TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 87

Luận về môn nhập đạo sự thực hành là trọng yếu, phân biệt không ngoài bốn môn. Hiện tại y cứ theo tứ giáo của Thiên Thai tạng thông biệt viên đều có bốn môn nhập đạo. Bốn môn của ba giáo trước đã nói ở những phần trên, nay dẫn bốn môn của viên giáo có thể nhập đạo! Một là hữu môn, hai là không môn, ba là diệc hữu diệc không môn, bốn là phi hữu phi không môn. Chỉ Quán nói: “Diệu lý của bốn môn viên giáo đốn thuyết khác với hai giáo tạng thông; viên dung vô ngại khác với biệt giáo”. Nếu hữu môn là giả, cho hữu là đầu mối các môn, hữu môn này cũng là ba môn, một môn là vô lượng môn. Vô lượng môn và một môn chẳng phải một chẳng phải bốn mà nói một bốn, đây là tướng của viên môn. Nếu hữu là môn thì có sinh tử, là cái hữu của thật tướng. Tất cả hướng về hữu, hữu là pháp giới, ra ngoài pháp giới không còn có pháp để luận, sinh tử là niết-bàn, niết-bàn là sinh tử, không hai không khác. Nếu hữu là đầu mối các môn, thật ra đầy đủ tất cả pháp viên thông vô ngại đây gọi là hữu môn. Ba môn kia cũng như thế, môn này vi diệu chẳng thể nghĩ bàn đâu giống như tạng giáo và thông giáo vụng về đo lường mà đãn không, biệt giáo chẳng dung mà cách biệt.

Lại bốn môn của viên giáo đều vi diệu không thô thiển, nếu hữu môn là pháp giới thu nhiếp tất cả pháp huống chi là ba môn. Không môn chính là pháp giới thu nhiếp tất cả pháp, huống chi là ba môn. Hai môn còn lại cùng như thế pháp tướng bình đẳng không có hơn kém. Nếu vậy thì không có sự khác biệt của bốn môn, chỉ do thuận theo căn cơ mà nói bốn, như bốn ngón tay chỉ một mặt trăng, mặt trăng chỉ một, ngón tay có bốn. Lại như bốn giáo tạng thông biệt viên như bốn điểm trong hư không, tuy bốn điểm dường như khác biệt nhưng chẳng ra ngoài một hư không; tuy bốn ngón tay chẳng đồng nhưng chỉ dùng để chỉ một mặt trăng.

1- Hữu môn là quán kiến tư giả, tức là pháp giới đầy đủ Phật pháp. Lại các pháp chính là nhân duyên pháp tính cho đến đệ nhất nghĩa cũng là nhân duyên. Đại kinh nói: “Do diệt vô minh liền được ngọn đèn chính giác sáng rực”. Gọi là hữu môn.

2- Không môn là quán kiến tư và tất cả pháp huyễn hóa, chẳng do nhân cũng chẳng thuộc duyên, ngã và niết-bàn đều không, chỉ có bệnh không, bệnh không cũng không, đây là ba đế đều không.

3- Diệc không diệc hữu môn là kiến tư huyễn hóa tuy không chân thật nhưng phân biệt giả danh thì không thể hết, như trong một hạt bụi chứa quyển kinh lượng bằng đại thiên, nơi đệ nhất nghĩa mà chẳng động khéo hay phân biệt các pháp tướng, cũng như đại địa hay sinh các mầm mộng. Trong không danh tướng giả nói danh tướng, cho đến Phật cũng chỉ có danh tự, đây là diệc không diệc hữu môn.

