TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 57

Hỏi: Ba thức trong kinh Lăng Già diễn nói là chân thức, hiện thức và phân biệt sự thức. Trong tám thức, làm sao phân biệt ba thức này ?

Đáp: Chân là bản giác, hiện là thức thứ tám, bảy thức còn lại đều gọi là phân biệt sự thức. Chỉ thức thứ bảy chẳng duyên ngoại trần, duyên thức thứ tám nên gọi là phân biệt sự. Chân là bản giác, là tính của tám thức. Trong kinh có nói chín thức, ngoài tám thức lập thức thứ chín đó là chân thức. Nếu y cứ vào tính thức thứ chín chẳng lìa tám thức, vì tính nó ở khắp mọi nơi.

Hỏi: Nói tám thức, theo tục đế đã rõ, tại sao nói mười một thức ? Cứu cánh quy về nhất chân thật tính, vì sao còn nói rộng lược các thức ?

Đáp: Nhân tướng hiển tính chẳng phải không có lý do, đem ngọn về gốc tự có nguyên nhân. Luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Nếu chẳng nói tất cả pháp chỉ có thức thì chân tính không hiển hiện được. Nếu chẳng nói đủ mười một thức thì không thể nói hết tục đế. Nếu chỉ nói năm thức trước thì chỉ được căn bản của tục đế mà chẳng được nghĩa sai biệt của tục đế. Nếu nói tục đế chẳng khắp thì chẳng rõ chân thức; chân chẳng rõ thì không thể trừ hết tục đế. Thế nên nói đủ mười một thức gồm thâu cả tục đế, do đó biết tục đế vô tính là thông đạt chân không. Chân không tuy không mà chẳng phá hoại tướng; tục hữu tuy có mà hằng thường thể rỗng, đây là biết chân đế tùy duyên chẳng phải có, luôn chẳng khác tục mà hiển hiện; tục đế tịch diệt chẳng phải không, luôn chẳng khác chân mà thành lập.

Trên đây dẫn ra hai thức, ba thức, tám thức, chín thức, mười một thức v.v… chẳng ngoài tông nhất tâm. Do đó kinh Lăng Già nói: “Tất cả các độ môn, Phật tâm là bậc nhất”. Lại nói: “Phật nói tâm là tông, vô môn là pháp môn”. Tông là chỗ chân thật của tâm. Căn cứ vào tính của chân tâm; tùy theo nghĩa của nó mở ra hai môn thể dụng, tức đồng với luận Khởi Tín lập tâm chân như môn và tâm sinh diệt môn. Chân như là thể, sinh diệt là dụng. Nhưng các thức chẳng vượt ra thể tâm và dụng tâm:

1- Thể tâm là tịch diệt tâm, tức là thể của chín thức;

2- Dụng tâm là sinh diệt tâm, tức là dụng của tám thức trước.

Thể dụng, ẩn hiển nói là hai tâm; vì dụng tức thể nên sinh diệt tức bất sinh diệt; vì thể tức dụng nên bất sinh diệt tức sinh diệt; vì sinh diệt vô tính nên dụng mà chẳng phải nhiều; vì tịch diệt tùy duyên nên thể mà chẳng phải một. Chẳng phải nhiều, chẳng phải một nên thể dụng thường ẩn; là một, là nhiều nên thể dụng luôn hiện. Thức tính là thể, thức tướng là dụng; thể dụng làm thành lẫn nhau đều quy về Tông Cảnh.

Duy Thức Sớ Sao ghi: “Thức tính, thức tướng đều trở về tâm. Tâm vương, tâm sở đều gọi là duy thức, nghĩa là viên thành thật tính là thức tính, y tha khởi tính là thức tướng đều không lìa tâm. Hoặc các pháp vô vi là thức tính; được đẳng phận vị và sắc được biến hiện là thức tướng đều chẳng lìa tâm. Tướng của thức được gọi là tâm sở, tự tính của thức gọi là tâm vương. Tâm vương hơn cả nên gọi là chủ. Nhiếp sở theo tâm gọi là quy tâm. Nhiếp được đẳng phận vị và sắc được biến hiện quy về kiến phần gọi là mất tướng. Tính tướng chẳng lìa nhau gọi chung là duy thức”.

Hỏi: Cảnh chẳng lìa thức, thức chẳng lìa cảnh, sao chỉ nói duy thức mà không nói duy cảnh ?

Đáp: Tuy sinh lẫn nhau nhưng cảnh từ thức biến. Người xưa giải thích: Do tâm phân biệt cảnh mới sinh, vì tâm sinh nên gọi là duy thức. Thức sinh chẳng do cảnh phân biệt, vì chẳng do cảnh nên không thể gọi là duy cảnh.

Hỏi: Tâm là tăng thượng duyên của cảnh, cảnh sinh nhờ tâm gọi là duy thức; cảnh là sở duyên duyên của tâm, tâm sinh nhờ cảnh lẽ ra gọi là duy cảnh ?

Đáp: Lìa tâm chấp cảnh là hư vọng, vì ngăn vọng tâm gọi là duy thức. Ngộ tâm vô ngã ra khỏi trầm luân, chẳng y cứ hai duyên gọi là duy cảnh. Lại có cảnh, không cảnh đều là tự tâm.

1/ Nếu duyên có cảnh sinh tâm, là tướng phần của tự thức, tất cả thật cảnh chẳng lìa tâm năng duyên ngoài tự thức thật ra không có cảnh.

2/ Nếu duyên không cảnh sinh tâm, như độc sinh tán ý lúc duyên các pháp không có thật như quá khứ, vị lai, hoa đốm, sừng thỏ, tâm vẫn khởi. Như Bách Pháp Sao ghi: “Người xưa nói duyên cái không thì chẳng sinh suy nghĩ là chẳng đúng”. Hỏi vì sao chẳng đúng ? Đáp: Như lúc duyên các pháp không có thật như hoa đốm, sừng thỏ, tâm vẫn khởi, tại sao nói duyên cái không thì chẳng sinh suy nghĩ ? Cho nên biết có tướng phần nội tâm của độc ảnh cảnh, tướng phần này hướng về kiến phần cũng thành nghĩa sở duyên duyên. Nếu không có tướng phần nội tâm thì tâm chẳng sinh”.

Ngài Huyền Trang nói: “Cảnh chẳng phải thật, do suy nghĩ khởi, chứng biết chỉ có thức, tuy là biến kế sở chấp tướng, tuy là chẳng phải chân thật nhưng chẳng phải không có tướng phần nội tâm hay khiến sinh tâm. Do đây phân biệt bốn trường hợp:

1/ Không ảnh có chất, tâm ấy chẳng sinh.

