TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 82

Hỏi: Tại sao nhất tâm mà thành chỉ quán ?

Đáp: Pháp tính lặng lẽ gọi là chỉ, tịch mà thường chiếu gọi là quán; chẳng phải năng quán sở quán chỉ là một pháp. Thiên Thai giáo đại khái nói có hai thứ chỉ quán: một là tương đãi chỉ quán, hai là tuyệt đãi chỉ quán. Cái trước là sự hóa độ vụng về, cái sau là sự hóa độ khéo léo.

Tương đãi chỉ quán có tam chỉ, tam quán. Tam chỉ: 1- nghĩa chỉ tức, 2- nghĩa đình chỉ, 3- nghĩa bất chỉ chỉ. Tam quán: 1- nghĩa quán xuyên, 2- nghĩa quán đạt, 3- nghĩa bất quán quán.

Tuyệt đãi chỉ quán có tam chỉ, tam quán. Tam chỉ: 1- Thể chân chỉ, 2- Phương tiện tùy duyên chỉ, 3- Tức nhị biên phân biệt chỉ. Tam quán: 1- Từ giả vào không gọi là nhị đế quán, 2- Từ không vào giả gọi là bình đẳng quán, 3- Nhị quán là phương tiện đạo được vào trung đạo, song chiếu nhị đế tâm tâm tịch diệt, tự nhiên chảy vào biển tát-bà-nhã, gọi là trung đạo đệ nhất nghĩa đế quán. Nay Tông Cảnh chỉ nói về ý chỉ nhất tâm viên đốn. Tướng chỉ quán viên đốn, nghĩa là đem chỉ duyên đế thì một đế mà ba đế; lấy đế duyên nơi chỉ thì một chỉ mà ba chỉ. Ví như ba tướng tại một niệm tâm tuy một niệm tâm mà có ba tướng, chỉ đế cũng như thế. Pháp sở chỉ tuy một mà ba, tâm năng chỉ tuy ba mà một. Đem quán quán nơi cảnh thì một cảnh mà ba cảnh; đem cảnh phát nơi quán thì một quán mà ba quán. Như trên gương mặt của Ma-hê-thủ-la có ba mắt, tuy là ba mắt mà là một gương mặt, quán cảnh cũng như thế, quán ba tức một, phát một mà ba, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng quyền, chẳng thật, chẳng hơn, chẳng kém, chẳng trước, chẳng sau, chẳng cùng, chẳng khác, chẳng lớn, chẳng nhỏ. Cho nên Trung luận nói: “Các pháp do nhân duyên sinh tức không, tức giả, tức trung”. Kinh Kim Cang Bát-nhã nói: “Ví như người mắt sáng và nhờ ánh mặt trời chiếu soi thấy được các sắc. Nếu mắt riêng thấy thì không cần đến mặt trời. Nếu không có sắc, tuy có mặt trời và con mắt cũng không thể thấy”. Như vậy ba pháp phải đồng thời và chẳng lìa nhau; mắt dụ cho chỉ, mặt trời dụ cho quán, cảnh dụ cho sắc. Ba pháp này chẳng trước, chẳng sau, trong một luận ba, trong ba luận một cũng như thế. Nếu thấy được ý này là hiểu tướng chỉ quán trong viên đốn giáo, đâu chỉ ba một, một ba. Tóm lại nhưng nghĩa trên đều tại nhất tâm. Tướng ấy thế nào ? Thể hội vô minh điên đảo chính là thật tướng chân thật, gọi là thể chân thể. Thật tướng này khắp mọi nơi, tùy theo cảnh duyên an tâm bất động gọi là tùy duyên phương tiện chỉ. Dừng nghỉ sinh tử, niết-bàn, định tĩnh, tán loạn gọi là tức nhị biên chỉ. Thể hội tất cả hư giả đều là không, không tức thật tướng gọi là nhập không quán. Thông đạt không này quán thầm trung đạo, hay biết pháp tướng sinh diệt ở thế gian mà thấy như thật, gọi là nhập giả quán. Không tuệ này chính là trung đạo không hai không khác, gọi là trung đạo quán. Lúc thể hội chân thật, một niệm dừng nghỉ ngũ trụ, đá tảng, cát, sỏi, gọi là nghĩa chỉ tức. Tâm duyên trung đạo vào tuệ thật tướng gọi là nghĩa đình chỉ. Tính của thật tướng là nghĩa phi chỉ phi bất chỉ.

Lại một niệm này có thể xuyên qua ngũ trụ đạt được thật tướng, thật tướng này phi quán, phi bất biến.

Những nghĩa trên chỉ ở trong một niệm tâm, chẳng động chân tế mà có các thứ sai biệt. Kinh nói: “Khéo hay phân biệt các pháp tướng thì nơi đệ nhất nghĩa chẳng động”. Tuy nhiều tên gọi nhưng là một pháp bát-nhã. Phật nói các thứ tên gọi đều viên, các nghĩa cùng viên. Tương đãi tuyệt đãi đối thể bất khả tư nghì, vì bất khả tư nghì nên không có chướng ngại, vì không có chướng ngại nên đầy đủ không giảm thiểu, đây là giáo tướng viên đốn hiển bày thể của chỉ quán.

Lại tam chỉ tam quán là nhân, tam trí tam nhãn có được là quả. Tam trí là nhất thiết trí, đạo chủng trí, nhất thiết chủng trí, Tam nhãn là tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Như nhất tâm nhãn trí thì nhãn chính là trí, trí chính là nhãn. Nhãn nên nói thấy, trí nên nói biết, biết chính là thấy, thấy chính là biết. Phật nhãn đầy đủ ngũ nhãn, Phật trí đầy đủ tam trí. Vương tam-muội bao gồm tất cả tam-muội, Thủ lăng nghiêm định thu nhiếp tất cả định. Như Lai tuy có đủ ngũ nhãn nhưng thật ra chẳng phân chia; chỉ y cứ vào một nhãn mà có năm tác dụng, hay chiếu soi năm cảnh. Tại vì sao ? Phật nhãn cũng có thể chiếu soi sắc thô như mọi người nhưng vượt hơn chỗ thấy của người gọi là nhục nhãn; cũng có thể chiếu soi sắc tế như chư thiên, nhưng vượt hơn chư thiên gọi là thiên nhãn; thông đạt sắc thông thô tế như hàng nhị thừa gọi là tuệ nhãn; chiếu đạt giả danh chẳng lầm như Bồ-tát gọi là pháp nhãn; ở trong các pháp đều thấy thật tướng gọi là Phật nhãn, nên biết Phật nhãn chiếu khắp không sót. Cho nên kinh nói: “Đầy đủ ngũ nhãn thành bồ-đề, mãi mãi làm cha lành của ba cõi”. Riêng gọi là Phật nhãn, nghĩa là các dòng sông chảy vào biển mất đi tên gọi ban đầu nhưng chẳng phải không có bốn tác dụng.

