TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 44

Hỏi: Hễ nói đến tâm Phật chỉ đề xướng tính tông đây là nêu lên một mà thu nhiếp tất cả, bất luận nghĩa khác tại sao ngày nay trái tự kỷ theo giáo mê tông ?

Đáp: Nói đến chí giáo đều là người chưa liễu ngộ những điều trình bày trên đều là chỉ dạy, như quốc sư Tuệ Trung lúc lâm chung, học nhân xin Sư một lời dạy Sư nói: Giáo lý đã có nói rõ ràng ông hãy theo đó mà tu hành thì không còn phiền lụy, ta còn nói gì nữa ? Đây là lời dặn dò ân cần chân thật đâu nên hạn cuộc nơi kiến chấp của mình sinh tâm tăng thượng mạn, chẳng nên chê bai Thánh giáo khó lường từ kim khẩu được huân tập từ tâm đại bi bất khả tư nghì cam-lộ vô thượng của Như Lai. Nói y theo đó mà tu hành là y theo chỉ thú gì ? Chẳng phải y theo văn tự ngữ cú mà tu hành, chẳng phải y theo ý nghĩa đạo lý mà tu hành, chỉ cần tự ngộ tông ấy không nên khởi vọng tưởng. Nếu người quyết định tín nhập rõ ràng tự biết cần gì người nói, nghe pháp thậm thâm như gió mát đến tai. Nay chỉ vì kẻ mê tâm tính chạy theo văn tự, phải nhờ đến phương tiện ngôn thuyên khai thị, chỉ ra tính vô sinh diệt thường trụ không khác với Phật biểu hiện tác dụng nơi sáu căn, đích thân chứng đắc biết rõ không còn mê lầm, không bị ngôn ngữ xoay chuyển, không đuổi theo dòng chảy của cảnh giới.

Ngày nay ở trong sáu căn chỉ ra hai tính thấy nghe rất rõ ràng, có thể chứng nghiệm sơ tâm, chóng vào viên thông cùng trở về Tông Cảnh. Thấy tính nghĩa là lúc đang thấy chính là tự tính, vì tính ở khắp nơi nên không thể lấy tính để thấy lại tính, hiển lộ rõ ràng không chút giấu giếm. Người xưa dạy: “Điện ma-ni có bốn góc, một góc thường lộ”. Tổ sư nói: “Con mắt phóng ánh sáng chiếu soi khắp núi sông đất đai”. Lại ca rằng: “Lúc đối trước mắt như nghìn mặt trời thì vạn tượng không thể trốn tránh bóng của nó”. Phàm phu chỉ vì chưa từng thấy sao lại tự khinh mà lui sụt, là biết dung mạo có trẻ già nhưng tính thấy chưa từng suy giảm; sáng tối tự đến đi mà linh quang không bao giờ tối, đây là ngay trong sinh diệt chỉ ra cái tính chẳng sinh diệt, mới biết ngọc báu trong áo cùng tử, hạt châu trong búi tóc của Luân Vương, vàng bạc trong nhà cô gái nghèo, vật báu trong Như Lai tạng; đâu cần suy tôn bậc Thánh, tự khinh là phàm phu, cứ mãi tìm cầu bên ngoài mà không thể tỉnh thức bên trong, uổng công nhiều kiếp trái nghịch tính linh của chính mình, ngăn trệ uổng phí hạnh môn, đánh mất chân tính sẵn có.

Do đó kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Phật bảo A-nan: Lúc ông thấy chính là ông, chẳng phải ta; tính thấy trùm khắp chẳng phải ông thì là ai ? Tại sao ông tự nghi chân tính của mình ? Tính của ông chẳng chân, chấp lấy lời nói của ta mà cầu chân thật cho nên biết sáng tối sai biệt là pháp có thể trả về”. Diệu tính chân như là môn không dời đổi, nếu theo vật quán sát thì bị hạn cuộc vào chỗ lớn nhỏ; nếu căn cứ theo tính mà thấy thì mất đi hình tròn vuông tròn của đồ vật. Thấy tính liền thành Như Lai, ở trên đầu lông lập ra mười phương cõi báu; chạy theo vật là phàm phu, trong chân không hiện ra nhà tù sáu loài. Biến đổi nơi người, một tính không khác; mê ngộ do ta, muôn pháp chẳng dời. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Vua Ba-tư-nặc đứng lên bạch Phật: Ngày xưa con chưa từng nghe lời dạy của chư Phật, chỉ nghe ngoại đạo Ca-chiên-diên Tỳ-la-chi-tử nói thân này sau khi chết là mất hẳn, gọi đó là niết-bàn, ngày nay con đã gặp được Phật mà còn hồ nghi, làm thế nào để phát huy chứng biết chỗ chẳng sinh diệt của tâm này ? Hôm nay những người hữu lậu trong đại chúng đều mong được nghe. Phật bảo Đại Vương: Thân ông hiện còn đây nay ta hỏi ông, nhục thân của ông đây có đồng với kim cương thường trụ chẳng mục nát hay là biến đổi tan rã ?

– Bạch Thế Tôn, nay thân con luôn thay đổi và cuối cùng diệt mất.

– Này đại vương, ông chưa chết làm sao biết nó hoại diệt ?

– Bạch Thế Tôn, thân vô thường biến hoại này tuy chưa từng diệt, nhưng con thấy hiện nay niệm niệm dời đổi, không bao giờ dừng nghỉ, như lửa thành tro dần dần tiêu mất, vì tiêu mất chẳng dứt nên con biết chắc thân này rồi phải diệt mất.

– Đúng thế đại vương! Ông nay đã suy yếu già cả, dung mạo của ông so với lúc còn bé như thế nào ?

– Bạch Thế Tôn, lúc còn bé thì thịt da mơn mởn, đến lúc trưởng thành khí huyết sung mãn, nay thì tuổi già suy yếu, hình sắc khô gầy, tinh thần kém sáng suốt, tóc bạc da nhăn, sống chẳng bao lâu nữa, làm sao có thể sánh với lúc còn trai trẻ.

– Này đại vương, hình dung ông lẽ ra chẳng suy tàn ngay.

– Bạch Thế Tôn, sự biến hóa thầm lặng con thực sự không biết, lạnh nóng biến đổi dần dần đến nỗi này. Vì sao ? Năm con 20 tuổi tuy gọi là niên thiếu song dung mạo đã già hơn khi con mới 10 tuổi; năm con 30 tuổi lại suy hơn lúc 20 tuổi. Và đến nay đã 62 tuổi nhìn lại lúc 50 tuổi còn khỏe mạnh. Bạch Thế Tôn, con thấy âm thầm thay đổi như thế; thân này đến nay tuy đã suy yếu, nhưng trong sự thay đổi, còn chia từng 10 năm. Nếu ta suy xét chín chắn hơn nữa thì cái biến đổi ấy đâu phải từng một kỷ, hai kỷ, thật ra thay đổi từng năm; như đâu phải từng năm mà thay đổi từng tháng từng ngày. Quán sát sâu xa, trong mỗi sát-na, trong mỗi niệm chẳng dừng, nên con biết thân con rốt cuộc phải biến đổi và diệt mất.

Phật bảo: Đại vương, ông thấy biến đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt; vậy trong lúc diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì chẳng diệt chăng ?

Vua Ba-tư-nặc chấp tay bạch Phật: Thật con không biết.

Phật bảo: Hôm nay ta chỉ cho ông cái tính không sinh diệt. Đại vương, khi ông mấy tuổi mới thấy sông Hằng ?

– Khi con ba tuổi, mẹ con dắt đi yết lễ thần Kỳ Bà Thiên thì đã đi qua sông ấy; lúc đó con biết là sông Hằng.

– Đại vương, như lời ông nói lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên mười; cho đến nay đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, niệm niệm dời đổi; vậy khi ông 3 tuổi thấy sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì sông ấy thế nào ?

– Con thấy sông ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay tuổi đã 62 cũng vẫn không khác.

– Nay ông xét mình đầu bạc da nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy cái thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng có già trẻ gì không ?

– Bạch Thế Tôn, không!

– Đại vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; nhăn là thay đổi, không nhăn là không thay đổi. Thay đổi là sinh diệt, không thay đổi là không sinh diệt, tại sao trong ấy lại nhận cái sống cái chết của ông mà ông còn dẫn thuyết của bọn Mạt-già-lê bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn.