2/ Có ảnh không chất, tâm ấy được sinh.

3/ Ảnh chất đều có, tâm sinh có thể biết.

4/ Ảnh chất đều không, tâm cũng khởi, tức là căn bản trí chứng chân”.

Luận Duy Thức nói: “Có cảnh khiến sinh tâm. Nếu chân lý là cảnh hay khiến sinh trí tâm. Nếu tục đế là cảnh hay khiến sinh thức tâm thì chưa có cảnh không tâm, từng không có tâm không cảnh”.

Hỏi: Căn cứ vào nhân vị từ Sơ địa trở đi, bao nhiêu thức trong tám thức thành vô lậu ?

Đáp: Cổ đức giải thích: Chỉ thức thứ sáu và thứ bảy thành vô lậu, 22 tâm sở của thức thứ sáu trong bậc Sơ Địa thành diệu quan sát trí; 22 tâm sở của thức thứ bảy thành bình đẳng tính trí. Hai trí phẩm tương ưng này đều lìa chướng nhiễm nên gọi là vô lậu. Năm thức trước và thức thứ tám là hữu lậu.

Hỏi: Vì sao thức thứ sáu được thành vô lậu ?

Đáp: Nghĩa là lúc hàng Sơ Địa nhập vô lậu tâm vì đoạn trừ chủng tử, hiện hành, tập khí của hai chướng phân biệt nên vô lậu.

Hỏi: Thức thứ sáu hay đoạn lậu hoặc nên thành vô lậu; thức thứ bảy không thể đoạn lậu hoặc, tại sao cũng thành vô lậu ?

Đáp: Thức thứ bảy là căn sở y của thức thứ sáu. Thức thứ sáu là thức năng y, thức năng y đã thành vô lậu, thức sở y thứ bảy cũng thành vô lậu. Nghĩa là lúc thức thứ sáu nhập quán sinh không và pháp không, trong thức thứ bảy đều sinh hai chấp ngã pháp, vì hiện hành ẩn phục chẳng khởi nên thức thứ bảy thành vô lậu.

Hỏi: Vì sao thức thứ tám là hữu lậu ?

Đáp: Thức thứ tám là chủ của tổng báo, gìn giữ chủng tử, tiếp nhận sự huân tập; ở trong nhân trở thành vô lậu, vì tất cả chủng tử tập nhiễm hữu lậu đều tiêu mất liền thành Phật, đâu cần hai kiếp tu hành!

Hỏi: Năm thức trước đã chẳng phải là chủ của tổng báo, tại sao chẳng thành vô lậu ?

Đáp: Năm căn trước là tướng phần thân cận thức thứ tám, thức năng biến thứ tám đã hữu lậu thì năm căn sở biến cũng hữu lậu. Năm căn là sở y còn hữu lậu, năm thức năng y cũng thành hữu lậu.

Trên đây y theo kinh luận phân biệt các thức, khai hiệp chẳng đồng đều y cứ vào thể dụng. Căn cứ thể thì vô sai mà sai, vì thể của toàn dụng chẳng ngại dụng. Căn cứ dụng thì sai mà vô sai, vì dụng của toàn thể chẳng mất thể. Như toàn biển thành sóng nhưng chẳng mất biển; toàn sóng thành biển nhưng chẳng ngại sóng. Phi hữu phi vô mới tận cùng thức tính; bất nhất bất dị có thể thấu suốt nguồn tâm. Như Cổ đức nói: Về các thức tuy không nhất định là một hay nhiều nhưng đều nằm trong gốc ngọn duyên khởi của thể dụng. Gốc là chín thức, ngọn là năm thức. Từ gốc đến ngọn tịch mà thường dụng, từ ngọn đến gốc dụng mà thường tịch. Tịch mà thường dụng nên tĩnh mà chẳng kết; dụng mà thường tịch nên động mà chẳng loạn. Tĩnh mà chẳng kết nên chân như là duyên khởi; động mà chẳng loạn nên duyên khởi là chân như. Vì chân như là duyên khởi nên không niết-bàn, chẳng sinh tử, tức thức thứ tám, thứ chín là thức thứ sáu, thứ bảy. Vì duyên khởi là chân như nên không sinh tử, chẳng niết-bàn tức thức thứ sáu, thứ bảy là thức thứ tám, thứ chín. Vì không sinh tử chẳng niêt-bàn nên pháp giới đều là sinh tử; vì không niết-bàn chẳng sinh tử nên pháp giới đều là niết-bàn. Vì pháp giới đều là niết-bàn nên sinh tử chẳng phải tạp loạn; vì pháp giới đều là sinh tử nên niết-bàn chẳng phải tịch tĩnh. Sinh tử chẳng phải tạp loạn nên chúng sinh là Phật; niết-bàn chẳng phải tịch tĩnh nên Phật là chúng sinh. Do đó pháp giới nghịch nên nói niết-bàn là sinh tử, là cái dụng lý theo tình; pháp giới thuận nên nói sinh tử là niết-bàn, là cái dụng tình theo lý. Khi rõ như thế nói tình chẳng ngoài lý, lý chẳng ngoài tình. Vì tình chẳng ngoài lý nên thật nói thức thứ sáu, thứ bảy là thức thứ tám, thứ chín. Thật là thể. Vì lý chẳng ngoài tình nên giả nói thức thứ tám, thứ chín là thức thứ sáu, thứ bảy. Giả là dụng. Vì giả thật vô ngại nên nhân pháp đều không; vì thể dụng vô ngại nên không chẳng thể không. Vì nhân pháp đều không nên nói là tuyệt đãi; vì không chẳng thể không nên nói là diệu dụng. Nói như trên cũng là lời nói bài xích tình thức, nếu luận về chí thật thì không thể dùng danh tướng; luận về chí cực thì không thể dùng nhị đế. Không thể dùng danh tướng được nên ngôn tượng không thể trình bày; không thể dùng nhị đế biện nên hữu vô không thể diễn nói, vì thế nói “chí lý không lời, hiền Thánh im lặng, đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành bặt”, chỉ có thể thể hội, chẳng thể đem tâm cầu.

Hỏi: Biển giác lặng nguồn, nhất tâm trong lặng tại sao ban đầu khởi các sóng thức ?

Đáp: Tuy nói chỗ sóng thức dấy khởi không từ đâu, vô thỉ vô sinh, có thể tận cùng thức tính, chỉ nói rằng bất giác chợt niệm sinh, như sóng lặng đột nhiên gió nổi bất xuất bất nhập, sóng bủa ngập trời chẳng phải trong chẳng phải ngoài tâm cuồng si điên đảo trùm khắp cảnh.

