TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 41

Hỏi: Tông này làm sao khế hợp để được tương ưng?

Đáp: Tiến tới liền trái, đến gần liền lìa, nắm lấy lại mất, vội vã lại chậm; nghìn Thánh khoanh tay không suy tính, một môn thâm nhập quên đi giác tri, đây là pháp môn tự chứng nơi tâm, chẳng phải đợi hỏi đáp mà được, như kinh Pháp Hoa có kệ:

Ý ta khó thể lường
Cũng không thể hỏi han
Không hỏi mà tự nói
Khen ngợi việc hành đạo.

Cho nên tiên đức nói: Chư Tổ cùng nhau truyền tự giác Thánh trí chân như diệu tâm thanh tịnh của chư Phật, không như ở thế gian chỉ được văn tự. Nếu tỏ ngộ pháp tính chân thật này, người ấy có thể biết rõ chư Phật ba đời và tất cả chúng sinh đồng một pháp giới xưa nay bình đẳng thường hằng bất biến. Hòa thượng Tào Sơn có bài kệ:

Từ duyên lĩnh hội chóng tương ưng
Ngay thể tiêu cơ đạo chậm rì
Nhìn kỹ xưa nay không nơi chốn
Thầy ta tạm nói bất tư nghì.

Cho nên biết nghìn Thánh đều cho rằng lúc tâm niệm này sinh khởi hẳn là bất khả đắc, thực sự bất tư nghì. Lìa đây quyết định không có sự thù thắng nào khác, thấu rõ như thế đâu chẳng phải nhanh chóng sao, đâu đợi tiêu dung mới thấy đạo? Nếu không thấy ngay việc ấy định dùng ý thức để hiểu và tìm cầu, như dùng cây cung sừng thỏ bắn với mũi tên lông rùa, như người không có tay mà muốn phá vỡ núi Tu-di; cũng như ép cát mà muốn có dầu, đốt lửa mà không có khói, chứa rượu trong chén rò rĩ mà muốn đầy, lấy ánh sáng đom đóm chiếu phá sự tăm tối của Thiết-vi, toàn là chuyện điên rồ vô ích. Cho nên kinh Tư Ích ghi: “Hỏi: Lấy pháp gì tu đạo ? Đáp: Không dùng sự thấy nghe hiểu biết, chẳng được, chẳng chứng; đối với tất cả pháp không tướng, không chỉ bày gọi là tu đạo”. Hoa Nghiêm Sớ nói: “Đốn giáo không nói đến pháp tướng, chỉ bàn về chân tính, không có tướng sai biệt của tám thức”.

Giải thích: Tám thức tâm vương còn không sai biệt, huống là các pháp do tâm biến hiện là có chăng ? Tâm sinh thì các pháp sinh; tâm diệt thì các pháp diệt. Cho nên luận Khởi Tín nói: “Tất cả các pháp chỉ nương vào vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa tâm niệm thì không có các tướng cảnh giới, thế nên tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, tuyệt đối bình đẳng không sai khác, chỉ là nhất tâm nên gọi là chân như, vì tất cả ngôn thuyết giả danh không thật chỉ tùy vọng niệm bất khả đắc”. Do đó Sớ nói: “Những gì hiện hữu đều là vọng tưởng, tất cả pháp giới chỉ là tuyệt ngôn”, cho nên luận Khởi Tín nói: “Chân như cũng không có tướng, nghĩa là tột cùng của ngôn thuyết, nhân lời nói dẹp bỏ lời nói. Thể của chân như không thể dẹp bỏ vì tất cả pháp đều chân thật; cũng không thể lập vì tất cả pháp đều đồng chân như; phải biết tất cả pháp không thể nói, không thể niệm nên gọi là chân như, vì tất cả pháp tính đều lìa ngôn thuyết”. Nếu thông đạt bốn thứ pháp giới thì không thể nói là công phu không được gì cả. Sự chứng đắc ấy không nên cho là thật, vì lý vốn không lời. Sự lý xen suốt không thể đem sự lý để nói, sự sự tương tức không thể đem nhất đa để bàn. Như trong kinh Lăng Già tuy nói về năm pháp là danh, tướng, vọng tưởng, chính trí, như như đều không tịch. Nghĩa là mê thì như trở thành danh, tướng, vọng tưởng; ngộ danh, tướng vốn như thì vọng trở thành trí, không còn danh, tướng, vọng tưởng, chỉ có như, trí thôi. Trí nhân như mà lập, trí thể cũng không; như nhờ trí mà sáng, xưa nay thường tịch, nên cũng không; huống chi tám thức căn cứ theo sự đều là duyên sinh tính không, vì có ngã pháp nên nói hai thứ vô ngã, ngã còn chẳng được, vô ngã làm sao có ? Cho nên Trung Luận có kệ:

Chư Phật hoặc nói ngã.
Hoặc nói không có ngã.
Trong thật tướng các pháp,
Không ngã không phi ngã.

Cho nên đều phải dẹp bỏ cả hai. Sớ nói: “Quở giáo, khuyên lìa, hủy tướng, dứt tâm”. Quở giáo nghĩa là đem tâm truyền tâm, chẳng nhờ văn tự. Khuyên lìa nghĩa là khuyên nên xa lìa pháp. Pháp tuy nhiều vô lượng nhưng không ngoài sắc tâm; lìa tâm tâm như, lìa sắc sắc như, cho nên khuyên lìa hết để khế hợp tâm thể ly niệm. Hủy tướng theo cảnh, vì những gì có tướng đều là hư vọng. Dứt tâm theo trí, rõ cảnh tướng không, tạm gọi là trí. Tướng đã không, trí làm sao thật ? Tâm cảnh đều mất thì thảy đều dứt sạch. Tâm không có tâm tướng tức là an tâm, nên nói sinh tâm là vọng, chẳng sinh tâm là Phật. Nói sinh tâm nghĩa là chẳng phải chỉ sinh những tâm khác, cho dù sinh tâm bồ-đề, niết-bàn, quán tâm, kiến tính cũng gọi là sinh tâm, đều là vọng tưởng. Niệm tướng đều tịch mới gọi là bất sinh; tịch chiếu hiện tiền làm sao không gọi là Phật ? Cho nên trên bia Tổ Đạt-ma có ghi: “Tâm có thì nhiều kiếp đọa phàm phu, tâm không thì sát-na lên Chính giác”.

Nói tâm không, chẳng phải là thấu rõ tâm không chẳng sinh liễu tri, vì thế Vi Thị Ngự hỏi hòa thượng Ngưỡng Sơn ý nghĩa liễu tâm; hòa thượng đáp: Nếu muốn liễu tâm, không có tâm để liễu, vô liễu mà liễu đây là chân liễu. Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Tất cả pháp chẳng sinh,
Tất cả pháp chẳng diệt.
Nếu hiểu được như thế
Chư Phật thường hiện tiền.

Nói hiểu như bất sinh chẳng hạn, hiểu mà chẳng có tướng hiểu, chẳng phải là nói hiểu suông nơi bất sinh. Sớ nói: “Không Phật chẳng phải là không có Phật, không chúng sinh chẳng phải là không có chúng sinh, đó là quét sạch dấu vết trước kia, vì chúng sinh mê nên nói tức tâm tức Phật, đã không có chúng sinh thì đâu từng có Phật ?” Cho nên kinh có kệ:

Chân pháp giới bình đẳng
Không Phật không chúng sinh
Chấp Phật nói không Phật,
Chẳng phải là không Phật.