Phật trí chiếu không như nhị thừa thấy gọi là nhất thiết trí; Phật trí chiếu giả như Bồ-tát thấy gọi là đạo chủng trí; Phật trí chiếu không giả trung đều thấy thật tướng gọi là nhất thiết chủng trí, nên nói trong nhất tâm được tam trí. Vì vậy biết tam nhãn do nhất tâm tam chỉ làm thành, thấy tam đế bất tư nghì, cái thấy này tử “chỉ” được nên gọi là nhãn. Tam trí do nhất tâm tam quán làm thành biết tam cảnh bất tư nghì, cái trí này từ quán được nên gọi là trí. Cảnh và đế trái phải khác nhau, thấy và biết nhân mục gọi khác, chẳng nên nói khác. Tuy lọc ra ba thuyết tam chỉ tam quán nhưng thật ra chỉ là một pháp bất tư nghì.

Lại nói: Khéo léo an tâm là lấy chỉ quán an nơi pháp tính, vô minh si hoặc vốn là pháp tính. Vì si mê nên pháp tính biến thành vô minh như ngủ mê khiến tâm có các thứ mộng mị. Tuy sinh diệt điên đảo như vòng lửa nhưng chẳng tin sinh diệt điên đảo, chỉ tin tâm này là pháp tính. Khởi là pháp tính khởi, diệt là pháp tính diệt. Thể tính kỳ thực chẳng sinh diệt mà lầm cho là sinh diệt, đem pháp tính buộc pháp tính, đem pháp tính nhớ pháp tính, luôn luôn pháp tính không gì chẳng pháp tính. Thể đạt đã thành chẳng có vọng tưởng cũng không được pháp tính, trở về cội nguồn pháp giới tịch tính đây gọi là chỉ.

Quán nghĩa là quán sát tâm vô minh ở nơi pháp tính xưa nay đều không, ví như kiếp tận tất cả vọng tưởng thiện ác hạ đẳng đều như hư không, không hai không khác. Lại như kiếp tận từ địa thượng đến sơ thiền hừng hực không gì chẳng phải lửa. Như tướng do Bồ-tát Hư Không Tạng hiện ra tất cả đều không; như tướng do Hải Tuệ Như Lai hiện ra đều là nước; chỗ niệm khởi của một niệm nhỏ nhiệm niệm niệm đều là hư không, hư không cũng không thật có. Như lửa có thể khiến củi cháy cũng lại tự cháy; pháp giới sáng suốt đều là đại minh đây gọi là quán. Nói “chỉ” còn chẳng được pháp tính huống chi vọng tưởng. Nói “quán” còn chẳng được không huống chi có pháp ắt hẳn hữu vô đều lặng, nhiễm tịnh cùng dung mới thành cứu cánh nhất tâm chỉ quán.

Tuyệt đãi chỉ quán nghĩa là dứt các đối đãi ngang dọc, bặt các nghĩ bàn, tuyệt các giáo quán thảy đều chẳng sinh nên gọi là chỉ, chỉ cũng chẳng có thật. Thầm quán cảnh như, cảnh đã tịch diệt thanh tịnh, còn không thanh tịnh sao có quán ? Người đời y cứ các lời nói giải thích nghĩa tuyệt đãi nhưng trọn không được tuyệt. Nếu được ý quên lời tâm hành cũng dứt, tùy trí diệu ngộ không còn phân biệt. Duyên lý phân biệt đều gọi là đối đãi chân tuệ khai phát dứt sạch các đối đãi này, dứt rồi lại dứt các pháp chẳng đối đãi nhau cho đến một niệm chẳng trụ, đây là ý này vậy.

Phụ Hành Ký ghi: Môn vô sinh nghìn muôn lớp lớp chỉ là nhất tâm vì người muốn tu quán dụng tâm khó đảm đương nên tóm tắt nêu chính ý gọi là nhất tâm. Đây là nói về môn nhất tâm vô sinh cho đến đã ở nơi niệm niệm chỉ quán hiện tiền y cứ vào tâm niệm này gọi là chúng sinh. Vì sao ? Tổng hợp từ trước đến nay hoặc ngang hoặc dọc đã vào nhất tâm. Phàm một niệm khởi chẳng lìa ngã, ngã là chúng sinh, thấu rõ niệm niệm tâm mà tịch mà chiếu, tịch nên gọi là chỉ, chiếu nên gọi là quán. Một tâm đã vậy, các tâm cũng thế, chỉ quán là nhân, nhãn trí là quả. Trong mỗi mỗi niệm không gì chẳng phải chỉ quán nhãn trí. Ba một như trên, nếu có ba được ba liền thành sai biệt; có một được một liền thành không sai biệt. Nếu sai biệt thời mất đi không sai biệt, nếu không sai biệt thì mất đi sai biệt. Khai một làm ba thì mất đi một, hợp ba làm một thì mất đi ba. Hiện tại nói chẳng phải vậy, xưa ba vẫn là nay một, nay một vẫn là xưa ba, khai ba chẳng mất một, hợp một chẳng mất ba, đây chính là sai biệt tức không sai biệt, không sai biệt tức sai biệt. Nếu được ý này xưa có nay không ba đời có pháp không có lẽ ấy. Cũng nên so sánh xưa không nay có ba đời có pháp là có lẽ ấy. Vô thường chẳng phải vô thường, cảnh trí chẳng phải cảnh trí, nhân quả chẳng phải nhân quả, so sánh đều như thế. Xưa ba vẫn là nay một, nay một vẫn là xưa ba tức là bất động. Tính chúng sinh có thể thành tính chư Phật, cũng là tự thật khai quyền, hội quyền quy thật, cũng là nhân quả đồng thời mê ngộ nhất tế, cho nên nói chỗ thực hành của các ông là đạo Bồ-tát, tất cả chúng sinh là tướng niết-bàn.

Lại nói nhất tâm tam quán, tam quán nhất tâm; nói tam quán nhất tâm là y cứ thời gian (tung thuyết), nói nhất tâm tam quán là y cứ không gian (hoành thuyết). Hiện tại chẳng phải thời gian nên chẳng phải một; chẳng phải không gian nên chẳng phải ba. Ba một một ba chỉ là nghĩa trên chân tâm, chẳng thể nhất định chấp là một hay là ba, chẳng phải ba hay chẳng phải một, vì tông chẳng phải số lượng, đạo bặt danh ngôn.

Hỏi: Kinh nói: “Tất cả người vô ngại một đường ra khỏi sinh tử”, tại sao lập nhiều thứ quán môn hành tướng sai biệt ?

