện, đạo phân biệt thì với gốc đại bi Bồ-tát thường tu hành vô ngại.

Cổ đức hỏi: Hành phi đạo là nghiệp phiền não, Bồ-tát cần phải đoạn tại sao lại tu hành ?

Đáp: Có ba nghĩa: một là tiệm xả môn, dứt ác hành thiện; hai là xả tướng môn, thiện ác đều lìa; ba là tùy tướng lợi ích môn, nhiễm tịnh đều hành. Môn thứ ba lại có ba ý:

1- Y cứ vào hạnh: tự hành tu tịnh, hóa tha tùy nhiễm.

2- Y cứ vào người: hóa phàm đồng nhiễm, hóa thành đồng tịnh.

3- Y cứ vào pháp: Tùy theo pháp thế gian ắt phải hiện nhiễm, tu pháp Bồ-tát hẳn phải tu tịnh.

Hỏi: Bồ-tát hành phi thông tu đạo gì ?

Đáp: Đạo có ba thứ:

1- Chứng đạo: nghĩa là nhị không chân như chính thể trí chứng.

2- Trợ đạo: duyên tu vạn hạnh giúp hiển chân lý.

3- Bất trụ đạo: tức là bi trí chẳng trụ sinh tử, chẳng trụ niết-bàn.

Do đó Bồ-tát thị hiện cùng làm một việc là muốn cùng với ác dứt ác, cùng thiện làm thiện; nếu giáo hóa lơ là thì khó, nên cần phải hành phi mà độ thoát họ, khiến họ ngộ nhập chân tâm đồng thể. Do đó kinh Nhập Lăng Già nói: “Bậc xuất thế gian thượng thượng ba-la-mật biết như thật chỉ là tự tâm hư vọng phân biệt thấy cảnh giới bên ngoài. Khi ấy thật biết chỉ là tự tâm, thấy các pháp trong ngoài chẳng hư vọng phân biệt, chẳng nắm lấy sắc tướng tự tâm trong ngoài. Bồ-tát ma-ha-tát như thật biết tất cả pháp nên thực hành đàn ba-la-mật, vì khiến chúng sinh được vô úy, được vui an ổn; cho đến Bồ-tát như thật quán sát tướng phân biệt của tự tâm, chẳng thấy phân biệt, chẳng rơi vào nhị biên, y như thật tu hành, chuyển thân chẳng thấy một pháp sinh, chẳng thấy một pháp diệt, tự thân nội chứng, Thánh hạnh tu hành, đây là Bồ-tát bát-nhã ba-la-mật.

Hoàn Nguyên Quán nói: “Trí thân ảnh hiện chúng duyên quán, nghĩa là trí thể duy nhất hay soi các duyên, tướng duyên vốn không, trí thể tịch chiếu. Các tướng duyên hết, chỉ còn như như, nghĩa là pháp hữu vi đều hàm chứa chân tính, cho nên biết chân tâm khắp mọi nơi, không duyên nào chẳng đủ, không pháp nào chẳng có. Do đó kinh Hoa Nghiêm nói: “Thân Phật đầy khắp pháp giới hiển hiện trước tất cả chúng sinh, tùy duyên cảm ứng mà hiện khắp nơi nhưng luôn ở nơi tòa bồ-đề”. Luận Đại Trí Độ nói: “Như mặt trời chiếu thiên hạ không quan tâm đến lên cao hay xuống thấp chỉ cần hiển hiện thôi; Phật cũng như thế, đối với các pháp Phật không tạo tác”. Kinh nói: “Thân Phật vô vi, chẳng rơi vào các số”.

Hỏi: Thật tướng nhất tâm phước trí đồng như, tại sao chia ra Phật chân hóa, hư thật ? Có sự cúng dường phước điền hơn kém ?

Đáp: Phật chẳng phải chân hóa, chân hóa từ tâm. Tâm chân thì chân phước vô biên, tâm giả thì giả báo có hạn, như có ác tâm làm thân Phật ra máu, chấp thân Phật là thật có thì máu từ tâm sinh. Nếu có lòng cung kính muốn thấy hóa thân Phật thì Phật từ tâm hiện, cho nên biết ẩn hiển tại ngã, Phật thân vô vi; hơn kém duy tâm, phước điền bình đẳng.

Luận Đại Trí Độ hỏi: Nếu Phật vô phân biệt thì cúng dường chân Phật cho đến vô dư niết-bàn được phước bất tận, cúng dường hóa Phật cũng vậy chăng ? Phật đáp: Cúng dường hóa Phật, chân Phật phước ấy không khác. Vì sao ? Vì Phật được thật tướng các pháp nên phước cúng dường vô tận, vì hóa Phật cũng chẳng lìa thật tướng; nếu người cúng dường tâm có thể không khác thì phước ấy cũng đồng.