4- Phi không phi hữu môn là quán kiến tư huyễn hóa chính là pháp tính, pháp tính chẳng thể nghĩ bàn. Vì chẳng phải thế gian nên phi hữu, vì chẳng phải xuất thế gian nên phi không. Một sắc một hương đều là trung đạo, một trung tất cả trung, Tỳ-lô-giá-na khắp nơi đâu có kiến tư chẳng phải thật pháp, đây gọi là phi không phi hữu môn. Tại sao một môn chính là ba môn ? Một môn còn là tất cả pháp thì sao chỉ là ba môn, vì sao ? Quán pháp do nhân duyên sinh ra là môn đầu tiên, tất cả đều là môn đầu tiên. Môn đầu tiên là không, một không tất cả không chính là môn thứ hai. Môn đầu tiên là giả, một giả tất cả giả chính là môn thứ ba. Môn đầu tiên là trung, một trung tất cả trung chính là môn thứ tư. Môn ban đầu chính là ba môn, ba môn chính là một môn. Chỉ cần nêu tên một môn, tuy có bốn tên nhưng lý không cách biệt, chính là bốn môn của viên giáo, đây là chỗ hiện tại đang ứng dụng. Nếu vậy cần gì đến các thứ phân biệt, chỉ vì phàm tình ám độn chẳng nói chẳng biết nên trước hết phải dẫn dụ rồi sau đó vào chính đạo. Kinh Pháp Hoa nói: “Tuy nói các thứ đạo thật ra chỉ là nhất thừa”. Nếu hiểu được ý này trọn ngày phân biệt cũng không có chỗ phân biệt. Kinh Niết-bàn gọi là có nhất hạnh là Như Lai hạnh, kinh Pháp Hoa gọi ngay bỏ phương tiện chỉ nói đạo vô thượng, kinh Đại Phẩm gọi là nhất thiết chủng trí biết tất cả pháp, kinh Tịnh Danh gọi là trong rừng chiêm-bặc chẳng ngửi mùi hương khác, kinh Hoa Nghiêm gọi là pháp giới. Đây chính là ý nghĩa của bốn môn. Vì thế biết nếu rõ nhất tâm, tu hành nhân quả tròn đầy cũng như đất sinh ra vạn vật, như biển tụ hợp châu báu, như xe có thể chuyên chở, như thành quách khéo phòng hộ. Thế nên kinh Đại Niết-bàn ghi: “Phật dạy: Ta vì Tu-đạt nói rằng này trưởng giả, tâm là chủ của thành quách. Này trưởng giả, nếu không giữ gìn tâm thì chẳng thể giữ gìn thân miệng”. Trong phẩm Nhập Pháp Giới kinh Hoa Nghiêm, thần chủ thành Bảo Nhãn cùng quyến thuộc vây quanh hiện thân trong hư không, trang sức bằng các vật báu, tay cầm vô lượng hoa báu xinh đẹp rải trên Thiện Tài và nói rằng: Này thiện nam, nên thủ hộ thành tâm nghĩa là chẳng tham tất cả cảnh giới sinh tử; nên trang nghiêm thành tâm nghĩa là chuyên ý hướng cầu thập lực của Như Lai; nên tịnh trị thành tâm nghĩa là rốt ráo đoạn trừ xan tham tật đố dua dối; nên thanh lương thành tâm nghĩa là tư duy thật tính của tất cả pháp; nên tăng trưởng thành tâm nghĩa là thành tựu tất cả pháp trợ đạo; nên trang sức thành tâm nghĩa là tạo lập các cung điện thiền giải thoát; nên làm sáng chói thành tâm nghĩa là khắp vào tất cả đạo tràng, chư Phật lắng nghe và thọ trì pháp bát-nhã ba-la-mật; nên tăng ích thành tâm nghĩa là khắp nhiếp tất cả đạo phương tiện của Phật; nên kiên cố thành tâm nghĩa là luôn siêng tu lập hạnh nguyện Phổ Hiền; nên phòng hộ thành tâm nghĩa là thường xuyên chống lại bạn xấu quân ma; nên rỗng suốt thành tâm nghĩa là khai dẫn tất cả ánh sáng Phật trí; nên khéo tu bổ thành tâm nghĩa là lắng nghe và thọ trì tất cả Phật pháp; nên phù trợ thành tâm nghĩa là tin sâu tất cả công đức của Phật; nên quảng đại thành tâm nghĩa là đại từ trải khắp tất cả thế gian; nên khéo che lấp thành tâm nghĩa là tập họp các thiện pháp để che lấp trên ấy; nên rộng lớn thành tâm nghĩa là đại bi thương xót tất cả chúng sinh; nên mở rộng thành tâm nghĩa là xả bỏ sở hữu tùy ứng cấp thí; nên mật hộ thành tâm nghĩa là đề phòng các ác dục chẳng cho xâm nhập; nên nghiêm túc thành tâm nghĩa là đuổi các ác pháp chẳng cho nó ở lại; nên quyết định thành tâm nghĩa là tụ họp tất cả pháp trợ đạo của nhất thiết trí hằng không thoái chuyển; nên an lập thành tâm nghĩa là chính niệm cảnh giới của tất cả Như Lai ba đời; nên thấu suốt thành tâm nghĩa là minh đạt các thứ duyên khởi, các pháp môn trong kinh điển của tất cả Phật; nên bộ phận thành tâm nghĩa là chỉ dạy cho tất cả chúng sinh khiến cho dược thấy đạo tát-bà-nhã; nên trụ trì thành tâm nghĩa là phát những lời nguyện lớn của tất cả Như Lai ba đời; nên phú quí thành tâm nghĩa là nhóm họp tất cả đại phước đức tụ đầy khắp pháp giới; nên làm cho thành tâm minh liễu nghĩa là biết khắp pháp căn dục v.v… của chúng sinh; nên làm cho thành tâm tự tại nghĩa là bao gồm tất cả mười phương pháp giới; nên làm cho thành tâm thanh tịnh nghĩa là chính niệm tất cả chư Phật Như Lai; nên biết tự tính của thành tâm nghĩa là biết tất cả pháp đều không có tính; nên biết thành tâm như huyễn nghĩa là dùng nhất thiết trí rõ các pháp tính. Này Phật tử, Bồ-tát ma-ha-tát nếu có thể như thế tịnh tu thành tâm thì có thể tích tập tất cả thiện pháp”.

Giải thích: Thành quách có thể đề phòng kẻ giặc bên ngoài, giữ nước yên dân, bền vững kín đáo thì không có tai họa, huống là thành tâm cần phải giữ gìn cẩn mật hơn nữa không để lục trần, ma tặc bên ngoài xâm nhập, gian thần phiền não bên trong nhiễu loạn. Ngăn lỗi cấm ác, thường gia công sáng sạch; lập đức vận từ, đầy đủ mọi sự trang nghiêm liền được bốn môn không trệ, nhất đạo thường thông, lực địch đại thiên, uy lấn pháp giới, có thể an ủi người chết, nhiếp hóa không sót, phục ngoại hàng ma, vĩnh viễn củng cố nền tảng chân thật.

