TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 38

Hỏi: Địa vị ban đầu và cuối cùng không lìa bản giác năng hóa sở hóa chỉ là nhất tâm. Nếu ngộ bản thể xứng giác tính thì bản giác bất khả đắc. Nếu bất khả đắc thì hạnh vị uổng công thực thi; vậy đắc cùng chẳng đắc ý nghĩa thế nào ?

Đáp: Đắc mà chẳng đắc thì thỉ giác với bản giác không khác; chẳng đắc mà đắc lúc diệu chứng sẽ thể hội sâu xa.

Như kinh Kim Cương Tam-muội ghi: “Phật dạy: Này thiện nam, ngũ vị nhất giác từ bản lợi mà vào, như hóa chúng sinh từ bản xứ kia.

Xá-lợi-phất hỏi: Thế nào là từ bản xứ kia ?

Phật nói: Xưa nay không bản xứ, ở nơi bản tế không nơi chốn vào chân thật phát bồ-đề sẽ thành Thánh đạo. Vì sao ? Này thiện nam, như tay nắm lấy hư không là chẳng được hay chẳng phải chẳng được ?”.

Luận giải thích: Nêu lên điều nghi “nếu bản xứ nên đắc nhập”, nếu đắc nhập thì chẳng phải không bản xứ, vì dẹp trừ điều nghi này nên dẫn ví dụ để giải thích. Tay nắm lấy hư không: tay nắm lấy dụ cho hành xứ năng nhập, hư không dụ cho bản sở nhập. Chẳng được, vì hư không vô hình không thể nắm bắt; chẳng phải chẳng được, vì trong cái nắm bắt ấy đều là hư không. Bản lợi cũng thế, xưa nay không có tính bản xứ nên bất khả đắc; cái bản của vô bản chẳng không nên chẳng phải bất khả đắc. Đây là ngộ bản gọi là đắc chứ chẳng phải hướng ngoại tìm cầu. Nếu có sở cầu liền mất bản. Lại nữa, nếu có sở đắc thì chẳng đắc bồ-đề, vì vô đắc nên được bồ-đề. Lại nữa, pháp vô đắc chẳng phải được từ bên ngoài, cần phải tìm tất cả pháp mới tận cùng nguồn gốc của vô đắc.

Luận Phát Bồ-đề Tâm nói: “Trong vô pháp nói các pháp tướng; trong vô đắc nói pháp hữu đắc; như việc thấy cảnh giới chư Phật”. Tuy tìm tất cả pháp nhưng vì thấu rõ vô đắc nên vô sở y. Trong vô sở cầu ta cố cầu. Cho nên kinh Đại Bảo Tích ghi: “Phật hỏi Văn-thù: Nương vào cái gì để tu hành chân chính ? Văn-thù đáp; Tu hành chân chính là vô sở y”.

Giải thích: Những điều ngôn giáo nói đều là chứng cái nghĩa nhất tâm. Nếu ngoài tâm thấy pháp là tu hành sai lệch vì có sở y. Nếu tu hành chân chính thì không nương một vật. Sở y đã lặng, năng y cũng mất. Năng sở đều không, chính tà cùng bặt, đó là tu hành chân chính.

Vô Sinh Nghĩa ghi: “Kinh nói: Pháp lìa mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; vì thế sáu căn không thể nắm bắt, cho nên nói người học không nắm bắt”.

Luận Đại Trí Độ ghi: “Như côn trùng có thể tụ họp khắp nơi nhưng không thể tụ họp trong ngọn lửa. Ý thức của chúng sinh cũng vậy, đều có thể duyên các pháp thấy nghe nhưng không thể duyên bát-nhã, cho nên biết tính bát-nhã lìa ý thức không thể nắm bắt. Lại nữa, người hay nắm bắt, tính vốn tự không nên không thể nắm bắt. Nếu dùng mắt nắm bắt, như kinh nói: “Tính mắt cũng không”. Nếu dùng tai nắm bắt, tính tai cũng không. Nếu dùng tay nắm bắt, tính tay cũng không. Nếu dùng ý nắm bắt, tính ý cũng không. Nhân và pháp đều là nhất như; như chẳng thể nắm bắt được như, không chẳng thể nắm bắt được không, tức là người học không nắm bắt cho nên nói vô đắc”.

Lại nữa, một niệm tâm khởi có hai loại giác:

1- Y cứ hữu tâm:

Quan sát một niệm vừa khởi, niệm sau không tiếp nối thì không thành lỗi, vì thế trong Thiền môn có nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ lo giác chậm”. Lại nói: “Chợt khởi là bệnh, không tiếp nối là thuốc”. Vì tâm sinh chính là lúc tội sinh, cho nên sơ tâm nhiếp niệm làm đầu ấy là thềm bậc vào đạo. Như Chư Kinh Yếu Tập ghi: “Nhiếp tâm một chỗ gọi là công đức tùng lâm, tán loạn phút chốc gọi là phiền não la-sát”. Do đó Đàm Quang Thích tử hàng phục mãnh hổ quỳ trước gối, tiên nhân bện tóc mặc cho chim làm tổ trên đầu, cho đến chẳng thể tự chạm sum la, cần phải nương tựa các căn nội tưởng cảm phát. Làm sao biết như vậy ? Hiện nay có tâm cảm bên trong, sự việc phát bên ngoài, hoặc duyên bên ngoài khởi nhiễm bên trong, cho nên biết trong ngoài giúp nhau biểu hiện tác dụng, tâm thức không thể xả bỏ hết. Do đó kinh nói: “Ông vua tâm chính thì sáu quan không tà; thức ý hôn trầm thì ông chủ tối tăm”. Nay oán hận sáu quan thì nên hổ thẹn chế ngự sáu căn không cho rong ruỗi.