Luận Khởi Tín nói: “Vì chẳng biết pháp nhất chân nên tâm bất tương ưng; bỗng nhiên niệm động gọi là vô minh”. Đây nói rõ căn bản vô minh vô cùng vi tế, chưa có năng sở, tâm vương, tâm sở sai biệt, nên nói “bất tương ưng”.

Chỉ có vô minh này là cội nguồn của nhiễm pháp vô cùng vi tế, không còn nhiễm pháp nào có thể làm cội gốc này; cho nên nói bỗng nhiên niệm khởi. Trước vô minh không có riêng một pháp làm cội gốc ban đầu nên nói vô thỉ. Đây là nghĩa “bỗng nhiên”; chẳng phải y vào thời điểm để nói “bỗng nhiên khởi”, vì không có ban đầu.

Luận Thích Ma-ha-diễn ghi: “Vì chẳng thật biết pháp chân như nên tâm chợt khởi, là chỉ rõ nguyên do khởi căn bản bất giác. Căn bản bất giác do nhân duyên gì sinh khởi ? Do bất như được sinh khởi. Bất như trong pháp nào ? Bất như trong ba pháp. Bất như nghĩa là gì ? Đó là nghĩa trái nghịch. Ba pháp nào ? Đó là một pháp thật tri, một pháp chân như, một pháp nhất tâm.

Pháp thật tri nghĩa là tất cả giác là trí năng đạt.

Pháp chân như nghĩa là lý bình đẳng là cảnh sở đạt.

Pháp nhất tâm nghĩa là nhất pháp giới là thể sở y.

Vì đều trái nghịch ba pháp này nên vô minh bắt đầu khởi, vì thế nói chẳng thật biết pháp chân như nên tâm chợt khởi. Ba pháp này đều nằm trong một pháp không bao giờ lìa nhau nên gọi chung là nhất”.

Luận lại nói: “Do sức huân tập của vô minh bất giác tâm động ban đầu thành nghiệp thức; do nghiệp thức lại sinh chuyển thức v.v…”.

Luận giải thích: Ban đầu bất giác gọi là nghiệp tướng thứ nhất, năng kiến sở kiến không sai biệt, tâm vương niệm pháp không thể phân tích, chỉ có nghĩa “dao động tinh vi, lưu chuyển thầm kín” nên gọi là nghiệp, như vậy động lưu do chỉ bất giác.

Chuyển tướng thứ hai lấy niệm nghiệp tướng làm nơi căn cứ chuyển làm năng duyên lưu hành thành liễu tướng.

Hiện tướng thứ ba lấy chuyển tướng phân biệt làm nơi căn cứ, cảnh giới hí luận đầy đủ trước mắt; tướng phần sở duyên bày ra đầy khắp; nương vào kiến phần hiện ra tướng phần.

Động tướng, động là nghiệp thức, lý rất vi tế đó là tâm bản giác. Do gió vô minh làm thể tính khẻ xao động, tướng khẻ xao động chưa thể duyên bên ngoài, vì là bất giác, nghĩa là từ bản giác có bất giác sinh ra, chính là nghiệp tướng. Dụ như sóng lăn tăn trên mặt biển từ yên tĩnh khẻ dao động mà chưa từng chuyển dời vị trí ban đầu.

Chuyển tướng, nhờ sức vô minh trợ giúp nghiệp tướng chuyển thành năng duyên, có tác dụng năng kiến sinh khởi bên ngoài gọi là chuyển tướng. Tuy có chuyển tướng nhưng chưa thể hiện ra cảnh tướng sở duyên của năm trần. Dụ như sóng biển nhờ sức gió kích động mà dấy khởi.

Hiện tướng, từ chuyển tướng trở thành hiện tướng mới có sắc trần, núi sông, đại địa, khí thế gian … Kinh Nhân Vương Bát-nhã ghi: “Bấy giờ, Thế Tôn bảo vua Ba-tư-nặc: Trước kia ông hỏi lấy tướng gì để trụ quán sát ? Bồ-tát ma-ha-tát nên quán như sau: Dùng thân huyễn hóa để thấy huyễn hóa, chính trụ bình đẳng không có ngã nhân. Quán sát như thế giáo hóa lợi ích chúng sinh, nhưng các hữu tình nơi kiếp lâu xa, thức sát-na ban đầu khác với gỗ đá, sinh được nhiễm tịnh đều tự có thể trở thành vô lượng vô số bản thức nhiễm tịnh. Từ sát-na đầu tiên bất khả thuyết kiếp cho đến sát-na cuối cùng của Kim cang vị có bất khả thuyết bất khả thuyết thức, sinh ra hai pháp sắc tâm của các hữu tình. Sắc là sắc uẩn, tâm là bốn uẩn: thọ, tưởng, hành, thức; đều có tính chất tích tụ che lấp chân thật.

Người xưa giải thích: Thức sát-na ban đầu khác với gỗ đá có thuyết nói sơ thức theo con đường nào để tái sinh, đó là nơi sát-na ban đầu của thức thứ tám. Vì thức có duyên lự khác với gỗ đá nên nói là sơ thức.

Như kinh Lăng Già nói: “Các thức có ba tướng: chuyển tướng, nghiệp tướng, chân tướng”.

Chân tướng, bản giác chân tâm chẳng nhờ vọng duyên gọi là tự chân tướng.

Nghiệp tướng, căn bản vô minh khởi khiến từ tĩnh thành động, động là nghiệp thức, vì rất vi tế.

Chuyển tướng, là tướng năng kiến, nương nghiệp tướng trước chuyển thành năng duyên, tuy có năng duyên mà chưa thể hiển bày cảnh sở duyên.

Hiện tướng, là tướng cảnh giới, vì nương nơi chuyển tướng có thể hiện cảnh.

Lại nói: “Liền phân biệt biết tự tâm hiện thân và cùng với thân thành lập cảnh giới thọ dụng”. Kế đến là năm cảnh căn thân, khí thế gian v.v…, vì lúc nào cũng tự nhiên hiển hiện. Đây là ba tế, vì là bản thức. Nghiệp thức ban đầu là sơ, vì nương vào môn sinh khởi làm thứ lớp. Lại kiếp xa xưa không có ban đầu, quá khứ, vị lai vô thể, vì huân tập chỉ là tâm vọng niệm, do ban đầu trái chân thật mà sinh khởi. Lại từ tĩnh khởi động gọi là nghiệp; từ bên trong hướng ra ngoài gọi là chuyển; tính chân như chẳng thêm bớt gọi là chân tướng, cũng gọi là chân thức. Chân thức này là ba tính của nghiệp chuyển hiện, là tính thần giải chẳng đồng hư không gọi chung là thức; cũng gọi là tự tướng, vì chẳng nhờ cái khác làm thành; cùng gọi là trí tướng, vì tính giác chiếu. Do đó nói bản giác chân tâm chẳng nhờ vọng duyên, vì thể của chân tâm chính là bản giác, chẳng phải tướng động chuyển, vì là giác tính.