Đáp: Sở quán là một, năng quán tự khác, chư Phật tùy căn cơ kín đáo chỉ dạy khéo léo. Lại pháp là tâm thể, quán là tâm dụng. Từ lâm khởi dụng rồi chiếu trở lại tự thể; như bấc đèn sinh ngọn lửa, ánh sáng trở lại soi bấc đèn; như hạt châu nhả ánh sáng trở lại chiếu thể hạt châu. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài tham kiến trưởng giả Di-già thấy suốt mười phương Phật hải, hiển bày định này là quán duy tâm, biết chúng sinh giới vô lượng vô biên đều do tâm hiện, nên nói tùy tâm niệm Phật chư Phật hiện tiền, vì duy tâm quán bao trùm vạn hữu. Vì thế tôn giả Trạm Nhiên nói: “Bậc thượng căn chỉ quán một pháp”, nghĩa là quán cảnh bất tư nghì. Cảnh là sở quán, quán là năng quán. Sở quán là ấm, giới, nhập, chẳng ngoài sắc tâm; sắc từ tâm tạo, toàn thể là tâm. Cái năng tạo này đầy đủ các pháp, chúng sinh theo lý đầy đủ, chư Phật đã thành. Thành cùng với lý đều là tính đồng. Bài tụng nói:

Trong mỗi mỗi tâm tất cả tâm,
Trong mỗi mỗi trần tất cả trần,
Trong mỗi mỗi tâm tất cả trần,
Trong mỗi mỗi trần tất cả tâm.
Trong mỗi mỗi trần tất cả cõi,
Tất cả cõi, trần cũng như thế,
Các pháp, các trần, các cõi nước,
Thể nó tất nhiên không tự tính.
Vô tính xưa nay tùy vật biến
Do đó tướng vào sự luôn phân
Nên thân tâm ta khắp sát trần
Chư Phật chúng sinh cũng như thế.
Mỗi mỗi thân độ thể luôn đồng
Đâu ngại tâm Phật chúng sinh khác
Khác nên phân biệt duyên nhiễm tịnh
Duyên thể vốn không, không bất không.
Tam đế, tam quán, tam phi tam
Tam nhất, nhất tam không nương gá
Đế quán tên khác, thể lại đồng
Thế nên năng sở hai chẳng hai.

Lúc quán như thế gọi là quán tâm tính; tùy duyên bất biến nên gọi là tính, bất biến tùy duyên nên gọi là tâm. Thế nên diệu cảnh này là gốc của các pháp, diệu quán này là nguồn của các hạnh. Bậc thượng căn một khi quán gồm cả thời gian không gian, bèn biết vô tướng, các tướng rõ ràng. Bậc trung hạ căn chẳng phù hợp môn này thì tùy căn cơ sai khác mà giáo chia nhiều thứ; tuy nói các thứ đạo mà thật ra chỉ là Phật thừa. Phật thừa bất động mọi thứ theo tâm, như hạt châu pha lê tùy tiền trần biến ra các sắc, như viên kim cương đặt dưới mặt trời không có hình thể nhất định.

Hỏi: Tự tính thanh tịnh tâm vốn không cấu nhiễm, tại sao nói nghĩa dứt hoặc ?

Đáp: Có hai thứ tâm: một là tự tính thanh tịnh tâm, hai là ly cấu thanh tịnh tâm. Vì tự tính tâm tuy vốn thanh tịnh, bởi khách trần chẳng nhiễm mà nhiễm, tu các đối trị được thành ly cấu, chưa hẳn có cấu để lìa, vì tự tính lìa, đây là chẳng đoạn mà đoạn; tuy có năng đoạn mà không có sở đoạn, đây là nghĩa đoạn hoặc viên mãn. Như cổ đức nói: “Đoạn hoặc tướng là cần phải tính tướng vô ngại”. Bởi năng đoạn vô tính mới là năng đoạn, sở đoạn vốn không mới thành sở đoạn. Nếu quyết định có thì rơi vào thường, vì chẳng thể đoạn. Nếu quyết định không thì rơi vào đoạn, vì mất Thánh trí. Trung Luận có bài kệ:

Năng thuyết là nhân duyên
Khéo diệt các hí luận.

Hóa độ vụng về là bất thiện diệt; hóa độ khéo léo là thiện diệt. Thiện diệt là bất đoạn đoạn; bất thiện diệt là định đoạn.

Lại trí chướng có ba môn:

1- Trí chướng là tâm phân biệt hữu vô.

2- Thể chướng là quán phi hữu phi vô, vì đã lập năng tri.

3- Trị tưởng là trong vọng thức hợp như chính tuệ.

Hàng Bồ-tát tứ ngũ lục địa đoạn trừ tâm phân biệt chấp có; lúc vào thất địa đoạn trừ tâm phân biệt chấp không; từ bát địa trở lên đoạn trừ thể chướng. Trước đệ thất địa tuy đoạn trừ tâm phân biệt hữu vô nhưng còn thấy tâm của mình cho là năng quán, chân như là sở quán. Chân như sở quán chẳng phải là tâm, tâm năng quán chẳng phải là chân như. Tâm và chân như khác biệt nên ngoài tâm cầu pháp mà có công dụng, ngoài pháp lập tâm nên có thể chướng. Từ đệ thất địa vào bát địa phá trừ chướng này quán sát ngoài chân như xưa nay không tâm, ngoài tâm không có chân như. Ngoài chân như không tâm, tâm chẳng khác chân như; ngoài tâm không có chân như, chân như chẳng khác tâm, cho nên chân như và tâm đều bặt đồng với pháp giới bao la bất động, vì không khác nhau. Ngoài hơi thở tìm cầu nên bỏ mất công dụng, ngoài chân như chân kiến lập thân trí nên diệt trừ thể chướng. Thể chướng diệt nên gọi là tưởng vô chướng.

Trị tưởng thứ ba đến Phật mới diệt, vì thế vào bát địa tuy không có chướng tưởng mà có trị tưởng. Từ bát địa trở lên thể vô sinh nhẫn chuyển sang tịch diệt khiến cho trị tưởng kia dần dần tự mất; đến Phật mới cùng tận, hiện tại chưa tận. Lại y theo đốn giáo tất cả phiền não xưa nay tự lìa, chẳng thể nói tức và bất tức. Kinh Pháp Giới Thể Tính ghi: “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Ông y theo giáo pháp gì mà phát tâm bồ-đề. Văn-thù đáp: giáo pháp phát khởi tâm ngã kiến. Vì sao ? Vì ngã kiến chính là bồ-đề”.

Theo Hoa Nghiêm viên giáo, chẳng thể nói thể tính của tất cả phiền não, chỉ căn cứ vào tác dụng của nó rất sâu xa rộng lớn, vì pháp sở chướng một là tất cả, đầy đủ chủ bạn cho nên lậu hoặc năng chướng cũng như thế. Do đó chẳng phân ra kiết sử tập khí, chủng tử hiện hành, chỉ như pháp giới một được thì tất cả được, cho nên phiền não cũng một dứt thì tất cả dứt.