Phẩm Tâm Ý trong kinh Pháp Cú ghi: “Xưa, lúc Phật tại thế có một đạo nhân tu dưới cội cây bên bờ sông, trong 12 năm tham tưởng chẳng trừ, tâm ý tán loạn, chỉ nhớ đến lục dục: mắt thấy sắc, tai nghe thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, ý duyên pháp, thân an tĩnh mà ý lăng xăng nên trải qua thời gian dài không thể đắc đạo. Đức Phật hóa ra một sa-môn đến cùng tá túc dưới cội cây. Khi trăng lên có con rùa từ dưới sông bò đến cội cây, lại có con rái cá đói đang đi tìm mồi; gặp con rùa, rái cá định ăn thịt, con rùa rụt đầu đuôi và bốn chân vào trong mai nên rái cá không ăn được. Chờ rái cá đi rồi, rùa mới lú đầu chân bò đi như cũ. Bởi không làm gì được nó nên được thoát hiểm. Khi ấy, đạo nhân nói với hóa sa-môn:

– Con rùa có áo giáp hộ mạng, rái cá không làm gì được.

Hóa sa-môn đáp:

– Ta nghĩ thế nhân chẳng bằng con rùa, không biết vô thường, buông thả lục tình, ác ma ngoại đạo được dịp. Thân thể hư hoại, thần thức ra đi, sinh tử không mối manh, luân chuyển năm đường khổ não vô cùng đều do ý tạo ra, nên tự siêng năng cầu diệt độ an lạc.

Bấy giờ, hóa sa-môn nói kệ:

Giấu sáu chi như rùa
Giữ gìn ý như thành
Trí tuệ chiến đấu ma
Chiến thắng không tai họa.

Thế nên dứt sạch tâm ý thì nhàn nhã trong sáu đường, tất cả ma cảnh không làm gì được, như rùa giấu sáu chi, khéo giữ gìn mạng sống.

Luận Khởi Tín ghi: “Nếu niệm sau giác biết niệm trước, tuy gọi là giác nhưng vẫn là bất giác”, cho nên y cứ hữu tâm mà nói, vì là hạnh ban đầu của phàm phu.

2- Y cứ vô tâm:

Biết lúc sơ khởi tức không có tướng ban đầu, không đợi niệm sau diệt, vì lúc đang sinh một niệm hoàn toàn bất khả đắc.

Kinh Ngũ Thập Giảo Kế ghi: “Bồ-tát hỏi Phật: Tội sinh rồi diệt, tại sao con chẳng thấy. Phật hỏi các Bồ-tát: Tâm các ông có thể chuyển chăng ? Các Bồ-tát đáp: Tâm con có chuyển; giả sử tâm con không chuyển cũng không thể trò chuyện cùng Phật. Phật hỏi: Nếu lúc tâm sinh có thể tự biết tâm sinh chăng ? Các Bồ-tát đáp: Con chỉ biết lúc thấy nhân duyên, chẳng biết lúc mới sinh khởi. Phật nói: Như ông nói, vẫn chưa thể biết lúc tâm mới sinh thì sao có thể không tội, cho nên biết không quán sát một niệm ban đầu do giả mà thành thì làm sao tránh khỏi niệm sau nối tiếp trở thành lỗi ? Vì tất cả sinh tử phiền não đều do bất giác. Nếu có trí dẫn đường thì lỗi do đâu sinh ? Lại nếu biết rõ ngoài tâm không pháp thì tình tưởng chẳng sinh, không cần dụng công, thẳng vào bất tư nghì”.

Thanh Lương Sớ ghi: “Kinh nói về pháp thể của Thập Địa bặt dứt đường tâm hành và ngôn ngữ, giải thích bất tư nghì, nghĩa là đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt; y cứ pháp hướng về tình gọi là bất tư nghì, vì ngoài pháp ấy vốn không có tình. Nghĩa này thế nào ? Sự hưng khởi của tình tướng là do vọng tưởng, do vọng tưởng nên có tướng sinh. Vì y tướng nên lại khởi tâm tưởng. Theo danh chấp thật chính là giác quán. Nương giác quán khởi ngôn thuyết; nương ngôn thuyết lại khởi tâm tưởng hư vọng, chấp lấy pháp đã thuyết đây là ngôn ngữ; cho nó là đạo, tâm là hạnh, ở đây tướng tưởng sinh khởi không ngừng. Nay khế hợp pháp thật, diệt trừ vọng tưởng, tướng liền chẳng sinh. Tướng chẳng sinh nên gọi là tâm diệt. Vì tâm diệt nên danh chẳng sinh. Danh chẳng sinh nên giác quán chẳng khởi; giác quán chẳng khởi nên ngôn thuyết mất. Ngôn thuyết mất nên chẳng còn nương gá ngôn ngữ; chấp lấy sở thuyết mà chẳng chấp lấy năng thuyết nên đường ngôn ngữ bặt, chỗ tâm hành diệt. Tâm hành diệt nên gọi là bất tư nghì, vì pháp vượt ra ngoài tình, ý thức và ngôn ngữ không đến được nên bất tư nghì, là biết tâm vọng tưởng mất, duyên cảnh giới diệt, như châm cứu đúng huyệt dứt hẳn gốc bệnh, gọi là thầy thuốc giỏi.

Hỏi: Chư pháp sở sinh, duy tâm sở hiện, nếu từ tâm hiện là tự tính si; nếu chấp duyên sinh là tha tính si; nếu tâm cùng duyên hòa hợp sinh là cộng tính si; nếu phi tâm phi duyên mà sinh là vô nhân si, làm thế nào thông đạt để khỏi rơi vào bốn chấp ?

Đáp: Nếu luận về thật trí của bốn tính thì trong môn tự tướng đều chẳng thể nói. Nếu theo trí của bốn Tất-đàn thì trong môn cộng tướng cũng chẳng thể nói.