Giải thích: Thức sát-na ban đầu khác với gỗ đá, nghĩa là vì một niệm thức có cảm giác hay biết nên khác với gỗ đá, là hiển bày niệm trước của tâm sau cùng thân trung ấm, tinh cha huyết mẹ được thấy như gỗ đá bên ngoài. Khi sinh, thức này bám lấy tinh huyết ấy làm thân nên khác với gỗ đá.

Hỏi: Kiếp xa xưa vô thỉ sao gọi là sơ thức ?

Đáp: Quá khứ, vị lai vô thể, sát-na huân tập chỉ thuộc hiện tại. Ngay khi hiện tại khởi vọng niệm, vọng niệm trái chân gọi là sơ thức, chẳng phải quá khứ có thức sinh khởi gọi là sơ thức. Cho nên biết về không gian bao gồm tất cả chỗ, về thời gian suốt vô lượng thời phần đều là nhất tâm hiện tại, không còn lý nào khác. Vì thế kinh Pháp Hoa ghi: “Ta thấy kiếp dài lâu chỉ như hiện tại thì tình thức trong quá, hiện, vị lai đều mất, ứng hợp với chân lý siêu việt, đạo nhất chân hiển hiện liền chứng viên tông duy thức”.

Hỏi: Kinh nói thức sát-na ban đầu khác với gỗ đá, sinh ra nhiễm tịnh đều tự có thể tạo ra bản thức vô lượng vô số nhiễm tịnh. Từ sát-na ban đầu bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp cho đến sát-na cuối cùng của Kim cang vị có bất khả thuyết bất khả thuyết thức sinh ra hai pháp sắc tâm của các hữu tình là có nhiễm, có tịnh, có sinh, có diệt. Thức này y cứ trong môn sinh diệt có mấy thứ sinh diệt ?

Đáp: Môn chân như thuận tính, khéo hợp vô sinh, tướng thế gian tùy duyên dường như có phân ra sinh diệt. Kinh Lăng Già ghi: “Đại Bồ-tát Đại Huệ bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn, các thức có mấy thứ sinh trụ diệt ?

Phật bảo Đại Huệ:

– Thức có hai thứ sinh trụ diệt, suy nghĩ không thể biết được, nghĩa là lưu chú sinh trụ diệt và tướng sinh trụ diệt”.

Người xưa giải thích: Thức thứ tám có ba tướng vi tế sâu kín, chủng tử hiện hành chẳng dứt gọi là lưu chú; do vô minh duyên khởi nghiệp thức nên gọi là sinh; nối tiếp dai dẳng nhiều kiếp gọi là trụ; đến bậc Đẳng giác kim cang định một niệm dứt sạch vô minh gọi là lưu chú diệt.

Tướng sinh trụ diệt, nghĩa là bảy thức trước tâm cảnh thô hiển gọi là tướng; tuy thức thứ bảy duyên khởi thứ tám, hướng về thức thứ sáu là tế, vì có đủ bốn lậu hoặc cũng gọi là thô. Nương nơi chủng tử của hiện thức các cảnh duyên hợp lại sinh thức thứ bảy gọi là tướng sinh; nhiều kiếp huân tập gọi là tướng trụ; từ ngọn về gốc dần chế phục dần dần đến đoạn tận, đến hàng Thất Địa mới mãn gọi là tướng diệt.

Nương nơi sinh diệt trước lập ra mê ngộ y, nương rơi sinh diệt sau lập ra nhiễm tịnh y; giai đoạn sau ngắn, giai đoạn trước dài. Có thể chia làm hai loại: lưu chú sinh trụ diệt, tướng sinh trụ diệt. Thế nên nước biển gặp gió biến thành tướng sóng; nước tâm gặp cảnh trở thành lưu chú sinh. Đợt sóng trước dẫn đợt sóng sau khiến biển xanh nổi sóng không ngừng; niệm mới nối niệm cũ khiến biển tâm thường dấy khởi. Từ đây rối loạn nguồn chân, mờ mịt biển giác, là biết do chân khởi vọng, bất giác vô minh lay động, như từ nước thành sóng là toàn do gió bên ngoài kích động. Trong ngoài hòa hợp nhân duyên phát khởi bèn thành tâm năng kiến hiện cảnh sở kiến. Do chiếu chợt sinh trí soi, nhờ trí mà phân biệt đẹp xấu, từ đây khởi tình chấp thủ xả sinh yêu ghét, tâm biến ra năm trần cảnh, chấp chặt sáu tình căn nối nhau chẳng dứt, do đây bị chìm đắm dưới sông ái mà chẳng lo, bị ngọn lửa dục thiêu đốt mà chẳng sợ, cam tâm chịu thống khổ nơi địa ngục mà chẳng hay chẳng biết; mất mạng vì tham vinh hoa phù phiếm trong nhà mộng mà khó tỉnh khó ngộ.

Nếu có thể biết rõ một niệm ban đầu khởi diệt từ đâu liền vào vô sinh, trở về bản chân giác thì trần trần tịch diệt, tù ngục sáu cõi khó giam hãm; niệm niệm hư huyền lưới chín kết ngưng buộc ràng. Như gió dừng biển không dấy sóng, xét tướng động vốn không, thấy duyên sinh vô thể thì tận nguồn tính nước trong lặng, vạn vật hiển bày sáng tỏ. Do đó kinh Hiền Kiếp Định Ý nói: “Rõ nhất thiết không gọi là nhất tâm”.

Hỏi: Tông Cảnh đi sâu vào lý huyền diệu, tại sao đề cập đến thức ?

Đáp: Chỉ vì thức tính u huyền khó xét tận cùng gốc ngọn, chỉ có Phật mới biết. Vì nó vô hình, không dấu vết nên làm gốc của vạn hữu; vì sâu xa vi diệu nên làm nguồn của chư Thánh.