Vì thế nói chẳng phải không Phật, đây là dẹp bỏ lại dẹp bỏ, nếu có chút sở đắc đều là vọng tưởng. Cho nên kinh Phật Tạng nói: “Người đối với pháp có chút sở đắc là tranh cãi với Phật, tranh cãi với Phật là tà đạo, chẳng phải đệ tử ta”. Lại chỉ phân biệt không Phật cho là chân Phật, nên nói chẳng phải không Phật. Vì vậy kinh có bài tụng:

Tánh không tức là Phật,
Không có thể nghĩ lường.

Nếu có sinh tâm, sinh tâm là vọng, nên nói vô sinh. Phật còn không có, làm sao có vô sinh ? Nếu có sự hiểu biết về vô sinh thì bị vô sinh trói buộc cho nên nói chẳng phải không sinh.

Lại tất cả pháp chẳng sinh thì bát-nhã sinh, nên nói chẳng phải không sinh. Sinh cùng chẳng sinh xoay trở trái nhau, cũng xoay trở làm thành nhau. Chỉ cần bặt lời thì có thể khế hợp với đạo; tâm rỗng thì có thể thông lý. Nếu bặt lời thì thôi không cần nói; nếu tâm rỗng thì ngã pháp vi diệu khó hiểu đâu thể vọng sinh tri giải ?

Lại hễ vào Tông Cảnh thì pháp nhĩ bặt lời, trí chẳng thể biết được, chỉ có lòng tin mới vào được. Như Tán Bát-nhã có kệ:

Nếu ai thấy bát-nhã
Tâm luận nghĩa dứt tuyệt
Như khi mặt trời mọc
Sương sớm tức thời tan.

Cho nên Tổ sư nói: “Luận chẳng phải nghĩa, nghĩa chẳng thể luận; nếu muốn luận nghĩa thì trọn chẳng phải nghĩa luận”. Ngày xưa Lương Vũ Đế tại điện Trùng Vân trong vườn Hoa Lâm tập họp bốn chúng, tự giảng kinh Tam Tuệ Bát-nhã. Khi ấy Phó đại sĩ có mặt tại đấy, Thái tử hỏi: Đại sĩ sao không luận nghĩa ? Phó đại sĩ đáp: Những gì hoàng đế nói chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng rộng, chẳng hẹp, chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên, như như chính lý còn phải nói chi nữa ? Lưu Trung Thừa lại hỏi: Xin ngài nói lại, mọi người muốn được nghe! Phó đại sĩ đáp: Mặt trời mặt trăng dừng lại, bốn mùa điều hòa.

Tại Trung Thiên Trúc có ngoại đạo Mã Minh xuất gia làm sa-môn, là người thông minh, giỏi biện luận. Một hôm, ngài xướng lên: Tỳ-kheo nào có thể cùng ta tranh luận thì hãy đánh kiền chùy; nếu không thắng được thì sẽ không được nhận sự cúng dường. Bấy giờ, Hiếp trưởng lão đang ở Bắc Thiên Trúc, biết ngài là người có thể giáo hóa được, bèn dùng thần thông bay lên không trung tới Trung Thiên Trúc, sai mọi người đánh kiền chùy cùng ngài tranh luận. Lúc ấy luận trường đã được chuẩn bị, mọi người vân tập đầy đủ, Hiếp trưởng lão bảo: Ta tuổi đã cao lại từ xa đến lý đáng phải nói trước. Mã Minh nói: Vậy ngài cứ nói tôi sẽ phá tất cả. Hiếp trưởng lão bảo: Ngày nay thiên hạ thái bình, đại vương trường thọ, quốc gia sung túc không có tai ương. Mã Minh lặng thinh không hiểu gì cả. Vậy là ngoại đạo Mã Minh bị thua, chịu làm đệ tử, cạo bỏ râu tóc làm sa-di, thọ giới cụ túc.

Lại có học nhân thỉnh hòa thượng quốc sư Tuệ Trung lập nghĩa, sư nói: Lập rồi! Học nhân không hiểu gì cả, bị sư quát mắng đuổi ra ngoài. Cho nên biết nếu vào Tông Cảnh thì gương huyền sáng tỏ như đứng trước gương tự thấy mặt mũi của mình, thấy thì liền thấy, không đợi nói! Do đó kinh Nguyệt Thượng Nữ ghi: “Bấy giờ Xá-lợi-phất hỏi Nguyệt Thượng:

– Cõi chúng sinh có bao nhiêu ?

– Như cảnh giới chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

– Nếu thế nhân giả nói việc gì và giải thích thế nào ?

– Tôi sẽ giải đáp theo câu hỏi của ngài.

Khi ấy, Xá-lợi-phất lại hỏi:

– Ta hỏi nghĩa gì ?

– Ngài hỏi văn tự.

– Văn tự diệt không có dấu vết.

– Tôn giả Xá-lợi-phất, như vậy tướng diệt trong tất cả pháp như có người hỏi, như có kẻ đáp. Cả hai đều là tướng diệt bất khả đắc”.

Kinh Hoa Thủ ghi: “Phật bảo Bạt-đà-bà-la: Lành thay, lành thay! Như ông đã nói pháp sở đắc nơi đạo tràng của Như Lai là pháp phi pháp, cũng phi phi pháp. Đối với việc này trí chẳng thể đến, mắt chẳng thể thấy, không có chỗ thực hành, tuệ chẳng thể thông, minh chẳng thể liễu, hỏi chẳng thể đáp. Trong pháp này không nhận không lấy, không nhơ không sạch. Nếu ta nói là pháp tự mình chứng đắc, nếu đem hành tướng mà thực hành pháp này thì đều mê muội”.

Kinh Phật Tạng ghi: “Phật dạy: Này Xá-lợi-phất, ở trong Thánh pháp cho rằng được tịch diệt đều rơi vào tà kiến, huống chi nói năng. Pháp không ấy lấy gì để nói ? Này Xá-lợi-phất, vì sao Phật nói các ngữ ngôn đều gọi là tà ? Người không thể thông đạt tất cả pháp là vì bị ngôn thuyết che lấp, thế nên Như Lai biết các ngữ ngôn đều là tà, cho đến có một chút ngôn ngữ cũng không phải là chân thật. Này Xá-lợi-phất, vô thượng chính đẳng chính giác của chư Phật đều là vô tưởng, vô niệm. Vì sao ? Như Lai đối với pháp chẳng được thể tính, cũng chẳng được niệm”.

Kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni ghi: “Phật bảo Tỳ-xá-khư trước tiên nên nói về sáu pháp ba-la-mật, lần lượt tu tập rồi sau mới nói đến không, giải thoát môn. Nếu vì chúng sinh nói pháp không này, có người được nghe, có người tư duy, có người chứng đắc, là cũng không nên, chỉ có ngôn thuyết, vì sao ? Pháp không ấy không thể chỉ dùng tâm tưởng biết. Nếu pháp không ấy chỉ cần dùng tâm tưởng có thể chứng biết thì khi tất cả chúng sinh chưa tu đạo lý đáng là bậc A-la-hán rồi. Này Tỳ-xá-khư, pháp không ấy cũng không thể nói được tướng mạo hình thể. Nếu nói được thì là tướng tạo tác. Nếu có tướng tạo tác thì có mong cầu. Nếu có mong cầu là có ba đời, vì sao ? Này Tỳ-xá-khư, tất cả ba đời trong pháp vô tướng đều không thật có. Vì sao như thế ? Vì những việc quá khứ vị lai hiện tại đều tịch diệt, thì làm sao khởi mong cầu ? Lại nữa, nên quán sắc này tác tưởng vô tướng. Làm sao quán sắc tác tưởng vô tướng ? Phải biết sắc này sinh diệt luân chuyển niệm niệm không dừng. Này Tỳ-xá-khư! sắc tướng ấy mắt không thể thấy, nên biết cảnh giới tâm thức này chỉ có ý biết thôi, cho nên không thể dùng mắt thấy được. Này Tỳ-xá-khư, tâm ý của chúng sinh chẳng thể dùng ngôn thuyết, chỉ có Phật trí mới biết. Tuy có thể suy nghĩ biết mà không thể thấy, niệm niệm chẳng dừng như huyễn hóa làm sao có thể nắm lấy và thấy được. Như vậy Tỳ-xá-khư, không thể dùng tâm thức chúng sinh nắm lấy tướng chân tâm. Đã không thể nắm lấy thì làm sao có thể nói! Vì sao ? Vì sự yêu ghét trái với bình đẳng. Này Tỳ-xá-khư, nếu muốn diệt trừ tưởng yêu ghét, phải siêng năng tinh tiến quán tất cả pháp thảy đều không tịch, không có thủ trước.

Hỏi: Ngày nay chẳng lẽ không có con đường tu học, sao lại dứt bỏ môn phương tiện ?

Đáp: Hàng căn cơ trung hạ đều cần có con đường tu học, lời giáo huấn kẻ đồng môn sao có thể dứt bỏ được! Cho nên kinh Lăng Già nói: “Tông thông là Bồ-tát, thuyết thông là người mới học”. Môn trợ quán rất lợi ích. Nếu cứ bỏ quên mình, chạy theo văn tự chấp lấy học thức thì giống như nói chuyện với người gỗ, mong cô gái đá sinh con, uổng công trải qua nhiều kiếp trọn không được đạo lý, cho dù thành đạt cái học bên ngoài giáo điển cũng chẳng phải chân thật. Như mặt trăng được mô tả chẳng phải là mặt trăng thật, rồng được vẽ chẳng phải là rồng thật. Nếu muốn được sự chân thật, chỉ cần tịnh ý nội quán thì rõ ràng lặng lẽ hiện bày như đến trước gương sáng sẽ tự thấy bóng của mình. Nếu đem sự thấy nghe vọng cầu giống như tìm mặt trăng dưới nước bao giờ mới được! Do đó Chân Giác Ca:

Tịnh ngũ nhãn được ngũ lực,
Chỉ chứng mới biết khó suy lường,
Trong gương nhìn bóng thấy chẳng khó;
Mò trăng đáy nước dễ được đâu!

Hòa thượng Bàn Sơn nói: “Con đường hướng thượng nghìn Thánh chẳng truyền, học nhân lao nhọc như khi bắt bóng”. Bàng cư sĩ có kệ:

Học vấn chẳng chân đạo
Nhọc nhằn cả thân tâm
Mãi tìm trăng đáy nước,
Trọn uổng phí công phu.

Hỏi: Thế nào là phải ?

Đáp: Phải là niệm thứ hai, trái là niệm thứ ba. Đường tâm trí bặt, tình lượng tiêu tan. Do đó kinh Văn Thù Bát-nhã nói: “Chẳng thể hiểu tức là bát-nhã, bát-nhã thì chẳng thể hiểu, chẳng phải không thể hiểu”. Triệu Luận nói: “Huyền đạo vốn tuyệt đối nên chẳng được mà được, diệu trí siêu ngoại vật nên chẳng biết mà biết, hình tượng lớn ẩn nơi vô hình nên chẳng thấy mà thấy, âm thanh to chứa trong tiếng nhỏ nên chẳng nghe mà nghe, chỉ khi tín nhập tự nhiên thấu suốt. Lúc thấu suốt viên minh liễu đạt còn chẳng do nơi tâm niệm, huống là theo người khác cầu pháp của chính mình, giữ lấy cái nhận thức của người làm viên thông, như đếm châu báu thì không bao giờ giàu, chỉ nói ăn thì làm sao no! Tự mình vào ngay cửa tuyệt học, chỉ cần phát minh mới đạt ý chỉ vô vi. Nếu có thể như thế như thế nhập lý tư duy thì mới có thể như thế như thế hiển hiện rõ ràng, tự nhiên vật ngã thầm hợp không sai; hợp với muôn cảnh mà hư huyền, cùng một tâm mà có an có sợ, thảy đều y theo không mà lập, giữ lấy nhất mà sinh. Thế nên mây bay đi bầu trời trong sáng, núi ẩn khuất đồng cỏ mênh mông; tùng cao như núi vững vàng, trúc dài thẳng tắp tăng trưởng, trong thì nội tâm an vui, ngoài thì đạo tính thường hằng”. Cho nên Tâm Yếu Tiên nói: “Một niệm chẳng sinh, trước sau đều mất; chiếu thể độc lập, vật ngã đều như. Thẳng đến nguồn tâm vô tri, vô đắc, chẳng lấy chẳng bỏ, không đối, không tu, nhưng mê ngộ lại nương theo sự đối đãi của chân vọng. Nếu cầu chân bỏ vọng như bỏ bóng nhọc hình. Nếu thể hội vọng là chân như ở chỗ râm mát không có bóng, cho nên vô tâm bặt chiếu soi thì mọi phiền lụy đều dứt. Nếu hồn nhiên lặng lẽ biết thì các hạnh liền khởi, phóng khoáng mặc tình đi đứng, yên tĩnh soi sáng ngọn nguồn, nói nín chẳng mất huyền vi, động tĩnh chưa lìa pháp giới”.

Linh Sưu Ngâm ghi:

Ta muốn học bồ-đề
Trước tiếp nói Thích-ca.
Ta muốn học xiển-đề
Hãy theo sau Điều Đạt.
Chẳng theo hai người này
Chưa khỏi theo đường giữa.
Giả sử đều chẳng phải
Do đâu mà mở miệng
Mở miệng, không mở miệng
Tối kỵ phạm Linh Sưu
Nếu hiểu ý trong đây
Hướng nam nhìn bắc đẩu.
Phó Đại sĩ có bài tụng:
Đường tu của người khó
Đường tu của ta dễ
Vào núi tu vài năm
Nằm ngủ duỗi thẳng chân
Đường đi dễ
Đường dễ chớ nghĩ suy
Sát-na tâm không đổi
Nơi nơi là thiên đường.