Hoa Nghiêm Sở nói: “Thành có ba nghĩa: một là phòng ngoại địch, hai là dưỡng nhân chúng, ba là môn dẫn nhiếp. Nay nói về thành pháp thông cả giáo lý hạnh quả; hạnh khế hợp lý giáo thì không gì chẳng nghiêm khắc nên đều có ba nghĩa, nghĩa là rõ biết tính không của thành tâm thì các lậu hoặc chẳng xâm nhập, thấy Hằng sa tính đức thì vạn hạnh tăng trưởng, đạo đều không đạt thì tự tha dẫn nhiếp bèn hay khế hợp quả vị. Tuyệt bách phi để thành giải thoát, nuôi các đức để toàn pháp thân, khai bát-nhã mà không gì chẳng thông suốt, hiển bày thành quách giáo lý không gì chẳng phải nuôi dưỡng ý chỉ được thuyên bày; câu câu thông thần có nhiều nghĩa này”.

Tịnh Danh Sớ nói: “Phật pháp như thành quách có thể giúp người tu hành ngăn ngừa điều quấy, chống lại kẻ địch. Nếu hộ trì Phật pháp chính là giữ thành. Lại ấm, giới, nhập là không, lý tức không gọi là niết-bàn. Chúng sinh là vua, mà chủng tính đầy đủ Hằng sa Phật pháp, như người vật trong thành nên lập tất cả chúng sinh là đại niết-bàn là tướng bồ-đề. Diệu lý này, bên ngoài là điều mà thiên ma ngoại đạo muốn phá hoại, bên trong là chỗ xâm nhập của kiến tư thông giáo và biệt giáo. Bồ-tát giữ gìn thành niết-bàn sẵn có của chúng sinh chẳng để vọng khởi các ái kiến”.

Hỏi: Đại bảo của bậc Thánh là ngôi vị, nếu không có vị thứ đó là thiên ma ngoại đạo. Đã có tín nhập thì cần phải rèn luyện, ở trong môn phương tiện sơ tâm chứng giải duy thức, theo giáo lý phân chia có bao nhiêu vị thứ  ?

Đáp: Có năm vị môn. Y cứ Thức luận nói: “Có hai chủng tính đại thừa, đại lược nơi năm vị lần lượt ngộ nhập.

1/ Bản tính trụ chủng tánh, nghĩa là từ vô thỉ đến nay, nương vào bản thức, pháp nhĩ là nhân chứng đắc pháp vô lậu.

2/ Chủng tánh do thói quen tạo thành, nghĩa là nghe pháp đẳng lưu của pháp giới được thành tựu do huân tập. Phải đủ hai chủng tánh đại thừa này mới có thể tuần tự ngộ nhập duy thức. (…) Thế nào là tuần tự ngộ nhập duy thức ? Nghĩa là các vị Bồ-tát trong tư lương vị đối với tính tướng của thức có thể tin hiểu sâu sắc, tại gia hạnh vị có thể dần dần phục trừ năng thủ sở thủ dẫn phát chân kiến; nơi thông đạt vị như thật thông đạt; nơi tu tạp vị như lý đã thấy luôn luôn tu tập chế phục đoạn trừ các chướng; cho đến cứu cánh vị xuất chướng viên minh có thể giáo hóa ra các loài hữu tình tận thuở vị lai khiến cho ngộ nhập tính tướng duy thức. Những gì là năm vị ngộ nhập duy thức ?

1/ Tư lương vị: Bài tụng nói:

Cho đến chưa khởi thức,
Cầu trụ duy thức tính
Nơi hai thủ tùy miên
Còn chưa thể phục diệt.

Luận nói: “Từ khi phát tâm đại Bồ-đề kiên cố cho đến chưa khởi thuận quyết trạch phần, cầu trụ tính duy thức chân thắng nghĩa, đây thuộc về tư lương vị, vì hướng về vô thượng chính đẳng chính giác, tu tập các thứ tư lương thù thắng, vì hữu tình nên siêng cầu giải thoát, do đây cũng gọi là thuận giải thoát phần. Bồ-tát của vị này nương vào bốn năng lực thù thắng, đó là nhân, thiện hữu, tác ý, tư lương, cho nên đối với nghĩa duy thức tuy tin hiểu sâu sắc mà chưa thể rõ năng thủ sở thủ là không, phần nhiều trụ nơi môn bên ngoài tu hạnh Bồ-tát. Vì thế đối với năng thủ sở thủ dẫn khởi tùy miên vẫn chưa thể phục diệt công lực, niệm kia chẳng khởi thì năng thủ sở thủ hiện hành. Hai thủ này hiển bày hai thủ thủ, vì chấp lấy tính năng thủ và sở thủ, tập khí của hai thủ này gọi là tùy miên. Theo đuổi hữu tình ngủ ngầm nơi tạng thức hoặc tùy theo làm tăng lỗi nên gọi là tùy miên, tức là chủng tử của sở tri chướng, phiền não chướng.

Phiền não chướng nghĩa là chấp biến kế sở chấp thật ngã, tát-ca tà kiến cho là thượng thủ. Một trăm hai mươi tám căn bản phiền não và các tùy phiền não đẳng lưu thảy đều nhiễu loạn thân tâm hữu tình hay chướng niết-bàn gọi là phiền não chướng.

Sở tri chướng nghĩa là chấp biến kế sở chấp thật pháp, tát-ca tà kiến cho là thượng thủ. Kiến, nghi, vô minh, ái, khuể, mạn v.v… Che lấp cảnh sở tri không có tính điên đảo, hay chướng bồ-đề gọi là sở tri chướng.

Bồ-tát trụ nơi tư lương vị này, hai cái thô hiện hành tuy có chế phục nhưng đối với cái tế và hai thứ tùy miên sức chỉ quán yếu ớt chưa thể phục diệt. Vị này chưa chứng duy thức chân như, nương vào sức thắng giải tu các hạnh thù thắng, nên biết cũng thuộc về giải hạnh địa. Hạnh thù thắng mà Bồ-tát tu tập đó là phước và trí.