Hỏi: Hóa Phật không có các công đức như thập lực, tại sao cùng với chân Phật đồng ?

Đáp: Các công đức như thập lực đều vào thật tướng các pháp; nếu thập lực lìa thật tướng các pháp thì chẳng phải Phật pháp, rơi vào tà kiến điên đảo.

Hỏi: Nếu vậy trong chân hóa quyết định có thật tướng các pháp, vì sao nói có ác tâm làm thân Phật ra máu sẽ bị tội nghịch, chẳng nói hóa Phật ?

Đáp: Trong kinh chỉ nói ác tâm làm thân Phật ra máu, chẳng nói đến chân hóa. Nếu cúng dường hóa Phật được đầy đủ phước thì ác tâm hủy báng Phật cũng phải chịu tội nghịch. Kẻ ác nhất định cho hóa Phật là chân mà ác tâm làm chảy máu, nếu chảy máu là bị tội nghịch, cho nên biết tùy tâm hư thật, Phật không có hình tướng nhất định, trong lý thật tướng tội phước đều lặng lẽ.

Hỏi: Báo hóa đã đồng thật tướng, tại sao trong giáo nói thọ lượng Phật có dài ngắn ?

Đáp: Vì nhất tâm chân như tính vô tận nên là thọ lượng của mười phương chư Phật. Thế nên một cân đất núi, một giọt nước biển còn có thể đo lường, hạt bụi trong hư không còn có thể đếm được, huống chi pháp thân tuệ mạng thường lạc ngã tịnh của Như Lai đâu thể tận cùng bờ mé sao ? Cho nên nói thọ mạng của pháp tính chẳng phải là mạng căn cũng chẳng liên can, gượng chỉ cho chẳng dời chẳng biến gọi là thọ mạng. Thọ mạng này chẳng dài, cũng chẳng ngắn. Không dài ngắn, gượng chỉ cho pháp giới đồng với lượng hư không. Đây là thân của phi thân, thọ của vô thọ, lượng của bất lượng. Cho nên kinh Kim Quang Minh có bài kệ:

Các sông có thế biết bao giọt nước
Nhưng không thể tính thọ mạng Thích Tôn.
Núi Tu-di có thể biết cân lượng
Nhưng không thể lường thọ mạng Thích Tôn.
Cả đại địa có thể biết số bụi
Nhưng không thể biết thọ mạng Thích Tôn.
Cõi hư không có thể tận bờ mé
Nhưng không thể lường thọ mạng Thích Tôn.

Pháp Hoa Sớ giải thích phẩm Như Lai Thọ Lượng: “Thọ mạng là nhận lĩnh. Như pháp thân chân như chẳng ngăn cách các pháp nên gọi là thọ nhận; như báo thân cảnh trí tương ưng nên gọi là thọ nhận; như ứng thân một lần được báo trăm năm chẳng đoạn nên gọi là thọ nhận. Pháp thân Như Lai lấy như lý làm mạng; báo thân Như Lai lấy trí tuệ làm mạng; ứng thân Như Lai lấy đồng duyên lý làm mạng.

Pháp thân Như Lai như lý mạng là có Phật không thật tính tướng thường nhiên, bất luận tương ưng và tương tục, cũng không có hữu lượng và vô lượng”.

Kinh nói: “Phi như phi dị phi hư phi thật là thuyên bày lượng pháp thân như lý mạng”. Thuyên bày lượng báo thân Như Lai là vì như như trí khế hợp như như cảnh, cảnh phát trí là báo, trí hợp cảnh là thọ. Cảnh đã vô lượng vô biên thường trụ bất diệt thì trí cũng như thế. Kinh có bài kệ:

Trí lực ta như thế
Do tu lâu mà được
Tuệ quang chiếu vô lượng
Thọ mạng vô số kiếp.

Đây là thuyên bày lượng báo thân Như Lai trí tuệ mạng. Thuyên bày lượng ứng thân là ứng thân đồng duyên, duyên dài cùng dài, duyên ngắn cùng ngắn, rối rắm tự nơi kia, nơi ta không làm gì. Kinh nói: “Luôn luôn thị hiện sinh, luôn luôn thị hiện diệt”. Hoặc lại tự nói danh tự bất đồng, niên kỷ lớn nhỏ, đây là thuyên bày lượng ứng thân Như Lai đồng duyên mạng.

Vô Sinh Nghĩa nói: “Tính tự như thế chính là pháp tính không, không là bồ-đề. Thân mạng đời này từ trong sự tham lam chấp thủ ở quá khứ sinh ra. Đã là pháp tính không thì phải biết thân mạng đời này cũng chính là từ pháp tính không lưu xuất. Pháp tính đã không, thân mạng được sinh ra cũng trở về nơi pháp tính không”. Cho nên kinh Niết-bàn nói: “Như tám con sông lớn và các sông nhỏ đều chảy về biển cả, cũng như thế thọ mạng của tất cả trời người trên mặt đất và hư không đều vào biển thọ mạng của Như Lai. Lại như ao nước A-nậu-đạt tuôn ra bốn sông lớn, Như Lai cũng thế xuất ra tất cả thọ mạng. Thọ mạng đã từ chân như lưu xuất thì trở về chân như, sáu căn cũng như thế cũng từ chân như lưu xuất rồi trở về chân như”.