Phẩm Phổ Hiền nói về một chướng là tất cả chướng kinh nói: “Cặp mắt của Phổ Hiền thấy tất cả chúng sinh đều đã thành Phật”. Cho nên biết chỉ rõ chân tâm không có phiền não để đoạn, cho dù còn tập khí thì đem nhất tâm Phật trí kiến mà đối trị, nếu chẳng vào tâm này đều thành quyền tiệm. Theo đây sám hối tội lỗi thì tội nào chẳng tiêu, trừ rễ ba độc như lật đổ mặt đất; theo đây phát hạnh thì hạnh nào chẳng thành, thâu nguồn thập địa như tận cùng đáy biển, du hành hiên ngang như sư tử chúa, tung bay tự tại như chim cánh vàng.

Hỏi: Duy nhất chân tâm vào nơi bình đẳng tại sao người học chứng đắc có sai khác ?

Đáp: Nơi trí năng chứng thấy có cạn sâu, hướng đến pháp vô vi tự sinh sai biệt. Niết-bàn Sớ nói: “Phật tính như con đường thế gian có người chưa đi, có người sẽ đi, có người đang đi, có người đã đi, tuy có người chưa đi v.v… chẳng đồng nhưng chẳng nói con đường có hai; Phật tính cũng thế, có người chưa thấy, có người sẽ thấy, có người đang thấy, có người đã thấy; tuy thấy chẳng đồng nhưng lý không hai. Chư Phật đồng một pháp giới thì lý không hai. Một hạt bụi không gì chẳng phải pháp giới thì sự chẳng sai mảy may, đây chính là sở chứng không sai khác. Nếu năng chứng sai khác thì như Tạng giáo và Thông giáo chỉ thấy không mà chẳng thấy bất không như tìm chiêm bao được giấc ngủ. Còn biệt giáo và viên giáo thấy lý trung đạo bất không như tìm chiêm bao được tâm.

Lại nữa môn khác vẫn chấp trước nên giáo đạo lần lượt sinh khởi, viên thừa trực liễu tâm tính hiện tại đầy đủ Tạng giáo và Thông giáo cho diệt tâm là cực quả đều trái nghịch với viên thừa”. Thiên Thai giáo nói: “Thức thứ sáu là duyên nhân chủng, thiện ác đều do thức này khởi. Thức thứ bảy là liễu nhân chủng, phiền não và hiểu biết đều do là thức này. Thức thứ tám là chính nhân chủng, không có thức thứ tám thì không có sinh tử và niết-bàn”. Ba thứ trên chẳng phải là chủng loại Phật, ngoài ra nơi nào còn có pháp viên đốn; Nhị thừa đoạn kiết sử, kiết sử hết thì không có nhân Phật tuệ chẳng thể thành nhất thiết chủng trí, mất đi liễu nhân chủng. Nếu trừ ác được thiện, ác hết thì chẳng thể sinh tất cả thiện làm sao có duyên nhân chủng. Nếu lìa sinh tử vào vô dư niết-bàn, diệt thân chẳng thọ sinh làm sao có chính nhân chủng. Do đó kinh Viên Giác ghi: “Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ bạch Phật: Bạch Thế Tôn, xin ngài vì tất cả thính chúng tuyên nói giác tính viên mãn của bậc pháp vương mà tất cả chúng sinh, chư Bồ-tát, Như Lai, Thế Tôn chứng đắc tại sao sai biệt ? (…) Phật dạy: Này thiện nam, tự tính viên giác chẳng phải tính tính hữu mà theo các tính khởi không thủ không chính, ở trong thật tướng thật ra không có Bồ-tát và các chúng sinh ? Vì sao ? Bồ-tát và chúng sinh đều là huyễn hóa. Bởi huyễn hóa diệt nên không có sự thủ chứng, ví như nhãn căn chẳng tự thấy con mắt, tính tự bình đẳng và không bình đẳng chúng sinh mê muội điên đảo chưa thể trừ diệt tất cả huyễn hóa, ở trong diệt chưa diệt lầm dụng công bèn hiển bày sai biệt. Nếu được sự tùy thuận tịch diệt của Như Lai, thật ra không có sự tịch diệt và người tịch diệt. Này thiện nam, tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay do vọng tưởng ngã và ngã ái từng chẳng từ biết niệm niệm sinh diệt nên khởi yêu ghét tham đắm ngũ dục. Nếu gặp bạn lành giáo hóa khiến khai ngộ, giác tính tịnh viên phát minh khởi diệt liền biết tính sinh này tự lao lự. Nếu có người lao lự dứt hẳn được pháp giới thanh tịnh thì sự hiểu biết thanh tịnh kia tự chướng ngại cho nên đối với viên giác chẳng được tự tại, đây gọi là phàm phu tùy thuận giác tính.

Này thiện nam, tất cả bồ-đề thấy sự hiểu biết là chướng ngại, tuy đoạn giải ngại nhưng vẫn trụ nơi thấy giác, giác ngại làm chướng ngại mà chẳng được tự tại, đây gọi là Bồ-tát chưa nhập địa tùy thuận giác tính.

Này thiện nam, có chiếu có giác đều gọi là chướng ngại, cho nên Bồ-tát thường chẳng trụ giác, chiếu và người chiếu đồng thời tịch diệt, ví như có người tự chặt đầu của mình, đầu đã chặt nên không có người chặt; cũng như đem ngại tâm tự diệt các chướng ngại, chướng ngại đã đoạn diệt không có người diệt ngại. Tu-đa-la giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu đã thấy mặt trăng thì biết rõ ngón tay chẳng phải là mặt trăng. Tất cả ngôn thuyết của Như Lai khai thị Bồ-tát cũng là như thế, đây gọi là Bồ-tát đã nhập địa tùy thuận giác.

Này thiện nam, tất cả chướng ngại là cứu cánh giác, đắc niệm thất niệm đều là giải thoát, thành pháp phá pháp đều gọi niết-bàn, trí tuệ ngu si đều là bát-nhã, pháp mà Bồ-tát hay ngoại đạo thành tựu đều là bồ-đề, vô minh và chân như không khác cảnh giới, giới định tuệ và dâm nộ si đều là phạm hạnh, cõi chúng sinh đồng một pháp tính, địa ngục thiên đường đều là tịnh độ, hữu tính vô tính đều thành Phật đạo, tất cả phiền não tất cánh giải thoát, biển tuệ pháp giới chiếu soi các tướng cũng như hư không, đây gọi là Như Lai tùy thuận giác tính.

Này thiện nam, các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp ở mọi lúc chẳng khởi vọng niệm, đối với các vọng tâm cũng chẳng dứt diệt, trụ cảnh vọng tưởng chẳng thêm liễu tri. Đối với không liễu tri chẳng biện chân thật, các chúng sinh nghe pháp môn này tin hiểu thọ trì chẳng sinh sợ hãi đây gọi là tùy thuận giác tính.

Giải thích: Bất cứ mọi lúc chẳng khởi vọng niệm, nghĩa là niệm tuy là không chẳng thể cố khởi, hoặc theo thói quen mà sinh, hoặc tiếp tục mà khởi, hoặc giác niệm trước chẳng phải riêng sinh niệm sau cải hối thảy đều là bệnh. Chỉ cần lúc ngồi yên tâm trong ngoài chẳng sinh chính là chân như định, dù có cảnh khác phát sinh chỉ cần rõ chính niệm. Chính niệm là cội gốc của nhất tâm, tâm cảnh đều hư rỗng trọn không có thật.