Giải thích: Bản tính trụ chủng tánh nghĩa là chưa nghe chính pháp nhưng chủng tử vô lậu từ vô thỉ đã thành, chẳng cần huân tập khiến nó tăng trưởng gọi là chủng tánh gốc. Tính là thể. Tánh là loại. Nghĩa là bản tính thành trụ Bồ-tát này, chủng tử tánh loại sai biệt chẳng phải ngày nay mới có gọi là bản tính trụ chủng tánh. Bồ-tát địa nói: Vô thỉ pháp nhĩ lục xứ thù thắng gọi là bản tính trụ bản tánh.

Chủng tánh do huân tập thành nghĩa là sau khi nghe chính pháp khiến cho chủng tử củ vô lậu tăng trưởng số chủng tánh quen thuộc. Bồ-tát địa nói: Nghe mười hai phần giáo, pháp giới đẳng lưu bình đẳng mà lưu chuyển. Lại pháp giới tính thuận thiện trái ác đầy đủ các công đức, đây cũng vậy nên gọi là đẳng lưu.

Nương vào bốn năng lực thù thắng là nhân, thiện hữu, tác ý, tư lương. Nhiếp luận nói: “Có thể ngộ nhập đại thừa đa văn huân tập tương tục đây là nhân lực. Đã được phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện trên đời đây là thiện hữu lực. Đã được luôn luôn quyết định thắng giải, chẳng bị các bạn ác làm dao động gọi là tác ý lực. Đã khéo tích tập các thiện căn gọi là tư lương lực”.

Nghĩa tùy miên, theo đuổi hữu tình luôn ở trong sinh tử ngủ ngầm nơi tạng thức chẳng hiện nơi khác, hoặc tùy theo làm tăng lỗi. Vì sao miên là nghĩa tăng trưởng như người ngủ mê. Ngủ là vun đắp nhiều thêm, cho nên lầm lỗi tăng trưởng là nghĩa tùy miên, chính là chủng tử của hai chướng.

2/ Gia hạnh vị: Tụng rằng:

Hiện tiền lập chút vật
Cho là tính duy thức
Do vì có sở đắc
Chẳng thật trụ duy thức.

Luận nói: “Trước tiên Bồ-tát nơi vô số kiếp ban đầu khéo dự bị tư lương phước đức và trí tuệ, sau khi thuận giải thoát phần đã viên mãn, vì nhập kiến đạo trụ duy thức tính nên phải tu gia hạnh phục trừ hai thủ, đó là bốn pháp noãn, đảnh, nhẫn, thế đệ nhất. Bốn pháp này gọi chung là thuận quyết trạch phần, vì thuận theo quyết trạch phần chân thật”. Cho đến Bồ-tát trong tứ gia hạnh vẫn còn hiện tiền lập chút vật, đó là duy thức chân thắng nghĩa tính. Vì hai tướng không hữu kia chưa trừ đới tướng, quán tâm có sở đắc nên chẳng phải an trụ lý chân duy thức; tướng ấy diệt rồi mới thật an trụ. Y theo nghĩa này nên có bài tụng nói:

Bồ-tát nơi định vị
Quán bóng chỉ là tâm
Nghĩa tưởng đã diệt trừ
Xét kỹ chỉ từ tưởng
Như thế trụ tự tâm
Biết sở thủ chẳng có
Vì năng thủ cũng không
Sau xúc không sở đắc.

Cho đến gia hạnh vị này chưa dẹp trừ tướng trói buộc; đối với sự trói buộc thô nặng cũng chưa thể dứt, chỉ có thể phục trừ hai thủ phân biệt. Vì trái với kiến đạo nên đối với câu sinh và hai thứ tùy miên quán tâm hữu lậu có sở đắc; vì có phân biệt nên chưa hoàn toàn phục trừ, chưa hoàn toàn có thể diệt cho đến vị này cũng thuộc về giải hạnh địa, vì chưa chứng duy thức chân thắng nghĩa.

Giải thích: Bốn gia hạnh gọi chung là thuận quyết trạch phần, đây gọi là quyết trạch phần chân thật. Quyết trạch là trí, tức là trạch pháp, vì giải quyết những điều nghi người kia còn do dự, và giản trạch kiến giải mà họ chưa đạt đến. Phần là nghĩa chi nhân tức là trạch pháp giác chi.

Hiện tiền lập chút vật: Trên tâm biến ra như gọi là chút vật. Đây chẳng phải vô tướng nên gọi là đới tướng; nếu lúc chứng chân, tướng này liền diệt. Tướng là tướng của không sở chấp.

3- Thông đạt vị: Tụng nói rằng:

Nếu lúc có sở duyên
Trí không có sở đắc
Khi ấy trụ duy thức
Vì lìa tướng hai thủ.