Chính Đức Phật so lường về công đức là nếu người tin thọ lượng Như Lai như trên, ví như có người thực hành năm ba-la-mật trong vô lượng ức kiếp chẳng bằng người đem bát-nhã chính trí phát một niệm tín tâm, so với công đức trước gấp trăm nghìn vạn lần. Cho nên kinh Pháp Hoa có bài kệ:

Người này trong trăm nghìn
Muôn ức kiếp số qua,
Tu hành các công đức
Những gì đã nói trên
Có các thiện nam nữ
Nghe ta nói thọ mạng
Cho đến một niệm tin
Phước ấy vượt hơn kia.

Hỏi: Đã lập thân chính báo của nhất tâm phải có độ y báo của nhất tâm. Thân đã đủ ba, độ có mấy thứ ?

Đáp: Tùy nghĩa phân chia, tướng có nhiều thứ. Hoa Nghiêm nói có mười độ, hoặc một hai ba … khai hợp chẳng nhất định. Thiên Thai giáo nói: Cõi Phật có bốn thứ:

1- Nhiễm tịnh độ, phàm Thánh ở chung.

2- Hữu dư độ, phương tiện người cư trú.

3- Quả báo độ, thuần pháp thân Bồ-tát trụ, là nhân-đà-la võng vô chướng ngại độ.

4- Thường tịch quang độ, bậc Diệu giác trụ.

Lại kinh luận đều nói có năm độ, người xưa giải thích:

1- Pháp tính độ: Chân như làm thể, trong năm pháp lấy pháp giới thanh tịnh làm thể. Trong môn tổng tướng chân như và pháp giới không khác; trong môn biệt tướng thì có sai khác. Chân như bao gồm tất cả nhân quả nên rộng, pháp giới thanh tịnh chỉ có quả vị nên hẹp.

2- Thật báo độ: Ngũ ấm lấy công đức vô lậu như lực vô úy v.v… làm thể tính; nhiếp tướng quy tính lấy chân như làm thể, nhân tu vạn hạnh mà chiêu cảm quả báo chân thật gọi là thật báo độ ở trong tự thọ dụng thân của Phật, lấy bốn trí làm thân, nương vào công đức thập lực, tứ vô sở úy làm độ.

3- Sắc tướng độ: Nhiếp cảnh theo tâm, tự lợi hậu đắc trí làm thể, tịnh thức tự tại tột bậc làm tướng. Vô cấu thứ tám gọi là tịnh thức, là chỗ biến hóa trong đại viên cảnh trí hậu đắc trí. Nhiếp tướng quy tính cũng lấy chân như làm thể; nếu y cứ vào tướng khác biệt thì lấy bốn trần làm thể.

4- Tha thọ dụng độ: Nhiếp cảnh theo tâm, lợi tha hậu đắc trí làm thể, nhiếp tướng quy tính lấy chân như làm thể; nếu y cứ vào tướng khác biệt thì lấy bốn trần làm thể.

5- Biến hóa độ: Bồ-tát biến hóa độ hữu lậu giống như độ trước, nhiếp cảnh theo tâm bản thức làm thể. Vô lậu giống như trước, tự lợi hậu đắc trí làm thể, Phật cũng đồng thể này, y cứ vào tính thì chân như làm thể; y cứ vào tướng sai biệt thì bốn trần, năm trần làm thể. Đối với biến hóa độ, nếu trong thức thứ tám từ chủng tử biến sinh hiện hành bốn trần năm trần, gọi là nhân duyên biến; Phật chỉ vô lậu, Bồ-tát hữu lậu gồm cả tịnh uế. Nếu do thức thứ sáu, thứ bảy biến ra gọi là phân biệt biến, Phật chỉ vô lậu, báo độ hóa độ thông cả tịnh uế. Nếu thức thứ bảy ở trong hữu lậu vị, chỉ vì bên trong duyên kiến phần thức thứ tám chẳng thể biến ra độ. Nếu thức thứ tám, thứ bảy vô lậu trong hậu đắc trí mới có thể biến ra độ, chỉ là bóng không thể thọ dụng, vì chẳng từ chủng tử sinh, chỉ có thể hiện tướng tịnh uế giáo hóa chúng sinh.

Nói về tổng thể, các thân độ trên đây đều lấy nhất tâm pháp giới Như Lai tạng tính làm thể, vì pháp nhĩ; nói về biệt thể thì như trên đã trình bày.