Vua nghe lời ấy liền tin biết sau khi bỏ thân này lại thụ thân khác, cùng với đại chúng vô cùng hoan hỷ, được cái chưa từng có”.

Trong tám thức của chúng sinh, năm thức trước nhãn nhĩ tỉ thiệt thân và thức thứ tám đều duyên hiện lượng, có được tự tính của các pháp chẳng mang tất cả danh ngôn; lại không có hai thứ kế đạc phân biệt và tùy niệm phân biệt tức thì hiện tiền chẳng sinh diệt. Nếu hai thức thứ sáu và thứ bảy rơi vào tỷ lượng, phi lượng và có đủ kế đạc và tùy niệm phân biệt thì niệm niệm thường sinh diệt, cũng là ở trong sinh diệt có tính chẳng sinh diệt. Văn kinh nói trên là nhân vua Ba-tư-nặc trình bày điều nghi, nhờ đức Phật phá trừ đoạn kiến của ngoại đạo, do đây phân biệt hai tính sinh diệt và chẳng sinh diệt. Nếu là người thấy tính chẳng còn chấp đoạn thường thì tám thức tâm vương đồng một chân tính, đều là thật tướng không có sinh diệt. Như luận Đại Trí Độ nói: “Nên biết lúc sắc sinh chỉ là không sinh, lúc sắc diệt chỉ là không diệt”. Luận Trung Quán có kệ:

Không vật từ duyên khởi
Không vật từ duyên diệt
Khởi chỉ là duyên khởi
Diệt chỉ là duyên diệt.

Cho nên biết muôn pháp đã chẳng từ duyên sinh cũng chẳng phi duyên sinh và chẳng không cũng chẳng sinh; không cũng chẳng sinh. Vì sao ? Nếu tất cả pháp chẳng không thì không có sinh; vì rỗng không chẳng có tự tính nên mới có thể tùy duyên tạo thành những hiện hữu hư dối. Nếu tất cả pháp không thì cũng không có sinh; vì không có tự thể nên không có tướng sinh. Đã không có sinh thì cũng không có diệt.

Như luận có kệ:

Quả chẳng không chẳng sinh,
Quả chẳng không chẳng diệt.
Vì quả ấy chẳng không
Nên chẳng sinh chẳng diệt
Quả không nên chẳng sinh,
Quả không nên chẳng diệt.
Vì quả ấy là không,
Nên chẳng sinh chẳng diệt.

Chỉ vì tùy tâm hiện bày, rốt ráo không sinh. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Phật bảo: Này thiện nam, ta thường nói: sắc, tâm, các duyên và các tâm sở, các pháp sở duyên đều là duy tâm biến hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra trong diệu tâm chân tinh diệu minh, tại sao các ông lại đánh mất tâm tính nhiệm mầu quí báu sẵn có, nhận mê trong ngộ. Mê muội thành có hư không, trong hư không mê muội ấy kết cái tối tăm thành ra có sắc; sắc xen với vọng tưởng; tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay động bên trong; dong ruổi theo cảnh vật bên ngoài; lấy cái tướng mờ mịt thác loạn đó làm tâm tính. Một khi lầm cái tướng ấy làm tâm thì quyết định lầm cho rằng tâm ở trong sắc thân, mà chẳng biết sắc thân cho đến núi sông, hư không, đất liền bên ngoài đều là những vật trong chân tâm sáng suốt nhiệm mầu; ví như bỏ cả trăm nghìn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một hòn bọt cho nó là toàn hết cả nước, cùng tột các biển lớn. Các ông chính là những người mê lầm nhiều lớp, như cánh tay ta giơ lên và hạ xuống không có gì sai khác. Như Lai gọi là những kẻ đáng thương xót”.

Tính thấy trong lặng trùm khắp như gương sáng, như hư không chẳng động mọi vật tự ẩn hiển, một tính chưa từng đến đi, chỉ tùy duyên sinh diệt, bỏ mất cái tính diệu minh ấy. Thế nên tất cả Tổ giáo đều chỉ rõ thấy tính biết tâm, chẳng sinh từ sinh nhân, chỉ thấu rõ từ liễu nhân; tướng thô dễ thấy, tính sâu kín khó biết; theo chỗ chuyển động mà chẳng biết, ngay lúc chiếu soi mới thấy rõ ràng. Ngày nay chẳng thấy được là do bị ba thứ hoặc che, tâm bị cảnh sáu trần chi phối, chẳng biết cảnh vốn là ta, trở thành chủ bị khách mê hoặc; chỉ cần có thể theo dòng mà được tính thì tự nhiên không còn mê hoặc.

Lại có người nói: Bát-nhã chỉ đem tâm thần khế hội, lấy tâm truyền tâm mới thành giao phó bí mật; không thể dùng ngôn ngữ, sự tướng tìm cầu. Đây là những người chưa thể nhập hiển tông phá chấp, vì sợ chấp tướng, trái tâm, tình cầu, ý giải nên mới nói như thế này.

Nếu luận về sự dung hội thì tùy duyên thể diệu, tức tướng hằng chân. Lại như lúc đang thấy tướng thì ai thấy tướng. Do sáu trần ù lì nên danh không tự lập, tướng chẳng tự bày; vì sáu căn lanh lợi nên miễn cưỡng tự lập làm duyên đối đãi. Nếu có thể rõ cảnh vốn tịch, thức tự không sinh thì vào nơi chân không bình đẳng mới gọi là tính thấy rốt ráo. Cho nên nói tính thấy cùng khắp, chẳng phải là ông thì là ai ?

Tính nghe có đủ ba thứ chân thật, ngài Văn-thù lựa chọn hiện chứng có thể biết, ngài Quán Âm vào môn viên thông có thể nghiệm, đây chẳng phải do tu hành mà được, chẳng rơi vào hữu vi, đâu nhờ công phu mới thành, xưa nay như thế.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm có kệ:

Ví như có người trong yên lặng
Chung quanh mười phương đều đánh trống,
Cùng lúc nghe khắp cả mười nơi
Như thế mới là viên chân thật.
Mắt bị ngăn che chẳng thấy được
Thiệt căn, tỷ căn cũng như vậy
Thân cân, lúc hợp mới biết xúc
Ý căn phân vân không manh mối
Cách tường nhĩ căn vẫn nghe tiếng
Dù xa hay gần đều nghe rõ
Năm căn so sánh thật chẳng đồng
Như thế mới là thông chân thật.
Tính thinh trần có động, có tĩnh
Trong tính nghe thành có, thành không
Khi không tiếng gọi là không nghe,
Đâu phải thật không có tính nghe;
Không tiếng, tính nghe đã không diệt,
Có tiếng, tính nghe đâu phải sinh;
Trọn lìa cả hai thứ sinh diệt,
Như thế mới là thường chân thật.

Giải thích: Đây là nói về lý ba thứ chân thật của tính nghe mà tất cả chúng sinh hằng ngày sử dụng, đó là viên chân thật, thông chân thật, thường chân thật.

1- Viên chân thật, vì tính nghe cùng khắp mọi nơi, thinh trần mười phương khi dội lại không có trước sau; vì đồng thời cùng khắp tất cả nên thảy đều không ngoài tự tính, như nước dậy sóng, sóng không lìa nước. Vì thinh trần toàn là tính nghe, ngoài tính nghe không có pháp chính là tính nghe sẵn có, tự đầy đủ tính viên thông, không phải đợi chứng Thánh mới có việc này. Cho nên kinh Pháp Hoa có kệ:

Tai do cha mẹ sinh,
Thanh tịnh không tỳ vết
Với tai thường nghe này
Nghe khắp cả tam thiên.

Lại nói:

Người trì kinh Pháp Hoa,
Tuy chưa được thiên nhĩ,
Chỉ dùng tai bình thường
Công đức đã như thế.