Luận nói: “Nếu lúc Bồ-tát ở cảnh sở duyên thì trí vô phân biệt không có sở đắc, vì chẳng chấp lấy các tướng hí luận”. Khi ấy gọi là thật trụ duy thức chân thắng nghĩa tính, tức là chứng chân như trí và chân như bình đẳng bình đẳng, vì lìa tướng năng thủ sở thủ. Tướng năng thủ sở thủ đều là phân biệt, vì có tâm sở đắc nên hí luận hiện. Cho đến trí này tuy có kiến phần nhưng không phân biệt chẳng phải năng thủ, chẳng phải thủ hoàn toàn không. Tuy không có tướng phần nhưng có thể nói tướng bám vào như khởi lên, vì chẳng lìa như. Như lúc tự chứng phần duyên kiến phần bất biến mà duyên, đây cũng lẽ ra như thế. Biến là duyên thì chẳng phải thân chứng. Như hậu đắc trí lẽ ra có phân biệt nên phải thấy vô tướng. Lúc gia hạnh không gián đoạn trí này liền sinh thể hội chân như gọi là thông đạt vị. Ban đầu sáng tỏ lý nên cũng gọi là kiến đạo, cho đến trước chân kiến đạo chứng duy thức tính, sau tướng kiến đạo chứng duy thức tướng. Cái ban đầu thù thắng nên bài tụng nói trước chân kiến thuộc về căn bản trí, sau tướng kiến đạo thuộc về hậu đắc trí. Hậu đắc trí có hai phần cho đến trí này hiện thân độ v.v… vì các hữu tình nói chính pháp, nếu chẳng biến hiện tợ sắc thanh v.v… thì làm sao hiện thân thuyết pháp, chuyển y sắc uẩn chẳng hiện sắc, chuyển y bốn uẩn còn lại lẽ ra không có thọ v.v… Lại nếu trí này chẳng biến tợ cảnh, lìa tự thể pháp lẽ ra chẳng phải sở duyên, lúc duyên sắc lẽ ra phải duyên thanh. Lại duyên không pháp lẽ ra không có sở duyên duyên, vì thể kia chẳng thật, không có công dụng thù thắng, do đây hậu đắc trí có hai phần.

Giải thích: Lại nếu trí này chẳng biến tợ cảnh lìa tự thể pháp lẽ ra chẳng phải sở duyên nghĩa là đã không có tướng phần, thân độ của tâm tự tha lìa pháp thể của chính mình chẳng mang bóng dáng lẽ ra chẳng phải sở duyên duyên. Vì trực tiếp chiếu soi cái bất biến kia làm tướng nên chẳng đồng chân như. Chân như chính là tự thể của trí.

Hỏi: Nếu vậy chân như lẽ ra chẳng phải sở duyên duyên, vì không có tướng tợ cảnh ?

Đáp: Chẳng phải vậy. Vì tướng bám vào như khởi nên lìa tự thể pháp không có bóng dáng chẳng thể nói mang theo tướng kia khởi tại sao nói có sở duyên duyên. Vì đều lìa tự thể nên chẳng bám vào tướng khởi gọi là sở duyên duyên. Lúc duyên sắc lẽ ra phải duyên thanh, vì lúc duyên sắc trí chẳng mang theo tướng thanh.

Lại duyên không pháp lẽ ra không có sở duyên duyên nghĩa là bất biến là vô tướng vì thấy sở duyên. Do không tướng phần trực chiếu nơi không, không gì chẳng có tự thể thì nghĩa sở duyên duyên làm sao thành lập. Do đây nên biết, Phật cũng chẳng có thể thân duyên nơi không. Văn này đã chứng minh.

4- Tu tập vị: Tụng nói rằng:

Vô đắc bất tư nghì
Là trí xuất thế gian
Vì bỏ hai thô nặng
Liền chứng được chuyển y.

Luận nói: “Bồ-tát trước hết kiến đạo đã đoạn trừ các chướng chủng được chuyển y, lại luôn tu tập vô phân biệt trí”. Trí này xa lìa sở thủ năng thủ nên nói vô đắc và bất tư nghì. Vì lìa hí luận nên gọi là vô đắc; vì diệu dụng khó lường nên gọi là bất tư nghì.

Là trí vô phân biệt xuất thế gian, dứt trừ thế gian nên gọi là xuất thế gian; hai thủ tùy miên là gốc của thế gian. Chỉ cái hay đoạn trừ này riêng được gọi là xuất, hoặc gọi là xuất thế, nương vào hai nghĩa thể vô lậu và chứng chân như. Vì trí này đủ hai nghĩa nên riêng gọi là xuất thế, các trí khác chẳng phải vậy. Trí vô phân biệt trong Thập địa luôn tu nên bỏ hai thô trọng, chủng tử hai chướng lập ra danh tính thô trọng, không thể kham nhậm, trái với tế khinh khiến nó vĩnh viễn đoạn trừ nên nói là bỏ. Vì hay bỏ hai thứ thô trọng nên có thể chứng được chuyển y rộng lớn.

Y nghĩa là sở y, tức là y tha khởi cùng với pháp nhiễm tịnh làm sở y. Nhiễm nghĩa là biến kế sở chấp hư vọng, tịnh nghĩa là viên thành thật tính chân thật, chuyển nghĩa là hai phần chuyển xả và chuyển đắc. Do luôn tu tập trí vô phân biệt dứt trừ hai chướng thô trọng trong bản thức nên có thể chuyển xả biến kế sở chấp trên y tha khởi, và có thể chuyển đắc viên thành thật tính trong y tha khởi. Do chuyển phiền não chướng được đại niết-bàn, chuyển sở tri chướng chứng vô thượng giác thành lập duy thức, với mục đích vì hữu tình chứng đắc hai quả chuyển y. Hoặc y tức là sở y của duy thức chân như sinh tử niết-bàn, phàm phu ngu si điên đảo mê chân như nên từ vô thỉ đến nay phải chịu khổ sinh tử, bậc Thánh lìa điên đảo ngộ chân như bèn được niết-bàn cứu cánh an lạc. Do luôn tu tập trí vô phân biệt dứt trừ hai chướng thô trọng trong bản thức nên có thể chuyển diệt y như sinh tử, và có thể chuyển chứng y như niết-bàn. Đây là chân như lìa tính tạp nhiễm, chân như tuy tính thanh tịnh mà tướng tạp nhiễm nên lúc lìa tạp nhiễm tạm nói mới thanh tịnh. Sự mới thanh tịnh này gọi là chuyển y. Sự đoạn chướng chứng đắc trong tu tập vị tuy cũng được bồ-đề nhưng chẳng phải ý nghĩa hiển bày trong bài tụng, ý của bài tụng chỉ hiển bày chuyển duy thức tính. Nhị thừa mãn vị gọi là giải thoát thân, vì nơi đại mâu-ni (Phật) gọi là Pháp thân. Làm thế nào chứng được hai chuyển y ? Nghĩa là trong Thập địa tu mười hạnh thù thắng, đoạn mười trọng chướng, chứng mười chân như, do đây chứng được hai chuyển y.