Phẩm Ngũ Đạo Tầm Thức trong kinh Bồ-tát Xử Thai ghi: “Bấy giờ, Thế Tôn muốn thị hiện chỗ thức hướng đến; đó là đạo thức, tục thức, hữu vi thức, vô vi thức, hữu lậu thức, vô lậu thức, hoa thức, quả thức, báo thức, vô báo thức, thiên thức, long thức, quỉ thần, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân thức. Trên đến 28 thiên thức, dưới đến vô cứu địa ngục thức. Khi ấy, Thế Tôn ở trong thai liền hiện nắm xương cong queo đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới. Phật bảo A-kì-đà: Ông có thể phân biệt hài cốt thức chăng ? Đáp: Chẳng thể phân biệt, vì sao ? Vì chưa được thông suốt, đạo lực chưa đủ.

Phật bảo Bồ-tát Di-lặc: Nơi cõi trời này ông chưa được thần thông sao ? Bồ-tát Di-lặc thưa: Có cái thành tựu, có cái chưa thành tựu. Phật bảo: Ông hãy nhìn nắm xương cong queo khiến cho tất cả mọi người biết được chỗ thức hướng đến, phân biệt rõ ràng khiến họ không còn nghi ngại.

Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc liền từ chỗ ngồi đứng lên cầm gậy thần kim cang bảy báu khêu nắm xương cong queo lên thì nghe tiếng xương kêu, ngài thưa: Bạch Thế Tôn, người này lúc mạng chung do ôm nhiều sân giận nên thần thức đọa vào loài rồng.

Kế lại khêu nắm xương khác, ngài bạch: Người này tiền thân đầy đủ mười hạnh lành được sinh lên trời.

Kế lại khêu nắm xương khác, ngài bạch: Người này tiền thân phá giới phạm luật sinh trong địa ngục.

Như thế Bồ-tát Di-lặc khêu nắm xương hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, trên từ 28 cõi trời dưới đến địa ngục vô cứu, biết chỗ thức hướng đến quả báo thiện ác, hành báo tốt xấu. Nhưng có một toàn thân xá-lợi không khiếm khuyết, Bồ-tát Di-lặc khêu lên, suy tìm thần thức song không biết chỗ nào. Ngài khêu lên ba lần như thế rồi bạch Phật: Thần thức của người này con hoàn toàn không biết, giống như Như Lai nhập niết-bàn!

Phật bảo: Ông kế thừa ngôi vị Phật, trong đời vị lai sẽ đắc đạo vô thượng thành Phật, tại sao nắm xá-lợi mà chẳng biết nơi chốn của thức sao ?

– Như Lai bất tư nghì, đây chẳng phải cảnh giới chúng con có thể suy lường. Hôm nay chúng con có điều nghi, cúi mong Thế Tôn giải đáp cho. Chúng con có thể biết thần thức của năm đường, chỗ thiện ác hướng đến chẳng dám hoài nghi. Đối với Như Lai, hôm nay xá-lợi này không khiếm khuyết mong Thế Tôn nói về thức này cho chúng con rõ.

– Xá-lợi của chư Phật trong quá khứ, vị lai, hiện tại lưu bố, chẳng phải cảnh giới các ông có thể phân biệt. Vì sao ? Xá-lợi này chính là xá-lợi của ta làm sao ông có thể biết được thần thức của Như Lai. Hôm nay ta sẽ giúp ông phân biệt thức thượng trung hạ của Như Lai đến thức Bồ-tát mỗi mỗi chẳng đồng. Bồ-tát Sơ Trụ tuy chưa lập căn đức lực nhưng được thần thông; Bồ-tát Nhị Trụ với thiên nhãn quán biết chỗ thức hướng đến thoái và bất thoái địa; lại còn quán thấy cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc; hoặc quán thấy sinh về vô số Hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông cúng dường phụng sự vô ngại; lại còn biết kiếp số được thụ ký một kiếp, hai kiếp, cho đến trăm nghìn ức kiếp; Bồ-tát Tam Trụ quán thấy xá-lợi biết chỗ thức hướng đến hữu dư niết-bàn, vô dư niết-bàn, nhưng chẳng biết chỗ thức hướng đến của bậc Tứ Trụ tu hành. Bồ-lát Tứ Trụ thấy thức pháp của Sơ Trụ, Nhị Trụ, Tam Trụ, nhưng chẳng thấy chỗ xá-lợi thức pháp hướng đến của Ngũ Trụ; cho đến chỉ có Phật mới biết thần thức của Phật.

Kệ nói:

Thần thức không hình tướng
Năm đại cho là nhà
Phân biệt hạnh thiện ác
Đến đi biết ngụy chân.
Thức hiển bày thiện đạo
Dẫn đến đường an ổn
Thức, tâm vương thứ sáu
Các đại khác chẳng bằng.

Hỏi: Hai tên tâm thức hơn kém thế nào ?

Đáp: Tâm là tính của chân như, là Như Lai tạng tâm; thức là do tâm sinh ra; không một pháp nào chẳng từ tính chân tâm khởi. Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Những pháp có được đều do tâm hiện”. Tâm là gốc nên thù thắng; thức là nương gá nên hạ liệt. Như Viên Giác Sớ ghi: “Pháp sinh ra vốn không, tất cả đều duy thức, thức như huyễn mộng, chỉ là nhất tâm”.

Hỏi: Giả sử thức vô thể tại sao được gọi là tâm ?

Đáp: Vì thức do tâm tạo thành nên thức vô thể chính là nhất tâm, đâu khác cảnh sinh từ thức, đưa cảnh về thức. Nếu thông đạt điều này thì biết thức vốn là nhất tâm. Tâm biến ra thức, thức biến các cảnh, do đây đưa cảnh về thức, đưa thức về tâm.

Hỏi: Trước đã nói nhiều về thức tướng, thế nào là trí ?

Đáp: Phân biệt là thức, vô phân biệt là trí. Như kinh Đại Bảo Tích ghi: “Phật dạy: Thức là hay liễu biệt như mắt biết sắc, tai biết thanh, mũi biết hương, lưỡi biết vị, thân biết xúc, ý biết pháp. Trí là bên trong tịch tĩnh, chẳng hiện bên ngoài, chỉ nương nơi trí, đối với một pháp chẳng sinh phân biệt và các thứ phân biệt.

Này Xá-lợi-phất, từ cảnh giới sinh gọi là thức, từ tác ý sinh gọi là thức, từ phân biệt sinh gọi là thức; không thủ, không chấp, không sở duyên, không liễu biệt, không phân biệt gọi là trí.

Này Xá-lợi-phất, thức trụ pháp hữu vi, vì sao ? Vì thức không thể hiện hành trong pháp vô vi. Nếu có thể thông đạt pháp vô vi, đây gọi là trí”.

Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội có kệ:

Chẳng tịch gọi là tưởng
Tịch diệt gọi là trí
Nếu biết tự tính tưởng
Liền lìa bỏ các tưởng.
Nếu có tưởng để trừ
Lại cũng là có tưởng
Nếu theo tưởng hí luận
Người này chẳng lìa tưởng
Người có tâm niệm này:
Tưởng này ai sinh khởi
Tưởng này ai hay chứng,
Ai hay diệt tưởng này
Pháp khởi tưởng như thế
Chư Phật chẳng làm được
Chính nơi chỗ có ấy
Vô ngã lìa chấp trước.
Nếu tâm ấy chẳng sinh
Do đâu sinh khởi tưởng.
Nếu tâm được giải thoát
Tưởng không từ đâu khởi.
Nếu chứng đắc giải thoát
Tâm liền bất tư nghì
Vì tâm bất tư nghì
Thành tựu bất tư nghì
Ta vốn nghĩ như thế
Đã an trụ tâm địa
Buông bỏ tất cả tâm
Mong được bất tư nghì
Quả báo pháp thanh tịnh
Nhìn thấy nơi vô vi
Một niệm hay biết rõ
Tâm niệm các chúng sinh
Chúng sinh chính là tâm
Tâm chính là Như Lai
Chư Phật bất tư nghì
Hiển rõ nơi tâm này.

Hỏi: Nghĩa mầu tâm vương, nguồn chân tám thức hiển chính lý để sáng tỏ; lấy Thánh giáo làm định lượng, nêu cả lý sự để dứt hoài nghi, làm thế nào diễn bày môn tâm sở ?

Đáp: Tâm sở có sáu vị gồm 51 pháp, đó là biến hành có 5 pháp, biệt cảnh có 5 pháp, thiện có 11 pháp, căn bản phiền não có 6 pháp, tùy phiền não có 20 pháp, bất định có 4 pháp.

Biến hành là khắp bốn thứ nhất thiết. Bốn thứ nhất thiết:

1- Tính nhất thiết là ba tính: thiện, bất thiện, vô ký.

2- Địa nhất thiết là chín cõi: năm cõi thuộc Dục giới, cõi tứ thiền thuộc sắc giới, cõi tứ không thuộc Vô sắc giới.

3- Thời nhất thiết, thời là thời gian đồng một sát-na, năm tâm sở tác ý v.v… đồng thời khởi nên gọi là thời nhất thiết.

4- Câu nhất thiết, câu là tâm sở biến hành ở chung với tám thức, nghĩa là biến hành gồm năm như tác ý v.v… lúc cùng khởi với tám thức tâm vương hẳn phải có năm món tương ưng đồng thời.

Lại lúc tám thức cùng khởi đều có năm món biến hành nên gọi là câu nhất thiết. Bốn thứ nhất thiết trên là sở hành sở biến; năm món xúc v.v… là năng hành năng biến. Biến là nghĩa trùm khắp; hành là nghĩa đi dạo. Nghĩa duyên cảnh là chỉ nắm lấy kiến phần hay duyên bốn thứ nhất thiết, chẳng nắm lấy hai phần bên trong. Hai phần bên trong chỉ duyên lẫn nhau nên không thể duyên cảnh bên ngoài.

Lại biệt cảnh gồm năm món như dục v.v… có hành mà chẳng phải biến. Hành là năng duyên, biến là sở duyên, tức là bốn cảnh ưa thích v.v…, vì bốn cảnh không thể khiến năng duyên khắp sở duyên nên gọi là có hành mà chẳng phải biến. Nên phân biệt bốn trường hợp:

1- Là hành chẳng phải biến: là biệt cảnh.

2- Là biến chẳng phải hành: là chân như.

3- Đều phải: là biến hành.

4- Đều chẳng phải: là sắc v.v…

Luận Hiển Dương nói: “Tâm sở hữu pháp nghĩa là pháp sinh ra từ chủng tử của a-lại-da, nương vào tâm sở khởi cùng với tâm chuyển tương ưng”. Nó như thế nào ?

Đó là biến hành có năm:

1- Tác ý: nghĩa là sự cảnh báo tâm làm tính, nơi cảnh sở duyên dẫn tâm làm nghiệp.

Hỏi: Tác ý tại chủng tử hay tại hiện hành để cảnh báo tâm ?

Đáp: Tại chủng tử hay cảnh báo tâm, vì bản chất của tác ý sáng suốt lanh lợi nên dù tại chủng tử nhưng khi có cảnh đến hay cảnh báo chủng tử tâm và tâm sở sinh khởi hiện hành. Ví dụ nhiều người ngủ chung một nhà, khi ấy có giặc đến ngoài cửa, một người do ngủ ít biết có giặc liền báo cho những người khác. Tuy người này chưa thức dậy mà có thể cảnh giác những người khác thức dậy. Cũng như tướng phần nội tâm tuy đồng khởi với kiến phần nhưng tự nhiên có công năng hay dẫn dắt tâm. Tác ý cũng thế, chủng tử của tác ý đã cảnh báo chủng tử của tâm và tâm sở sinh hiện hành. Hiện hành của tác ý lại hay dẫn hiện hành của tâm khiến hướng đến cảnh trước mắt. Tác ý này có hai công năng:

1/ Lúc tâm chưa khởi thì hay cảnh báo khiến khởi.

2/ Nếu đã khởi thì hay dẫn dắt hướng đến cảnh. Ban đầu là thể tính, sau là nghiệp dụng.

2- Xúc: nghĩa là ba thứ căn, cảnh, thức hòa hợp. Phân biệt làm thể, thọ y làm nghiệp. Lại ba thứ hòa hợp là nhân, xúc là quả; khiến tâm và tâm sở xúc cảnh làm tính; thọ, tưởng, tư sở y làm nghiệp. Lúc xúc chẳng sinh thì tâm sở thọ cũng không thể sinh. Hòa hợp tất cả tâm và tâm sở khiến đồng tiếp xúc với cảnh trước mắt là tự tính của xúc. Lúc các tâm sở duyên cảnh đều là công năng tự tính của xúc. Xúc này giống như ba thứ hòa hợp kia, cùng với thọ v.v… làm sở y, đây là nghiệp dụng của xúc.

3- Thọ: lãnh nạp làm thể, hay bám víu làm nghiệp.

4- Tưởng: nghĩa là danh, cú, văn, thân huân tập làm duyên, nắm lấy tướng làm thể, phát lời nói làm nghiệp. Lại tưởng hay lập ra giới hạn của tự cảnh. Nếu lúc tâm khởi không có tưởng lẽ ra chẳng thể nắm lấy tướng giới hạn của cảnh. Nơi cảnh nắm lấy hình tượng là tính, đặt ra các danh ngôn là nghiệp, các danh ngôn đều do nơi tưởng là công năng của tưởng.