Đối với các vọng tâm cũng chẳng dứt diệt, nghĩa là tìm niệm ban đầu chẳng thấy chỗ khởi, cần gì phải doạn diệt mới chẳng thấy chỗ khởi, đây là chân diệt.

Trụ cảnh vọng tưởng chẳng thêm liễu tri, nghĩa là các cảnh vọng tưởng trong ngoài đều không, cần gì gượng sinh phân biệt thì chẳng lấy chẳng bỏ diệu định tương ưng.

Đối với không liễu tri chẳng biện chân thật, nghĩa là cũng không trụ vô phân biệt, chẳng phải thật, chẳng phải hư, tâm không nương gá được gốc chính tông, về nguồn diệu tính.

Hỏi: Tất cả chúng sinh đều đồng pháp tính nên kinh Tư Tích nói: “Chúng sinh như chính là lậu tận giải thoát như”, tại sao chúng sinh chẳng đủ tính mà khởi ra công đức ?

Đáp: Tính có hai nghĩa: một là nghĩa chủng tính, vì nhân sở khởi; hai là nghĩa pháp tính, vì hoặc chân, hoặc ứng đều là tính này. Nếu là pháp tính thì phàm Thánh đều đồng; nếu là chủng tính, thì cần phải huân tu vạn thiện, vì tịnh đoạt nhiễm tính mới sinh khởi, vì vọng tuy là tính mà chẳng thuận tính. Thanh Lương Ký ghi: “Nghĩa Như Lai xuất hiện cũng gọi là duyên khởi, cũng gọi là tính khởi. Như tám tướng nhờ duyên xuất hiện nên gọi là duyên khởi, nghĩa là do nghiệp chúng sinh cảm đại bi Như Lai mà xuất hiện; tám tướng thành đạo từ pháp tính nên gọi là tính khởi. Nay vì từ duyên vô tính, duyên khởi gọi là tính khởi. Lại nữa tịnh duyên khởi thường thuận với tính cũng gọi là tính khởi, cho nên nói rằng ứng tuy từ duyên mà chẳng trái với tính thì không gì chẳng từ pháp giới này lưu xuất, đây là môn tương thành nói tính thành từ duyên”.

Cho nên tính khởi này có hai nghĩa: một là từ duyên vô tính mà gọi là tính khởi; hai là pháp tính tùy duyên nên gọi là tính khởi, vì thảy đều trở lại chứng pháp thân này, đây là duyên khởi hay thành tính khởi tức là môn tương thành vậy.

Vì tính đoạt nhiễm tính liền khởi nghĩa là nói về môn tương đoạt cũng là thông phương. Có người hỏi: Tính khởi chỉ có tịnh duyên khởi chính là tính khởi nên gọi là thông. Có hai thứ khởi: một là nhiễm, hai là tịnh. Tịnh nghĩa là đại bi của Như Lai, vạn hạnh của Bồ-tát v.v… Nhiễm nghĩa là hoặc nghiệp của chúng sinh v.v… Nếu đem nhiễm đoạt tịnh thì thuộc về chúng sinh nên gọi là duyên khởi. Nếu đem tịnh đoạt nhiễm thì thuộc về chư Phật nên gọi là tính khởi. Cho đến vạn pháp xuất hiện đều là duyên khởi trong chân tính. Do đó Bồ-tát hễ có bố thí là đều thuận theo pháp tính, chúng sinh vì căn bản vô minh chưa dứt, ngã chấp tình kiến chưa quên nên việc bố thí đều trái với pháp tính, chỉ thành hạnh hữu vi sinh diệt, chẳng thành môn tính khởi công đức.

Luận Khởi Tín nói: “Bồ-tát biết pháp tính lìa tướng xan tham là thanh tịnh thí độ, tùy thuận tu hành đàn ba-la-mật; biết pháp tính lìa cảnh ngũ dục không phá giới tướng là thanh tịnh giới độ, tùy thuận tu hành thi ba-la-mật; biết pháp tính không có khổ não lìa tướng sân hại là thanh tịnh nhẫn độ, tùy thuận tu hành sằn-đề ba-la-mật; biết pháp tính lìa tướng thân tâm không giải đãi là thanh tịnh tiến độ, tùy thuận tu hành tùy-lê-da ba-la-mật; biết pháp tính không động không loạn là thanh tịnh thiền độ, tùy thuận tu hành thiền-na ba-la-mật; biết pháp tính lìa các si ám là thanh tịnh tuệ độ, tùy thuận tu hành bát-nhã ba-la-mật”. Cho nên biết một độ một hạnh mà Bồ-tát tu tập đều thuận với lý chân như nhất tâm pháp tính, chẳng phải ngoài tự tính riêng có sự tu tập. Vì tùy thuận tâm tính nên công đức có được đều như tính khởi, vô tận vô vi chẳng lấy chẳng bỏ. Sự xan tham cho đến si ám do phàm phu tạo ra đều trái với chân tính khởi tâm ngã kiến, do đó chẳng theo tính khởi để trở thành công đức vô lậu cho dù có vọng tu, đều ngoài tự tâm riêng có sở đắc, đều thành ngoại đạo thiên ma hữu vi sinh diệt, vì chẳng thuận chân như trái pháp tính. Lại đem tu hiển tính, đem tính thành tu; nếu không tính tu cũng chẳng thành, nếu không tu tính cũng chẳng hiển. Như cổ đức nói: Bản hữu như vàng ròng, tu sinh như đồ trang sức; đồ trang sức mới hiển bày tính chất vàng; đồ trang sức vô thể, toàn là chất vàng mới thành. Ví dụ hiển bày hai tính chất, như tu sinh tại nhân hiển bày dần nơi bản hữu tại quả viên mãn nơi bản hữu, chẳng phải lý bản hữu có tiệm có viên. Như mặt trăng mới mọc, ánh sáng tuy chưa đầy đủ nhưng thường có chứa mặt trăng tròn, vì trăng tròn luôn hiện diện, cho nên ngày rằm trăng có mặt khắp nơi, ngay cả mùng một, mùng hai, mùng ba v.v… thì biết quả viên mãn có mặt khắp nơi nhân vị cùng khiến cái sau thường có cái trước, cái trước thường đủ cái sau; vì ngày mùng một có trăng ngày mùng hai cho đến trăng ngày rằm, vì trăng ngày rằm là trăng mùng một; pháp hợp có thể biết, do đây nên nói tu sinh bản hữu. Vì lúc bắt đầu viên, trước đã viên nên bản hữu tu sinh; vì lúc mới sinh cũng đã viên nên quên mất tư duy. Nếu không thể tư duy như thế thì đánh mất lợi ích lớn. Như kẻ bần cùng ở trong kho tàng của mình mà cho là vật của người; hoặc người giữ hạt châu trong áo lại đi xin ăn; hoặc người thủ kho vàng bạc mà nghèo khốn đều là chẳng biết của báu tự tâm.