2- Thông chân thật, tính thấy của nhãn căn tuy thông suốt, song chỉ thấy phía trước mà không thấy phía sau. Tỷ căn, thiệt căn, thân căn đều nhờ hợp mới biết, nhân năng sở mà sinh khởi. Chỗ duyên của ý căn bất định luôn luôn dời đổi nên năm căn không thể sánh bằng, chỉ có nhĩ căn viên thông vô ngại. Lúc nghe tiếng vang, mặc cho ngăn ngại mà xa gần đều nghe được; lúc diệu ứng, không lựa lớn nhỏ đều đầy đủ. Cho nên Cao Thành Hòa Thượng Ca ghi:

Âm thanh đến tai dù lớn nhỏ,
Hang vắng sâu kín cũng vẫn nghe,
Mười phương tiếng trống đồng thời trổi,
Linh quang xoay chuyển thường tương tục;
Nơi phàm thân chẳng giảm,
Tại Thánh thể chẳng tăng;
Thường hiện thường thông, trần lao chẳng phủ lấp thần thái;
Không gián không đoạn, thiên ma chẳng che mờ uy quang;
Không hủy hoại nhĩ căn duyên sinh,
Trọn đầy đủ diệu tính nhất linh.

3- Thường chân thật, âm thanh có động có tĩnh, động tĩnh là thể của âm thanh, nên trong tính nghe lúc có tiếng lúc không tiếng. Nếu lúc không có tiếng gọi là không nghe, không phải cái nghe không có tính, vì tính nghe thường còn. Nếu tính nghe theo thanh trần diệt mất thì khi âm thanh trước diệt, âm thanh sau chưa hợp nhưng vẫn nghe, cho nên biết thanh trần tự không, tính nghe chẳng diệt; thanh trần tự có, tính nghe chẳng sinh. Lại chẳng những tính nghe không sinh mà quán trở lại thanh trần cũng không sinh diệt, vì theo duyên khởi tự thể hoàn toàn không. Như luận Hoa Nghiêm nói: “Tất cả pháp giống như tiếng vang trong hang vắng”.

Lăng Nghiêm Sớ Sao ghi: “Như trong hang không có tiếng, không tiếng thì không vang; trong pháp giới đều không có âm thanh, tất cả âm thanh đều là vọng tâm. Lúc vọng tâm chẳng động đều không vọng tưởng, vì có tâm sai biệt chấp thụ liền có âm thanh. Bốn đại như cây khô là vốn không âm thanh, đều là duyên chấp, cho nên các đại Bồ-tát không dùng âm thanh nghe pháp, vì biết thanh trần vốn không đều do chấp trước mà có; tình tiêu chấp hết, muôn pháp vốn hư dối; hữu vô đã hư dối thì làm sao có sinh diệt ? Vì vậy biết tính của mình không khác tính Như Lai, vì tất cả pháp thế gian chính là Phật pháp”. Kinh nói: “Pháp này trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ”. Như Kiều Trần Na nhân tiếng mà ngộ đạo được diệu âm mật viên.

Người xưa giải thích: Nếu có năng sở thì chưa được gọi là thầm ngộ lý tứ đế, xét năng văn và sở văn đều là tự tâm. Tâm là bản giác chiếu khắp pháp giới, trí tâm thỉ giác cũng chiếu khắp pháp giới, tức là nhân âm thanh được ngộ, tất cả chúng sinh y theo pháp quán này cũng được giải thoát. Nếu nghe âm thanh vừa ý, không vừa ý sinh yêu ghét, liền bị âm thanh trói buộc. Chỉ cần quán trong biển tâm là chỗ phát ra của âm thanh, vì biển tâm vốn không có tướng; tâm tuy bao gồm âm thanh song âm thanh cũng không có tướng. Không có tướng thì ở trong tất cả âm thanh được giải thoát. Cho nên biết không pháp nào chẳng phải tâm, không tâm nào chẳng phải pháp. Thông đạt như thế thì đối với tất cả pháp không hợp, không tan, không trói, không mở.

Vì thế đức Phật bảo A-nan: Ông học rộng, đa văn nhưng chưa sạch hết các lậu hoặc, trong tâm chỉ biết cái nhân điên đảo mà cái chân điên đảo hiện tiền thật chưa biết, e ông thành tâm còn chưa tin phục. Nay ta thử đem những việc trần tục để trừ cái nghi của ông.

Bấy giờ, Như Lai bảo La-hầu-la đánh một tiếng chuông, rồi hỏi A-nan:

– Ông có nghe chăng ?

A-nan và đại chúng đều nói:

– Có nghe.

Dứt tiếng chuông, Phật lại hỏi:

– Ông có nghe chăng ?

A-nan và đại chúng đều đáp:

– Không nghe.

Khi đó, La-hầu-la lại đánh một tiếng chuông, Phật lại hỏi:

– Ông có nghe chăng ?

A-nan và đại chúng đều đáp:

– Có nghe.

Phật hỏi A-nan:

– Thế nào thì ông có nghe, thế nào thì ông không nghe ?

A-nan và đại chúng đều bạch Phật:

– Tiếng chuông nếu đánh lên thì chúng con được nghe; sau đó tiếng chuông dứt, âm vang bặt thì gọi là không nghe.

Như Lai lại bảo La-hầu-la đánh chuông, rồi hỏi A-nan:

– Hiện giờ có âm thanh chăng ?

A-nan thưa:

– Có âm thanh.

Chốc lát âm thanh nhỏ dần rồi dứt, Phật lại hỏi:

– Bây giờ có âm thanh không ?

A-nan và đại chúng đều nói:

– Không âm thanh.

Lát sau, La-hầu-la lại đánh chuông, Phật lại hỏi:

– Bây giờ có âm thanh không ?

A-nan và đại chúng đều nói:

– Có âm thanh.

Phật hỏi A-nan:

– Thế nào là có âm thanh, thế nào là không âm thanh ?

A-nan và đại chúng đều bạch Phật:

– Tiếng chuông nếu đánh lên thì gọi là có âm thanh hồi lâu âm thanh dứt, tiếng vang bặt thì gọi là không âm thanh.

Phật bảo A-nan và đại chúng:

– Hôm nay tại sao các ông nói năng lộn lạo ?

Đại chúng và A-nan đồng thời bạch Phật:

– Tại sao Phật bảo chúng con nói năng lộn lạo ?

Phật dạy:

– Ta hỏi ông về nghe thì ông nói là nghe; ta hỏi về âm thanh thì ông nói là âm thanh, chỉ cái nghe và âm thanh mà ông trả lời không rõ ràng, sao lại không gọi là nói năng lộn lạo ? A-nan, âm thanh tan mất không còn tiếng vang, ông gọi là không nghe; nếu thật không nghe thì tính nghe đã diệt mất như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên, làm sao ông biết được! Biết có biết không là tự thanh trần hoặc không, hoặc có, đâu phải tính nghe ấy vì ông mà có, không; nếu tính nghe thật là không thì ai biết là không.

Vì thế A-nan, âm thanh ở trong cái nghe tự có sinh, diệt, chẳng phải vì ông nghe âm thanh sinh diệt làm cho tính nghe của ông thành có, thành không. Ông còn lộn lạo lầm âm thanh làm cái nghe, sao lắm mê mờ lấy cái thường làm cái đoạn. Tóm lại, ông không nên nói rằng lìa các thứ động tĩnh, bế tắc, khai thông thì cái nghe không có tính.

Như người ngủ mê trên giường, lúc ấy trong nhà có người dùng chày giã gạo; người ngủ chiêm bao nghe âm thanh ấy cho là tiếng trống hoặc đánh chuông. Trong chiêm bao người ấy tự lấy làm lạ tiếng chuông lại vang lên như cây, như đá. Khi chợt tỉnh dậy liền nghe tiếng chày, thì người ấy tự bảo người nhà rằng chính trong lúc chiêm bao, tôi đã lầm tiếng chày này là tiếng trống. A-nan, người ấy trong chiêm bao, đâu nhớ những việc động tĩnh, bế tắc, khai thông; người này tuy ngủ nhưng tính nghe không mờ. Cho dù thân ông tiêu tan, sinh mạng dời đổi diệt mất, nhưng làm sao tính nghe vì ông mà tiêu mất”.