5- Tư: nghĩa là niệm tâm, tạo tác tất cả tưởng báo, biệt báo thiện ác là thể của tư, các thiện phẩm v.v… sai khiến tâm là nghiệp. Tâm khởi hẳn phải có năm pháp như xúc v.v… nên gọi là biến hành, những pháp khác chẳng phải biến hành.

– Biệt cảnh có năm món, vì dục v.v… chẳng khắp nơi tâm cho nên lấy bốn cảnh khác biệt gọi là biệt cảnh.

1- Dục: nghĩa là mong muốn cảnh ưa thích làm thể, chuyên nương gá làm nghiệp; lại muốn quan sát mọi việc, vì có mong muổn. Nếu chẳng muốn thấy ảnh hưởng ngoại cảnh theo nhân, nhiệm vận duyên thì hoàn toàn không có dục. Do nghĩa này thì dục chẳng phải biến hành.

2- Thắng giải: nghĩa là đối với cảnh quyết định như đã hiểu làm thể, không thể dẫn chuyển làm nghiệp. Còn có nghĩa năng lực chứng nghiệm giáo lý tà chính đối với cảnh được duyên xem xét khắc ghi. Do đây duyên khác chẳng thể dẫn chuyển cho nên cảnh do dự thì thắng giải hoàn toàn không có; không có tâm thẩm quyết thì không có thắng giải, nó chẳng thuộc biến hành.

3- Niệm: nghĩa là nơi cảnh quen thuộc khiến tâm ghi nhớ không quên làm thể, đẳng trì sở y làm nghiệp. Lại ở trong cảnh chưa từng quen biết khiến chẳng khởi niệm, cho dù tiếp nhận nhưng không thể ghi nhớ, niệm cũng chẳng sinh, cho nên niệm chắc hẳn chẳng thuộc biến hành. Niệm hay sinh chính định nên nói định nương vào niệm làm nghiệp.

4- Định: còn gọi đẳng trì, nghĩa là chuyên chú duyên một chỗ nơi cảnh được quán làm thể, khiến tâm chẳng tán loạn, từ định phát sinh trí làm nghiệp. Lại do định khiến tâm chuyên chú chẳng tán loạn; nhờ đây sinh trí quyết trạch. Nếu không buộc tâm chuyên chú vào cảnh thì không có định khởi, vì thế nó chẳng phải biến hành.

5- Tuệ: nghĩa là chọn lọc đối với cảnh được quán làm thể, dứt nghi làm nghiệp. Lại chẳng phải quán cảnh trong tâm ngu muội; vì chẳng chọn lọc nên chẳng thuộc biến hành.

Năm món biệt cảnh này tùy theo địa vị mà có hay không, vì sở duyên và năng duyên không đi chung với định.

– Thiện có 11 món:

1- Tín: nghĩa là đối với hữu thể, hữu đức, hữu năng, tâm tịnh làm thể, đoạn chướng bất tín được viên mãn tư lương bồ-đề làm nghiệp.

Thức Luận nói: “Tín lấy tâm tịnh là tính, tính này lắng trong có thể làm thanh tịnh tâm v.v… Vì tâm thù thắng nên gọi là tâm tịnh, như thủy thanh châu có thể làm trong dòng nước đục”.

Giải thích: Chỉ có tín là năng tịnh, các món thiện khác đều là sở tịnh. Vì tâm vương là chủ, nên chỉ nói tâm tịnh, chẳng nói tâm sở. Nước dụ tâm, thủy thanh châu dụ thể của tín. Ném hạt châu vào nước đục liền trở nên trong; cũng thể có tín, tâm liền thanh tịnh.

2- Tâm: nghĩa là nương vào tự tăng thượng và pháp tăng thượng hổ thẹn tội lỗi làm thể; đoạn chướng vô tàm làm nghiệp.

3- Quý: nghĩa là nương vào sự khen chê của thế gian hổ thẹn tội lỗi làm thể; đoạn chướng vô quý làm nghiệp.

4- Vô tham: nghĩa là có sự nhàm chán và lìa bỏ đối với các thứ hiện hữu, không cất chứa, không ưa thích, không đắm trước, lấy đó làm thể; hay đoạn chướng tham làm nghiệp.

5- Vô sân: nghĩa là tâm thương xót không làm tổn hại các hữu tình làm thể; hay đoạn chướng sân làm nghiệp.

6- Vô si: nghĩa là thấu rõ chân thật làm thể; hay đoạn chướng si làm nghiệp.

7- Tinh tiến: nghĩa là tâm dũng mãnh không tự xem thường mình làm thể; đoạn chướng giải đãi làm nghiệp.

8- Khinh an: nghĩa là xa lìa thân tâm thô nặng, thư thái làm thể; đoạn chướng thô nặng làm nghiệp.

9- Bất phóng dật: nghĩa là gồm cả vô tham, vô sân, vô si, tinh tiến làm thể; đoạn chướng phóng dật làm nghiệp.

10- Xả: nghĩa là gồm vô tham, vô sân, vô si làm thể; nương vào xả này được tâm bình đẳng, được tâm chính trực, tâm không phát động; đoạn chướng phát động làm nghiệp.

11- Bất hại: nghĩa là do không não hại các hữu tình, thương xót chúng sinh làm thể; hay đoạn chướng não hại làm nghiệp.

– Căn bản phiền não có sáu món:

1- Tham: nghĩa là ưa thích, che giấu, giữ gìn đối với năm uẩn làm thể; tổn hại mình người hay theo đường ác làm nghiệp.

2- Sân: nghĩa là muốn làm tổn hại hữu tình làm thể; hay chướng vô sân làm nghiệp.

3- Mạn: nghĩa là cho mình hơn người khiến tâm cao ngạo làm thể; hay chướng vô mạn làm nghiệp.

4- Vô minh: nghĩa là chẳng hiểu biết chân chính làm thể; hay chướng chính tri làm nghiệp.

