TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 53

Thức năng biến thứ ba: Luận Duy Thức có bài tụng:

Thức năng biến thứ ba
Sai biệt có sáu thứ
Liễu cảnh làm tính tướng
Thiện, bất thiện đều phi.

Thức năng biến thứ ba là thức liễu biệt cảnh, tự chứng phần là tính liễu biệt, kiến phần là tướng liễu biệt. Thức hữu phú hữu ký lấy liễu cảnh làm tự tính, lại dùng nó làm hành tướng thì liễu cảnh là tự tính của thức, cũng là hành tướng; hành tướng là dụng, vì vậy Thức Luận nói: “Vì tùy theo sáu chủng loại căn cảnh khác biệt nên hoặc gọi là sắc thức cho đến pháp thức”. Theo cảnh đặt tên, vì thuận theo nghĩa thức, nghĩa là liễu biệt sáu cảnh gọi là thức; năm thức trước chỉ phân biệt sắc v.v…; pháp thức liễu biệt tất cả pháp, hoặc có thể liễu biệt pháp nên riêng được tên pháp thức, cho nên tên sáu thức không có lỗi lẫn lộn.

Hỏi: Nếu ngoài tâm không có thật sắc thì năm thức trước không có sở duyên ?

Đáp: Thức Luận nói: Tuy chẳng phải không có sắc nhưng do thức biến, nghĩa là lúc thức sinh, do năng lực nhân duyên bên trong biến hiện các tướng căn trần, liền dùng tướng này làm duyên nương tựa, nhưng với nhãn căn v.v… không thể được hiện lượng. Vì phát sinh thức nên so sánh biết là có. Đây chỉ là công năng, không phải là những gì được tạo tác bên ngoài. Ngoài có sắc làm đối tượng, lý đã chẳng thành cho nên phải là nội thức biến hiện.

Giải thích:

Mắt v.v… tuy có sắc để nương và bám vào nhưng do thức biến hiện, chẳng phải ngoài tâm riêng có cực vi để làm thành căn cảnh. Lúc tám thức sinh, do năng lực chủng tử nhân duyên bên trong v.v… thức thứ tám biến ra tợ như năm căn năm trần; năm thức như nhãn v.v… nương vào căn đã biến ra, duyên nơi bản chất trần cảnh ấy; tuy chẳng trực tiếp nương vào thức thứ tám để sinh nhưng thực chất ở trên sắc của bản thức biến ra tướng năm trần, tức là lấy năm căn làm sở y, lấy năm trần làm sở duyên duyên. Nếu năm thức chẳng nương vào chỗ biến hiện của thức thứ tám thì không có sở duyên duyên, vì trong sở duyên duyên có thân và sơ.

Nhưng năm căn như mắt v.v… không thể được hiện lượng, năm trần như sắc v.v… thế gian đều thấy không thể được hiện lượng, ngoại trừ thức thứ tám duyên và Như Lai đẳng duyên là được hiện lượng, thế gian chẳng biết trong tâm tán loạn không được hiện lượng. Đây chỉ có công dụng phát thức, so sánh biết là có, đây chỉ là công năng, chẳng phải ngoài tâm riêng có sắc được tứ đại chủng tạo ra. Công năng chính là tác dụng phát sinh năm thức, thấy dụng biết thể, như thấy nẩy mầm so sánh biết có hạt giống. Do đó kinh Mật Nghiêm có kệ:

Nhãn, sắc v.v… làm duyên
Để được sinh ra thức
Như lửa cháy nhờ củi
Thức khởi cũng như thế
Cảnh chuyển tùy vọng tâm
Như sắt theo nam châm
Như thành quỉ, sóng nắng
Người ngu khát tìm nước
Trong đó không có thật
Chỉ tùy tâm biến hiện
Như người nơi thành ảo
Qua lại đều chẳng thật
Thân chúng sinh cũng vậy
Mọi việc đều hư dối
Như thấy việc chiêm bao
Tỉnh dậy chỉ hoàn không
Vọng thấy các pháp uẩn
Tỉnh giác liền lặng lẽ
Khối vi trần bốn đại
Lìa tâm không có thật.

Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Đồng tử Tự Tại Chủ bảo Thiện Tài: Này thiện nam, tôi biết 18 thứ kỹ thuật khéo léo và tất cả phương pháp về minh luận và nội minh của 62 quyến thuộc để đối trị phiền não bên trong. Thế nào là phiền não trong thân ? Có bốn nhân duyên:

1- Nghĩa là mắt tiếp nhận cảnh sắc.

2- Do tập khí chấp trước từ vô thỉ.

3- Do tự tính bản tính của thức ấy.

4- Tác ý hy vọng đối với sắc cảnh.

Do bổn nhân duyên này nên tạng thức đã chuyển, sóng thức mới nổi lên, như dòng thác chảy liên tục chẳng dừng.

Này thiện nam, như nhãn thức khởi, tất cả căn, thức, vi trần, lỗ lông đồng thời sinh ra cũng như thế; như gương sáng hiển hiện các hình bóng, các thức cũng thế đồng thời chợt hiện. Này thiện nam, như gió mạnh thổi trên mặt biển dậy khởi sóng mòi chẳng dừng; cũng như thế, do gió cảnh giới thổi vào biển tịnh tâm nổi lên sóng thức nối tiếp không dừng. Nhân duyên tương tác chẳng xa lìa nhau, bất nhất bất dị như nước với sóng. Do nghiệp sinh tướng càng thêm ràng buộc, không thể biết được tự tính của sắc v.v… và năm thức thân chuyển. Thức a-lại-da chẳng tự nói tôi sinh bảy thức, bảy thức cũng chẳng nói chúng tôi được sinh từ a-lại-da. Chỉ do tự tâm chấp thủ cảnh tướng sinh ra phân biệt, như vậy hành tướng của thức a-lại-da sâu xa vi tế bờ mé cứu cánh, chỉ có chư Như Lai và Bồ-tát trụ địa mới thông đạt, hàng Thanh văn và Bích-chi Phật cùng phàm phu ngoại đạo đều không thể biết.