5/ Cứu cánh vị: Tụng nói rằng:

Đây là cõi vô lậu
Bất tư nghì thiện thường
An lạc giải thoát thân
Đại Mâu-ni là pháp.

Luận nói: “Hai chuyển y trước do tu tập vị có được tức là tướng của cứu cánh vị”. Nghĩa là quả của hai chuyển y trước là thuộc về cứu cánh vô lậu giới, các lậu dứt sạch, vô lậu tăng thêm. Tính tịnh viên minh nên gọi là vô lậu. Giới là nghĩa tàng, vì trong đây hàm chứa vô biên công đức lớn hy hữu; hoặc là nghĩa nhân, có thể sinh những sự lợi lạc của năm thừa thế gian và xuất thế gian.

Trang Nghiêm Kinh Luận nói về tứ gia hạnh vị, kệ nói:

Khi ấy Bồ-tát này
Lần lượt được định tâm
Vì chỉ thấy ý ngôn
Chẳng thấy tất cả nghĩa.

Giải thích: Bồ-tát này ban đầu được định tâm xa lìa ý ngôn, chẳng thấy tự tướng, tổng tướng, tất cả các nghĩa chỉ thấy ý ngôn. Cái thấy này chính là Bồ-tát noãn vị, vị này gọi là minh. Như trong kinh Phật Khôi Hà nói rõ minh này gọi là thấy pháp nhẫn. Kệ nói:

Vì tăng trưởng pháp minh
Nên tinh tiến bền vững
Pháp minh tăng trưởng rồi
Thông đạt duy tâm trụ.

Giải thích: Trong đây, Bồ-tát vì tăng trưởng pháp minh nên khởi tinh tiến bền vững. Trụ pháp minh này thông đạt duy tâm. Thông đạt này chính là Bồ-tát đỉnh vị.

Kệ nói:

Các nghĩa là ánh sáng
Do vì thấy duy tâm
Được dứt các chấp loạn
Đây là trụ nơi nhẫn.

Giải thích: Trong đây, Bồ-tát nếu thấy các nghĩa đều là ánh sáng của tâm, chẳng phải ngoài ánh sáng của tâm riêng có cái thấy khác. Khi ấy các chấp loạn đã diệt. Cái thấy này chính là Bồ-tát nhẫn vị.

Kệ nói:

Các chấp loạn tuy dứt
Vì vẫn còn năng chấp
Đoạn đây lại chóng chứng
Vô gián tam-ma-đề.

Giải thích: Trong đây, Bồ-tát vì dứt cái năng chấp loạn, lại chóng chứng vô gián tam-ma-đề.

Hỏi: Do nghĩa gì tam-ma-đề này gọi là vô gián ?

Đáp: Do lúc cái năng chấp diệt, nhập vào vô gián nên được tên này. Sự nhập vô gián này chính là Bồ-tát thế gian đệ nhất pháp vị.

Cho đến năm vị:

Thứ nhất tư lượng vị: Đầu tiên học duy thức là phát tâm bồ-đề. Phần phát tâm thức nhất này nương vào đại bồ-đề mà phát tâm, Bồ-tát khéo sinh bốn nghĩa: một là chủng tử thù thắng, vì bồ-đề tâm là chủng tử, hai là sinh mẫu thù thắng, vì bát-nhã ba-la-mật là sinh mẫu; ba là thai tạng thù thắng, vì hai nhóm phước trí trụ trù là thai tạng; bốn là nhủ mẫu thù thắng, vì đại bi trưởng dưỡng là nhũ mẫu.

Thứ hai thông đạt vị: Tụng nói:

Đã biết nghĩa loài tính
Khéo trụ duy tâm quang
Vì hiền thấy pháp giới
Giải thoát nơi hai tướng.

Luận nói: “Vị này do hiểu tất cả các nghĩa chỉ là ý ngôn làm tính thì rõ các nghĩa đều là ánh sáng của tâm. Khi ấy Bồ-tát gọi là khéo trụ duy thức, từ đây về sau hiện thấy pháp giới, liễu đạt hai tướng tức là giải thoát năng chấp và sở chấp”.

Thứ ba kiến đạo vị: Tụng nói:

Ngoài tâm không có vật
Vật không tâm cũng không
Vì hiểu hai thứ không
Khéo trụ chân pháp giới.

Luận nói: “Vị này như vị kia hiện thấy pháp giới nên hiểu ngoài tâm không có vật, vật sở thủ không nên tâm năng thủ cũng không. Do lìa hai tướng năng thủ sở thủ nên biết khéo trụ tự tính pháp giới”.