Trên đây tuy dẫn ra nhiều lời thành thật của các bậc tiên đức, vừa vào trong Tông Cảnh pháp nhĩ đường nói năng suy nghĩ dứt sạch, thức trí dẹp bỏ, hơn thua đều mất, biện tài vô ngại, bậc hiền chẳng lường. Cho nên Tịnh Danh Tư Ký ghi: “Tịnh Danh im lặng từ trước đến nay, đến đây mới rốt ráo thật trí viên mãn. Cũng như Thiện Tài gặp Di-lặc vào lâu đài quán sát mới được cứu cánh. Nay im lặng không nói tức là vào lâu đài quán thể tánh”. Kinh Đại Tập nói: “Đã có đủ ba pháp: quang minh, tịch tĩnh, không tranh, sự im lặng của Phật Thích-ca với ngày nay không khác”.

Tại Tây Thiên trong núi Vận-đà có vị A-la-hán tên Phú-lâu-na, Mã Minh đi đến thấy ngài tọa thiền trong rừng, phong cách phi phàm, thần sắc khiêm hạ có vẻ dễ khuất phục, Mã Minh liền nói: Sa-môn hãy nói đi, tôi sẽ khuất phục được ông. Nếu tôi thua sẽ cắt cổ tạ tội. Sa-môn lặng thinh, sắc mặt không biến đổi. Mã Minh hỏi bốn lần mà Sa-môn vẫn không đáp lại, Mã Minh lui ra tự nghĩ: Ta thua rồi, ông ta đã thắng. Bởi ông ta không nói nên không thể khuất phục, tuy biết nói là có thể khuất phục, tự ta chưa tránh khỏi ngôn ngữ, thật là xấu hổ! Nói rồi bèn xin xuất gia.

Hỏi: Như trên nói đạo thể tự nhiên thì chư Phật đâu cần xuất thế ?

Đáp: Người xưa dạy chẳng được một pháp thì chóng được thọ ký. Tổ sư nói: “Chẳng được một pháp gọi là truyền tâm, liễu ngộ phiền não tính không là Phật xuất thế”. Cho nên kinh nói: “Tham sân si có mặt thì Phật xuất hiện”. Chỉ cần làm cho chúng sinh dứt hết tình phàm Thánh, tướng ẩn hiện, thảnh thơi an trụ chẳng tạo tác, thấu đạt pháp môn này là chân Phật xuất thế. Nói sự việc này là lòng từ chân thật.

Hỏi: Đã không có tâm niệm thì khác nào gỗ đá ? Lại dứt hết thấy nghe làm sao giác ngộ ?

Đáp: Chỉ nói giác tri gượng ép sai lầm thường hay chướng đạo, chỉ cần tháo niêm nội phục thì phát ra linh tri của chính mình, căn trần tiêu mất quang minh liền hiện. Luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Vì tất cả pháp xưa nay duy tâm, thực sự vô niệm chính là chính lý của tự tông. Pháp tính từ vô thỉ đến nay chỉ là nhất tâm. Không một pháp nào chẳng phải tâm. Do có vọng tâm bất giác khởi niệm mà thấy các cảnh giới, cho nên nói vô minh. Nếu tính tịch diệt của nhất tâm không khởi chính là bản giác tuệ minh”. Như Luận nói: Tâm tính không khởi chính là nghĩa đại trí tuệ quang minh. Vọng tâm khởi cái thấy luôn luôn xoay chuyển trong cảnh hư vọng, không thể thông đạt cảnh giới chân thật. Tại sao như thế ? Vì chân ngụy trái nghịch nhau, chẳng thích hợp nhau. Như Luận nói: Nếu tâm khởi cái thấy thì có tướng chẳng thấy, tri kiến chân thật lìa biên kiến của năng sở. Như Luận nói: Tâm thể nếu lìa cái thấy là nghĩa chiếu khắp pháp giới. Lại nếu tâm có tướng động chuyển chính là vô minh huân tập khí. Tâm tính tịch tĩnh không có chuyển động, ngay thẳng không có kiến giải điên đảo là sự soi chiếu của thật trí. Như Luận nói: Nếu tâm có động thì chẳng phải là cái biết của chân thức. Nếu nhất tâm có tướng động chuyển còn có tiền cảnh để duyên là tâm năng kiến và cảnh sở kiến. Vì hai thứ sai biệt nên công đức bản giác không viên mãn. Tuy công đức bản tính vượt hơn Hằng sa, chỉ có một tâm lượng hoàn toàn không có hai thể. Tại sao như thế ? Các công đức ấy đều riêng rẻ, chẳng phân chia thể tính, vì lượng nó đồng một pháp giới.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Phật bảo A-nan: Như vậy sáu căn do giác minh kia có minh minh giác, đánh mất cái tinh liễu nên dính vọng phát quang. Thế nên nay ông lìa tối lìa sáng không có cái thể của thấy, lìa động lìa tĩnh vốn không có cái thể của nghe, không thông không bít tính ngửi chẳng sinh, chẳng không vị chẳng có vị từng thì tính nếm chẳng sinh, chẳng lìa chẳng họp giác xúc vốn không, không diệt không sinh rõ biết đâu nương cậy. Ông chỉ cần không chạy theo động tĩnh, họp ly, có vị không vị, thông bít, sinh diệt, tối sáng. Mười hai tướng hữu vi ấy tùy nhổ bỏ một căn thoát niêm nội phục, quy về nguyên chân phát bản minh diệu; diệu tính phát minh thì năm căn kia sẽ được nhổ sạch tất cả. Chẳng do tiền trần mà khởi thấy biết, cái sáng chẳng theo căn, nhờ căn mà phát sáng, do sáu căn này dùng thay nhau. Này A-nan, ông đâu chẳng biết, hôm nay A-na-luật-đà trong pháp hội không có mắt mà thấy, rồng Bạt-nan-đà không tai mà nghe, thân nữ Căng-già không mũi mà ngửi được, Kiều-phạm-bát-đề không lưỡi mà biết vị, thần Thuấn-nhã-đa không thân mà có xúc, tạm hiện trong hào quang Như Lai, vì vốn là gió không có thân thể. Các Thanh văn được diệt tận định như Ma-ha Ca-diếp trong pháp hội này đã dứt ý căn từ lâu mà thấu suốt rõ ràng không nhờ tâm niệm. Này A-nan, ngày nay các căn của ông đã được nhổ sạch thì bên trong sẽ phát sáng, các tướng biến hóa, phù trần và khí thế gian như nước nóng làm tan chảy băng, theo niệm hóa thành tri giác vô thượng. Này A-nan, như thế nhân kia chỉ thấy bằng mắt, nếu nhắm mắt thì trước mắt tối đen, sáu căn tối đen đầu chân giống nhau. Người ấy dùng tay rờ khắp thân thể, tuy không thấy đầu chân mà đều nhận biết. Thấy được nhờ sáng, nếu tối thì không thấy. Chẳng sáng mà tự phát thì các tướng tối hoàn toàn không thể tối; căn trần đã mất làm sao biết sáng, sẽ không thành viên diệu”.

Hỏi: Những điều nói trên đều căn cứ bậc đại căn, như mặt trời chiếu núi cao, ngựa giỏi thấy bóng roi. Nếu hạng trung cơ hạ phẩm không thể tự đứng vững, kẻ chưa vào được nhờ phương tiện gì ?