Hỏi: Nhãn thức v.v… nương căn phát thức hay nương cảnh phát thức ?

Đáp: Nhất định nương căn phát. Bách pháp nói: “Nhãn thức nương căn phát thức, cho đến ý thức cũng vậy”. Nếu nhãn căn biến khác thì nhãn thức cũng phải biến khác theo, như con mắt bệnh sẽ thấy màu xanh là màu vàng. Đây chẳng phải cảnh hư hoại mà là do căn bị tổn thương khiến thức duyên lấy cảnh biến thành màu vàng, vì thế biết tùy theo căn mà được tên.

Hỏi: Nhãn thức duyên màu xanh thành màu vàng, đâu chẳng phải là phi lượng ?

Đáp: Chỉ là đồng thời loạn ý thức. Vì nhãn căn bị tổn thương khiến đồng thời ý thức duyên loạn xạ nên biến màu xanh ra màu vàng. Kỳ thật nhãn thức chẳng làm ra duyên xanh vàng, ý căn tổn thương, ý thức cũng tổn thương. Như bậc Sơ Địa đã không còn hai chấp ngã pháp; khi ấy, ý căn hoại không có hai chấp, thức năng duyên cũng hoại bỏ hai chấp, do đó biết nương nơi nhãn căn được gọi là nhãn thức, chỉ là theo căn đặt tên. Ngài Hộ Pháp nói: “Thể tính của sáu thức khác biệt, chỉ nương nơi căn cảnh đặt tên”. Nếu chấp có một thức có thể duyên sáu cảnh thì khi sáu cảnh đến một lượt làm thế nào một ý thức có thể một lúc duyên hết ? Nếu sinh khởi trước sau thì chẳng khắp, cho nên tùy sáu thứ căn cảnh sai khác mà có tên khác nhau.

Hỏi: Nhãn thức v.v… đã nương căn phát thức, lấy cái gì làm căn ?

Đáp: Ngài Hộ Pháp thường lấy hiện hành, chủng tử làm căn. Căn đã vậy, cảnh cũng thế. Luận Du-già cũng nói: “Đều lấy hai pháp hiện hành và chủng tử làm các căn như nhãn v.v…”. Do lúc bản thức huân tập tâm biến tợ như sắc, từ khi huân tập là tên gọi. Vì bốn đại tạo ra sắc thanh tịnh nên đối với quả thức được sinh tạm nói hiện hành là công năng, thật ra chỉ có hiện sắc, nghĩa công năng sinh thức, Đại thừa, Tiểu thừa đều thừa nhận.

Hỏi: Căn lấy gì làm nghĩa ?

Đáp: Căn là năm căn. Vì có nghĩa tăng thêm sự xuất sinh nên gọi là căn. Trong đó có thanh tịnh ngũ sắc căn và phù trần ngũ sắc căn.

Thanh tịnh ngũ sắc căn là hữu đối tịnh sắc không thể thấy cho là thể tính hay phát sinh năm thức, vì có tác dụng chiếu cảnh.

Phù trần ngũ sắc căn là trợ giúp thanh tịnh căn soi chiếu cảnh, tự thể không thể chiếu cảnh, vì phù trần căn hiển sắc một cách thô thiển nên chẳng ngại nương vào thanh tịnh căn.

Luận Ngũ Uẩn nói: “Căn là nghĩa tối thẳng, nghĩa tự tại, nghĩa chủ tể, nghĩa tăng thượng”.

Thế nào là nhãn căn ? Nghĩa là lấy sắc làm cảnh tịnh sắc làm tính, là một phần tịnh sắc trong mắt như đề-hồ thanh tịnh. Vì có tính này nên nhãn thức được sinh; không có thì chẳng sinh; cho đến thân căn lấy xúc làm cảnh và tịnh sắc làm tính; không có thì chẳng sinh.

Hỏi: Lúc chưa chuyển y, trong ba lượng năm thức trước thuộc lượng nào ?

Đáp: Cổ đức nói: “Nhãn thức duyên tướng phần sắc cảnh, nghĩa là mỗi thứ tự duyên tự tướng phần. Trong ba lượng phân biệt, thuộc về hiện lượng”.

Hiện lượng đủ ba nghĩa:

1- Hiện tại, chẳng phải quá khứ, vị lai.

2- Hiển hiện, chẳng phải chủng tử.

3- Hiện hữu, chẳng phải pháp vô thể.

Duyên cảnh hiện lượng gọi là hiện lượng, đó là chẳng phải đo lường, tức là nhờ tu chứng cảnh chẳng vướng mắc danh ngôn, là nghĩa hồn nhiên, tức là năm thức duyên cảnh được tự tướng của pháp. Khoảng giữa không có chướng ngại nên gọi là thân duyên tướng phần có màu đỏ liền được tướng phần màu đỏ. Chỉ vì chẳng phân biệt, hồn nhiên không vướng mắc danh ngôn nên gọi là được tự tướng.