Hỏi: Tịnh độ, uế độ là đồng thể dị kiến hay là biệt thể dị kiến, hay là vô thể vọng kiến, hay là hữu thể vọng kiến ?

Đáp: Phi đồng phi dị, bất hữu bất vô, chỉ là tùy theo tự tâm, do nghiệp hiện ra. An pháp sư nói: “Hai độ tịnh uế phân biệt bốn trường hợp: nhất chất bất thành, tịnh uế khuyết đầy; dị chất bất thành, nhất lý bình đẳng; vô chất bất thành, duyên khởi vạn hình; hữu chất bất thành, tìm nguồn liền xa”. Cho nên kinh Lăng Già có bài kệ:

Chẳng biết duy tâm hiện
Cho nên phân nhị kiến
Như thật chỉ biết tâm
Phân biệt liền chẳng sinh.

Kinh Mật Nghiêm có bài kệ:

Tâm này có hai tính
Như gương chứa các tượng
Cũng như nước hiện trăng
Mắt bệnh thấy vầng tròn
Vầng tròn châu anh lạc
Thảy đều không thật có
Chỉ do con mắt bệnh
Nếu hiển hiện như đây
Bình áo đều từ thức
Hư không chấp ngã nhân
Chẳng biết luôn chấp thủ.
Chúng sinh và bình áo
Tất cả các hình tướng
Trong ngoài tuy chẳng đồng
Tất cả từ tâm khởi
Y chỉ thức lại-da
Tất cả các chủng tử
Tâm như cảnh giới hiện
Thế nên nói thế gian
Thế gian phi tác giả
Nghiệp và vi trần làm
Chỉ là a-lại-da
Biến hiện dường như cảnh.

Thanh Lương Ký nói: “Phân biệt bốn trường hợp về tịnh độ và uế độ trên đây, là một bề ngăn lỗi, thật thì tức dị, tức đồng, tức hữu, tức vô. Nếu hình đoạt lẫn nhau thì nhất dị cùng mất, hữu vô đều bặt. Nếu viên dung vô ngại thì tức nhất, tức đa, tức vô, tức hữu. Hữu là hữu của vô, vô là vô của hữu, đa là đa của nhất, nhất là nhất của đa. Hữu vô tức lý sự vô ngại, nhất đa kiêm sự sự vô ngại, do sự trùng trùng này nên trong mỗi mỗi vi trần trong cõi nước Hoa Nghiêm tạng đều thấy pháp giới.

Lại y chính không hai hỗn dung bốn trường hợp:

1- Phật thân là cõi nước, vì Phật thể chính là pháp tính độ; bỏ người theo mình, vì Phật thể rỗng không; ngoài độ không Phật, vì pháp tính không hai.

2- Cõi nước là Phật thân, vì thể của cõi nước chính là pháp tính thân; bỏ mình theo người, vì thể của cõi nước rỗng không; ngoài Phật không độ, vì pháp tính không hai. Do tính không hai, vì tính dung tướng nên thân độ tương tức.

3- Đều có, nghĩa là có thân có độ, vì chẳng hoại tướng; nếu không có thân độ thì không thể tương tức.

4- Đều không, nghĩa là Phật là cõi nước nên chẳng phải Phật, cõi nước là Phật nên chẳng phải cõi nước, vì đoạt lẫn nhau.

Hỏi: Thân độ đã là thể của nhất tâm pháp giới, tại sao tự tha đều thọ dụng hình tướng của thân độ ?

Đáp: Một thể tuy đồng nhưng chẳng ngại trùm khắp. Trong đồng có dị, tự nhập vào tha; trong dị có đồng, tha khắp nơi tự.

Cổ đức hỏi: Tự thọ dụng thân độ tất cả vô biên, thân độ của chư Phật chẳng chướng ngại nhau, hành tướng như thế nào ?

Đáp: Như nước sữa hòa hợp, thể nó không khác biệt, con ngỗng chúa chỉ uống sữa mà chẳng uống nước. Mới nhìn cho nước sữa là một, nhưng uống rồi liền biết có khác. Lại như ánh sáng và đèn cùng chung một nhà, tự sắc chẳng thể phân biệt. Nếu luận về thể của ánh sáng thì vốn khác biệt; tự thọ dụng thân tuy hợp một chỗ nhưng vốn có khác biệt, đều tự thọ dụng pháp lạc, vì tất cả có đủ tám thức. Do đó được trùm khắp chẳng phải đồng một thể không khác, dùng phi nhất phi dị để nói về Phật thân.

Hỏi: Đã là chân như, sao còn chia thân độ ?