Lại nữa, kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Phật nói: Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay mê mình làm vật, đánh mất bản tâm, bị vật xoay chuyển, nên ở trong ấy thấy lớn thấy nhỏ. Nếu có thể chuyển vật thì đồng Như Lai, thân tâm viên minh chẳng động đạo tràng, trên đầu lông có thể chưa cả cõi nước mười phương”. Nói chuyển vật, nghĩa là chẳng phải chuyển vật hư dối, chỉ chuyển tự tâm vì tất cả pháp đều từ phân biệt sinh, nhân tưởng mà thành, tùy niệm mà đến. Vì thế kinh Kim Cang Tam-muội có bài tụng:

Pháp từ phân biệt sinh
Lại từ phân biệt diệt
Diệt các pháp phân biệt
Là pháp chẳng sinh diệt.

Cho nên biết tất cả các pháp đều từ thức phân biệt sinh; nếu có thể tỏ ngộ thức phân biệt là không thì biết các pháp tịch diệt. Hoặc sinh hoặc diệt đều là phân biệt. Nếu dứt phân biệt thì pháp chẳng còn sinh diệt; cũng như kinh Pháp Hoa nói ba lần biến đổi uế độ thành tịnh độ chỉ là biến tâm, chẳng phải biến độ.

Thủ Lăng Nghiêm Kinh Sao nói: “Nếu có thể chuyển vật thì đồng Như Lai, nghĩa là ngoài tâm không vật, vật chính là tâm. Chỉ cần tâm lìa phân biệt là chính trí, chính trí chính là bát-nhã, trùm khắp pháp giới không có chướng ngại, thế nên ở cõi nước Tây phương ao suối, rừng cây, chim chóc đều thuyết pháp. Nơi thuyết pháp là tâm như như. Do đó mỗi mỗi căn môn của Như Lai, khắp cả hạt bụi, cõi nước cho đến mảy lông đều thuyết diệu pháp. Hiện tại chỉ được lìa niệm liền đồng tri kiến chân thật của Như Lai. Xưa có thiền sư tu hành trong núi Vô Vi, huyện Miên Trúc, đất Thục, khi ấy có hơn ba trăm nhà thiết trai thỉnh đến cúng dường, thiền sư do tâm lìa phân biệt liền ứng cơ vô ngại.

Hỏi: Các căn cơ trong pháp giới dùng trí gì để chứng nhập bình đẳng nhất tâm cứu cánh Như Lai tạng ?

Đáp: Theo Luận Phật Tính có năm thứ Như Lai tạng, theo Luận Thích-ma-ha-diễn nêu ra mười thứ Như Lai tạng.

Luận Phật Tính nói: Có năm thứ tạng:

1- Như Lai tạng, vì tại triền hàm chứa quả pháp.

2- Tự tính thanh tịnh tạng, vì tại triền chẳng nhiễm.

3- Pháp thân tạng, quả vị là chỗ nương tựa của công đức.

4- Xuất thế gian thượng thượng tạng, xuất triền vượt lên nhị thừa và Bồ-tát.

5- Pháp giới tạng, vì thông nhân triệt quả. Ngoài giữ gìn tất cả nhiễm tịnh nên gọi là pháp giới; trong hàm chứa tất cả Hằng sa tính đức nên gọi là tạng.

Luận Thích-ma-ha-diễn nói: Có mười loại Như Lai tạng, trong khế kinh đều nói rõ ràng riêng biệt.

1- Đại tổng trì Như Lai tạng, vì thu nhiếp tất cả Như Lai. Trong kinh Chư Phật Vô Tận Tạng nói rằng: “Phật bảo Văn-thù: Có như Lai tạng gọi là Đại bảo vô tận thù thắng viên mãn đà-la-ni, thu nhiếp các tạng, không nơi nào chẳng thông, không nơi nào chẳng đáng, viên mãn viên mãn, bình đẳng bình đẳng. Tất cả Nhự Lai tạng đều lấy đây làm căn bản. Vì sao ? Vì Như Lai tạng này là Như Lai tạng vương, Như Lai tạng chủ, Như Lai tạng thiên, Như Lai tạng địa. Do nghĩa này nên gọi là Đại bảo vô tận thù thắng viên mãn đà-la-ni Như Lai tạng”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày tổng tướng sở y của đà-la-ni tạng; trong các khế kinh khác hiển bày biệt tướng năng y của Như Lai tạng. Do nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng ? Đó là nghĩa nhiếp trì.

2- Viễn chuyển viễn phược Như Lai tạng, vì vừa thanh tịnh vừa nhất viên mãn. Trong kinh Thật Tế nói rằng: “Này Phật tử, Như Lai tạng chỉ có sự giác ngộ, chỉ có như như, lìa cái nhân lưu chuyển, lìa sự ràng buộc của lự tri mỗi mỗi rõ ràng nên gọi là Như Lai tạng”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày nhất tâm chân như không có nhân của mê, không có nhân của giác, không có quả của mê, không có quả của giác, nhất chân nhất như, vì chỉ có Như Lai thể tịnh diệu. Do nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng ? Vì các pháp không tạp loạn.

3- Cùng hạnh cùng tướng Như Lai tạng, vì cùng với sức lưu chuyển khiến che khuất pháp thân Như Lai. Trong kinh Lăng Già nói rằng: “Như Lai tạng là do thiện bất thiện mà thọ khổ vui, cùng với nhân hoặc sinh hoặc diệt cũng như kỹ nữ”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày tâm sinh diệt ở nơi phiền não hoặc ở nơi giác ngộ xuất hiện pháp sinh tử hay niết-bàn. Ví như chẳng phải huyễn mà người huyễn đối với việc huyễn vì tùy theo chỗ cảm ứng mà cho lực dụng. Do nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng ? Đó là vì khiến che đậy.

4- Chân như chân như Như Lai tạng, vì chỉ có như. Trong kinh Chân Tu nói rằng: “Như lý như lý Như Lai tạng chẳng phải kiến lập, chẳng phải phỉ báng, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải chỗ chứng đắc của chính thể trí, cũng chẳng phải cảnh giới sở duyên của ý và ý thức. Vì sao ? Vì chỉ có lý lý. không có gì khác”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày tính chân như lý trong môn chân như, vì chỉ có lý tự lý chẳng phải trí tự lý. Vì nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng ? Đó là vì không gì khác.