Thứ tư tu đạo vị: Tụng nói:

Trí lực vô phân biệt
Luôn bình đẳng biến hành
Vì hoại quá tụ thể
Như thuốc hay trừ độc.

Luận nói: “Nơi vị này Bồ-tát vào đệ nhất nghĩa trí chuyển y xong, vì trí vô phân biệt luôn bình đẳng tác biến hành. Vì sao ? Vì phá hoại sự nương tựa y tha tính huân tập tướng lỗi lầm như rừng rậm, trí lực này như thuốc a-già-đà hay trừ tất cả thú độc”.

Thứ năm cứu cánh vị: Tụng nói:

Duyên Phật khéo thành pháp
Tâm căn an pháp giới
Hiểu chỉ là phân biệt
Chóng tận cùng công đức.

Luận nói: “Duyên Phật khéo thành pháp nghĩa là các Bồ-tát nơi Phật khéo thành lập tất cả diệu pháp, vì làm tổng tụ duyên”.

Hỏi: Thế nào là tổng tụ duyên ?

Đáp: Tâm căn ẩn pháp giới cho nên tâm này gọi là căn, sau đó khởi quán như quán sự ở trước, nơi nơi niệm chuyển, biết rõ các niệm chỉ là phân biệt chẳng thật có. Đã biết như vậy thì chóng tận cùng biển công đức tức là biển công đức của Phật quả hay chóng đến bờ kia. Cho nên Nhiếp luận có bài kệ:

Phước đức trí tuệ hai tư lương
Bồ-tát khéo đủ vô biên tế
Nơi pháp tư lương đã khéo quyết
Nên rõ nghĩa lý chỉ ngôn loại
Nếu biết các nghĩa chỉ là ngôn
Liền trụ như lý duy tâm kia
Bèn hay hiện chứng chân pháp giới
Cho nên hai tướng đều diệt trừ
Biết rõ lìa tâm không vật khác,
Do đây liền biết tâm chẳng có
Người trí thông đạt hai đều không
Cùng trụ hai không chân pháp giới
Trí vô phân biệt của bậc trí
Trùm khắp bình đẳng thường thuận hành
Phá diệt chỗ nương các lỗi lầm
Như thuốc hay tiêu trừ các độc
Phật nói diệu pháp khéo thành lập
An tuệ và căn trong pháp giới
Biết rõ niệm thú chỉ phân biệt
Dũng mãnh chóng về bờ công đức.

Giải thích: Lại có hiện quán Già-tha, như Trang Nghiêm Kinh Luận nói: “trong đó khó hiểu”.

– Phước đức trí tuệ hai tư lương, Bồ-tát khéo đủ vô biên tế: Tư lương có hai thứ: một là phước đức tư lương, hai là trí tuệ tư lương. Nghĩa là bố thí ba-la-mật là phước đức tư lương, bát-nhã ba-la-mật là trí tuệ tư lương. Tinh tiến ba-la-mật thuộc về hai tư lương. Vì sao ? Nếu vì trí tuệ mà thực hành tinh tiến là trí tuệ tư lương; nếu vì phước đức mà thực hành tinh tiến là phước đức tư lương. Như vậy thiền định ba-la-mật cũng thuộc về hai tư lương; nếu duyên vô lượng mà tu tĩnh lự là phước đức tư lương; ngoài ra là trí tuệ tư lương. Tư lương ấy ai có được ? Đó là các Bồ-tát tu hành lâu dài không diệt độ gọi là vô biên tế. Như vô biên ngữ chẳng phải không có bờ mé, chỉ vì nhiều nên được gọi là vô biên; đây cũng như thế.

– Nơi pháp tu lương đã khéo quyết nghĩa là phải do sau khi định tư duy các pháp mới khéo quyết định, chẳng phải năng sở kia.

– Nên rõ nghĩa lý chỉ là ngôn nghĩa là rõ biết các nghĩa chỉ là ý ngôn làm nhân.

– Nếu biết các nghĩa chỉ là ngôn, liền trụ như lý duy tâm kia nghĩa là nếu rõ biết tợ nghĩa hiển hiện chỉ là ý ngôn liền trụ tợ nghĩa chính lý duy tâm.

– Bèn hay hiện chứng chân pháp giới, cho nên hai tướng đều tiêu trừ nghĩa là từ đây về sau hiện chứng chân như vĩnh viễn xa lìa hai tướng năng thủ sở thủ, như nhập hiện chứng rồi mới hiển bày.

– Rõ biết lìa tâm không vật khác, do đây bèn biết tâm chẳng có nghĩa là rõ biết lìa tâm không có nghĩa sở duyên; vì nghĩa sở duyên không nên biết tâm năng duyên cũng không.

– Người trí liễu đạt hai đều không nghĩa là các Bồ-tát liễu đạt hai thứ này đều là không.

– Cùng trụ hai không chân pháp giới nghĩa là bình đẳng trụ pháp giới chân thật lìa nghĩa lìa tâm.

– Trí vô phân biệt của bậc trí nghĩa là trí vô phân biệt của các Bồ-tát có thế lực.

– Trùm khắp bình đẳng thường thuận hành nghĩa là trong bình đẳng tùy thuận mà tu hành, quán tất cả các pháp như tính hư không bình đẳng, các pháp trong ngoài đều quán như thế nên gọi là trùm khắp thường hằng.