Đáp: Theo nghĩa mà kiến lập, trong chân như lấy tính thành muôn đức làm thân, lấy lý không làm độ. Y cứ vào nghĩa thì biệt thể chẳng rời nhau. Lại trong chân lý có bốn đức, hai đức thường tịnh làm độ, hai đức ngã lạc làm thân, cho nên nói “Tịnh độ này của ta mà ông chẳng thấy”, đây là chân thân bao gồm vạn pháp làm độ. Nếu ngoài tâm có độ, thấy tướng mê chân, trở thành vọng tưởng nhơ cấu nên gọi là uế; nếu thấy tâm tính thì gọi là tịnh. Thế nên một pháp chẳng động, dị kiến thường sinh; mê hữu tạo trần lao, ngộ không thành Phật quốc, chẳng phải dời Diệu Hỷ, chẳng phải biến Ta-bà, cũng chẳng phải thần lực làm ra, pháp tính đâu từng biến đổi! Như những người có bệnh mắt cùng ở một chỗ thấy các sai biệt, có người thấy vầng tròn, có người thấy con ruồi, có người thấy sợi tóc; nhưng chấp cảnh giới bên ngoài đều là vọng tâm, như kinh nói: “Như hiện tại mắt nhìn núi sông đều là cái thấy bệnh từ vô thỉ”.

Hỏi: Ngoài tâm không pháp, ngoài đạo không tâm, tại sao chư Phật tự xưng xuất thế đắc đạo, rộng nói giáo môn ?

Đáp: Chỉ vì chúng sinh chẳng rõ duy tâm, vọng sinh ngoại cảnh. Vì chẳng thật, nên chư Phật xuất thế; nếu có một pháp là thật thì chư Phật trọn chẳng xuất thế. Giáo môn phương tiện nói ra chẳng phải vì người đã biết, mà chỉ vì người chưa biết, phá chấp trừ nghi, dường như hình thành ngôn giáo. Nếu chấp hết nghi dứt thì không đạo để đắc, không pháp để thuyết.

Kinh Tư Ích nói : “Phật dạy lúc ta ngồi đạo tràng chỉ đắc tính không cứu cánh của phiền não do điên đảo dấy khởi, do vô sở đắc nên đắc, do vô sở tri nên tri”.

Kinh lại ghi: Phạm thiên Tư Ích hỏi Văn-thù-sư-lợi: Được pháp gì nên gọi là đắc đạo ? Ngài Văn-thù-sư-lợi đáp: Nếu pháp chẳng do tự mình sinh, chẳng do cái khác sinh, chẳng do các duyên sinh; từ xưa đến nay thường không có sinh; nếu được pháp này gọi là đắc đạo.

Lại hỏi: Nếu pháp chẳng sinh thì làm sao có sở đắc ?

Đáp: Nếu biết pháp chẳng sinh gọi là đắc đạo, thế nên Phật nói nếu thấy các pháp hữu vi chẳng sinh tướng liền vào chính vị.

Lại hỏi: Thế nào gọi là chính vị ?

Đáp: Ngã và niết-bàn chẳng phải hai, đây gọi là chính vị. Chính vị là chân tâm của chính mình, vào trong vị này các kiến chấp tự dứt, vào cảnh giới Phật. Kinh nói: “Chẳng nên dùng sắc thấy Như Lai, chẳng nên dùng pháp thấy, chẳng nên dùng tướng thấy, chẳng nên dùng ưa thích thấy, chẳng nên dùng pháp tính thấy”.

Kinh Đại Tập ghi: “Bấy giờ trong chúng có một thiên tử tên Thắng Ý nói với Bồ-tát Bất Khả Thuyết:

– Này thiện nam, nếu tất cả pháp chẳng thể nói, chúng sinh làm sao được ngôn thuyết ?

Bồ-tát Bất Khả Thuyết nói:

– Thiên tử, ông đâu biết tiếng vọng có ngôn thuyết chăng, tiếng vang đều từ nhân duyên mà có.

– Nguyên nhân của tiếng vang là quyết định ở trong hay là quyết định ở ngoài ?

– Nhân ấy chẳng quyết định ở trong, cũng chẳng quyết định ở ngoài. Này thiên tử, tất cả chúng sinh gượng tạo tác hai tưởng mà có ngôn thuyết, tính của các pháp thật sự chẳng thể nói.

Thiên tử hỏi:

– Này thiện nam, nếu chẳng thể nói tại sao Như Lai tuyên nói tám muôn bốn nghìn pháp tu khiến các Thanh văn thọ trì đọc tụng.

– Thiên tử, Như Lai Thế Tôn thật sự không nói, không nói ấy chính là Như Lai. Thiên tử, theo ông cái gì là Như Lai ? Ông sẽ không cho sắc, thọ, tưởng, hành thức là Như Lai chăng ? Sẽ không cho Phật là ấm giới nhập hữu vi, vô vi trong quá khứ, vị lai, hiện tại thuộc tam giới, là nhân, là quả, là hòa hợp chăng ? Hoặc tưởng phi tưởng, phi tưởng phi phi tưởng chăng ?