Ngài Hộ Pháp nói: “Năm thức chỉ duyên năm trần cảnh thật, không duyên cảnh gỉả. Chỉ duyên một cách hồn nhiên, chẳng khởi hiểu biết, chẳng vướng mắc danh ngôn, vì là hiện lượng”. Như lúc nhãn thức duyên bốn sắc thật là xanh vàng đỏ trắng, các sắc giả là dài ngắn vuông tròn tuy chẳng lìa sắc thật mà có nhưng nhãn thức chỉ duyên thật, chẳng duyên giả. Nhãn thức nhất định chẳng duyên sắc dài ngắn, chỉ ý thức tạo ra tâm dài ngắn để duyên. Như năm thức lúc niệm đầu tiên cùng minh liễu ý thức duyên năm trần cảnh, chỉ là hiện lượng được thật sắc của năm trần. Lúc niệm sau phân biệt ý thức khởi thì trong tâm sinh hiểu biết tạo ra sắc duyên dài ngắn, là tỷ lượng tâm duyên, tức là năm thức chỉ là hiện lượng, duyên thật chẳng duyên giả. Cho nên luận nói: “Không có nhãn thức v.v… chẳng duyên thật cảnh sinh, tức năm thức chỉ duyên thật là cảnh tự tướng”. Như lúc nhãn thức duyên tự tướng của cảnh xanh thì được tự tướng của màu xanh. Nếu lúc niệm sau phân biệt ý thức khởi thì chẳng phải sự hiểu biết màu xanh, đây là cộng tướng tỷ lượng. Lúc vừa có tâm hiểu biết thì tâm thể màu xanh chẳng thật vì vướng mắc danh ngôn là tại giả tướng. Vì thế Thức Luận nói: “Nghĩa là giả trí không thể thuyên bày tự tướng, chỉ chuyển đổi với cộng tướng của các pháp”.

Giả trí là khởi lên tâm hiểu biết. Thuyên là trên tâm hiểu tâm và trên âm thanh gọi là cú văn, là năng thuyên đều không được tự tướng sở thuyên.

Giải thích:

Phô bày giả chẳng căn cứ vào chân, chỉ nương vào cộng tướng mà chuyển, tức là việc chân thật này không nói thật thể của tâm thức gọi là chân, chỉ là tâm nắm lấy tự thể tướng của pháp lời nói chẳng đến được, giả trí không thể duyên gọi đó là chân. Việc này chỉ có trí hiện lượng biết, tính ấy lìa ngôn thuyết và trí phân biệt. Việc này xuất phát từ thể chân thật trí không thể diễn bày và như tự tính của sắc pháp, tính ướt của nước chỉ có chứng mới biết không thể nói được. Ý thức thứ sáu sau khi theo năm thức khởi, duyên trí này nên phát ra ngôn ngữ v.v…, chỉ là cộng tướng của pháp được nói được duyên, chẳng phải là tự tướng của pháp. Lại ngăn tự tướng gọi là được cộng tướng.

Nếu trong sở biến có pháp cộng tướng là được tự thể nên tất cả pháp có thể nói, có thể duyên. Pháp cộng tướng cũng nói duyên chẳng được, nhưng chẳng nên chấp chặt như thế. Như trong năm uẩn, lấy việc năm uẩn làm tự tướng, lý không vô ngã làm cộng tướng. Suy theo lý, chẳng có cái thể tự tướng nhưng không thể nói pháp thể là tự tướng mà phải là cộng tướng. Nói theo lý, cộng chẳng phải cộng, tự cũng chẳng phải tự, vì ngăn che nhau nên chỉ nói riêng biệt.

Không vô ngã … là cộng tướng là từ giả trí nói, đây chỉ có hạnh giải năng duyên, không có cộng thể không thật sở duyên. Lúc nhập chân quán, mỗi mỗi pháp đều biết rõ ràng, chẳng phải biết đại khái.

Nếu ngôn thuyết vướng mắc tự tướng thì lúc nói lửa lẽ ra lửa phải đốt cháy miệng, vì tự tướng của lửa là thiêu cháy vật. Duyên cũng như thế, lúc duyên lửa, lẽ ra lửa phải thiêu đốt tâm. Nhưng nay nó chẳng đốt tâm cũng chẳng cháy miệng thì biết duyên và thuyết đều được cộng tướng. Nếu vậy lúc gọi lửa sao chẳng được nước, vì chẳng được tự tướng của lửa. Lúc gọi nước sao chẳng được lửa, lý này chẳng đúng vì từ vô thỉ quen gọi như thế.

Nay duyên màu xanh sinh ra cái biết về màu xanh, đây là trí tỷ lượng chẳng xứng hợp với pháp trước, như nhãn thức duyên sắc, vì xứng hợp tự tướng chẳng sinh ra cái biết về sắc. Về sau khởi ý thức duyên sắc cộng tướng, chẳng vướng mắc sắc nên sinh ra cái biết màu xanh, ngăn duyên các vật chẳng phải màu xanh bèn sinh ra cái biết màu xanh, chẳng phải cho rằng cái biết màu xanh là sự việc màu xanh. Cho nên Duy Thức tụng:

Hiện giác như chiêm bao
Lúc đã khởi hiện giác
Kiến và cảnh đã không
Đâu thể có hiện lượng.