Lăng Nghiêm Sớ ghi: “Đánh chuông để biện biệt chân vọng, ngay tính nghe nhận ra chân thật, nêu thinh trần để biết rõ vọng. Nếu nhân âm thanh mà có nghe, cái nghe này chẳng lìa âm thanh. Nếu lìa âm thanh mà có nghe, đây là cái nghe chân thật. Hôm nay ông chỉ chấp cái nghe theo âm thanh, cái nghe này chẳng lìa âm thanh thì hợp lại là âm thanh hay chẳng hợp lại là âm thanh ? Nếu là tính nghe chân thật như nước chẳng diệt thanh trần, như gió thổi nước dậy sóng, nên có tướng nghe; thinh trần chẳng khởi, tướng nghe liền không, mà tính nghe chẳng diệt. Vì tính chẳng diệt nên thinh trần trở lại có tướng nghe, như nước chẳng diệt, lúc gió thổi liền có tướng sóng; như tính của sắc cùng khắp mười phương, tùy tâm cảm hiện thì có tướng sắc, tính nghe cũng như thế. Cho nên biết chẳng nhận tính nghe tự thể hằng thường mà lại chạy theo tướng nghe của thanh trần sinh diệt, sẽ vui buồn khi nghe khen chê; vì mê tính nghe sẵn có nên theo âm thanh lưu chuyển. Văn-thù nói:

Do chúng sinh quên mất tính nghe,
Theo thanh trần nên bị lưu chuyển;
A-nan tuy có tính nhớ dai,
Vẫn không khỏi rơi vào tà niệm;
Đâu không phải tùy chỗ chìm đắm,
Xoay ngược dòng thoát khỏi hư vọng.

Lại nói:

Hãy xoay lại cái nghe điên đảo.
Xoay cái nghe về nghe tự tính,
Nhận tự tính thành đạo vô thượng
Thật tính viên thông là như thế.

Nay cho âm thanh là tính nghe, bỏ tâm theo cảnh đâu không phải là cái nghe điên đảo ? Nếu có thể xoay chuyển thinh trần, trở lại tính nghe thoát khỏi hư vọng đây là xoay cái nghe về nghe tự tính, được gốc về nguồn, bên trong dứt căn bị che lấp, bên ngoài tiêu trần cảnh, năng sở đã hết, bản giác đạo thành, tịch chiếu viên thông chân thật như thế.

Do đó Phật bảo A-nan: Vì các chúng sinh từ vô thỉ đến nay chạy theo sắc thinh, theo niệm lưu chuyển, chưa từng khai ngộ tính tịnh diệu thường; không theo chân thường mà theo sinh diệt, do đó đời đời bị tạp nhiễm lưu chuyển. Nếu vứt bỏ sinh diệt giữ lấy chân thường thì ánh sáng chân thường hiện tiền, căn trần thức tâm tức thì tiêu mất. Tưởng tướng là trần, thức tình là cấu; xa lìa hai thứ này, pháp nhãn của ông liền được trong sáng, làm sao không thành vô thượng Chính giác. Thế nên nếu thấu rõ tính nghe liền thành Chính giác, khi ấy tâm cảnh cùng tiêu, động tĩnh đều mất. Như Quán Âm nói: “Đức Phật dạy tôi từ văn tư tu vào tam-ma-dịa. Ban đầu, ở trong tính nghe, vào được dòng viên thông không còn tướng sở văn nữa. Sở nhập đã lặng thì hai tướng động tĩnh rõ ràng không sinh. Như vậy tăng dần, các tướng năng văn, sở văn đều hết. Không dừng lại chỗ dứt hết năng văn, sở văn mà tiến lên nữa thì năng giác, sở giác đều không. Không giác tột bậc viên mãn, các tướng năng không sở không đều diệt. Sinh diệt đã diệt thì bản tính tịch diệt hiện tiền, bỗng nhiên vượt ngoài thế gian và xuất thế gian, sáng suốt cùng khắp mười phương, được hai pháp thù thắng: một là trên hợp với bản giác diệu tâm mười phương chư Phật, cùng với chư Phật Như Lai đồng một từ lực; hai là dưới hợp với tất cả chúng sinh lục đạo mười phương, cùng với các chúng sinh đồng một bi ngưỡng”.

Thế nên ban đầu từ tính nghe vào viên thông, trước tiên không còn thinh trần động tĩnh; kế đến không còn tâm năng văn, sở văn. Tâm cảnh đã không còn cũng chẳng trụ nơi không tâm cảnh và trí năng giác, sở giác thì giác trí đều không. Cái không này cũng không mới thành viên giác, cho nên nói không giác tột bậc viên mãn, các tướng năng không sở không đều diệt. Dứt sạch cội nguồn sinh diệt, đạt đến chỗ bản giác diệu tâm tịch diệt.

Như luận Khởi Tín nói: “Tất cả pháp đều do vọng niệm mà có sai biệt”; nếu lìa vọng niệm thì không có tướng cảnh giới sai biệt, cho nên biết vọng niệm không thì căn cảnh cũng mất; thức tưởng tiêu trần cấu lặng thì pháp nhãn liền trong sáng, ánh sáng chân thường rõ ràng hiển hiện; bản tính thấy nghe đã vậy, sự biểu hiện của các căn cũng thế. Cho nên kinh nói: “Sáu vị vua tự tại thường thanh tịnh”.

Lại kinh Thủ Lăng Nghiêm có kệ:

Một căn đã về nguồn,
Sáu căn được giải thoát.
Thấy nghe như huyễn hóa,
Ba cõi như không hoa
Xoay trở lại tính nghe
Trừ bệnh lòa nơi căn
Trần tiêu, giác viên tịnh.
Tột tịnh, trí thông đạt,
Tịch chiếu khắp hư không,
Trở lại xem thế gian
Như việc trong chiêm bao.

Chỉ vì chưa giác ngộ nên từ trước ở trong nhiễm tịnh, có chút thấy nghe lấy bỏ thì phải ở trong giấc mộng sinh tử đêm dài vô minh; vừa được thấy tính liền đồng Chính giác, tự giác giác tha nên gọi là Phật.

Lại tính của tự tâm này cùng khắp mọi nơi, tùy chỗ được vào viên thông, chẳng phải riêng do thấy nghe; hoặc ý tiêu hương giới mà vào viên thông; hoặc tâm khai trần cảnh mà chứng pháp nhẫn; hoặc nhập thủy quán mà đạt tính; hoặc xem xét sức gió mà ngộ tông; hoặc bị châm chích đau đớn mà giác ngộ về thân; hoặc thấu rõ tâm không bờ mé mà nhập tri kiến Phật; hoặc quán noãn xúc thành tựu hỏa quang tam-muội; hoặc diễn pháp âm hàng phục ma oán. Đang lúc đại ngộ hoàn toàn chẳng thấy có một cảnh để sinh, một lời để chấp. Nay chỉ vì người mê tâm tính theo văn tự, bỏ tâm cầu đạo phải nhờ ngôn thuyết chỉ cho trở về tự tâm. Từ đây chú trọng nội quán dẹp bỏ ngôn thuyết nghiên cứu lý lẽ, đây nào chẳng phải từ lời ngộ đạo, nhờ giáo rõ tông. Vì những lợi ích này khiến người mới học tin rằng có chỗ quy hướng liền có thể chấm dứt sự tìm cầu bên ngoài, trở lại soi sáng chính mình, thấy ngay tự tâm rõ ràng sáng suốt như đang uống đề-hồ, mở toang kho báu mới biết cái lỗi chạy theo ngôn ngữ, mới thẹn sự mê lầm trái tự kỷ, cho nên A-nan v.v… nhân Thế Tôn sau khi khai thị tự tính, ngài bèn vui mừng nói kệ:

Tiêu tưởng điên đảo trong ức kiếp
Chẳng trải tăng-kỳ được pháp thân.

Vì thế có thể không động trần lao mà hiện thân thành Phật, lời dạy chư Phật có năng lực bất khả tư nghì như thế, vì là pháp lợi ích rộng lớn vô biên, do đó trích dẫn đầy đủ lời Phật để làm chứng, tại sao lại có những lời chê trách trái tự kỷ ? Nếu chẳng chịu quán tâm nội chứng thì các vị pháp sư, luật sư, thiền sư đều có mười lỗi. Như kinh Tượng Pháp Quyết Nghi nói: Ba loại sư phá hoại Phật pháp, đại khái đều có mười lỗi:

I- Mười lỗi của pháp sư:

1- Chỉ cầu hiểu biết văn tự bên ngoài mà không chịu nội quán tu tâm. Thích luận nói: Có tài biện luận mà không trí tuệ thì lời nói của mình không ai tiếp nhận.