5- Tà kiến: nghĩa là năm thứ kiến chấp làm thể:

a) Tát-ca tà kiến: nghĩa là đối với năm uẩn chấp ngã và ngã sở khiến nhiễm ô trí tuệ làm thể; hay chướng kiến giải vô ngã, không điên đảo làm nghiệp.

b) Biên kiến: nghĩa là đối với năm uẩn chấp đoạn, chấp thường khiến nhiễm ô trí tuệ làm thể; hay chướng kiến giải vô thường, không điên đảo làm nghiệp.

c) Tà kiến: nghĩa là hủy báng nhân quả khiến nhiễm ô trí tuệ làm thể; chỉ khởi phân biệt hay chướng chính kiến làm nghiệp.

d) Kiến thủ: nghĩa là đối với ba kiến chấp trên và năm uẩn nương gá chấp là tối thượng bậc nhất khiến nhiễm ô trí tuệ làm thể; chỉ khởi phân biệt hay chướng kiến giải không điên đảo là khổ và bất tịnh làm nghiệp.

đ) Giới cấm thủ: nghĩa là đối với các kiến chấp trên và năm uẩn nương gá chấp là thanh tịnh, giải thoát, xuất ly khiến nhiễm ô trí tuệ làm thể; chỉ khởi phân biệt hay chướng kiến giải không điên đảo như trên làm nghiệp.

Giải thích:

Tát-ca tà kiến, Tàu dịch là thân kiến.

Kiến thủ, luận lại nói: “Tất cả sự chấp thủ làm phát khởi đấu tranh là nghiệp”. Đối với các kiến chấp và năm uẩn nương gá chấp là hơn hết, có thể đắc pháp niết-bàn thanh tịnh, gọi là kiến thủ. Do đây mỗi người đều chấp kiến giải của mình là hơn hết nên tất cả ngoại đạo khởi đấu tranh.

Giới cấm thủ, luận lại nói: “Nương vào sự cần khổ vô ích làm nghiệp”, nghĩa là nương vào các giới đã thọ sinh kiến chấp cho rằng giới này thù thắng và có thể được niết-bàn. Do chấp giới này nên tất cả ngoại đạo tuân theo như nhổ bỏ râu tóc cần khổ vô ích.

6- Nghi: nghĩa là do dự không quyết định đối với chân lý làm thể; chỉ khởi phân biệt hay chướng không nghi làm nghiệp.

Hỏi: Thức nào tương ưng với mười thứ phiền não ?

Đáp: Thức thứ tám hoàn toàn không, mạt-na thứ bảy có bốn thứ, ý thức thứ sáu đủ mười thứ, năm thức trước chỉ có ba thứ.

Người xưa giải thích: Năm thức trước chỉ có ba, vì không phân biệt nên không có mạn v.v… Vì mạn v.v… sinh khởi do tùy niệm tính toán phân biệt, lại do mạn nơi so sánh khởi hơn thua; nghi khởi do chọn lựa do dự; kiến chấp khởi nơi tìm cầu. Năm thức trước không có những hành tướng này.

Thức thứ bảy có 4 thứ phiền não như ngã si v.v…, vì có đủ thẩm quyết nên nghi không khởi, do ái trước ngã nên sân chẳng được sinh, vì có hai món tuệ trong một tâm vương nên kiến chấp chẳng sinh.

– Tùy phiền não có 20 món:

Thích Luận nói: “Vì cùng là phiền não nhưng phận vị sai biệt nên gọi là tùy phiền não”. Hai mươi thứ phiền não chia làm ba loại: đó là mười thứ như phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, kiêu, hại đều khởi riêng biệt, nên gọi là tiểu tùy phiền não; hai thứ vô tàm, vô quý đều bất thiện nên gọi là trung tùy phiền não; tám thứ như hôn trầm, trạo cử, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chính tri đầy khắp nhiễm tâm nên gọi là đại tùy phiền não.

1- Phẫn: nghĩa là tâm sinh buồn bực đối với cảnh hiện tại trái ý làm thể; hay chướng vô sân làm nghiệp.

2- Hận: nghĩa là đối với cảnh nghịch duyên trong quá khứ kết oán chẳng buông bỏ làm thể; hay chướng vô sân làm nghiệp.

3- Phú: nghĩa là đối với tội lỗi hoặc được can gián hoặc không được can gián, che giấu điều ác đã tạo làm thể; hay chướng phát lộ hối quá làm nghiệp.

4- Não: nghĩa là đối với tội lỗi được người can gián liền phát lời thô tục, bực tức không kềm chế làm thể; hay chướng thiện hữu làm nghiệp.

5- Tật: nghĩa là đối với danh dự, công lao của người, tâm ganh ghét không vui làm thể; hay chướng nhân từ làm nghiệp.

6- Xan: nghĩa là gom góp bỏn sẻn làm thể; chướng vô tham làm nghiệp.

7- Cuống: Mê hoặc người hiện bày tâm gian trá không chân thật làm thể; hay chướng ái kính làm nghiệp.

8- Siễm: Dối gạt người nên giả vờ hiện sự cung kính tùy thuận; tâm nịnh hót làm thể; hay chướng ái kính làm nghiệp.

9- Kiêu: nghĩa là cậy sự giàu có, quyền thế, tâm cao ngạo không biết kiêng nể làm thể; hay chướng yểm ly làm nghiệp.

10- Hại: nghĩa là bức não hữu tình không thương xót, không trắc ẩn làm thể; hay chướng bất hại làm nghiệp.

11- Vô tàm: nghĩa là không hổ thẹn tội lỗi làm thể; hay chướng tàm làm nghiệp.

12- Vô quý: nghĩa là đối với sự khen chê của thế gian chẳng hổ thẹn tội lỗi làm thể; hay chướng quý làm nghiệp.

13- Hôn trầm: nghĩa là khiến tâm mờ mịt nặng nề làm thể; hay chướng tỳ-bát-xá-na (quán) làm nghiệp.

14- Trạo cử: nghĩa là nương vào sự tìm cầu bất chính khiến tâm chẳng tịch tĩnh làm thể; hay chướng xa-ma-tha (chỉ) làm nghiệp.

15- Bất tín: nghĩa là đối với những bậc có đức, có tài không có lòng tin thanh tịnh làm thể; hay chướng tín làm nghiệp.

16- Giải đãi: nghĩa là tâm chẳng siêng năng làm thể; hay chướng sự phát khởi chính cần làm nghiệp.

17- Phóng dật: nghĩa là gồm tham, sân, si, giải đãi làm thể; hay chướng bất phóng dật làm nghiệp.

18- Thất niệm: nghĩa là nhiễm ô chẳng nhớ làm thể; hay chướng không vọng niệm làm nghiệp.

19- Tán loạn: nghĩa là tâm không ưa thích tu thiện nên chạy theo duyên bên ngoài làm thể; hay chướng đẳng trì (định) làm nghiệp.

20- Bất chính tri: nghĩa là đối với ba nghiệp chẳng hiểu đúng khiến nhiễm ô trí tuệ làm thể; hay chướng chính tri làm nghiệp.