Đây là chỉ giả trí duyên, vì nhờ cộng tướng mà được khởi, vì tự tướng của pháp lìa phân biệt. Ngôn thuyết cũng thế, chẳng xứng với bản pháp, cũng chỉ chuyển đối với cộng tướng. Nay tông Đại thừa chỉ có cái thể của tự tướng, không có cái thể của cộng tướng, giả trí và thuyên chỉ được cộng tướng chẳng được tự tướng. Nếu nói cộng tướng chỉ có quán tâm, hiện lượng duyên cả tự tướng và cộng tướng. Nếu tự tướng của pháp chỉ được hiện lượng, cộng tướng cũng thông cả tỷ lượng (…) cho nên nói chỉ chuyển đối với cộng tướng của các pháp. Tự tướng này chứng hiện lượng mới biết vì chẳng phải cảnh ngôn thuyết.

Sớ hỏi: Vì sao gọi là tự tướng và cộng tướng ?

Đáp: Tự thể của pháp chỉ có chứng trí biết, ngôn thuyết không thể đến là tự tướng. Thể tính của pháp ngôn thuyết nói được, giả trí duyên được là cộng tướng.

Hỏi: Đã nói tất cả pháp ngôn thuyết không thể đến được, rồi lại nói ngôn thuyết nói được là cộng tướng, sao trái nghịch thế ?

Đáp: Cộng tướng là nghĩa trên tự thể của pháp, không có thể nào khác. Lúc nói về lửa v.v… ngăn chẳng phải lửa v.v..nghĩa này bao gồm tất cả lửa cho nên nói là cộng tướng, chính là nghĩa ấy vậy, chẳng phải là đạo lý cộng tướng khổ, không v.v…

Nếu vậy thì tất cả pháp đều không thể nói, không thể nói cũng chẳng xứng lý; vì ngăn có thể nói nên nói rằng chẳng thể nói, chẳng phải chẳng thể nói là xứng pháp thể; pháp thể cũng chẳng phải không thể nói, vì ngày nay bèn nói gọi là được tự tính của cộng tướng. Nay nên hiểu việc này có nghĩa chẳng phải pháp thể. Nói danh tự thuyên bày cộng tướng chẳng phải là được cái thể của cộng tướng, chỉ vì ngăn được tự tướng nên nói danh tự thuyên bày cộng tướng.

Lại tự tướng là tướng tự thể của các pháp, như lửa lấy hơi nóng làm tự tướng; vì lúc gọi lửa chẳng được hơi nóng nên chẳng được tự tướng. Tự tướng của hơi nóng này chỉ có thân thức hiện lượng chứng nên chẳng gọi là sở đẳc.

Cộng tướng là nghĩa được thuyên bày, có hai thứ: một là cộng tự loại tướng, hai là cộng dị loại tướng. Như lúc nói lửa thì không bao gồm nước v.v… chỉ gồm tất cả lửa nên gọi là cộng tự loại tướng. Như nói khổ, không, vô thường v.v… thì không chỉ ở trên một loại pháp mà trên khắp tất cả pháp nước lửa v.v… nên gọi là cộng dị loại tướng.

Lại chỉ có năm căn, năm trần, tâm và tâm sở được tự tướng, nghĩa là năm căn là thức thứ tám hiện chứng; năm trần là năm tâm, tâm sở của thức trước và thức thứ tám hiện chứng tự thể tính. Độc tán ý thức còn chưa được tự thể tính, huống là thuyên bày được tự thể tính.

Lúc năm thức duyên năm trần cảnh, vì đủ bốn nghĩa nên gọi là được tự tướng của pháp: 1- nhiệm vận, 2- hiện lượng, 3- chẳng vướng danh ngôn, 4- chỉ duyên cảnh hiện tại.

Cảnh sở duyên của ý thức có hai:

– Nếu là cảnh sở duyên của độc đầu ý thức thì thuộc pháp xứ.

– Nếu là cảnh sở duyên của minh liễu ý thức thì thuộc sắc xứ.

Lại như nhãn thức, minh liễu ý thức trong niệm ban đầu trực tiếp đồng duyên sắc, nhưng minh liễu ý thức chỉ duyên tự tướng của sắc. Niệm sau minh liễu ý thức phân biệt duyên, trên sắc tức là cộng tướng. Dù vậy giả sắc là cảnh sở duyên của minh liễu ý thức cũng thuộc sắc xứ. Nhưng vì là giả nên nhãn thức chẳng duyên; cho đến thanh cũng thế. Như nhĩ thức trong sát-na ban đầu trực tiếp cùng minh liễu ý thức đồng duyên thanh cũng là được tự tướng của pháp. Niệm sau ý thức khởi duyên danh cú văn trên thanh có phân biệt hiểu biết v.v… đây là duyên giả. Nay năm thức trước không có phân biệt hiểu biết, do đó chẳng duyên cái giả.

Hỏi: Như sắc có 25 thứ, bốn thứ hiển sắc như xanh, vàng là thật, các thứ còn lại là giả; thanh có 12 thứ, chỉ có thanh chấp thọ và chẳng chấp thọ là thật, các thứ còn lại là giả; xúc có 26 thứ, bốn đại là thật, các thứ còn lại là giả. Trong đây, cái thật là năm thức duyên, nó thuộc năm trần xứ; theo luận chủ nói cái giả năm thức chẳng duyên chỉ có ý thức duyên, tại sao nó chẳng thuộc pháp xứ ?

Đáp: Minh liễu ý thức duyên giả sắc dài ngắn v.v… vì có ba nghĩa nên chẳng thuộc pháp xứ: 1- sáng tối chẳng đồng, 2- do giả theo thật, 3- do bóng theo chất. Do có ba nghĩa này nên nó thuộc về sắc xứ.

Còn độc đầu ý thức không có ba nghĩa này nên thuộc pháp xứ.