Như Chỉ Quán hỏi: Tâm khởi ắt phải nhờ duyên là tâm đủ ba nghìn pháp hay là duyên đủ, hay là cộng đủ, hay là ly đủ ? Nếu tâm đủ thì tâm khởi không cần duyên. Nếu duyên đủ thì không liên quan đến tâm. Nếu cộng đủ thì lúc chưa cộng là không, lúc cộng làm sao có ? Nếu ly đủ thì đã lìa tâm lìa duyên, trong chốc lát tâm còn chưa đủ bốn câu thì làm sao đủ ba nghìn pháp ?

Đáp: Người theo Địa Luận Tông nói: “Tất cả giác mê chân vọng đều nương vào pháp tính; pháp tính giữ gìn chân vọng; chân vọng nương vào pháp tính”.

Luận Nhiếp Đại Thừa ghi: “Pháp tính chẳng bị lậu hoặc làm nhiễm ô, chẳng bị chân như làm thanh tịnh, cho nên pháp tính chẳng phải y trì”. Y trì chính là a-lại-da, không tối, không sáng, giữ gìn tất cả chủng tử. Nếu theo các sư của Địa Luận Tông thì tâm đầy đủ tất cả pháp. Nếu theo các sư của Nhiếp Luận Tông thì duyên đầy đủ tất cả pháp. Các sư hai tông này đều y cứ một bên. Nếu pháp tính sinh tất cả pháp là pháp tính phi tâm, phi duyên; phi tâm nên tâm sinh tất cả pháp, phi duyên nên ứng duyên sinh tất cả pháp, làm sao riêng nói pháp tính là y trì của chân vọng ?

Nếu nói pháp tính chẳng phải y trì, a-lại-da là y trì; lìa ngoài pháp tính riêng có a-lại-da y trì thì chẳng liên quan đến pháp tính.

Nếu pháp tính chẳng lìa a-lại-da, lại-da y trì tức là pháp tính y trì thì làm sao riêng nói lại-da là y trì ? Trái với kinh, kinh nói: “Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải khoảng giữa, cũng chẳng thường tự có”. Lại trái với Long Thọ, ngài Long Thọ nói: “Các pháp chẳng tự sinh, cũng chẳng từ cái khác sinh, chẳng cộng, chẳng vô nhân”. Đem ví dụ để kiểm chứng, là phải nhờ tâm nên có mộng, hay nhờ giấc ngủ nên có mộng, hay giấc ngủ cùng với tâm nên có mộng, hay lìa tâm lìa giấc ngủ nên có mộng.

Nếu nhờ tâm có mộng thì lúc không ngủ cũng phải có mộng; nếu nhờ giấc ngủ có mộng thì người chết như ngủ phải có mộng; nếu giấc ngũ với tâm hợp lại có mộng thì người ngủ có khi không mộng; lại giấc ngủ và tâm đều có mộng thì khi hợp lại phải có mộng; nếu cả hai đều không mộng thì hợp lại lẽ ra chẳng nên có. Nếu lìa tâm lìa giấc ngũ mà có mộng thì hư không lìa cả hai phải thường có mộng. Bốn trường hợp tìm mộng chẳng được thì tại sao trong giấc ngủ chiêm bao thấy mọi việc ?

Tâm dụ cho pháp tính, mộng dụ cho lại-da, tại sao riêng y cứ pháp tính, lại-da sinh tất cả pháp ? Phải biết bốn trường hợp tìm tâm bất khả đắc, tìm ba nghìn pháp cũng bất khả đắc. Đã từ bốn trường hợp sinh ba nghìn pháp bất khả đắc, phải từ nhất niệm tâm diệt sinh ba nghìn pháp chăng ? Tâm diệt còn không thể sinh một pháp, làm sao có thể sinh ba nghìn pháp ?

Nếu từ tâm cũng diệt cũng bất diệt sinh ba nghìn pháp, nghĩa là cũng diệt cũng bất diệt, tính nó trái nhau như lửa với nước thì làm sao có thể sinh ba nghìn pháp ?

Nếu cho rằng tâm phi diệt phi bất diệt sinh ba nghìn pháp, nghĩa là phi diệt phi bất diệt, phi năng phi sở thì làm sao có thể sinh ba nghìn pháp ?

Cũng theo thời gian không gian tìm cầu ba nghìn pháp cũng bất khả đắc, chẳng theo thời gian không gian tìm cầu ba nghìn pháp cũng bất khả đắc. Đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt nên gọi là cảnh bất khả tư nghì.

Kinh Đại Niết-bàn ghi: “Sinh sinh bất khả thuyết, sinh bất sinh bất khả thuyết, bất sinh sinh bất khả thuyết, bất sinh bất sinh bất khả thuyết” là nghĩa này vậy. Phải biết trong đệ nhất nghĩa một pháp còn bất khả đắc huống chi ba nghìn pháp ? Trong tục đế, nhất tâm còn đủ vô lượng pháp huống chi ba nghìn pháp ? Như Phật bảo Đức Nữ: Trong vô minh có chăng ? Thưa không! Ngoài vô minh có chăng ? Thưa không! Trong ngoài có chăng ? Thưa không! Chẳng phải trong chẳng phải ngoài có chăng ? Thưa không! Phật nói: Như vậy mà có!

Kinh Đại Niết-bàn ghi: “Có nhân duyên nên cũng bất khả thuyết” đây là nhân duyên tứ tất-đàn. Tuy tứ cú thầm lặng, từ bi lân mẫn, trong chỗ không danh tướng tạm gọi danh tướng.

Hoặc làm nên thế giới nói tâm đầy đủ tất cả pháp, người nghe hoan hỉ như nói tam giới không có pháp riêng chỉ là duy tâm tạo ra, là văn này vậy!

Hoặc nói duyên sinh tất cả pháp, người nghe hoan hỉ, như nói ngũ dục khiến người đọa ác đạo, thiện tri thức là nhân duyên lớn, ấy là hóa đạo khiến được thấy Phật, là văn này vậy!

Hoặc nói nhân duyên cùng sinh tất cả pháp, người nghe hoan hỉ, như kệ nói: “Thủy ngân và chân kim, hay đắp các hình tượng; công đức cùng pháp thân, đến ứng hiện mọi nơi”, là văn này vậy!