– Chẳng phải, thiện nam.

– Thiên tử, nếu những thứ ấy chẳng phải Như Lai thì làm sao có thể nói! Nếu chẳng thể nói thì làm sao nói Như Lai Thế Tôn diễn nói tám muôn bốn nghìn pháp tu. Thế nên tám muôn bốn nghìn pháp tu thật sự chẳng thể nói, Thanh văn nhận lãnh cũng chẳng thể nói, chẳng thể nói chính là chính nghĩa. Nếu không nói mới là chân thật”.

Kinh Lăng Già ghi: “Ta chỉ nói vọng tưởng tập khí hư ngụy từ vô thỉ, là nguyên nhân của các xấu ác trong ba cõi, chẳng thể biết hiện lượng của tự tâm mà sinh vọng tưởng phan duyên ngoại tính”. Đây là chỉ rõ tự tâm và ngoại cảnh vô tính, vì chẳng biết tâm lượng nên lầm chấp ngoại duyên. Nếu biết tâm chính là đạo, tâm chính là pháp lẽ nào ngoài tâm có pháp để nói ? Do đó kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Chư Phật chẳng nói pháp
Phật nơi đâu có nói
Chỉ tùy theo tâm mình
Diễn nói pháp như thế.

Luận Quảng Bách nói: “Các hạnh nguyện tùy thuận thế tục, những điều thấy nghe gượng giả lập bày. Trong lý thắng nghĩa, chẳng chấp nhận “nhị câu”, vì tất cả phân biệt hí luận dứt tuyệt; chẳng phải chư Như Lai có pháp để thuyết, cũng không có chút pháp để đắc.

Hỏi: Nếu vậy thì sự tinh tiến bị vứt đi, Thánh giáo cam-lộ của Như Lai lẽ ra cũng bỏ sao ?

Đáp: Vì phương tiện dẹp trừ kiến chấp điên đảo nên lập ra hai sự đều không có lỗi.

Hỏi: Đã nói tất cả sở kiến, năng kiến đều không thật có, làm sao không lỗi ?

Đáp: Tuy không có sở kiến, năng kiến chân thật nhưng người ngu điên đảo cho là có, trừ những kiến chấp tăng thượng mạn, tùy thuận thế gian lập bày không lỗi. Nếu có thể theo Thánh giáo tu hành, tùy thế tục nói là đệ tử Phật chân chính. Người thế tục ngu si theo tự tâm biến ra cảnh tướng điên đảo mà khởi thấy tâm, Phật chẳng phải cảnh ấy, đối với kia vô dụng, cho đến cho rằng Phật Thế Tôn xưa tại nhân vị vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình phát khởi vô biên công đức hạnh nguyện, do đây chứng được vô phân biệt trí. Nhờ trí tuệ này phát khởi vô lượng lợi lạc hữu tính tác dụng vô tận. Các loài hữu tình dùng diệu tuệ có được do nguyện hạnh của Phật làm tăng thượng duyên, tự tâm biến hiện hay thuận theo các sinh đạo tối thắng ở thế gian và theo thượng duyên. Lại bản nguyện hạnh cũng chẳng phải điên đảo để có thể biết rõ thật nghĩa của các pháp; đối với tất cả pháp không chấp trước, hay vì vô thượng diệu quả sinh nhân. Tuy còn phát tâm khởi các thắng hạnh, cầu quả vô thượng lợi lạc hữu tình, nhưng tợ nhà ảo thuật làm các trò ảo thuật mà không chấp trước, nên chẳng phải điên đảo.

Cổ đức hỏi: Chúng sinh là chúng sinh của tâm Phật, Phật của tâm chúng sinh tự giáo hóa chúng sinh của tâm Phật, tại sao nói là sức bi nguyện của Phật ?

Đáp: Chính chân tâm này là bi nguyện của Phật, nghĩa là đồng thể đại bi và tự thể vô chướng ngại nguyện v.v… là đại dụng của tính khởi. Chúng sinh chính là các tâm thức phức tạp luôn luôn khởi diệt. Kinh nói: “Phật bảo tỳ-kheo: Ngày đêm các ông thường sinh vô lượng trăm nghìn chúng sinh; nếu có thể trí chiếu chẳng khởi niệm tương tục tức là độ chúng sinh. Lại rõ niệm là không, chẳng có chỗ khởi tức là độ hết thảy vô lượng chúng sinh, nhưng chẳng thấy có một chúng sinh được diệt độ”. Thiên Thai giáo nói: “Vô minh là cha, tham ái là mẹ, lục căn là con trai, lục trần là con gái, thức là người mai mối, sinh ra vô lượng phiền não là con cháu”. Cho nên kinh nói: “Có niệm là sinh tử, không niệm là niết-bàn”.