1- Sáng tối chẳng đồng: Lúc minh liễu ý thức cùng năm thức trước niệm ban đầu trực tiếp khởi duyên là hiện lượng; chẳng duyên cảnh giả. Đến niệm sau minh liễu ý thức sinh ra tâm phân biệt là duyên giả sắc. Lúc năm thức chính thức duyên thật sắc; ý thức sinh hiểu biết đối với thật sắc mà năm thức đã duyên, vậy thì ý thức thứ sáu duyên cái giả, vì chẳng cùng năm thức đồng thời khởi phân biệt nên ý thức này là sáng suốt (minh). Giả sắc đã duyên thuộc sắc xứ, không thuộc pháp xứ.

Nếu là độc đầu ý thức thì chẳng nhờ năm thức sinh khởi phân biệt, chỉ khởi một mình là ý thức tối tăm (ám), thuộc pháp xứ.

2- Do giả theo thật: Vì giả sắc nương vào thật sắc mà lập, tuy ý thức duyên đem giả sắc về thật sắc nên thuộc sắc xứ, không thuộc pháp xứ.

3- Do bóng theo chất: Giả sắc là thức thứ sáu, nương gá thật sắc năm trần làm chất mà biến khởi tướng phần hư giả để duyên. Từ tướng phần hư giả này đến sắc xứ năm trần thật đều thuộc sắc xứ. Độc đầu ý thức không hẳn có bản chất; minh liễu ý thức có ba nghĩa nên năm trần sắc hư giả đều thuộc sắc xứ. Nếu là cảnh sở duyên của độc đầu sinh ra ý thức tối tăm thì thuộc pháp xứ.

Hỏi: Trong giáo nào, năm căn chứng hiện lượng ?

Đáp: Chân thật chứng chẳng phải một. Kinh Viên Giác nói: “Ví như nhãn quang rọi chiếu tiền cảnh, ánh sáng ấy vô tư không có thương ghét, có thể chứng hiện lượng năm căn chẳng sinh phân biệt. Nhãn quang ấy đến chỗ không có trước sau, chẳng lìa bỏ oán thù, gần gũi thân thích, ưa đẹp ghét xấu; như nhĩ căn không phân biệt tiếng khen chê, tỷ căn chẳng né tránh mùi thơm hôi, thiệt căn chẳng lựa chọn vị ngọt đắng, thân căn chẳng xa cách xúc chạm trơn rít. Vì lúc tâm trực tiếp chẳng phân biệt, trong sát-na trôi vào ý thức mới khởi tìm cầu bèn rơi vào tỷ lượng thì tâm nhiễm tịnh sinh, sinh tâm thủ xả khởi tình chấp.

Hỏi: Lúc năm căn duyên cảnh phải có bao nhiêu nghĩa ?

Đáp: Duyên là nghĩa nương gá. Cảnh có hai nghĩa: một là nghĩa sở tạ, hai là nghĩa sở chiếu.

Sở tạ, như duyên cảnh có thể tính vì nhờ cảnh ấy làm sở duyên duyên.

Sở chiếu, tuy chẳng nhờ cảnh làm sở duyên nhưng làm chỗ chiếu soi cũng gọi là cảnh, như năm căn nhãn v.v… chiếu soi cảnh sắc v.v… tuy chẳng phải sở duyên nhưng đối với căn này được gọi là cảnh, vì là sở chiếu. Lại nhãn căn chiếu sắc, nhãn thức duyên sắc cho đến thân căn giác xúc, thân thức liễu xúc v.v…

Cổ đức hỏi: Năm thức đã chỉ duyên thật sắc, chẳng hạn như dài ngắn v.v… lúc nương nơi sắc cảnh hiện tiền, nhãn căn chẳng hoại, khi ấy nhãn thức duyên hay chẳng duyên ? Nếu nói duyên thì phạm lỗi năm thức duyên giả; nếu nói chẳng duyên, tại sao nhắm mắt không thấy, mở mắt lại thấy ?

Đáp: Khi ấy nhãn thức chỉ được thật sắc xanh vàng v.v… và đồng thời ý thức nương nhờ nhãn thức làm cửa biết được dài ngắn v.v… rõ ràng, y cứ ý thức mà được nên thuộc pháp xứ. Chỉ duyên lúc ấy, ý thức nương gá nhãn căn để phân biệt chấp thủ, vì đối với căn đã nương nên thuộc sắc xứ.

Hỏi: Năm thức trước có bao nhiêu công năng mới có thể liễu biệt tiền cảnh ?

Đáp: Có sáu công năng. Luận Du-già nói: “Một là chỉ liễu biệt tự cảnh sở duyên, hai là chỉ liễu biệt tự tướng, ba là chỉ liễu biệt hiện tại, bốn là chỉ liễu biệt trong một sát-na, năm là chuyển theo ý thức, thiện nhiễm, phát nghiệp, sáu là hay chấp thủ ái chẳng thích Thánh quả.

Hỏi: Cái biết của nhãn thức là hiện lượng phù hợp với cảnh; nếu lúc mắt bệnh thấy màu xanh là màu vàng thì đâu phù hợp với cảnh; nếu chẳng phù hợp với cảnh thì sao gọi là hiện lượng ?

Đáp: Có sư nói: Thấy màu xanh là màu vàng đúng là ý thức, nghĩa là do nhãn căn bệnh dẫn đến nhãn thức bệnh; do nhãn thức bệnh nên dẫn đến ý thức phi lượng thấy màu xanh là màu vàng; chẳng phải nhãn thức thấy màu xanh là màu vàng.