Đáp: Cũng nên tự tỉnh ngộ, khai phát lòng tin, nếu chưa phát tín tâm thì nên lắng tâm để có thì giờ nghiên cứu dứt hẳn phan duyên, thân tâm nhất như lấy tỏ ngộ làm kỳ hạn, hoặc do nghe mà vào, hoặc từ cảnh rõ biết, bất chợt ý tiêu tan chân tâm tự hiện.

Hỏi: Cảnh thức đều không có tự thể, cảnh từ thức sinh, thức từ đâu khởi ?

Đáp: Thức từ chân tính khởi.

Hỏi: Chân tính từ đâu khởi ?

Đáp: Chân tính không chỗ khởi.

Hỏi: Nếu không chỗ khởi làm sao hiển hiện ?

Đáp: Không khởi tức khởi, khởi tức không khởi. Chẳng phải khởi và không khởi là bất tư nghì khởi.

Hỏi: Thế nào là bất tư nghì ?

Đáp: Bụi hồng đầy biển xanh, sóng bủa ngập núi biếc.

Hỏi: Tu tập tông này những ai nghe tin hiểu sẽ được pháp lợi và có báo thù thắng gì ?

Đáp: Đây là thuyết đệ nhất, là lời nói không gì bằng, học mà chẳng được, phước còn hơn cả trời người. Nghe mà chẳng tin cũng vẫn kết hạt giống bồ-đề, chư Phật mười phương đều khen ngợi, các kinh Đại thừa đều có ghi chép. Kinh Pháp Hoa ghi: “Một niệm tùy hỷ đều được thụ kí vô thượng bồ-đề, thụ trì một câu đều được cúng dường chư Phật”. Người xưa giải thích phẩm Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm: Nội dung của phẩm này sâu rộng lại viên đốn, tận cùng cội nguồn của chúng sinh, ca ngợi biển Phật thăm thẳm; trong căn bản pháp luân, tâm ấy sinh ra trong dòng Kim luân, lại là con trai trưởng, diệu trong diệu, huyền trong huyền. Tuy nó ở trong tâm phàm phu, công phu chút ít mà có thể chóng chứng, không nên xem thường chẳng thừa nhận. Ngày nay người nghe hiểu có thể vui thích thì càng nên tự chúc mừng. Cho nên biết ngưỡng mộ một pháp này, khởi lòng tin ưa thích, vừa khởi niệm đã thật sự thành con của Như Lai, vừa hồi hướng liền thành vô thượng bồ-đề, học chút ít mà bằng bậc thượng hiền, có chút công phu mà được quả lớn, thâu ba tăng-kỳ vào một niệm, thành tựu nhỏ mà đầy đủ muôn đức, như trưởng giả được châu ma-ni, suốt vị lai bố thí bất tận; như tiểu quốc được vật báu Luân Vương dùng cho cả pháp giới mà không cùng. Diệu Đức Dược Vương dâng hương hoa đứng hầu, Thích-ca, Đa Bảo đều hoan hỷ chứng minh, nối gót theo Phật như gặp bậc Thiện Thệ, nơi Phật nói kệ liền xây tháp thờ phụng thì pháp lợi vô cùng, công đức vô tận!

Luận Hoa Nghiêm nói: Năng lực tu tập tin hiểu là thường tin tự tha phàm Thánh nhất thể đồng như, không chỗ y trụ, không có ngã và ngã sở, tâm cảnh bình đẳng không hai tướng. Tất cả phàm Thánh vốn chỉ là pháp giới không có tính tạo tác, y chân mà trụ, trụ mà không chỗ trụ, chúng sinh đồng với tất cả chư Phật, nhất tâm trí trụ tính chân pháp giới. Mọi thứ phân biệt là bất động trí của chư Phật, phàm Thánh nhất chân cùng một trí này, hoàn toàn tin tự tâm là Phật chủng trí và nhất thiết trí. Chẳng phải ngoài tâm riêng có tâm tin Phật, cũng chẳng phải ở trong tự tâm thấy tự tâm có tướng Phật, cho nên tin pháp này tự lực chưa đầy đủ, người ấy được sinh vào loài người, tất cả quả báo tốt đẹp y phục ẩm thực tùy niệm mà có; không những chính báo, y báo cũng đầy đủ, cho đến các loài hữu tình vô tinh thảy đều quy thuận, vì được căn bản pháp giới thì việc gì mà chẳng được!

Như kinh Hoa Nghiêm ghi: “Khi ấy, vua Đại Quang nói: Này thiện nam, ta tịnh tu Bồ-tát đại từ tràng hạnh, ta đầy đủ Bồ-tát đại từ tràng hạnh (…) Này thiện nam, những chúng sinh sống trong thành Diệu Quang đều là Bồ-tát phát tâm Đại thừa, tùy theo tâm mà thấy bất đồng. Có người thấy thành này nhỏ hẹp; có người thấy thành này rộng lớn; có người thấy cõi này toàn đất cát; có người thấy thành này được trang nghiêm bằng các thứ báu; có người thấy vách tường làm bằng đất; có người thấy vách tường bằng vật báu bao quanh; có người thấy mặt đất ngói đá gập ghềnh; có người thấy mặt đất bằng phẳng như bàn tay trang nghiêm với vô lượng châu báu ma-ni; có người thấy nhà cửa làm bằng gỗ đá; có người thấy cung điện, lâu đài, bậc thềm, cửa nẻo, mái hiên, lan can đều bằng châu báu kỳ diệu. Này thiện nam, nếu có chúng sinh tâm thanh tịnh, từng trồng căn lành cúng dường chư Phật, phát tâm thú hướng nhất thiết trí đạo, lấy nhất thiết trí làm chỗ cứu cánh. Xưa kia ta từng tu hạnh Bồ-tát, từng được nhiếp thọ thì thấy thành này được nghiêm tịnh bằng các thứ báu, còn những người khác đều thấy nhơ uế. Này thiện nam, tất cả chúng sinh đời năm trược ở trong cõi nước này thích làm việc ác, lòng ta xót thương muốn cứu giúp khiến họ vào môn tam-muội Bồ-tát đại từ vi thủ thuận thế. Khi vào môn tam-muội này những chúng sinh có tâm sợ hãi, tâm não hại, tâm oán địch, tâm tranh luận thảy đều tiêu diệt. Vì sao ? Vì khi vào môn tam-muội Bồ-tát đại từ vi thủ thuận thế, pháp như thị. Này thiện nam, hãy chờ chốc lát sẽ được thấy. Bấy giờ, vua Đại Quang liền nhập định, trong và ngoài thành có sáu thứ chấn động; các đất báu, tường báu, nhà báu, điện báu, đài quan sát, lâu các, bậc thềm, cửa nẻo, tất cả đều phát ra diệu âm, thảy đều hướng về nhà vua cung kính lễ bái. Cư dân trong thành Diệu Quang vui mừng hớn hở hướng về nhà vua gieo mình sát đất; mọi người trong thôn ấp đều đi đến nhà vua hoan hỷ kính lễ. Các loài chim thú ở gần vua đều nhìn nhau khởi tâm từ bi, hướng về nhà vua cung kính lễ bái; tất cả núi non, cây cỏ đều hướng về nhà vua kính lễ; gò nổng ao hồ biển cả đều phún vọt lên chảy tràn trước mặt vua”.