Hoặc nói lìa sinh tất cả pháp, người nghe hoan hỉ, như nói mười hai nhân duyên chẳng phải là pháp Phật, trời, người, tu-la tu tập, tính nó tự như thế, là văn này vậy! Đây là tứ cú thế giới tất-đàn nói tâm sinh ba nghìn pháp.

Thế nào là vị nhân tất-đàn ?

Như nói Phật pháp như biển rộng chỉ cần tin là có thể vào. Tin là nguồn của đạo, là mẹ của công đức. Niềm tin sinh ra tất cả thiện pháp, ông chỉ cần phát tâm bồ-đề là xuất gia, cấm giới đầy đủ, người nghe sinh lòng tin, là văn này vậy!

Hoặc nói nhân duyên sinh tất cả pháp, như nói nếu không gặp Phật sẽ đọa vào địa ngục khổ vô lượng kiếp. Vì gặp Phật nên được niềm tin như từ y-lan sinh ra chiên-đàn, người nghe sinh lòng tin, là văn này vậy!

Hoặc nói hợp sinh tất cả pháp, như nói nước tâm lặng trong hạt châu hiển hiện; do căn lực từ thiện thấy việc như thế, người nghe sinh lòng tin, là văn này vậy!

Hoặc nói lìa sinh tất cả pháp, như nói phi nội quán được trí tuệ, cho đến phi nội ngoại quán được trí tuệ. Nếu có trụ trước, Tiên-ni Phạm chí không có chút niềm tin huống là bỏ tà theo chính, người nghe sinh lòng tin, là văn này vậy! Đây là tứ cú vị nhân tất-đàn nói tâm sinh ba nghìn pháp.

Thế nào là đối trị tất-đàn ?

Nói tâm đối trị tất cả pháp, như nói được nhất niệm thì mọi điều tà đều diệt, là văn này vậy!

Hoặc nói nhân duyên đối trị tất cả ác, như nói được nghe ánh sáng đại tuệ vô thượng, tâm an định như đất bất động là văn này vậy!

Hoặc nói nhân duyên hòa hợp đối trị tất cả ác, như nói một phần từ tư duy sinh, một phần từ thầy được, là văn này vậy!

Hoặc nói lìa đối trị tất cả ác, lúc ta ngồi đạo tràng không đắc một pháp, nắm tay không gạt trẻ con là dẫn dụ hóa độ tất cả, là văn này vậy! Đây là tâm đối trị tất-đàn phá tất cả điều ác.

Thế nào là đệ nhất nghĩa tất-đàn ?

Tâm thấy được lý, như nói tâm ý khai mở hoát nhiên đắc đạo.

Hoặc nói duyên thấy được lý, như nói phút chốc nghe qua liền được tam bồ-đề cứu cánh.

Hoặc nói nhân duyên hòa hợp đắc đạo như ngựa giỏi thấy bóng roi liền được chính lộ.

Hoặc nói lìa thấy được lý, như nói vô sở đắc là đắc, đã là đắc vô sở đắc, đây là tứ cú đệ nhất nghĩa tất-đàn thấy lý, huống là tâm sinh ba nghìn pháp ? Ý chỉ của Phật đều tịnh, chẳng phải do nhân duyên hòa hợp hay ly tán, tức thế đế là đệ nhất nghĩa đế.

Lại tứ cú có thể nói, nói nhân cũng đúng, nói duyên cũng đúng, nói hòa hợp cũng đúng, nói ly tán cũng đúng. Như đối với người mù nói sữa trắng như vỏ sò, như hạt gạo, như tuyết, như chim hạc. Người mù nghe những lời ấy liền hiểu. Sữa tức là thế đế, là đệ nhất nghĩa đế. Nên biết cả ngày nói mà chẳng nói; suốt ngày chẳng nói mà nói; suốt ngày cùng che, suốt ngày cùng chiếu; tức phá tức lập, tức lập tức phá, kinh luận đều như thế. Thiên Thân, Long Thọ bên trong lặng chiếu soi, bên ngoài hợp thời nghi, mỗi ngài đều y cứ linh hoạt nhưng các sư khác hiểu thiên lệch, người học câu chấp bèn khởi tranh cải để bảo vệ kiến giải, thật trái Thánh đạo. Nếu được ý này thì đều bất khả thuyết và đều khả thuyết. Nói tóm lại, tính của vô minh pháp tính sinh ra tất cả pháp, như giấc ngủ cùng tâm hợp thì có tất cả việc mộng; tâm hợp với duyên thì ba thứ thế gian, ba nghìn tướng tính đều từ tâm khởi, một tính dù ít mà chẳng không, vô minh tuy nhiều mà chẳng có, vì sao chỉ một là nhiều, nhiều mà chẳng phải nhiều; chỉ nhiều là một, một mà chẳng phải ít, cho nên gọi tâm này là cảnh bất tư nghì.

Nếu hiểu được một tâm tất cả tâm, tất cả tâm một tâm, chẳng phải một, chẳng phải tất cả, cho đến khắp tất cả đều là cảnh bất khả tư nghì, trên đây là nói theo Thiên Thai Giáo. Nay y cứ tự tính duyên khởi pháp giới vô ngại trong kinh Hoa Nghiêm nói cảnh giới bất tư nghì, như trong phẩm Nhập Pháp Giới kinh Hoa Nghiêm ghi: “Thiện Tài đồng tử ở trước đại lầu các Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng, năm vóc sát đất, hệ niệm tư duy quán sát, vì có tín giải sâu và đại nguyện lực nên vào môn biến nhất thiết xứ trí tuệ thân bình đẳng, hiện thân ở trước tất cả Như Lai, tất cả Bồ-tát, tất cả thiện tri thức, tất cả tháp miếu Như Lai, tất cả hình tượng Như Lai, tất cả trú xứ chư Phật chư Bồ-tát, tất cả pháp bảo, tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật và tháp miếu, tất cả phước điền Thánh chúng, tất cả cha mẹ tôn giả, tất cả mười phương chúng sinh đều như trên nói, ngài tôn trọng lễ bái tán thán tận thuở vị lai không ngừng nghỉ; đồng hư không vì không biên lượng, đồng pháp giới vì không chướng ngại, đồng thật tế vì khắp tất cả, đồng Như Lai vì không phân biệt, như bóng vì theo trí hiện, như mộng vì từ tư duy khởi, như hình tượng vì phô bày tất cả, như tiếng vang vì duyên chỗ phát; không có sinh vì thay nhau hưng thịnh rồi tàn tạ, không có tính vì theo duyên chuyển.