– Phá diệt chỗ nương các lồi lầm, như thuốc hay tiêu trừ các độc nghĩa là diệt là trừ diệt, y là sở y, tức là các pháp tạp nhiễm trong sở y vì rất khó biết như rừng rậm khó vào. Các lỗi lầm là pháp tạp nhiễm huân tập tự tính.

– Phật nói diệu pháp khéo thành lập, an tuệ cùng căn trong pháp giới nghĩa là do Phật dạy khéo đặt để trí tuệ trong chân như và năng duyên kia trong tâm căn bản. Tâm căn bản nghĩa là chính giáo của Như Lai chung làm một tướng nên biết chính là tâm vô phân biệt.

– Biết rõ niệm thú chỉ phân biệt nghĩa là sau khi an trụ tâm căn bản, vì nói chính giáo, do hậu đắc trí niệm các nghĩa thú biết các niệm thú này chỉ là phân biệt.

– Dũng mãnh chóng đến bờ công đức nghĩa là các Bồ-tát do trí vô phân biệt và hậu đắc trí khéo léo phương tiện nên chóng đến bờ công đức của Phật quả.

Năm bài tụng trên đây gồm ý nghĩa đại lược, bài tụng thứ nhất nói về tư lương đạo; bài tụng thứ hai nói về gia hạnh đạo; bài tụng thứ ba nói về kiến đạo; bài tụng thứ tư nói về tu đạo; bài tụng thứ năm nói về cứu cánh đạo.

Kinh Kim Cang Tam-muội ghi: “Bồ-tát Đại Lực nói tại sao hai nhập chẳng sinh nơi tâm, tâm vốn chẳng sinh sao có nhập ? Phật bảo: Hai nhập là lý nhập và hạnh nhập. Lý nhập là thâm tín chúng sinh chẳng khác chân tính bất nhất bất cộng, chỉ vì bị khách trần che chướng, chẳng đến chẳng đi ngưng trụ giác quán, thấy rõ Phật tính chẳng có, chẳng không, không mình, không người, phàm Thánh chẳng hai, kim cang tâm địa kiên trụ chẳng đổi dời, tịch tĩnh vô vi không có phân biệt. Hạnh nhập là tâm chẳng thiên lệch, ảnh không dời đổi; đối với chỗ sở hữu tĩnh niệm vô cầu, gió mạnh chẳng lay động dường như đại địa, lìa bỏ tâm ta cứu độ chúng sinh, vô sinh vô tướng chẳng lấy chẳng bỏ. Tâm Bồ-tát không xuất nhập, tâm không xuất nhập, nhập mà chẳng nhập nên gọi là nhập. Bồ-tát nhập pháp như thế, pháp tướng chẳng không; pháp chẳng không, pháp chẳng hư dối, vì sao ? Vì pháp bất không đầy đủ công đức, chẳng phải tâm chẳng phải ảnh pháp nhĩ thanh tịnh”.

Lại nói: “Phật bảo: Từ tâm xiển-đề cho đến Như Lai, thật tướng của Như Lai trụ năm vị:

1/ Tín vị: Tin chủng tử chân như trong thân này bị vọng che lấp, xa lìa vọng tâm, tịnh tâm trong sáng biết các cảnh giới là ý ngôn phân biệt.

2/ Tư vị: Tư là quán các cảnh giới chỉ là ý ngôn, ý ngôn phân biệt tùy ý hiển hiện, cảnh giới được thấy chẳng phải là bản thức của ta, biết bản thức này chẳng phải pháp chẳng phải nghĩa, chẳng phải sở thủ, chẳng phải năng thủ.

3/ Tu vị: Tu là thường khởi năng khởi sở khởi đồng thời, trước hết dùng trí dẫn dắt dẹp trừ các chướng nạn, xa lìa triền cái.

4/ Hạnh vị: Hạnh là lìa các hạnh địa, tâm không thủ xả, cực tịnh căn lợi chẳng động tâm như thật tính quyết định đại bát niết-bàn chỉ là tính không đại.

5/ Xả vị: Xả là chẳng trụ tính không chính trí đổi dời, đại bi như tướng, tướng chẳng trụ như tam-miệu tam bồ-đề hư tâm chẳng chứng, tâm không bờ mé chẳng thấy nơi chốn cho đến Như Lai. Này thiện nam, ngũ vị nhất giác từ bản lợi thể nhập, nếu hóa độ chúng sinh phải từ cội gốc này”.

Kinh luận trên đây nói tứ gia hạnh vị, duy thức ngũ vị của chư Phật Bồ-tát đều từ nhất tâm phân ra sâu cạn; từ gốc khởi ngọn dường như hiện sơ tâm, do ngọn hiển gốc trở về khởi điểm. Do đó kinh nói: “Ngũ vị nhất giác từ bản lợi thể nhập, nếu hóa độ chúng sinh phải từ cội gốc này”. Các vị trên chỉ là nhất tâm, do trí có cạn sâu, chứng đắc phân sau trước. Trong hàng bố dường như có giai cấp. Như Ân Sớ nói: “Kinh Thủ Lăng Nghiêm trên một niệm lập sáu mươi vị, như ảnh tượng vật loại trong hạt châu tuy nhiều nhưng hạt châu chỉ là một. Trong một chứa nhiều hình tượng, nhiều hình tượng trở vào trong một hạt châu. Như trong sáu mươi vị, mỗi mỗi vị chứa sáu mươi vị, mỗi vị như thế đều là tâm chứng, một tâm hay sinh nhiều tâm, nhiều tâm trở lại vào một tâm, tâm tâm hàm chứa lẫn nhau có gì chướng ngại!”.