Hỏi: Như trên nói thành Phật độ sinh chẳng lìa một niệm, vì sao chư Phật còn phát nguyện độ chúng sinh ?

Đáp: Tuy phát nguyện độ sinh nhưng đều phỏng theo đây chân tu cứu cánh, cùng trở về một niệm. Do đó trước phát thệ độ tận tất cả chúng sinh mới thành giác thì niệm bặt tâm dừng, thiên chân sáng chiếu là cái nghĩa thành Phật. Trước tiên Phật đã tự độ, sau đó mới độ người, đây là lòng từ chân thật; lìa đây mà khởi lòng từ bi đều là vọng tưởng. Như ngài Xá-lợi-pháp hỏi cô gái tên Am-đề-già: Vì sao chuyển thành thân người nữ ? Am-đề-già dùng bài kệ đáp:

Từ nam sinh làm nữ
Luống sinh vọng tưởng bi.

Đây là chẳng rõ chính mình là chẳng phải nam, nhận lầm tướng chúng sinh liền chấp sinh ra người nữ, luống khởi tình chấp ta người. Nơi nhất chân vọng lập tự tha, trong đồng thể gượng phân ái kiến.

Người xưa nói: Có hai nghĩa môn đều không thể độ:

1- Khế không: Như tính không vắng lặng nên không thể độ.

2- Khế bất không: Đồng một pháp tính, pháp tính bình đẳng nên không thể độ.

Cho nên kinh Kim Cang Tam-muội nói: “Nếu hóa độ chúng sinh, vô sinh nơi hóa độ, bất sinh nơi hóa thì sự giáo hóa này rất lớn”. Kinh Đại Hư Không Tạng Bồ-tát Sở Vấn có bài kệ:

Cũng như nhà ảo thuật
Hại nhiều chúng huyễn hóa
Thật không có chỗ hại
Độ chúng sinh cũng thế
Huyễn hóa và hữu tình
Các Phật pháp cũng vậy
Nếu ngộ cùng một tính
Vô tự tính làm tính.

Do đó tiên đức nói: “Bồ-tát từ Bát địa trở lên được vô sinh nhẫn, có chúng sinh cầu cứu ngoài Hằng hà sa thế giới, Bồ-tát đều chẳng khởi niệm, chúng sinh tự nhiên thấy Bồ-tát đến trước mặt họ và thuyết pháp, tứ sự cúng dường. Bồ-tát được trí như thế là do tâm lượng vô tâm. Ta nói là tâm lượng cũng là lượng của vô lượng”.

Hỏi: Kinh Đại Niết-bàn nói: “Pháp giải thoát cũng chẳng phải niết-bàn, thân Như Lai cũng chẳng phải niết-bàn, ma-ha bát-nhã cũng chẳng phải niết-bàn”. Thế nào là chính nghĩa niết-bàn ?

Đáp: Muốn biết chính nghĩa niết-bàn tức là tâm tính chân như của ta. Cho nên kinh có bài kệ:

Như tính vô sinh Phật xuất thế
Như tính vô diệt Phật niết-bàn
Ngôn từ ví dụ thảy đều dứt
Tất cả nghĩa thành không sánh bằng.