Lại biết chắc chắn tất cả các báo đều từ nghiệp khởi, tất cả các quả đều từ nhân khởi, tất cả các nghiệp đều từ tập khởi, tất cả Phật xuất thế đều từ tín khởi, tất cả hóa hiện các việc cúng dường đều từ quyết định giải khởi, tất cả hóa Phật đều từ tâm cung kính khởi, tất cả Phật pháp đều từ căn lành khởi, tất cả hóa thân đều từ phương tiện khởi, tất cả Phật sự đều từ đại nguyện khởi, tất cả các hạnh tu của Bồ-tát đều từ hồi hướng khởi, tất cả pháp giới rộng lớn trang nghiêm đều từ cảnh giới nhất thiết trí khởi. Lìa đoạn kiến vì biết hồi hướng, lìa thường kiến vì biết vô sinh, lìa không nhân kiến vì biết chính nhân, lìa điên đảo kiến vì biết lý như thật, lìa tự tại kiến vì biết chẳng do người khác, lìa tự tha kiến vì biết từ duyên khởi, lìa biên chấp kiến vì biết pháp giới vô biên, lìa vãng lai kiến vì biết như ảnh tượng, lìa hữu vô kiến vì biết chẳng sinh diệt, lìa tất cả pháp kiến vì biết không vô sinh, vì biết chẳng tự tại, vì biết do nguyện lực sinh ra; lìa tất cả tướng kiến nhập vào nơi vô tướng vì biết tất cả pháp như hạt giống nảy mầm, như dấu ấn sinh đường nét, vì biết bản chất như hình tượng, vì biết âm thanh như tiếng vang, vì biết cảnh như chiêm bao, vì biết nghiệp như huyễn, vì rõ tâm thế gian hiển hiện, vì rõ nhân quả sinh khởi, vì rõ nghiệp báo tập họp, vì rõ tất cả các công đức đều lưu xuất từ phương tiện thiện xảo của Bồ-tát.

Thiện Tài đồng tử thể nhập trí ấy, tâm niệm ngay thẳng trong sạch cung kính đảnh lễ trước lâu các thiện căn bất tư nghì rót vào thân tâm, trong mát sạch sẽ tươi nhuận từ đất sinh khởi, ngài nhất tâm chiêm ngưỡng mắt không rời, chắp tay đi kinh hành vô lượng vòng và nghĩ rằng đài lâu các này là trú xứ của bậc giải không vô tướng vô nguyện, là trú xứ của người đối với tất cả pháp vô phân biệt, là trú xứ của người rõ pháp giới vô sai biệt, là trú xứ của người biết tất cả chúng sinh bất khả đắc, là trú xứ của người biết tất cả pháp vô sinh, là trú xứ của người chẳng đắm nhiễm thế gian, là trú xứ của người chẳng đắm trước nơi cư trú, là trú xứ của người không ưa thích tất cả thôn xóm, là trú xứ của người chẳng nương vào tất cả cảnh giới, là trú xứ của người lìa tất cả tưởng, là trú xứ của người biết tất cả pháp vô tự tính, là trú xứ của người dứt tất cả nghiệp phân biệt, là trú xứ của người lìa tất cả tưởng tâm ý thức, là trú xứ của người không nhập không xuất tất cả đạo, là trú xứ của người nhập bát-nhã ba-la-mật thậm thâm, là trú xứ của người có thể dùng phương tiện trụ pháp giới phổ môn, là trú xứ của người dập tắt tất cả lửa phiền não, là trú xứ của người dùng tăng thượng tuệ dẹp trừ tất cả kiến, ái, mạn, là trú xứ của người xuất sinh tất cả thiền, giải thoát, tam-muội thông đạt mà du hí, là trú xứ của người quán sát tất cả cảnh giới tam-muội của Bồ-tát, là trú xứ của tất cả Như Lai, là trú xứ của người đem một kiếp vào tất cả kiếp, đem tất cả kiếp vào một kiếp mà chẳng phá hoại tướng,[640c] là trú xứ của người đem một cõi vào tất cả cõi, đem tất cả cõi vào một cõi mà chẳng phá hoại tướng, là trú xứ của người đem một pháp vào tất cả pháp, đem tất cả pháp vào một pháp mà chẳng phá hoại tướng, là trú xứ của người đem một chúng sinh vào tất cả chúng sinh, đem tất cả chúng sinh vào một chúng sinh mà chẳng phá hoại tướng, là trú xứ của người đem một vị Phật vào tất cả vị Phật, đem tất cả vị Phật vào một vị Phật mà chẳng phá hoại tướng, là trú xứ của người trong một niệm mà biết tất cả ba đời, là trú xứ của người trong một niệm mà đi đến tất cả cõi nước.

Sau khi cung kính nhiễu quanh Bồ-tát Di-lặc, Thiện Tài đồng tử bạch: “Cúi xin đại Thánh mở cửa lâu các cho con được vào”. Khi ấy. Bồ-lát Di-lặc đến trước lâu các khảy ngón tay, cửa liền mở, ngài bảo Thiện tài bước vào. Thiện Tài mừng rỡ đi vào, cửa liền đóng lại, ngài thấy lâu các rộng lớn vô cùng đồng với hư không, cho đến tự thấy thân mình đầy khắp trong tất cả lâu các, thấy các cảnh giới tự tại bất khả tư nghì, việc Bồ-tát Di-lặc ba đời hành Bồ-tát hạnh, bát tướng thành đạo.

Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc liền thu nhiếp thần lực, vào trong lâu các, khảy ngón tay bảo Thiện Tài: “Này thiện nam, khởi pháp tính như thế, đây là Bồ-tát biết tướng hiện ra do nhân duyên các pháp trí tụ tập. Tự tính ấy như huyễn, như mộng, như ảnh, như tượng, đều chẳng thành tựu. Cho đến ví như nhà ảo thuật diễn trò không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Tuy không đến đi nhưng do sức huyễn thuật nên thấy được rõ ràng, các việc trang nghiêm ấy cũng như thế, không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Tuy không đến đi nhưng do sức huyễn trí tập quán bất khả tư nghì và do sức đại nguyện trước kia nên hiển hiện như thế.

Giải thích:

Khảy ngón tay phát ra tiếng, cửa liền mở, vừa phát minh liền thấy tính gọi là mở.

Vào rồi cửa đóng lại, chỗ ngộ như xưa, chẳng phải là mới được, nên nói là cửa đóng lại.

Hoặc nói: Bồ-tát Từ Thị khảy ngón tay phát ra tiếng, cửa liền mở, âm thanh là nghĩa chấn động khải phát; khảy ngón tay là nghĩa xả bỏ trần cảnh; trần mất chấp hết, pháp môn tự khai.

Thiện Tài vào rồi cửa liền đóng lại, nghĩa là mê hết trí hiện gọi là mở ra. Trí không trong, không ngoài, không khoảng giữa, không ra, không vào, không mê, không chứng gọi là đóng lại.

Thấy lâu các rộng lớn vô cùng đồng với hư không là cảnh giới của trí.

Tự tính ấy như huyễn, như mộng, như ảnh, như tượng đều chẳng thành tựu, là gồm hết tất cả cảnh giới Phật sự bất tư nghì vô biên ở trên, vì tính chân như pháp nhĩ tùy duyên; tuy là tùy duyên nhưng pháp nhĩ quy tính. Vì lúc tùy duyên dường như có hiển hiện như nhìn pháp huyễn chẳng có mà có, xem cảnh mộng chẳng thấy mà thấy; như bóng trong nước chẳng ra chẳng vào, như cảnh trong gương chẳng trong chẳng ngoài, vì vô tính tùy duyên nên lý không thành tựu; vì tùy duyên vô tính nên sự không thành tựu. Nếu sự lý chẳng thành thì tất cả pháp chẳng thành, nên nói thảy đều chẳng thành tựu. Chỉ như thị như thị hiển hiện, như thị như thị chứng tri, phân minh rõ ràng lại đồng Tông Cảnh, ánh sáng đan xen nhau, bóng bóng lồng nhau như thập huyền môn trùng trùng vô tận.

Thập huyền môn:

1/ Đồng thời cụ túc tương ưng môn:

Đại sư Trí Nghiễm giải thích: Đây là căn cứ trên sự tương ưng không nói có trước sau. Thập huyền môn này mỗi môn đều đủ mười pháp đồng thời cụ túc: một giáo nghĩa, hai lý sự, ba cảnh trí, bốn hạnh vị, năm nhân quả, sáu y chính, bảy thể dụng, tám nhân pháp, chín nghịch thuận, mười cảm ứng. Bất cứ chỗ nào cùng có đủ mười pháp này thảy đều đồng thời cụ túc.

Nay thử y cứ nhân quả đồng thời, nếu Tiểu thừa nói nhân quả là chuyển nhân để thành quả, nhân diệt quả mới thành; còn nhân quả trong Đại thừa cũng được đồng thời nhưng không được vô tận, như duyên gần như cái nhà để thành cái nhà, nhân quả đồng thời thành mà không thành vật khác. Vì nhân có thân sơ, cho nên thành có tận. Nếu nhất thừa nói nhân quả đồng thời là nêu sơ duyên để vào thân duyên. Cho nên lúc thành cái nhà thì tất cả pháp giới đều nhất thời thành. Nếu có một pháp chẳng thành thì cái nhà này cũng chẳng thành, như bước đầu tiên đến thì tất cả bước đều đến; ngược lại nếu một bước chẳng đến thì tất cả bước đều chẳng đến, vì thế kinh nói: “Tuy thành đẳng chính giác nhưng chẳng bỏ sơ phát tâm”. Do đó một thành tất cả thành, là pháp môn nhất tế vậy.

2/ Nhân-đà-la võng cảnh giới môn:

Đây là nói theo thí dụ, như tất cả ảnh tượng hiện ra trong mỗi hạt châu của tấm lưới châu trên cung điện trời Đế Thích, muôn nghìn ánh sáng trùng trùng xen lẫn ánh chiếu rõ ràng trong một hạt châu, huống là tất cả nhân pháp cảnh trí trùng trùng xen nhau trong nhất tâm pháp giới, vì tính chân như rốt cùng vô tận.

Luận nói: “Lưới báu Đế Thích đặc biệt, chỉ có bậc trí mới biết, mắt không thể thấy”. Tấm lưới này là do sợi tơ báu dệt thành được giăng nơi pháp đường ngang dọc bốn mươi do-tuần cũng là do châu báu họp thành. Mỗi mắt lưới đều có minh châu sáng sạch. Lưới báu bủa giăng ánh hiện nhau. Trong mỗi lưới châu đều có toàn thân lưới châu và 40 do-tuần toàn thể điện báu. Trong mỗi cây xà ngang, mỗi cột trụ mới, vách tường, mỗi cung đẩu, mỗi ảnh tượng đều có bóng toàn thể cung điện trùng trùng ánh hiện lẫn nhau, cho nên nói như lưới trời Đế Thích trùng trùng vô tận. Pháp môn này cũng như thế, trong mỗi vị, mỗi pháp, mỗi trần, mỗi cảnh tượng, một danh tự, cho đến chín đời mười đời đều trùm khắp pháp giới, và dùng hai trí chân tục thể tính xen nhau trùm khắp pháp giới. Như trong phẩm Pháp Giới ghi: “Ban đầu Thiện Tài tham học với ngài Văn Thù, sau cùng với Di-lặc, Phổ Hiền, tổng cộng 53 vị thiện tri thức, gồm có các vị Đại Bồ-tát như tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, đồng nam, đồng nữ, tiên nhân ngoại đạo, bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ, thiên thần, địa thần, dạ thần, trú thần, quốc vương, vương phi. Mỗi vị đều ở nơi đạo tràng lớn làm chủ bạn với nhau, cùng nói cảnh giới Lô-xá-na. Hoặc Phật xuất thế, hoặc không xuất thế thì pháp giới này pháp nhĩ thường trụ không biến đổi”.