Có sư nói: Do nhãn căn bệnh dẫn đến nhãn thức bệnh tuy thấy màu xanh là màu vàng nhưng chẳng có cái hiểu về màu vàng, cho nên là hiện lượng. Như lúc vô phân biệt thấy Phật tính, chân như là cái ngã có tám tính tự tại, tuy chẳng phù hợp với cảnh nhưng trí vô phân biệt chẳng có cái hiểu về ngã nên được gọi là hiện lượng, đây cũng thế.

Luận Tạp Tập hỏi: “Nếu liễu biệt sắc v.v… gọi là thức, tại sao chỉ gọi nhãn thức v.v… mà chẳng gọi là sắc thức v.v … ?”

Đáp: Vì nương vào năm căn: nhãn căn v.v… giải thích vấn đề là ở nơi thức chẳng phải ở nơi sắc, vì sao ? Vì thức trong nhãn căn nên gọi là nhãn thức; vì nhờ nhãn căn mà thức được sinh; lại do có nhãn căn mà thức mới có, vì sao ? Nếu có nhãn căn, nhãn thức nhất định sinh, vì người không bị mù cho đến trong tối cũng có thể thấy. Không do sắc trần sinh ra nhãn thức, vì người mù chẳng thể thấy.

Lại thức được phát ra từ nhãn căn nên gọi là nhãn thức. Do nhãn căn biến đổi nên thức cũng biến đổi; sắc tuy không biến đổi nhưng thức có biến đổi, như bệnh ca-mạt-la làm tổn hoại nhãn căn thấy màu xanh là màu vàng.

Lại thức thuộc nhãn căn nên gọi là nhãn thức, do chủng tử thức tùy theo nhãn căn mà được sinh.

Lại thức trợ giúp nhãn nên gọi là nhãn thức vì làm cho nó tăng giảm, vì sao ? Do căn hợp với thức có chỗ lĩnh thụ khiến cho căn tăng giảm, chẳng phải do trần cảnh.

Lại sự nhận biết nơi mắt nên gọi là nhãn thức, vì đều thuộc hữu tình, sắc không như thế, vì chẳng quyết định. Nhãn thức đã thế, các thức khác cũng vậy.

Hỏi: Là nhãn căn thấy sắc hay thức thấy ?

Đáp: Chẳng phải nhãn căn thấy sắc, cũng chẳng phải thức thấy sắc, vì tất cả pháp vô tác dụng. Thấy sắc là do có sự hòa hợp giả lập.

Lại trong sự thấy sắc của nhãn căn do sáu tướng nên trội hơn, chẳng phải thức thấy sắc, vì thế nói nhãn căn có thể thấy các sắc. Những gì là sáu tướng ?

1- Do nhãn căn sinh nên thức nhãn sinh.

2- Do nương vào nơi chốn, cái thấy nương vào nhãn căn.

3- Do không động chuyển, nhãn căn chỉ là nó.

4- Do tự lại chuyển, chẳng đợi duyên hợp niệm niệm sinh.

5- Do đoan nghiêm chuyển, do nhãn căn mà thân được trang nghiêm.

6- Do Thánh giáo, như trong kinh nói vì nhãn căn hay thấy sắc.

Như vậy sáu tướng mạo trên ở trong thức không có; khi thức động chuyển nên biết có nhiều thứ sai biệt sinh khởi.

Hỏi: Sáu căn được thành đều riêng có mấy nghĩa ?

Đáp: Người xưa giải thích đều riêng có hai nghĩa: một là dị thục, hai là trưởng dưỡng. Như nhãn căn do nghiệp quá khứ chiêu cảm nhãn căn hiện đời gọi là dị thục nhãn; đời này do ăn uống bồi dưỡng nên ngày càng tăng trưởng gọi là trưởng dưỡng căn; năm căn còn lại cũng thế.

Hỏi: Nếu không có ngoại cảnh lẽ ra không có tâm hiện lượng năng giác. Nếu không có tâm hiện lượng năng giác thế nhân làm thế nào biết mình đang hiện chứng cảnh ?

Đáp: Cổ đức nói: “Hiện giác như mộng” như đang lúc khởi năm thức hiện lượng chứng năm cảnh như sắc v.v… chỉ là năng chứng cảnh sở chứng như sắc v.v…, chẳng thể năng giác cái tâm hiện lượng năng giác. Vì sao ? Biết pháp năng giác là ý thức, lúc năm thức đang khởi chắc chắn không có ý thức, do đó nơi niệm ban đầu hẳn không thể biết tâm hiện lượng, đến niệm thứ hai đang khởi ý thức liền biết năm thức hiện lượng của niệm trước. Khi ấy không có sở giác, năm thức hiện lượng và cảnh sở giác hiện lượng đã diệt hết, vì sao ? Vì các thức chẳng sinh. Lúc khởi ý thức, năm thức hiện lượng đã diệt. Lại pháp hữu vi diệt trong sát-na nên cảnh sở duyên của năm thức hiện lượng lúc ấy cũng đã diệt.

Nếu nói phải có ngoại cảnh mới có thể sinh tâm, như niệm sau ý thức duyên niệm trước năm thức hiện lượng làm cảnh, nào có thật pháp ? Vì quá khứ không có thật thể nên năm thức hiện lượng quá khứ này đã diệt. Tuy vô thể nhưng vẫn có thể là cảnh sinh ra ý thức, đâu cần năm thức phải duyên thật cảnh ngoài tâm để sinh ? Nghĩa là như trong khi ngủ khởi tâm chiêm bao thì không thể khởi tâm biết mộng. Sau khi tỉnh dậy khởi tâm biết mộng, lúc tâm biết mộng đã diệt, năm thức hiện lượng đang khởi, chưa thể khởi biết tâm ý thức hiện lượng; đến niệm thứ hai khởi biết được tâm ý thức của năm thức hiện lượng. Cái biết về năm thức hiện lượng đã diệt; tương tợ với tâm biết mộng, do đó lấy làm ví dụ.