Luận Thích Ma-ha-diễn nói: “Công đức do chính mình kiến tạo nên hồi hướng về ba chỗ: một là chân như, hai là pháp nhất tâm, ba là bản giác Phật tính. Do nghĩa gì mà hồi hướng về ba chỗ ấy ? Đó là vì muốn công đức ấy được bình đẳng nên hồi hướng chân như; hoặc vì muốn công đức ấy được rộng lớn nên hồi hướng nhất tâm; hoặc vì muốn công đức ấy được thấu rõ nên hồi hướng bản giác, nên biết như thế, nên quán như thế. Hồi hướng như thế có lợi ích gì ? Rất nhiều lợi ích. Nghĩa này thế nào ? Như hạt bụi nhỏ trên mặt đất, hạt bụi nhỏ với mặt đất không sai khác, pháp môn hồi hướng cũng như thế. Lại như nhỏ một giọt nước vào biển cả, giọt nước và biển cả như nhau không khác, pháp môn hồi hướng cũng như thế. Lại như phá vỡ hạt bụi thì cùng với hư không rộng lớn cũng không khác, pháp môn hồi hướng cũng như thế. Đã nói về việc mở rộng công đức, kế đến nói về ban bố môn phổ lợi cho chúng sinh, nghĩa là đưa ra công đức rộng lớn viên mãn làm lợi ích khắp cả chúng sinh.

Tụng rằng:

Hoan hỷ Đại sĩ chí tâm khuyên,
Vô lượng Phật tử các cõi mrớc
Ta đã siêu việt cả tam giới
Vượt qua bốn quả của Thanh văn.
Một, vô số kiếp, thô đã hết
Hai, trải tăng-kỳ mới vào “không”
Phật tử các ông nên biết rõ
Dùng cả hai tay phải và trái
Nâng cao gương sáng của bản thức
Lúc này khéo tư duy bảy thức
Thấy cảnh giới nhơ uế sáu trần
Gội sạch pháp chấp, lỗi ngã nhân
Phật tử các ông được như thế
Ba thân đó là pháp, báo, hóa
Như chữ y kia bày trước mắt
Bốn đức là thường, lạc, ngã, tịnh
Sinh ra đầy đủ trong ao sen
Ta từ trời Tứ Vương tự tại
Xuống tận long cung nơi biển cả
Tùy phần xem qua các khế kinh
Tổng cộng một trăm mười vạn số
Các kinh điển ấy, pháp chân thật
Vô lượng vô biên nghĩa sai biệt.

Luận Ma-ha-diễn trình bày đầy đủ các thuyết; nếu có thiện nam, thiện nữ tự tay dâng quyển kinh này gọi là dâng trăm mười vạn kinh; nếu đọc tụng bản kinh này gọi là tụng một trăm vạn kinh. Công đức của người này được chư Phật và Bồ-tát trong mười phương thế giới số nhiều như vi trần trải qua số kiếp như vi trần khen ngợi mãi cũng không cùng tận, huống là quan sát nghĩa lý, suy tư những lời sẽ nói dưới đây.

Thế nên nếu có người đối với Tông Cảnh hoặc chợt khởi tâm, hoặc chớp mắt dấy niệm, hoặc ngẫu nhiên chạm nhằm, hoặc tạm thời xem qua, đều trở thành cái duyên vào đạo, kết trồng hạt giống Nhất thừa, cho nên chư Phật xác quyết kinh luận bản tông này đưa chúng sinh vươn lên bầu trời niết-bàn, vào sâu biển bát-nhã.

Trong bộ Lục này, văn nghĩa phong phú, tông lý đầy đủ, sưu tầm mà biết từng câu thấu suốt căn nguyên, biên tập mới rõ mỗi lời bao hàm chỉ thú, huống là tín giải ngộ nhập, chính niệm tu hành, biên chép vâng theo thực hành, khai diễn truyền bá, công đức ấy chỉ có Phật mới biết, chẳng phải toán số tính lường được, đâu thể tán dương được!

Hỏi: Thể duy tâm ở trước đã nói đại lược, tướng duy thức làm sao chỉ bày ? Tính tướng đều biết rõ mới hiển chính tông; lý sự đều thông mới trừ tà chấp.

Đáp: Muốn hiển chính tông trước tiên phải trừ tà chấp cho nên phải nhân sự rõ lý, tỏ vọng về chân. Chân là chân nương vào vọng mà có, nhân tình mà nói thể hội; sự là từ lý mà có, phá chấp mà nói sáng tỏ. Không chấp mà lý sự đều rỗng, lìa tình mà chân vọng cùng dứt, như bệnh nhặm mắt hết thì hoa đốm tự mất, niệm dứt mà cảnh huyễn chẳng còn. Nay y theo các bậc Thánh, trong cõi chúng sinh chấp giáo mê tông, vì chẳng phải một hai, gom góp những điều then chốt, trước chẳng có nhị không. Vì mê “nhân không” nên khởi sự ngu si của ngã kiến, nhận lấy sinh tử hư giả; bởi mê “pháp không” nên trái cảnh hiện lượng, chướng bồ-đề thanh tịnh. Do đó ngã pháp đều không, chỉ từ thức biến hiện. Nay lập đệ nhất tâm pháp, thức năng biến có ba thứ: một là thức dị thục thứ tám biến, hai là thức tư lương thứ bảy biến, ba là thức liễu biệt cảnh thứ sáu biến. Đã duy thức biến ngã pháp đều hư dối. Do nhị không này nên khế hội huyền chỉ; vì ngã không nên phiền não chướng đoạn; vì pháp không nên sở tri chướng dứt. Phiền não chướng đoạn nên chứng chân giải thoát; sở tri chướng dứt nên được đại bồ-đề. Sau đó hạnh mãn nhân môn tâm hợp quả hải thì cảnh với thức đều lặng, chỉ còn duy nhất chân không.

Hỏi: Từ trước Tông thừa chỉ bảo tuyệt học một mình vào thẳng, truyền ngoài kinh điển, đâu nhờ trí tuệ đa văn bàn luận dài dòng về tính tướng, lời rườm rà thì đạo lý ẩn kín như nước lay động thì không thấy hạt châu.

Đáp: Hiển tông phá chấp, tạm thời quét dọn con đường học tập, thảo luận đạt ý chỉ, dung thông chẳng phải lìa văn tự mà được giải thoát. Kinh Pháp Hoa nói: “Nếu người lợi căn trí tuệ đa văn học rộng thì có thể nói pháp cho họ”. Bậc tham huyền phải có đủ hai con mắt: một là kỷ nhãn minh tông, hai là trí nhãn biện hoặc. Do đó Thiền tông nói riêng biết tự kỷ không rõ việc trước mắt, người này chỉ có một con mắt. Chỉ có lý hoặc chỉ có sự thì trọn không viên thông; một cánh chim hay một bánh xe thì đâu thể bay hay vận chuyển ? Nếu chấp chỉ muốn một mình vào thẳng chẳng cần tham kiến nhiều người thì Thiện Tài lần đầu gặp Diệu Đức rồi cuối cùng phát minh chẳng thích hợp với việc tham kiến khắp pháp giới, cho nên biết sơ tâm hậu tâm bình đẳng, lý hạnh đồng thời. Do đó sau khi Thiện Tài đến gặp ngài Di-lặc quả Phật viên mãn, liền chỉ cho gặp lại ngài Văn-thù là bậc thiện hữu buổi đầu.