2- Chẳng dung thông kinh điển, chẳng dứt tranh cãi về đạo, mình phải người quấy, ngã mạn tự cao, người này chẳng thấy tâm, chẳng biết khổ tập.

3- Không tuân theo di chúc, không y theo niệm xứ tu đạo, không gìn giữ giới luật, không phải đệ tử Phật.

4- Kinh nói: Không có thiền thì không có tuệ, nghiêng về tuệ không có thiền như chim một cánh, xe một bánh làm sao có thể đi xa ?

5- Pháp vốn không có nói năng, nói năng để phá trừ tham cầu danh lợi, tuyên nói nhiều làm sao lĩnh hội ý Phật ?

6- Quí việc tai vào miệng ra, nào có ích lợi gì cho mình. Kinh nói: Như người đếm của báu kẻ khác chính mình chẳng được nửa tiền.

7- Không tu hành mà giảng nói lợi ích gì cho người.

8- Lại như sữa pha nhiều nước là giáo thuyết thiếu đạo lý, làm mê lầm người sau.

9- Bốn chúng đánh mất pháp lợi chân thật sẽ phân ly tứ tán.

10- Không những không thể hiển dương Phật pháp mà còn phá hoại Phật pháp.

II- Mười lỗi của thiền sư:

1- Kinh nói: Giả danh a-lan-nhã (chùa), mặc áo vá ở nơi vắng vẻ tự cho rằng tu hành chân đạo, thích nói lỗi của mình.

2- Ỷ vào sự tu hành ức hiếp người khác, chẳng biết giới thủ, khổ tập phiền não.

3- Không tuệ tu định, thiền mù không mắt làm sao ra khỏi sinh tử.

4- Chẳng tuân lời Phật dạy, chẳng y theo niệm xứ tu đạo, chẳng gìn giữ giới luật, chẳng phải là đệ tử Phật.

5- Thiền không có tuệ phần nhiều phát định của quỉ, sống phá hoại Phật pháp, chết đọa vào loài quỉ.

6- Vì danh lợi tọa thiền, như Phiến-đề-la chết đọa địa ngục.

7- Dù chứng được thiền nhưng chỉ sinh vào cõi trời Trường Thọ.

8- Như nước với sữa, thiền và giáo trao truyền cho người học đạo tiếp nối chủng tử tam đồ.

9- Bốn chúng không thể thấm nhuần chân pháp phân ly tứ tán.

10- Chẳng những không hiển dương Tam bảo mà còn phá hoại Phật pháp.

III- Mười lỗi của luật sư:

1- Chỉ chấp ngoại luật, chẳng biết nội giới, nên bị ngài Tịnh Danh quở trách.

2- Chấp danh tướng của luật nghi, tranh chấp thị phi, chẳng thấy tâm, chẳng biết khổ tập.

3- Nhờ giới định tuệ hổ trợ nhau mới có thể tiến đạo, chỉ có giới luật mà không có tuệ, không có thiền thì làm sao tiến đạo ?

4- Chỉ trọng danh dự, chứ không nghĩ đến đạo, chịu quả báo nơi tam đồ.

5- Chẳng tuân lời Phật dạy, chẳng y theo niệm xứ tu đạo, chẳng gìn giữ giới luật.

6- Chấp phương tiện giới luật của Tiểu giáo cho là chính lý mà chướng đại đạo.

7- Mỗi sư chấp vào luật nên sự hoằng hóa bất đồng như sữa thêm nhiều nước.

8- Chẳng truyền trao theo Thánh giáo, làm sai lầm người sau.

9- Bốn chúng chẳng thấm nhuần chân pháp phân ly tứ tán.

10- Chẳng những không hiển dương Tam bảo mà còn phá hoại Phật pháp.

Như vậy, nếu chẳng quán tâm thì có đủ các lỗi lớn như trên.

Như luận Đại Trí Độ nói: “Muốn bố thí thức ăn không uổng phí, Bồ-tát ma-ha-tát cần phải học bát-nhã ba-la-mật”. Lại kinh Bảo Lương nói: “Nếu người tu học Phật pháp Đại thừa, nhận thức ăn của thí chủ như núi Tu-di, nhận áo quần của thí chủ như đại địa, chẳng bằng những người học đạo tuy chưa vào hàng Tăng chúng mà mười phương không ai dám chê bai”. Kinh Duy-ma cũng nói: “Kính việc học như kính thầy”; vừa khởi tâm học tập liền có phần của trời người; có người nghe một câu Tông Cảnh quyết định thành Phật không nghi. Cho nên kinh Pháp Hoa nói:

Có người nghe pháp này
Không ai chẳng thành Phật;
Chỉ trừ người chưa nghe
Người mù quáng không tin.

Nếu người đã nghe đều là do nhân duyên trước kia, đã nhận được hạt châu trong chéo áo, đã từng gặp Phật, không được buông lung, nên để tâm tìm tòi, chợt gặp nhân duyên sẽ được rỗng rang vô sở đắc.

Do đó luận Du-già nói: “Chẳng trì hoãn trong việc tu gia hạnh và như thế càng dùng mãnh tinh tiến, nói rằng nay tôi quyết định phải tu chứng; không nên xem thường sự chứng đắc và hoãn đãi, vì sao ? Ta có nhiều nhân duyên hoạnh tử, như là ngay trong thân thể hoặc bị gió, hoặc bị nóng, hoặc bị đàm phát động, hoặc do ăn uống không điều độ làm tiêu hóa ứ đọng trong thân hoặc bệnh do thức ăn cách đêm, hoặc bị trùng độc rắn rít, bò cạp, sâu bọ bên ngoài làm hại, hoặc bị nhân, phi nhân khủng bố, do đây mà chết yểu. Đối với những cái chết ấy, luôn tư duy, tu quán tưởng vô thường, sống không buông lung. Do không buông lung nên luôn tự tư duy thọ mạng của mình trải qua bảy ngày, sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một ngày, một giờ, nửa giờ, trong chốc lát, trong khoảng bữa ăn, hoặc trong một hơi thở. Cho đến lúc còn sống trải qua những thời gian như thế y theo Thánh giáo siêng năng tác ý tu tập Du-già; cũng như lúc sắp chết trải qua những thời gian như thế ta sẽ quyết định làm y theo Thánh giáo, đây gọi là chẳng trì hoãn việc tu gia hạnh”.

Hỏi: Nghĩa học phần nhiều được người ta thích nghe thích đọc, thiền tông chỉ chuyên nội quán, nhưng hai môn giáo quán không thể thiếu một môn. Nếu chỉ quán tâm mà không tìm hiểu giáo lý thì rơi vào sự ngu si thượng mạn ám chứng; nếu chỉ tìm hiểu giáo lý mà không quán tâm thì bị chê trách chỉ biết đếm của báu cho người; người không thông đạt thì bị thị phi vây quanh, nay bộ Tông Cảnh Lục sưu tìm đầy đủ nghĩa lý của giáo và thiền, xin vui lòng phân tích tỉ mỉ để quyết nghi cho ?

Đáp: Giáo quán khó hiểu, cần phải chia làm bốn câu:

1- Giáo môn chẳng phải lý môn: Giáo là năng thông, lý là sở thông, vì năng sở khác nhau.

2- Lý môn chẳng phải giáo môn: vì ta nghe nói trong sự giải thoát không có ngôn thuyết.

3- Giáo môn tức lý môn: Vì văn tự tức là giải thoát.

4- Lý môn tức giáo môn: Vì giải thoát tức là văn tự.

Lại đem môn đối lại giáo, phân biệt bốn câu:

1- Được giáo chẳng được môn, đây là pháp sư văn tự.

2- Được môn chẳng được giáo, đây là thiền sư quán tuệ.

3- Được môn lại được giáo, đây là pháp sư văn tuệ.

4- Môn giáo đều không được, đây là a-lan-nhã giả danh.

Hoặc tùy theo lời nói phương tiện thì chấp quyền hại thật; nếu đạt được giáo lý viên đốn thì liễu thật khai quyền. Chấp quyền thì giáo quán phân hai, liễu thật thì nhân pháp chỉ là một. Nhân pháp chỉ là một thì cảnh trí cùng hợp; giáo quán phân hai thì tín pháp đều hiện. Tín pháp đều hiện thì có quán có nghe; cảnh trí cùng hợp thì không trong không ngoài. Đây là tùy theo căn cơ lợi độn mà có khai già.