5- Sinh diệt chân như Như Lai tạng, vì bất sinh bất diệt bị nhiễm sinh diệt. Trong kinh Lăng Già nói rằng: “Đại Huệ, phàm phu ngu si chẳng biết chẳng hay, chấp trước các pháp sát-na chẳng trụ, rơi vào tà kiến mà nói rằng: pháp vô lậu cũng sát-na chẳng trụ, vì phá chân như Như Lai tạng. Lại nữa Đại Huệ, Như Lai chứng pháp Kim Cang Như Lai tạng, nếu sát-na chẳng trụ thì tất cả Thánh nhân chẳng thành Thánh nhân”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày tính chân như lý trong môn sinh diệt, xa lìa tướng vô thường, vì là pháp bất sinh bất diệt. Do nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng ? Đó là vì bị nhiễm.

6- Không Như Lai tạng, tất cả gọi là không, vì che khuất Như Lai. Trong kinh Thắng Man nói rằng: “Thế Tôn, vì không Như Lai tạng hoặc lìa, hoặc thoát, hoặc dị tất cả phiền não tạng”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày tất cả nhiễm pháp che lấp tự tướng bản giác và vô lượng tính công đức trong môn sinh diệt. Do nghĩa gì mà tất cả nhiễm pháp gọi chung là không ? Đó là tất cả nhiễm pháp huyễn hóa, thể tướng sai biệt không thật, tác dụng chẳng phải chân nên gọi là không; hay ẩn giấu pháp thân Như Lai thật đức chân thể nên gọi là Như Lai tạng, vì từ năng tạng nhiễm lập tên gọi ấy.

7- Bất không Như Lai tạng, vì tất cả bất không bị không nhiễm. Trong kinh Thắng Man nói rằng: “Thế Tôn Bất Không Như Lai tạng vượt qua Hằng sa Phật pháp bất ly, bất thuyết, bất dị, bất tư nghì”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày tự tướng bản giác trong môn sinh diệt đầy đủ hơn Hằng sa tất cả công đức, bị hơn Hằng sa tất cả nhiễm pháp làm nhiễm. Do nghĩa gì tất cả tịnh pháp gọi là bất không ? Đó là trong tự thể của tất cả tịnh pháp thật sự tác dụng thắng diệu, xa lìa hư giả, siêu việt xảo ngụy nên gọi là bất không; bị nhiễm che lấp nên gọi là Như Lai tạng; lúc xuất hiện gọi là pháp thân; lúc ẩn khuất gọi là Như lai tạng, vì từ sở tịnh lập ra tên gọi.

8- Năng nhiếp Như Lai tạng, vì tự tính thanh tịnh tâm trong vô minh tạng hay thu nhiếp tất cả công đức. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói rằng: “Như Lai tạng bản tế tương ưng thể và pháp thanh tịnh. Pháp này như thật chẳng hư vọng, là trí chẳng ly, chẳng thoát, là pháp bất tư nghì, vì từ xưa đến nay có pháp thể tương ưng thanh tịnh này”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày tự tính thanh tịnh tâm của tất cả các chúng sinh, vì từ vô thỉ đến nay đầy đủ ba trí, viên mãn bốn đức. Do nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng ? Do vì tâm điên đảo chẳng hay chẳng biết, từ năng tịnh đặt ra tên gọi ấy.

9- Sở nhiếp Như Lai tạng, tất cả nhiễm pháp, vô minh địa tạng đã xa lìa sự giác ngộ viên mãn, vì là sở nhiếp. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói rằng: “Như Lai tạng bản tế bất tương ưng thể và phiền não triền bất thanh tịnh pháp. Bản tế này ly thoát bất tương ưng phiền não triền và pháp chẳng thanh tịnh, vì chỉ có trí bồ-đề của Như Lai mới có thể đoạn”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày thì giác mãn Phật, đoạn tất cả chướng, đủ tất cả trí; trí sáng là bên ngoài, chướng tối là bên trong, vì tất cả nhiễm pháp được trí nhiếp trì. Do nghĩa gì mà gọi là Như Lai tạng ? Đó là nghĩa nhiếp trì.

10- Ẩn phú Như Lai tạng, vì pháp thân Như Lai bị phiền não che khuất. Trong kinh Bất Tăng Bất Giảm nói rằng: “Như Lai tạng vị lai tế bình đẳng và luôn có pháp chính là căn bản của tất cả pháp, dự phòng tất cả pháp, đầy đủ tất cả pháp, vì chẳng lìa chẳng thoát pháp thế gian”. Văn kinh này nói về nghĩa gì ? Đó là hiển bày đa nhất tâm thể bình đẳng nơi pháp giới trùm khắp ba thuở, đầy đủ các pháp nhiễm tịnh, vì không nơi nào chẳng thông, không chỗ nào chẳng đến; lại hiển bày tự tính thanh tịnh tâm trong môn tùy duyên còn ẩn núp trong nhiễm pháp, vì pháp thân Như Lai chưa xuất hiện.

Hiện tại lấy nghĩa pháp giới tạng thứ năm trong luận Phật Tính, nghĩa Đại tổng trì Như Lai tạng thứ nhất trong luận Thích-ma-ha-diễn. Nghĩa này rất rộng bao gồm tất cả, dùng trí thật tướng sẽ có thể chứng nhập, như các vì sao chầu về hướng Bắc, như biển cả tụ hội các dòng sông, như hư không bao la dung chứa tất cả trần. Như trong Tông Cảnh không pháp nào mà chẳng quy về, là chỗ nương tựa của chúng Thánh, là chỗ đồng chứng của chư Phật; các tạng còn lại tùy duyên nhiễm tịnh mà thành hai môn chân như và sinh diệt, vì công đức, tội lỗi ẩn hiển đối trị. Chẳng sai mà sai vì chẳng giữ tự tính; sai mà chẳng sai vì chẳng mất tự tính thì tổng biệt cùng nguồn, gốc ngọn một loại.

Luận Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính có bài kệ:

Pháp thân khắp không sai
Đều thật có Phật tính
Thế nên nói chúng sinh
Thường có Như Lai tạng.

Bài kệ này thuyết minh nghĩa gì ? Có ba nghĩa, cho nên Như Lai nói tất cả thời tất cả chúng sinh có Như Lai tạng. Những gì là ba ?

1- Pháp thân Như Lai ở khắp tâm thức của tất cả chúng sinh, bài kệ nói “pháp thân khắp”.

2- Thể chân như ấy tất cả chúng sinh đều bình đẳng không sai biệt, bài kệ nói: “Không sai”.

3- Tất cả chúng sinh đều có chân như Phật tính, bài kệ nói “thật có Phật tính”.

Hỏi: Trí năng chứng cùng tạng sở chứng là đồng hay là khác ?