Như tiên đức nói: “Diệu trí của Văn-thù là sơ tâm, huyền môn của Phổ Hiền không hề có thể riêng, đây là lý sự ngang bằng nơi nhất chỉ, gốc ngọn không vượt qua sát-na, đâu thể chấp lấy một điều nghi mà chợt mê cả pháp giới thì sẽ chia cắt hư không cho nên phải bỏ sự chấp thủ này”.

Lại nếu cho trí tuệ là sai thì ngài đại trí Văn-thù không đáng xưng là pháp vương tử. Nếu cho đa văn là lỗi thì Vô Văn tỳ-kheo chẳng đáng bị đọa địa ngục, cần phải đem trí tuệ kết hợp với đa văn, hoàn toàn không chấp lời mà nhận được ý chỉ; nhờ đa văn rộng mở trí tuệ thì tránh khỏi trở thành kẻ quê mùa xoay mặt vào vách. Do đó nói có trí mà không hạnh là thầy của một nước; có hạnh mà không trí là đồ dùng của một nước; có trí có hạnh là báu vật của một nước; không trí không hạnh là kẻ giặc của một nước. Thế nên trí cần phải học, hạnh cần phải tu. Không trí là kẻ thù của đạo, không hạnh là kẻ giặc của nước. Nên biết ổ khóa danh tướng không có chìa khóa trí thì khó mở; dây buộc tình tưởng không phải dao tuệ thì khó cắt, cho nên cần phải tự mình tỉnh giác nỗ lực tu hành. Thế nên người đã viên thông đâu rơi vào kiến chấp tuyệt ngôn; người phát tâm bồ-đề chẳng sinh tâm đoạn diệt. Nếu có thể thấu rõ ngay tự tâm tức là một mình vào thẳng, vô cùng tỉnh yếu, vì thông suốt tất cả nhiếp pháp không sót; cũng là truyền ngoài giáo điển, lìa đây ra không có kì đặc nào khác.

Lại đại ý của Tông Cảnh là mong được giác ngộ chứng chân lý, chẳng cậy vào sự thông thái, hiểu biết trên văn tự. Pháp đã chân thật, hạnh phải phù hợp chỉ do tâm biết, chẳng đợi nói năng. Vì người chưa rõ nên không thể dứt bỏ lời nói, cần nên thức tỉnh để thể nhập cứu cánh, đây là chỗ mười phương chư Phật đồng chứng đồng nói, pháp môn nhất tế xưa nay không thay đổi. Như kinh nói: “Ta chẳng thấy có một cõi Phật, trong đó Như Lai chẳng nói pháp này”, cho nên Phật Phật đạo đồng, tâm tâm lý hợp, nên biết lìa ngoài Tông Cảnh không còn pháp để nói, vì hễ có ngôn giáo đều không ra ngoài tính bình đẳng, hoàn toàn không có hai. Do đó kinh nói như sư tử lúc giết voi chúa phải dùng hết sức, khi giết con thỏ cũng vậy, không có ý xem thường. Chư Phật Như Lai cũng như thế, lúc nói pháp cho các vị bồ-tát và nhất-xiển-đề dụng công không khác. Xin dựa vào lời Phật dạy dẫn chuyện cũ để nhắc nhờ, đâu thể ở trong chí giáo bình đẳng khởi cái hiểu sai biệt, trong cõi chúng sinh nhất chân sinh cái thấy hơn kém ? Nếu vào Tông Cảnh sẽ tránh được lỗi này. Những điều ghi chép trong đây đều là Thánh giáo của Cổ Phật, trong vô lượng ức kiếp xả bỏ vô số thân mạng, khắp vì tất cả chúng sinh cầu pháp A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề khó được này, dặn dò các vị đại Bồ-tát vì những người cầu vô thượng bồ-đề đời mạt pháp dù diễn nói khác nhau thế nào đều phải cùng hiển bày nhất tâm tại sao lại phụ ân chẳng chịu tin nhận ? Luận Trí Độ nói: “Các kinh Ma-ha-diễn đều gọi là pháp, trong đó người cầu pháp, biên chép đọc tụng, ghi nhớ rõ ràng, như thế để trị tâm bệnh chúng sinh, tụ họp các pháp dược, chẳng tiếc thân mạng. Như Thích-ca Văn Phật khi làm Bồ-tát tên là Lạc Pháp. Khi ấy, thế gian không có Phật xuất thế, không được nghe lời lành, Bồ-tát đi khắp bốn phương cầu pháp siêng năng không giải đãi mà không thể được. Bấy giờ, ma biến thành bà-la-môn bảo: Tôi có một bài kệ của Phật, ông muốn nghe thì hãy lấy da làm giấy, lấy xương làm bút, lấy máu làm mực để ghi chép bài kệ này. Lạc Pháp liền nghĩ ta nhiều đời mất thân mạng vô số mà chẳng được lợi ích. Nghĩ rồi tự lấy dao rọc da chẻ xương phơi khô để ghi chép bài kệ ấy; ma liền biến mất. Khi ấy, đức Phật biết lòng chí thành của Bồ-tát nên từ phương dưới vọt lên vì ngài nói pháp thâm diệu, Bồ-tát liền đắc vô sinh pháp nhẫn.

Lại như Tát-đà-ba-luân khổ hạnh cầu pháp như Bồ-tát Thích-ca vì cầu pháp mà đóng đinh vào thân năm trăm chỗ. Lại như Kim Kiên Vương chặt thân thể làm năm trăm khúc để làm cái bấc đèn, những khổ hạnh khó làm ấy đều vì chúng sinh mà cầu pháp, cho nên phải biết rất khó gặp bậc thiện tri thức, ví như trời Phạm Thiên ném một hạt cải dính trên đầu kim còn dễ dàng, việc gặp được minh sư đạo hữu nghe chính pháp thật khó; như chín mươi sáu ngoại đạo ở Tây Thiên đều cầu xuất ly nhưng vì gặp phải tà sư mà bị trở lại trầm luân sinh tử”.