Nếu có thể đạt được ý chỉ viên dung tự không lấy bỏ thì trần trần hợp đạo, tín hạnh đồng với pháp hạnh; niệm niệm quy tông, giáo môn đồng với quán môn. Như thế thì không có một tâm để chiếu, còn ai chấp quán môn ? Không có một pháp để nghe thì ai luận giáo đạo ? Vừa vào Tông Cảnh liền được tương ưng, chưa đạt môn này trọn thành cách ngại.

Lại trong giáo nói có hai loại người tu hành: một là tín hành, hai là pháp hành. Tát-bà-đa nói rằng hai hạng người này ở vị kiến đạo; nhân nghe mà vào gọi là tín hành; nhân tư duy mà vào gọi là pháp hành.

Đàm Vô Đức nói: “Địa vị tại phương tiện, tự mình thấy pháp thì ít, nhờ vào sức nghe thì nhiều, sau đó cần phải nghe pháp được tỏ ngộ, gọi là tín hành. Dựa vào sức nghe thì ít, tự mình thấy pháp thì nhiều, sau đó cần phải tư duy được tỏ ngộ gọi là pháp hành”.

Chỉ Quán nói: “Nếu luận về lợi độn, pháp hành lanh lợi, vì tự quán pháp bên trong; tín hành chậm lụt vì được nghe người khác. Lại tín hành lanh lợi, vì một khi nghe liền ngộ; pháp hành chậm lụt, vì trải qua quán sát các pháp. Hoặc đều lanh lợi, hoặc đều chậm lụt; người tín hành thì văn tuệ lanh lợi, tu tuệ chậm lụt; người pháp hành thì tu tuệ lanh lợi, văn tuệ chậm lụt”.

Trên đây căn cứ theo lời nói của ba sư tự nhiên không thể thiên chấp; quán tâm cùng giáo đạo ắt phải căn cứ vào sự học hỏi và tọa thiền. Ngày nay nếu được nhất tâm mọi điều tà đều dứt thì tâm nào chẳng phải giáo; nếu một nghe nghìn ngộ được đại tổng trì thì giáo nào chẳng phải tâm. Giáo nào chẳng phải tâm thì ngoài tâm không có pháp; tâm nào chẳng phải giáo thì ngoài pháp không có tâm.

Lại theo đại sư Trí Giả, đối với hai hạng người pháp hành đem chỉ quán an tâm, tùy theo ý nghĩa bốn loại tất-dàn phù hợp căn cơ khiến cho họ vào đạo, sư liền hỏi: Đối với định tuệ, ý ông thế nào ? Người kia nếu nói: Con nghe Phật dạy này thiện tri thức, như vầng trăng dằn dằn tròn sáng, như bậc thềm từng nấc lên cao, lời nói khéo chuyển hóa tâm người nhân duyên lớn đắc đạo, ý chí mong mỏi như người khát được uống, như nghé chạy theo trâu mẹ, nên biết đây là người tín hành. Nếu nói: Con nghe Phật dạy, như gương sáng bất động sắc tượng hiện rõ ràng, nước trong không sóng tôm cá đều tự hiện, thích bỏ ác giác như bỏ gánh nặng, nên biết đây là người pháp hành. Đã biết căn tính thì chỗ tám lần an tâm đối với một người như sau: Ôi, thiện nam, từ vô lượng kiếp đến nay uống thuốc độc điên cuồng nên chạy theo năm trần, lên xuống ba cõi, cũng như cơn gió mạnh thổi cây dương liễu, như hạt đậu lặn hụp trong vạc sôi lửa bỏng; từ khổ đến não, từ não đến khổ, sao chẳng dứt tâm trở về gốc khiến ý chuyên nhất. Ý đã chuyên nhất thì việc gì chẳng xong; khổ tập đắc nhất chẳng còn luân hồi; vô minh đắc nhất chẳng còn tu hành, cho đến chẳng còn lão, tử, bẽ gảy đại thụ, cuối cùng không còn mọc nữa; bát tệ đắc nhất vượt qua bờ kia; chỉ có việc này là thích thú. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, thí dụ đều khen ngợi pháp chỉ khiến được hoan hỉ, đây gọi là tùy theo sự ưa thích dùng chỉ để an tâm.

Lại nữa thiện nam, như thiên tai hạn hán sông hồ cạn kiệt, cây cỏ cháy khô, vạn vật xơ xác; long vương Sa-già-la bảy ngày tụ mây, bốn phương trút mưa, đất đai thắm ướt, tất cả hạt giống nảy mầm, tất cả cây cối đâm chồi, tất cả cành lá tươi tốt, tất cả hoa quả đươm đầy; con người cũng như thế, vì phóng dật nên phải thụ sinh, đã không tạo thêm điều thiện mà còn thối thất, sông thiền định khô cạn, cây đạo phẩm rũ chết, muôn điều thiện cháy tiêu, trăm phước tàn tạ, hoa trái đạo quả không thể chín muồi. Nếu có thể ở nơi yên tĩnh chuyên tâm nhất ý, trong không ra, ngoài chẳng vào, tĩnh lặng vô cùng phát sinh thiền định, đây là tuôn mưa thì ắt được rừng công đức, phương tiện noãn, đỉnh, nhãn trí minh giác, tín nhẫn, thuận nhẫn, vô sinh nhẫn, tịch diệt nhẫn cho đến bồ-đề vô thượng đều chắc chắn đạt được. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi pháp chỉ sinh ra thiện căn, đây gọi là tùy tiện nghi dùng chỉ để an tâm.

Lại nữa thiện nam, tâm tán loạn là ác trong ác, như voi say không người câu thúc giẫm nát vườn tược, như lạc đà làm đổ hàng hóa chở trên lưng, nhanh như ánh chớp, độc như lưỡi rắn, bụi dày nhiều lớp che khuất ánh sáng mặt trời dù ở gần hay ở xa đều không thể thấy. Nếu có thể tu định, như ánh đèn xua tan bóng tối trong nhà kín; dùng kim vàng lể mắt thì thấy hư không sắc tướng rõ ràng. Mưa lớn quét sạch bụi nhơ, đại định làm lặng cuồng dật, chỉ có thể phá tan hư vọng. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi pháp chỉ, dẹp trừ hôn trầm, tán loạn, đây gọi là đối trị dùng chỉ để an tâm.

Lại nữa thiện nam, nếu tâm nơi định có thể biết pháp tướng sinh diệt của thế gian, cũng biết pháp tướng chẳng sinh, chẳng diệt của xuất thế gian. Như Lai thành đạo vẫn thích định huống là phàm phu có thiền định như ban đêm thấy ánh chớp liền thấy đường đi, tránh được nhiều tai họa, cho đến được thành nhất thiết chủng trí. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi pháp chỉ, liền thể hội chân như, đây gọi là theo đệ nhất nghĩa dùng chỉ để an tâm.

Nếu người ấy nói ta nghe nói tịch diệt mà không để trong lòng; nghe nói phân biệt liền tiếp nhận không chán lìa nên nói ba đường ác thiêu đốt, lừa ngựa chở nặng khổ sở, ngạ quỉ đói khát chưa phải là khổ; ngu si tối tăm không thấy không biết phương hướng mới thật là khổ. Niềm vui do tri thức phân biệt, niềm vui thấy pháp pháp hỉ, niềm vui lấy thiện chống lại ác, chỉ có niềm vui A-Ia-hán vô trước mới là hơn hết. Từ người đa văn nghe nói về niềm vui cam-lộ, theo lời chỉ dẫn quan sát biết đường đi, xa lìa hầm hố, tiến thẳng không quay về. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi pháp quán khiến được hoan hỉ, đây gọi là tùy theo ưa thích dùng quán để an tâm.

Lại nữa thiện nam, mặt trăng mọc, hoa sen nở mặt trời lên bắt đầu thì đi làm việc, việc buôn bán tùy theo ông chủ, màu vẽ phải có keo, chén bát không nung không thể sử dụng, mù lòa không người dẫn dắt không thể tiến bước; tu hành không quán trí cũng thế. Nhất thiết chủng trí lấy quán làm căn bản; quán là nơi trang nghiêm của vô lượng công đức. Phương tiện khéo léo các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi quán, sinh các công đức, đây gọi là tùy tiện nghi dùng quán để an tâm.