Đáp: Theo môn phân biệt thì cũng đồng cũng khác; nếu thầm hợp nhất vị thì không có cảnh trí sai biệt. Nếu nói dụng thì đồng mà dị, vì cảnh chẳng thể chiếu, trí có thể soi. Nói tịch thì dị mà đồng, vì cảnh trí nhất vị không khác. Đồng nên vô tâm nơi kia đây, vì quên tâm khế hợp. Dị nên chẳng mất đi công dụng chiếu soi, vì trí khác gỗ đá, thế nên cội nguồn của cảnh trí chẳng phải lìa, chẳng phải hợp. Hợp thì cảnh trí đều hoại, lìa thì cảnh trí trái nhau. Không cảnh thì chẳng thành trí, vì lìa pháp không có người; không trí thì chẳng thành cảnh, vì lìa người không có pháp. Thế nên trí tâm thường tịch, tuy chiếu cảnh mà không duyên; tịch chẳng mất chiếu tuy không tịch mà luôn tác dụng, đây là trí chiếu cảnh cũng chiếu, cảnh tịch trí cũng tịch. Tịch chiếu chia hai mà nhất vị, cảnh trí dung tức mà rõ ràng. Nếu sinh tình chấp một hai thì trái chân lý, hoặc thấy hữu tình vô tình tự phân ta người, hoặc chấp tâm hữu dụng vô dụng, chỉ rơi vào lưới đoạn thường, đều là vì chẳng rõ thật tính của vạn pháp chân tâm của nhất đạo. Nếu thấu triệt văn này các tình chấp chóng phá trừ.

Hỏi: Ba cõi năm loài chỉ là nhất tâm tại sao lại có mê ngộ bất đồng, phàm Thánh cao thấp ?

Đáp: Chỉ vì do tâm nên mê, do tâm nên ngộ. Lại do ngộ thành Thánh do mê thành phàm; phàm Thánh chỉ nhân mê ngộ mà được tên, tên cũng vốn không, chỉ có chân tâm lặng lẽ bất động trên chân tâm này vọng chấp nhân ngã và pháp ngã do đó dường như mê; lại do rõ nhân không và pháp không do đó dường như ngộ. Cổ đức nói: “Giác chẳng phải trước sau, vì mê nên chấp ngã, vì ngộ nên thấy tính”. Như trong tối lầm cho cây trụi là quỉ, đến sáng cây trụi có quỉ không lầm cây trụi là quỉ. Thấy cây trụi chẳng phải mới có, rõ con quỉ vốn không; ngộ con quỉ chẳng phải mới không. Đã chỉ có cây trụi chẳng có con quỉ cho nên biết con quỉ chẳng phải mới không, cây trụi chẳng phải mới có, không lấy bỏ vậy. Hai niệm đã chẳng sinh chính là cái thấy chân thật. Vì sao ? Vì niệm hết tâm lặng vô sinh hiện, như nói nước lặng dừng thì nhặt được của báu. Lại hễ có thấy tất cả hoặc thấy mình thấy người đều là mê tâm tự hiện, như mê phía đông cho là phía tây nhưng thật ra phương hướng chẳng chuyển đổi, vì người mê hướng tây chẳng là người ngộ hướng đông, chỉ vì người mê hướng tây chẳng thấy người ngộ hướng đông. Nếu lúc ngộ thật sự thì hướng tây hoàn toàn là hướng đông cho nên biết mê thường tại ngộ, chúng sinh chẳng lìa Phật. Kinh nói: “Chúng sinh giới là Phật giới, Phật giới là chúng sinh giới”. Chỉ vì mê nên mờ tối trước mắt chẳng thấy biết, thật đáng thương thay! Cho nên y theo phương hướng nên mê mà phương vị bất động; do giác nên vị giác thể chẳng chuyển dời thì mê không chỗ mê, ngộ chẳng chỗ ngộ. Mê thì cho chân là vọng, ngộ thì cho vọng là chân; như ban đêm thấy cây trụi là người, ban ngày thấy cây trụi là cây trụi, một vật chưa từng khác, nhị kiến tự thành sai. Đã biết mê ngộ là không thì chân vọng làm gì có!

Hỏi: Nếu không mê ngộ bình đẳng nhất tâm tại sao đoạn hoặc chứng quả nhanh chậm chẳng đồng.

Đáp: Tuy rõ nhất tâm gốc ngọn bình đẳng nhưng vì tập khí hư vọng trong chúng sinh giới sai biệt, chủng tử chẳng huân mà huân, vô thỉ bền chặt rất khó trừ dẹp, đến địa vị Thập địa vẫn còn hai tập khí sắc tâm, nếu không dũng mãnh tinh tiến niệm niệm thường dùng tri kiến Phật đối trị thì không do đâu được thanh tịnh.

Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Bồ-tát Cần Thủ: Này Phật tử, Phật giáo là một, chúng sinh được thấy, tại sao chẳng đoạn tất cả phiền não phược mà xuất ly. Nhưng sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, dục giới, sắc giới, vô sắc giới, vô minh tham ái, không có sai biệt, đây là Phật giáo, đối với chúng sinh hoặc có lợi ích, hoặc không lợi ích ? Khi ấy, Bồ-tát Cần Thủ dùng bài tụng đáp:

Phật tử khéo lắng nghe,
Nay tôi đáp như thật
Có người chóng giải thoát
Có người khó ra khỏi
Nếu muốn cầu trừ diệt
Vô lượng các tội lỗi
Phải ở trong Phật pháp
Dũng mãnh thường tinh tiến
Như đốm lửa nhỏ xíu
Củi ẩm chóng làm tắt
Ở trong giáo pháp Phật
Người lười biếng cũng thế
Như dùi cây tìm lửa
Chưa phát lửa mà ngừng
Lửa theo đó diệt mất
Người lười biếng cũng thế.
Như người cầm kính lúp
Chẳng lấy vật nương bóng
Lửa không thể có được
Người lười biếng cũng thế.
Như mặt trời chiếu sáng
Trẻ con nhắm mắt lại
Trách rằng sao chẳng thấy
Người lười biếng cũng thế.
Như người không tay chân
Muốn dùng mũi tên cỏ
Bắn phá nát đất liền
Người lười biếng cũng thế.
Như dùng đầu mảy lông
Thu hút nước biển cả
Muốn cho khô cạn hết
Người lười biếng cũng thế.
Lại như kiếp hỏa khởi,
Muốn đem ít nước diệt
Ở trong giáo pháp Phật
Người lười biếng cũng thế.
Như người thấy hư không
Đứng yên chẳng lay động
Mà nói đang nhảy nhót
Người lười biếng cũng thế.

Giải thích: “Như dùi cây tìm lửa, chưa phát lửa mà ngừng, lửa theo đó diệt mất, người lười biếng cũng thế”, phải dùng trí tuệ chuyên chú vào một cảnh, dùng sợi dây phương tiện khéo léo xoay chuyển, tâm trí vô trụ, bốn oai nghi tinh tiến thì Thánh đạo có thể sinh, chớp mắt khởi tâm, tạm thời quên chiếu, đều gọi là dứt. Do đó kinh Bảo Tích nói: “Ví như buộc lụa ngũ sắc trên đầu, lửa đến thiêu cháy lụa ngũ sắc mà không lo sợ, vì sự cứu lửa thật rất cấp thiết”. Ngoại thư khuyến học còn nói: “Xem thường châu ngọc mà quí trọng thời gian”, huống là người học bát-nhã cầu ra khỏi sinh tử.