Như Thiện Tài đến chỗ Phật Di-lặc, vừa lên lầu đã thấy lâu các rộng lớn như hư không, đặc biệt thấy bất khả thuyết lâu các bày ra ở trong, mỗi mỗi cùng đồng hư không. Trong mỗi lâu các đều nghe Bồ-tát Di-lặc thuyết pháp; cảnh tượng trong mỗi lâu các hợp lại sự việc ba đời không có trước sau. Di-lặc tương lai sẽ thành Phật, Thiện Tài mới phát tâm trong một niệm có thể gặp nhau, đây là nương vào pháp giới trí để thành Phật chẳng luận trước sau. Lấy việc xưa xác định việc nay, đem việc nay thông hiểu việc xưa, dung hợp không hai.

Lại lấy một lâu các làm tổng, một trí gồm cả mọi điều thiện; lấy nhiều lâu các làm biệt, thể dụng trùng trùng tự tại vô ngại, đây là Thiện Tài vốn nhờ bất động trí từ phàm vào Thánh, đến trong lâu các này cùng chư Phật ba đời đồng lĩnh hội pháp môn đế võng tổng biệt đồng dị không hai. Tất cả chúng sinh có thể phát tâm nương tựa cũng như thế, chưa thấy khởi tâm rộng lớn như hư không, chỉ nghe danh tự Phổ Hiền liền thấy thân mình vào thân Phổ Hiền, thấy trong mỗi chân lông của Phổ Hiền đều có cõi nước rộng lớn chứa đầy địa thủy hỏa phong luân trong ấy.

Trong một niệm nâng bất khả thuyết bất khả thuyết bước chân, mỗi bước chân đi qua bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật; như vậy niệm niệm trải qua bất khả thuyết kiếp cũng không thể tận cùng bờ mé của một chân lông. Quán trở lại thấy mình ở trong mỗi chân lông, Phổ Hiền cũng ở trong ấy. Mỗi chân lông đều đồng hư không không chướng ngại nhau, đây là môn pháp nhĩ hằng chân pháp giới, hạnh nương lý hiện, dụng hợp thể khắp, đó là hạnh bình thường của Thiện Tài, hạnh viên mãn của Phổ Hiền.

Phẩm Thập Định, kinh Hoa Nghiêm ghi: “Này Phật tử, Bồ-tát ma-ha-tát có đóa hoa sen rộng lớn mười phương được trang nghiêm bằng bất khả thuyết lá, bất khả thuyết báu, bất khả thuyết hương. Bất khả thuyết báu lại hiện bày các thứ báu thanh tịnh diệu hảo cực thiện an trụ. Đóa hoa ấy thường phóng ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới không chướng ngại. Lại có lưới bằng vàng ròng che phủ ở trên, chuông báu lay động phát ra âm thanh vi diệu diễn nói pháp nhất thiết trí. Hoa sen này đầy đủ tất cả thiện căn thanh tịnh trang nghiêm của Như Lai, kiết tường làm tiêu biểu, với thần lực hiện ra mười nghìn a-tăng-kỳ công đức thanh tịnh, là chỗ thành tựu của diệu đạo Bồ-tát, chỗ lưu xuất của tâm nhất thiết trí, bóng Phật mười phương hiển hiện trong đó, thế gian chiêm ngưỡng như tháp Phật, chúng sinh nhìn thấy đều lễ kính, từ đây có thể thấu tỏ những điều chính pháp sinh ra tất cả thế gian không thể ví dụ.

Bồ-tát ma-ha-tát ngồi kiết-già trên hoa sen ấy, thân lớn nhỏ tương xứng với hoa sen, nhờ thần lực của chư Phật gia bị khiến cho mỗi chân lông trên thân Bồ-tát phóng ra trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh. Mỗi quang minh hiện ra trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trấn số ngọc báu ma-ni, đều tên là Phổ quang minh tạng, trang nghiêm bằng các sắc tướng, thành tựu vô lượng công đức, các báu và hoa làm màn lưới che trên, rải trăm nghìn ức na-do-tha diệu hương thù thắng, vô lượng sắc tướng trang nghiêm; lại hiện ra bất tư nghì lọng báu trang nghiêm che bên trên.

Mỗi ngọc báu ma-ni đều hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số lâu các. Mỗi lâu các hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số tòa sư tử Liên Hoa Tạng. Mỗi tòa sư tử hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh. Mỗi quang minh hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số sắc tướng. Mỗi sắc tướng hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh luân. Mỗi quang minh luân hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số hoa ma-ni Tỳ-lô-giá-na. Mỗi hoa hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số đài. Mỗi đài hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật. Mỗi Phật hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số thần biến. Mồi thần biến làm thanh tịnh trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sinh. Mỗi chúng sinh hiện trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Phật tự tại. Mỗi tự tại tuôn xuống trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật pháp. Mỗi Phật pháp có trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số tu-đa-la. Mỗi tu-đa-la thuyết trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số pháp môn. Mỗi pháp môn có trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số pháp luân mà Kim Cương Trí thể nhập với ngôn từ sai biệt, diễn nói nhiều cách. Mỗi pháp luân thành thục trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sinh giới. Mỗi chúng sinh giới có trăm vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sinh được điều phục trong Phật pháp.