Hỏi: Nhất định cho rằng có hiện lượng chăng ? Nghĩa là lúc đang khởi biết ý thức hay biết của hiện lượng, cái biết về năm thức nhất định có chăng ?

Đáp: Lúc ấy cái bị biết đã diệt, tuy vô thể nhưng vẫn có thể sinh ra tâm hay biết, đâu trở ngại ngoại cảnh không thể sinh thức ? Nhưng năm cảnh theo Đại thừa dường như có nhưng chẳng phải ngoài tâm nên chẳng đồng với phàm phu và Tiểu thừa.

Hỏi: Trong sáu thức như nhãn thức v.v… phân biệt có bao nhiêu loại ?

Đáp: Đại lược có ba loại:

1- Tự tính phân biệt: chỉ duyên các hành hiện tại, tự tướng các hành là phân biệt. Hành được duyên là năm trần. Tự tướng hành, như sắc lấy màu xanh làm hành tướng, lúc nhãn thức duyên cũng hồn nhiên thành hành tướng màu xanh gọi là tự tướng hành.

Lại tự tướng hành là hành năng duyên, lược bỏ cộng tướng hành, như lúc duyên màu xanh thì chẳng duyên màu vàng.

2- Tùy niệm phân biệt: Các hành trước kia đã từng thọ lãnh theo niệm hành phân biệt chỉ duyên quá khứ.

3- Kế đạc phân biệt: Nơi ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai chẳng hiện tiền tư duy phân biệt tức chẳng phải có mà chấp có, là cảnh phi lượng, nhưng suy tính so đo ba đời, chẳng nhất định một đời.

Theo luận Tạp Tập, trong ba thứ phân biệt trên lại có bảy thứ phân biệt:

1- Nhiệm vận phân biệt, nghĩa là thân năm thức như tướng sở duyên không phân biệt, vì ở nơi tự cảnh giới tự nhiên chuyển.

2- Hữu tướng phân biệt, nghĩa là hai thứ phân biệt tự tính và tùy niệm, vì nắm lấy các tướng của cảnh quá khứ và hiện tại.

3- Vô tướng phân biệt, nghĩa là mong cầu cảnh vị lai hành phân biệt.

4- Tầm cầu phân biệt.

5- Dò xét phân biệt.

6- Nhiễm ô phân biệt.

7- Chẳng nhiễm ô phân biệt.

Bốn thứ phân biệt này đều lấy sự kế đạc phân biệt làm tự tính, vì sao ? Vì suy tính so đo, hoặc có khi tầm cầu, hoặc có khi dò xét, hoặc có khi nhiễm ô, hoặc chẳng nhiễm ô.

Theo luận Nhiếp Đại Thừa có mười thứ căn cảnh vi tế phân biệt. Luận nói: Lại nữa bao gồm tất cả phân biệt đại khái có mười thứ:

1- Căn bản phân biệt, là thức a-lại-da.

2- Duyên tướng phân biệt, là thức của sắc v.v…

3- Hiển tướng phân biệt, là nhãn thức v.v… và chỗ nương của thức.

4- Duyên tướng biến dị phân biệt, là sự biến đổi khác đi như già nua v.v… sự biến đổi như lạc thọ v.v… sự biến đổi như tham v.v…, sự biến đổi như thời tiết khắc nghiệt v.v…, sự biến đổi như các loài nại-lạc-ca1 v.v… và sự biến đổi như các cõi dục giới v.v…

5- Hiển tướng biến dị phân biệt, là những biến dị nói trên có biến dị.

6- Tha dẫn phân biệt, là nghe mà phân biệt chẳng phải chính pháp và chính pháp.

7- Chẳng như lý phân biệt, là các ngoại đạo nghe mà phân biệt chẳng phải là chính pháp.

8- Như lý phân biệt; là trong chính pháp nghe mà phân biệt được chính pháp.

9- Chấp trước phân biệt, là loại tác ý chẳng đúng lý, phân biệt tát-ca2 tà kiến làm gốc, tương ưng với 62 kiến chấp.

10- Tán động phân biệt, là mười thứ phân biệt của chư Bồ-tát.

Giải thích:

Căn bản phân biệt nghĩa là thức a-lại-da, là tự tính gốc của các phân biệt khác, cũng là phân biệt nên gọi là căn bản phân biệt.

Duyên tướng phân biệt nghĩa là phân biệt sắc v.v… có tướng duyên như thế.

Hiển tướng phân biệt nghĩa là nhãn thức v.v… và chỗ nương của thức hiển hiện dường như tướng được duyên.

Duyên tướng biến dị phân biệt nghĩa là bóng dáng thức tợ sắc v.v… biến dị khởi lên phân biệt.

– Sự biến đổi như già nua v.v…, nghĩa là thức của sắc v.v… giống như tướng già v.v… khởi các biến đổi, vì sao ? Vì nội ngoại sắc v.v… đều có tướng biến đổi như già nua v.v…

– Sự biến đổi như lạc thọ v.v…, do lạc thọ nên thân tướng biến đổi, như vui thì vẻ mặt tươi tắn.