Lại nữa thiện nam, người trí biết quán, quán chẳng hại được như võ tướng mưu trí có thể phá cường địch, chẳng phải gió làm sao cuộn mây, chẳng phải mây làm sao che nắng, chẳng phải nước làm sao dập lửa, chẳng phải lửa làm sao trừ tối; búa chẻ củi, dao cắt dây làm sao sánh bằng trí tuệ. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi quán khiến cho phá trừ điều ác, đây gọi là đối trị dùng quán để an tâm.

Lại nữa thiện nam, khi mặt trời mọc ta mới thấy được bảy báu trong giếng sâu, bình chậu trong nhà tối; cũng như thế cần phải có trí tuệ mới thật sự thấy biết các pháp. Trong tất cả các pháp đều dùng quán để vào bát-nhã ba-la-mật soi sáng vô cùng. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi quán khiến được ngộ giải, đây gọi là đệ nhất nghĩa dùng quán để an tâm.

Như vậy vì người tín hành tám lần nói an tâm.

Nếu người ấy nói tôi thích dừng nghỉ tâm, lặng lại càng lặng, giảm lại càng giảm, cho đến vô vi chẳng thích phân biệt, ngồi nhớ việc quá khứ vô ích, đây là căn tính của hành pháp sẽ vì họ nói “chỉ”: ông chớ tìm cầu bên ngoài, chỉ cần giữ lấy cái nhất bên trong; bám vào cái giác lưu động từ vọng sinh, như quay vòng lửa khi dừng tay liền tắt, như sóng vỗ rì rầm khi gió dừng thì lặng lẽ.

Kinh Tịnh Danh nói: “Thế nào là phan duyên ? Là có ba cõi. Thế nào là dứt phan duyên ? Là tâm không có sở đắc”.

Kinh Thụy Ứng nói: “Được nhất tâm thì mọi điều tà đều dứt”.

Long Thọ nói: “Thật pháp không điên đảo, quán niệm tưởng đã trừ, pháp ngôn ngữ đã diệt, vô lượng tội lỗi dứt sạch, tâm thanh tịnh thường nhất. Người tôn diệu như thế có thể thấy bát-nhã. Thần tiên khen ngợi sự yên tịnh nơi núi rừng thế nào thì Thánh hiền sùng mộ sự thanh tịnh của niết-bàn thế ấy”.

Kinh Phật Thoại ghi: “Tỳ-kheo ở xóm làng dù thân miệng tinh cần tu tập chư Phật vẫn âu lo; còn tỳ-kheo ở núi non dù ngủ nghỉ chư Phật đều vui mừng, huống chi ngồi kiết già chắp tay, chỉ lặng lẽ tư duy trở về nguồn tâm, pháp giới rỗng lặng, đâu không phải yếu đạo; chỉ có việc này là quí báu không gì sánh bằng”. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi chỉ khiến sinh tâm hoan hỉ, đây gọi là theo sự ưa thích dùng chỉ để an tâm.

Nếu người ấy nói tôi quán pháp tướng chỉ thêm rối ren, thiện pháp chẳng rõ thì sẽ vì họ nói chỉ. Chỉ là ruộng tốt bằng phẳng của pháp giới, pháp nào chẳng có: chỉ dứt phan duyên là đàn; thể của chỉ phi ác là giới; thể của chỉ bất động là nhẫn; chỉ vô gián vô tạp là tinh tiến; chỉ quyết định là thiền; pháp chỉ cũng không là tuệ; nhờ chỉ mà biết phi chỉ và phi bất chỉ là phương tiện; một chỉ tất cả chỉ là nguyện; chỉ chỉ ái, chỉ chỉ kiến là lực; như Phật chỉ không hai không khác là trí; chỉ đủ tất cả pháp là bí tạng. Chỉ cần an trụ nơi chỉ không tu pháp khác, phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi chỉ khiến sinh căn lành, đây gọi là tùy tiện nghi dùng chỉ để an tâm.

Nếu người ấy nói tôi quán pháp tướng mà tán loạn và hôn trầm không dứt trừ thì sẽ vì họ nói chỉ có nhiều công năng. Chỉ là vách tường vững chắc tám gió ác giác không thể xâm nhập. Chỉ là nước sạch tẩy trừ tám thứ điên đảo tham dâm v.v… như sương mai tan khi mặt trời mọc. Chỉ là đại từ, oán thân đều thương xót, hay phá dẹp sân giận. Chỉ là đại minh chú xua tan ngu si nghi ngờ, chỉ là Phật hay phá trừ chướng đạo như thuốc a-già-đà trị tất cả các bệnh, như lương y giỏi cứu sống người bệnh nặng. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ khiến họ phá ác, đây gọi là đối trị dùng chỉ để an tâm.

Nếu người ấy nói lúc tôi quán sát không được khai ngộ thì sẽ vì họ nói chỉ. Chỉ tức thể chân nên chiếu mà thường tịch; chỉ tức tùy duyên nên tịch mà thường chiếu. Chỉ tức bất chỉ, chỉ cùng che cùng chiếu. Chỉ là mẹ chư Phật, chỉ là cha chư Phật, cũng là cha là mẹ. Chỉ là thầy của Phật, là thân Phật, là mắt Phật, là tướng hảo của Phật, là kho của Phật, là trú xứ của Phật, nơi nào không có. Phương tiện khéo léo, các nhân duyên, các thí dụ đều khen ngợi chỉ, đây gọi là đệ nhất nghĩa dùng chỉ để an tâm.

Nếu nói tướng trạng của chỉ trầm tịch chẳng phải cái tôi ưa thích thì sẽ vì họ nói quán, xét tìm đạo lý, trong thất giác chi có trạch giác chi, trong bát chính đạo có chính kiến, trong lục độ có bát-nhã. Trong các pháp môn, quán là chủ yếu, là dẫn đầu, cho đến thành Phật, Chính giác, Đại giác, Biến giác đều là tên gọi khác của quán tuệ. Cho nên biết quán tuệ là tối cao vi diệu, thảy đều khen ngợi quán, đây gọi là tùy theo sự ưa thích dùng quán để an tâm.

Nếu siêng tu quán có thể sinh ra tín, giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, biết bệnh, biết thuốc, đại hạnh hóa đạo, tập hợp các điều lành không gì bằng quán, đây gọi là tùy tiện nghi dùng quán để an tâm.

Nếu quán hay phá tối tăm, hay soi sáng đường lối hay trừ oán tặc, hay được của báu, xô ngã núi tà, làm cạn biển ái, thảy đều do sức quán, đây gọi là tùy đối trị dùng quán để an tâm.

Nếu lúc quán pháp không năng sở, tâm lự rỗng lặng, nhưng tâm chưa thật sáng tỏ thì phải siêng năng quán khai thị ngộ nhập, đây là dùng đệ nhất nghĩa để quán an tâm.

Đây là vì người pháp hành tám lần nói an tâm.

Lại nữa, căn tính con người bất định, hoặc có khi hồi chuyển. Tát-bà-đa (Thuyết nhất thiết hữu bộ) nói chuyển độn căn thành lợi căn; Thành Luận nói ít tập khí là lợi căn. Ở đây trước sau đều nói về lợi căn và độn căn, không nên phân biệt. Nay nói tâm hành của chúng sinh bất định, hoặc độn trong chốc lát, lợi trong chốc lát, tự nhiên như thế, nó chuyển đổi không liên hệ đến căn tính, tập khí. Hoặc tu quán chưa triệt, nhân nghe liền ngộ; hoặc nghe lâu chẳng hiểu, tạm suy nghĩ liền rõ, cho nên lại nói chuyển căn an tâm. Nếu pháp hạnh chuyển thành tín hạnh tùy theo căn tính, dùng tám lần tất-đàn mà truyền trao an tâm. Nếu tín hạnh chuyển thành pháp hạnh cũng theo căn tính, dùng tám lần tất-đàn mà truyền trao an tâm. Nếu được ý nghĩa này thì có thể tha hồ thuyết minh rộng lược. Chuyển và chẳng chuyển gồm có ba mươi hai thứ an tâm.