Thế nên kinh Niết-bàn nói: “Đầy đủ bốn nhân duyên mới có thể chứng đạo niết-bàn: một là gần gũi thiện hữu hai là được nghe Chính pháp, ba là tư duy như lý, bốn là tu hành đúng như lời dạy”. Nếu không gặp thiện hữu không được nghe chính pháp thì làm sao có thể tư duy tín nhập chính niệm tu hành. Có pháp lợi như thế thì cần phải xem trọng sinh ý tưởng khó gặp, dẹp bỏ tâm ngã mạn, cho đến được nghe kinh quyển, hoặc nhờ người chỉ dạy, như có chỗ ngộ nhập đều là thầy của ta, huống chi bộ Tông Cảnh này chỉ ghi chép những điều cốt yếu, có thể gọi rằng khoanh tay ngồi thẳng tham cứu, không ra ngoài cửa mà biết việc thiên hạ; dễ làm thành hiện thực, không động chân mà đến Long cung. Thế nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Này thiện nam, thiện tri thức như mẹ hiền vì sinh ra hạt giống Phật; như cha lành vì làm lợi ích lớn; như nhũ mẫu vì giữ gìn không cho làm việc ác; như thầy giáo vì dạy học cho bồ-tát; như hướng dẫn viên giỏi vì chỉ cho con đường ba-la-mật; như lương y vì có thể trị các bệnh phiền não; như núi Tuyết làm tăng trưởng các thảo dược nhất thiết trí; như dũng tướng hay dẹp trừ tất cả nỗi sợ hãi; như khách qua sông vì giúp ra khỏi dòng sinh tử; như người lái thuyền hay đưa người đến bến châu báu trí tuệ. Này thiện nam, thường nên chính niệm tư duy các bậc thiện tri thức như thế. Lại nữa thiện nam, ông nên phụng sự tất cả thiện tri thức cần phát tâm như đại địa vì gánh vác trọng trách không mệt mỏi; nên phát tâm như kim cương vì chí nguyện bền chắc không thể hoại; nên phát tâm như núi Thiết-vi vì các khổ không lay động; nên phát tâm phục vụ hầu hạ vì những lời dạy đều khuyên tùy thuận; nên phát tâm như đệ tử vì có những giáo huấn không trái nghịch; nên phát tâm như kẻ nô bộc vì không nhàm chán việc phục vụ; nên phát tâm như dưỡng mẫu vì chịu những lao khổ mà không than vãn; nên phát tâm làm việc nặng nhọc cho người vì theo sự chỉ dạy không trái nghịch; nên phát tâm như kẻ đổ phân vì lìa kiêu mạn; nên phát tâm như lúa đã chín vì hay khiêm cung; nên phát tâm như ngựa giỏi vì lìa tính độc ác; nên phát tâm như chiếc xe lớn vì hay chuyên chở nặng; nên phát tâm như con voi điều thuận vì luôn phục tùng; nên phát tâm như núi Tu-di vì không nghiêng ngả; nên phát tâm như con chó ngoan vì không hại chủ; nên phát tâm như chiên-đà-la vì lìa kiêu mạn; nên phát tâm như con trâu cái vì không hung dữ; nên phát tâm như chiếc thuyền vì đưa khách qua lại không biết mệt; nên phát tâm như chiếc cầu vì luôn giúp người vãng lai; nên phát tâm như đứa con hiểu vì luôn luôn vâng lời; nên phát tâm như vương tử vì tuân hành giáo mệnh”. Cho nên nhờ người được nghe pháp, nhờ pháp được ngộ đạo, nhờ đạo được tu hành, nhờ tu hành được thành Phật; làm sao có thể kiêu mạn mà không vâng theo lời Phật ? Vì vậy Thế Tôn nói: “Nay ta được thành Phật, ban đầu đều do gặp nhân duyên thiện hữu”. Chẳng hạn như ngoại đạo Tu-bạt-đà sau cùng nếu không gặp được Phật Thích-ca thì làm sao bỏ tà về chính. Cho nên kinh Đại Niết-bàn ghi: “Phật dạy: Này Tu-bạt-đà, nếu nhân giả chịu khổ hạnh mà được thành đạo thì tất cả súc sinh lẽ ra phải đắc đạo, vì vậy trước hết phải điều phục tâm chớ không phải điều phục thân. Do nhân duyên này, trong kinh ta nói nên chặt đốn rừng chứ không chặt đốn cây, vì sao ? Sự sợ hãi sinh ra từ rừng chứ không phải từ cây. Muốn điều phục thân trước nên điều phục tâm. Tâm dụ cho rừng, thân dụ cho cây.

– Bạch Thế Tôn, con đã điều phục tâm trước rồi.

– Thiện nam, nay ông làm sao trước hết có thể điều tâm ?

– Bạch Thế Tôn, trước tiên con suy nghĩ dục là vô thường, vô lạc, vô tịnh; quán sắc là thường, lạc, thanh tịnh. Thực hành quán này kết sử của dục giới đã đoạn trừ được sắc xứ, nên gọi là trước hết điều phục tâm.

Lại nữa quán sắc, sắc là vô thường, như ung nhọt, như tên độc; thấy vô sắc là thường, thanh tịnh, tịch tĩnh; quán như thế kết sử của sắc giới đã đoạn trừ được vô sắc xứ, nên gọi là trước hết điều phục tâm.

Lại nữa quán tưởng là vô thường, là ung nhọt, là tên độc, quán như thế rồi được phi tưởng phi phi tưởng xứ. Phi tưởng phi phi tưởng xứ này tức là nhất thiết trí tịch tĩnh thanh tịnh, không có đọa lạc thường hằng bất biến, cho nên con có thể điều phục tâm của mình.

Phật bảo: Thiện nam, ông làm sao có thể điều phục tâm ? Nay ông đã được định phi tưởng phi phi tưởng vẫn gọi là tưởng. Niết-bàn vô tưởng ông thế nào nói là được niết-bàn ? Thiện nam, ông đã có thể quở trách các tưởng thô, nay tại sao lại ưa thích các tưởng tế, chẳng biết quở trách phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên gọi là tưởng như là ung nhọt, như là tên độc. Thiện nam, thầy của ông là Uất-đầu-lam-phất lợi căn thông minh còn không thể đoạn trừ phi tưởng phi phi tưởng xứ phải thụ thân xấu ác, huống chi người khác ?

– Bạch Thế Tôn, làm sao có thể đoạn trừ tất cả các hữu ?

Phật dạy: Thiện nam, nếu quán thật tưởng, người này có thể đoạn tất cả các hữu.

– Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là thật tưởng ?

– Thiện nam, tưởng của vô tưởng gọi là thật tưởng.

– Bạch Thế Tôn, thế nào là tưởng của vô tưởng ?

– Thiện nam, tất cả pháp không có tướng tự, không tướng tha và không tướng tự tha; không có tướng vô nhân, không tướng tác, không tướng thụ, không tướng tác giả, không tướng thụ giả, không tướng pháp phi pháp, không tướng nam nữ, không tướng sĩ phu, không tướng vi trần, không tướng thời tiết, không tướng vì mình, không tướng vì người, không tướng vì mình người, không tướng có, không tướng không, không tướng sinh, không tướng sinh giả, không tướng nhân, không tướng nhân nhân, không tướng quả, không tướng quả quả, không tướng ngày đêm, không tướng tối sáng, không tướng thấy, không tướng người thấy, không tướng nghe, không tướng người nghe, không tướng hay biết, không tướng người hay biết, không tướng bồ-đề, không tướng người được bồ-đề, không tướng nghiệp, không tướng nghiệp chủ, không tướng phiền não, không tướng phiền não chủ. Thiện nam, những tướng trên tùy theo chỗ diệt gọi là thật tưởng. Thiện nam, tất cả các pháp đều hư dối, tùy theo chỗ diệt của nó, đây gọi là thật tưởng, là pháp giới, gọi là tất cánh trí, là đệ nhất nghĩa đế, là đệ nhất nghĩa không.