– Sự biến đổi như tham v.v…, nghĩa là do tham v.v… nên thân tướng biến đổi, như giận dữ thì hình sắc xấu đi.

– Sự biến đổi như thời tiết khắc nghiệt v.v…, nghĩa là giết hại, trói buộc v.v… khiến thân tướng thay đổi; thời tiết thay đổi cũng khiến hình tướng của nội ngoại thân thay đổi như trời rét khiến thân khô tái.

– Sự biến đổi như các loài nại-lạc-ca v.v nghĩa là những loài nhiều ác nghiệp thì hình sắc trở nên xấu xí.

– Sự biến đổi như các cõi dục giới v.v…, vì trong đó không có bóng dáng thức tợ sắc v.v… cho nên trong chư thiên và trong tĩnh lự cũng có các thứ như hữu tình, khí thế gian biến đổi, như hạt châu ma-ni có năng lực nhiệm mầu làm biến đổi các thứ ánh sáng tịnh diệu.

Hiển tướng biến dị phân biệt nghĩa là do những căn được nương như nhãn căn v.v… khiến cho bóng dáng tợ sắc v.v… hiển hiện nhãn thức v.v… biến đổi; bèn trong ấy khởi các phân biệt biết như nói ở trước sự biến đổi như già nua v.v… tùy theo sự cảm ứng của nó mà khởi biến đổi, vì sao ? Như nói nhãn căn có tốt hay không tốt, thức có sáng hay mờ, như chỗ nương của vô biểu sắc biến đổi thì thức cũng biến đổi. Do lạc thọ v.v… biến đổi nên thức cũng thế; như nói vui nên tâm an định, như nói khổ nên tâm tán loạn dao động. Tham v.v…, thời tiết thay đổi cũng thế; nại-lạc-ca v.v… và dục giới v.v… nương nơi thân biến đổi, thức cũng biến đổi. Như vậy nên biết trong vô sắc giới cũng có những cảm thọ làm biến đổi các thức phân biệt.

Tha dẫn phân biệt, nghĩa là do gần gũi bạn hữu thiện ác dấy khởi phân biệt và nghe chính pháp hoặc phi chính pháp làm nhân phân biệt, như ngoại đạo Ca-tì-la3 v.v… và Tảo-yết-đa trong chính pháp có phân biệt nên gọi là bất như lý phân biệt hay như lý phân biệt. Hai thứ phân biệt này tùy theo chỗ cảm ứng sinh tà kiến hay chính kiến.

Tát-ca tà kiến là nhân, sinh khởi 62 kiến chấp tương ưng phân biệt, tức là phân biệt thuở trước, thuở sau; trong kinh Phạm Võng cho rằng trong quá khứ ta từng có mặt chăng ? Những phân biệt như thế gọi là chấp trước phân biệt. Nói thấy các loài là nghĩa phẩm loại.

Tán động phân biệt, tán loạn nhiễu động gọi là tán động, đây là phân biệt, cho nên gọi là tán động phân biệt. Nó nhiễu loạn trí vô phân biệt, vì sao ? Vì nó nhiễu loạn Bát-nhã ba-la-mật-đa. Trí vô phân biệt là Bát-nhã ba-la-mật-đa. Đây là mười thứ phân biệt của chư Bồ-tát, nghĩa là chư Bồ-tát hay nói, nếu theo người khác dẫn dắt mà chuyển thì chẳng hợp chân lý. Với mười thứ phân biệt ấy, Bồ-tát làm thế nào thể chứng chân lý ? Ngay lúc này không thể nói.

Hỏi: Trong tám thức, thức nào có đủ ba thứ phân biệt trên ?

Đáp: Trong tám thức chỉ có thức thứ sáu đủ ba thứ phân biệt. Thức thứ bảy chỉ có tự tính phân biệt, vì duyên hiện tại; hoặc thức mạt-na cũng có kế đạc, vì kế đạc chấp ngã. Nếu luận về thể tính, kế đạc phân biệt lấy tuệ làm tính, tùy niệm lấy niệm làm tính, phân biệt lấy tuệ làm tính. Trong chân pháp không có tám thức hư vọng cho nên không có sự phân biệt. Lại nữa, về mười thứ phân biệt, các sư ngày xưa nói nhiều về tám thức

Hỏi: Trong tám thức, mỗi thức có bao nhiêu thứ phân biệt ?

Đáp: Thức thứ sáu có đủ mười thứ phân biệt. Năm thức trước chỉ có hai thứ phân biệt: tự tính và nhiệm vận, vì năm thức tự nhiên chuyển nơi tự cảnh giới. Thức thứ bảy có ba thứ phân biệt: kế đạc, nhiễm ô, hữu tướng. Thức thứ tám giống như năm thức trước có hai thứ phân biệt: tự tính và nhiệm vận. Hai phân biệt tự tính và nhiệm vận chỉ là tự hiện lượng. Ba thứ phân biệt: kế đạc, nhiễm ô, vô tướng chỉ là tỷ lượng và phi lượng. Hữu tướng phân biệt, một phần duyên hiện tại thì có đủ ba lượng, một phần duyên quá khứ thì chỉ có tỷ lượng và phi lượng. Tùy niệm phân biệt vô lậu là hiện lượng, nếu hữu lậu thì gần tỷ lượng và phi lượng.

Hỏi: Tại sao năm thức không có phân biệt chấp ?

Đáp: Hễ nói chấp là phải có phân biệt suy lường. Năm thức tuy có tuệ nhưng vì chỉ hồn nhiên không phân biệt suy lường, do đó năm thức không chấp chỉ có thức thứ sáu chấp.