Tự hành an tâm, nên xem xét tâm này thích niềm vui nào; nếu muốn dứt vọng để niệm tưởng lặng lẽ, đây là nhạo pháp hành; nếu thích lắng nghe thấu đáy vô minh, đây là nhạo tín hành. Thích tịch tĩnh là biết vọng từ tâm sinh, dứt tâm các vọng đều lặng. Nếu muốn chiếu soi thì phải biết nguồn tâm; nguồn tâm bất nhị thì tất cả các pháp đều đồng hư không, đây gọi là tùy ưa thích tự hành an tâm.

Tuy phân biệt rộng về tâm và các pháp nhưng nếu chưa có một chút tín niệm tinh tiến liền sẽ ngưng trệ các điều thiện. Công đức nhờ yên tĩnh mà sinh, nếu khi ngưng trệ càng thấy trầm tịch, đều không tinh tiến, nhẫn nhục; cần phải suy xét thúc giục khiến cho sinh khởi. Nếu niệm niệm không dừng như ngựa chiến chạy nhanh liền phải dùng chỉ đối trị sự phóng đãng. Nếu lặng lẽ vô ký, đến hôn trầm thì nên tu quán để phá trừ hôn ám. Tu chỉ đã lâu không thể khai phát thì nên tu quán, quán tất cả pháp không ngại, không khác, yên tĩnh sáng suốt như hư không. Tu quán đã lâu mà ám chướng chẳng trừ thì nên tu chỉ, dừng các duyên lự không năng không sở, sở ngã đều tịch, không tuệ phát sinh, đây gọi là tự tu pháp hành trải qua tám lần thiện xảo khiến được an tâm.

Tín hành an tâm, hoặc muốn nghe tịch định như núi Tu-di chẳng sợ tám gió lay động thì nên theo pháp chỉ; hoặc muốn nghe pháp quán nhanh chóng phá các phiền não, như mặt trời dẹp trừ tối tăm thì nên theo pháp quán. Tu mãi pháp quán như mặt trời thiêu đốt mầm mộng thì nên tu pháp chỉ để tưới nhuần bằng nước định. Hoặc ngâm trong nước định lâu ngày như mầm mộng bị thối rữa không nhú ra thì nên tu quán khiến cho nắng, gió phát động làm phát sinh thiện pháp. Hoặc có lúc chạy theo ác giác không dừng được thì nên tu chỉ để trị tâm tán loạn. Hoặc hôn trầm mờ mịt như ngồi trong sương mù thì nên tu quán để phá sự mê ngủ. Hoặc tu chỉ được rỗng lặng thì nên chuyên tu chỉ; hoặc tu quán được sáng tỏ thì nên chuyên tu quán, đây là tự tu tín hành tám lần thiện xảo an tâm.

Nếu tâm pháp hành chuyển làm tín hành, tâm tín hành chuyển làm pháp hành, đều phải khéo léo tham cứu rèn luyện tâm. Tự tu hành có 32 pháp, giáo hóa người cũng có 32 pháp; họp lại thành 64 pháp an tâm.

Lại nữa, tín và pháp không đứng riêng; cần phải văn và tư trợ giúp nhau như pháp hành, nhờ nghe một câu kinh hoặc một bài kệ về thể tịch trạm nhiên, mộng tưởng liền trừ, lại ngồi xuống tư duy, tâm sinh hoan hỷ; lại nghe chỉ rồi lại tư duy liền sinh thiền định; lại nghe chỉ rồi liền tư duy, vọng niệm đều phá trừ; lại nghe chỉ rồi lại tư duy thì tỏ ngộ sáng suốt; lại nghe quán rồi lại tư duy, tâm càng hoan hỷ; lại nghe quán rồi lại tư duy liền sinh thiện phá ác có tỉnh giác v.v… Căn cứ theo trên có thể biết, đây là pháp hành; nghe ít tư duy nhiều, chẳng phải là không nghe pháp.

Tín hành đoan tọa, tư duy lặng lẽ, chưa phát khởi sự hoan hỷ, đứng lên lại nghe chỉ thì càng vui; ngồi yên niệm thiện, thiện không thể phát, đứng lên lại nghe chỉ, tín giới tinh tiến càng gia tăng; ngồi yên trị ác, ác không thể trừ, đứng lên lại nghe chỉ, dẹp tán động; ngồi yên liền được chân, chân đạo không thể khải phát, đứng lên lại nghe chỉ, rỗng rang giác tính lặng lẽ, đây là tín hành; ngồi ít nghe nhiều, chẳng phải là không tư duy pháp.

Đoạn trước chỉ nói về căn tính, đây nói về căn tính trợ giúp nhau. Đứng về mặt trợ giúp nhau lại nói về chuyển và chẳng chuyển, cũng có 32 pháp an tâm, trợ giúp giáo hóa người cũng có 32 pháp an tâm, họp lại là 64 pháp, gồm cả phần trước là 128 pháp an tâm.

Tâm địa rất khó an, nghịch thì khổ, thuận thì vui, nay theo sự mong cầu để làm cho an tâm. Như cho ăn uống để bảo tồn sinh mạng, nuôi dưỡng pháp thân cũng thế, lấy chỉ làm thức uống, lấy quán làm thức ăn. Như dược pháp cũng thế, hoặc thuốc hoàn, hoặc thuốc tán để trừ bệnh lạnh nóng; để trị bệnh vô minh thì lấy chỉ làm thuốc hoàn, lấy quán làm thuốc tán. Như pháp âm dương, dương là nắng gió, âm là mây mưa, mưa nhiều thì mục nát, nắng nhiều thì cháy khô; âm như định, dương như tuệ. Định tuệ nghiêng lệch thì không thấy Phật tính; tám lần điều hòa quân bình chỉ quán.

Có sư chẳng cho tu quán, chỉ chuyên tu chỉ bèn dẫn kệ:

Tư tư uổng tự tư,
Tư tư luống tự khổ,
Dứt tư chính là đạo,
Có tư trọn chẳng thấy.

Lại có sư chẳng cho tu chỉ, chỉ chuyên tu quán bèn dẫn kệ:

Chỉ chỉ uổng tự chỉ,
Hôn ám không nguyên do
Dứt chỉ chính là đạo,
Quán quán được rõ lý.

Hai sư trên chỉ theo một pháp môn để mình được lợi ích, dạy người học mà chẳng thấu suốt nghĩa lý, chỉ cho uống sữa, nước cốt còn khó được huống chi là đề-hồ. Nếu chỉ chuyên tìm hiểu, cớ sao Phật nói đủ thứ ? Bầu trời chẳng phải lúc nào cũng trong, thầy thuốc không chỉ dùng thuốc tán, thức ăn đâu phải luôn luôn là cơm, thế gian còn vậy, huống chi xuất thế ? Nay tùy căn cơ tùy bệnh tật mà xoay chuyển, tự hành hóa tha có 64 pháp. Nếu đứng về ba lần chỉ quán thì có 384 pháp.

Lại nhất tâm chỉ quán còn có 64 pháp, hợp thành 512 pháp. Ba thứ tất-đàn là thế gian an tâm, thầy thuốc thế gian trị bệnh thuyên giảm rồi lại tái phát. Xuất thế an tâm, Như Lai điều trị rốt ráo bệnh không tái phát. Pháp thế và xuất thế làm thành và bày hiện lẫn nhau. Nếu lìa tam đế thì không có chỗ an tâm; nếu lìa chỉ quán thì không có pháp an tâm. Nếu tâm an nơi chân lý thì một câu đã đầy đủ; còn như chưa an thì phải khéo dùng phương tiện để tâm được an. Một mắt lưới không thể nào bắt được chim; bắt được chim rồi thì một mắt lưới cũng xong. Tâm hành chúng sinh mỗi người khác biệt, hoặc nhiều người cùng một tâm hành, hoặc một người có nhiều tâm hành. Như một người, nhiều người cũng thế; như nhiều người một người cũng thế, cần phải giăng rộng lưới pháp mới bắt được con chim tâm hành. Như vậy các pháp an tâm xác thực và tinh tế, bao gồm căn tính lợi độn, tự tha đều được lợi ích, nếu người được nghe nên trân trọng tu hành.