Thế nên chẳng phải tức ba pháp, chẳng phải lìa ba pháp, chẳng ngang chẳng dọc, chẳng chung chẳng riêng đâu có thể nói một nói ba mà chỉ cho diệu đạo. Thanh Lương Ký giải thích: Pháp thân là sở chứng bát-nhã là năng chứng, giải thoát là lìa chướng. Lại Phật thân chính là pháp tính, có nghĩa Phật thân vì tạo ra hai thứ sở y, có nghĩa trí tuệ vì ánh sáng soi khắp pháp giới, có nghĩa giải thoát vì tính lìa tất cả chướng. Ba thứ này cũng chẳng lìa nhau, ba thứ đều bất tư nghì thì đâu thể ngang dọc đâu thể chung riêng. Ý nói tức một mà hai, tức ba mà một, chẳng phải một chẳng phải ba, cùng chiếu ba một thì làm sao có thể có suy nghĩ là ba một. Cho nên Triệu Luận nói: “Đạo bồ-đề chẳng thể đo lường, cao mà vô thượng, rộng không thể tột; sâu mà vô hạ sâu không thể lường; lớn bao gồm trời đất, nhỏ vào trong vô gián cho nên gọi là đạo”. Luận Niết-bàn Vô Danh ghi: “Niết-bàn là đạo lặng lẽ rỗng rang chẳng thể dùng hình danh để được, vi diệu vô tướng chẳng thể dùng hữu tâm mà biết; siêu quần hữu mà y thăng, lượng thái hư mà vĩnh cửu; theo đó chẳng được dấu vết, ngước nhìn chẳng thấy đầu mối. Sáu loài chẳng thể nhiếp sự sống, ra sức không thể biến hóa cái thể, mênh mang mơ hồ hoặc còn hoặc mất; năm mắt chẳng thấy hình dung, hai tai chẳng nghe tiếng vọng, tối tăm mờ ảo ai thấy ai hiểu, đầy khắp không gì chẳng tồn tại, mà riêng hiển bày hữu vô. Như vậy nói đến thì đánh mất cái chân thật, biết đến thì trái nghịch sự ngu muội; có nó thì trái thể tính, không nó thì thương tổn hình hài (…) vì sao ? Vốn sẵn có cảnh thì ngũ ấm dứt hẳn; suy tìm không quê hương thì u linh chẳng mất. U linh chẳng mất thì ôm một lặng lẽ, ngũ âm dứt hẳn thì mọi phiền lụy đều rũ bỏ nên thông đồng với đạo. Ôm một lặng lẽ nên thần mà vô công; thần mà vô công nên chí công thường tồn, thông đồng với đạo nên hư rỗng mà chẳng đổi. Hư rỗng chẳng đổi không thể là có, chí công thường tồn chẳng thể là không. Vậy thì bên trong tuyệt hữu vô, gọi là nung nấu bên ngoài, cho thấy nghe chẳng đến, chỗ tứ không hôn muội, yên mà khắp, tĩnh mà rộng, chín loài quy hướng về đây, chúng Thánh thầm hội nơi này. Đây là cảnh vắng lặng, miền u huyền mà muốn đem hữu vô làm đề mục, nêu lên phương vực để nói về thần đạo thì chẳng phải xa vời sao ? Thế nên tâm đạo siêu nhiên, thần không phương sở đâu do dấu tích của hữu vô, ảnh hưởng của thấy nghe ?”. Do đó kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: “Này Văn-thù-sư-lợi nên biết như vầy tất cả pháp chẳng khởi chẳng diệt gọi là Như Lai”. Kinh Phạm Vương Sở Vấn nói: “Trong đệ nhất nghĩa Phật chẳng xuất thế cũng chẳng niết-bàn, vì từ xưa đến nay không khởi diệt”. Luận Bát-nhã Đăng có bài kệ:

Chẳng nên bỏ sinh tử
Chẳng nên nhập niết-bàn
Sinh tử và niết-bàn
Không hai không phân biệt.

Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: “Phật bảo Bồ-tát Cực Dũng Mãnh: Này thiện nam, sắc vô phược vô thoát, thọ tưởng hành thức vô phược vô thoát. Nếu sắc đến thức vô phược vô thoát đây gọi là bát-nhã ba-la-mật”.

Kinh Phạm Vương Sở Vấn: “Phật bảo: Này Phạm vương, ta chẳng có sinh tử chẳng được niết-bàn. Vì sao ? Nói sinh tử chỉ là do Như Lai giả bày ra mà trong đó không có người lưu chuyển; nói niết-bàn cũng là giả đặt ra mà không có người nhập niết-bàn”.

Hỏi: Tông cảnh duy tâm vì sao phân ra thỉ mạt ?

Đáp: Thỉ mạt là nói về nghĩa dụng của tâm. Căn cứ trong môn hàng bố, tướng tuy rõ ràng mà thể thường dung tức. Khởi Tín Sao hỏi: “Theo luận Khởi Tín, ban đầu là nhất tâm, sau cùng cũng là nhất tâm thì trước sau có gì khác biệt ? Đáp: Nhất tâm ban đầu là tâm đang năng khởi; nhất tám sau cùng là tâm đang sở quy. Tuy trước sau thể đồng mà thỉ chung nghĩa khác, do đây hàng bố các môn rõ ràng”.

Lại nói: “Chỉ vì vốn là nhất tâm ly danh tuyệt tướng, mặc cho mê ngộ, vạn pháp tùy sinh, sinh pháp vốn không, chỉ duy nhất thể”. Tông Cảnh cũng thể, vì triển khai nghĩa dụng trước sau chẳng đồng, nhưng trước sau của nhất tâm này là nhất tâm của trước sau, do đó lý sự bình đẳng. Vì sao ? Vì chẳng phải sơ không để lập hậu, sơ bình đẳng với hậu; chẳng phải hậu không để thành sơ, hậu bình đẳng với sơ. Lại lý từ sự hiển, lý bình đẳng với sự; sự nhân lý thành, sự bình đẳng với lý. Cho nên nói vạn pháp tùy sai biệt nhưng chẳng thể tự khác. Trong Tông Cảnh một còn chẳng thể một huống là khác ư ? Do đó luận Khởi Tín nói: “Các pháp bình đẳng bình đẳng”. Sớ Sao có hai cách giải thích: một, là chân tính bình đẳng trong tất cả pháp như gương trong bóng; hai, là các pháp vốn không nên bình đẳng như bóng trong gương.