Này Phật tử, Bồ-tát ma-ha-tát trụ tam-muội này thị hiện cảnh giới thần thông, vô lượng biến hóa như thế, nhưng các ngài đều biết như huyễn nên không đắm nhiễm.

Hoa sen biểu thị nhân quả đồng thời thanh tịnh vô nhiễm, huống chi tự tính thanh tịnh tâm hay khởi nhân môn vô tận của Phổ Hiền, viên mãn quả hải vô tác của Lô-xá-na, lý sự xen suốt linh hoạt đồng thời, tùy duyên sinh diệt không đắm nhiễm.

Phẩm Thập Định ghi: “Như có người bị quỉ áp bức khiến thân run rẩy không thể tự an, nhưng quỉ chẳng hiện thân. Bồ-tát ma-ha-tát trụ tam-muội này cũng vậy. Chính mình nhập định mà thân người khác đứng lên, thân người khác nhập định mà thân mình đứng lên. Này Phật tử, như tử thi nhờ sức thần chú có thể đứng lên đi, làm việc gì cũng được thành tựu. Tử thi với thần chú là hai thứ khác nhau nhưng có thể hợp lại thành việc này. Bồ-tát ma-ha-tát trụ tam-muội này cũng vậy, đồng cảnh nhập định, dị cảnh khởi; dị cảnh nhập định, đồng cảnh khởi.

Này Phật tử, như tì-kheo được tâm tự tại, hoặc một thân hóa làm nhiều thân, hoặc nhiều thân hóa ra một thân, chẳng phải một thân chết đi nhiều thân sinh ra, chẳng phải nhiều thân chết đi một thân sinh ra. Bồ-tát ma-ha-tát trụ tam-muội này cũng vậy, một thân nhập định nhiều thân khởi, nhiều thân nhập định một thân khởi.

Này Phật tử, như đất chỉ có một vị nhưng sinh ra nhiều thứ lúa khác nhau. Bồ-tát ma-ha-tát trụ tam-muội này cũng vậy không có sự phân biệt, nhập một định thì nhiều định khởi, nhập nhiều định thì một định khởi. Cho đến như cung điện Diệu Quang của Đại Phạm thiên vương gọi là nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng. Trong cung điện ấy thấy khắp tam thiên đại thiên thế giới, bốn châu thiên hạ, cung trời, cung rồng, cung dạ-xoa, cung càn-thát-bà, cung a-tu-la, cung ca-lâu-la, cung khẩn-na-la, cung ma-hầu-la-già, trú xứ của nhân gian và ba ác đạo, các núi như Tu-di, biển cả sông ngòi, suối đầm, thành ấp, thôn xóm, rừng cây các báu vật. Mọi thứ trang nghiêm như thế tận cùng đại luân vi có bờ mé cho đến hạt bụi nhỏ trong hư không đều hiển hiện trong cung điện Phạm Vương như thấy rõ mặt mũi trước gương sáng. Bồ-tát ma-ha-tát trụ nhất thiết chúng sinh sai biệt thân đại tam-muội, biết các cõi, thấy chư Phật độ các loài, chứng các pháp, thành các hạnh, đủ các giải, nhập các tam-muội, khởi các thần thông, đắc các trí tuệ, trụ các sát-na tế”.

Phẩm Nhập Pháp Giới ghi: “Bấy giờ nghĩ xong, Thiện Tài đồng tử liền đến chỗ dạ thần vui vẻ quan sát chúng sinh, ngài thấy dạ thần ngồi trên tòa sư tử Liên Hoa Tạng nơi hội chúng đạo tràng Như Lai nhập đại thế lực phổ hỉ tràng giải thoát. Mỗi chân lông trên thân dạ thần hiện ra vô lượng thân vân biến hóa, tùy theo sự cảm ứng mà thuyết pháp với âm thanh vi diệu, thu nhiếp vô lượng chúng sinh khiến họ hoan hỉ và được lợi ích. Cho đến hiện ra thân vân bằng số vi trần của tất cả thế giới cùng đến trước tất cả chúng sinh, trong niệm niệm thị hiện tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, trong niệm niệm thị hiện đại nguyện thanh tịnh đầy khắp pháp giới, trong niệm niệm thị hiện nghiêm tịnh tất cả thế giới hải, trong niệm niệm thị hiện cúng dường tất cả Như Lai hải, trong niệm niệm thị hiện vào tất cả pháp môn hải, trong niệm niệm thị hiện vào tất cả vi trần số thế giới hải, trong niệm niệm thị hiện ở tất cả cõi tận kiếp vị lai tu hành thanh tịnh tất cả trí đạo, trong niệm niệm thị hiện vào Như Lai lực, trong niệm niệm thị hiện vào nhất thiết tam thế phương tiện hải, trong niệm niệm thị hiện đến tất cả cõi hiện các thứ thần thông biến hóa, trong niệm niệm thị hiện tất cả hạnh nguyện chư Bồ-tát khiến cho tất cả chúng sinh trụ nhất thiết trí. Những việc làm ấy không ngừng nghỉ. Do đó Toàn Phục có bài tụng:

Thời xứ Đế võng hiện trùng trùng,
Nhất thiết trí thông vô quái ngại.

Tông vô tận của hạnh Đế võng ấy, nếu theo duyên khởi tương do môn thì ẩn hiển hỗ hưng nhất đa tương nhập; nếu theo pháp tính dung thông môn thì không hữu dung hợp lý sự tương tức, cho đến tất cả trí tuệ thần thông tự tại, pháp môn diệu định xuất nhập đều không rời chân tâm vô tận vô ngại này. Cần phải quy về Tông Cảnh pháp nhĩ soi sáng và dùng sáu tướng, mười huyền bao gồm cả, có thể thấy rõ ràng.

3/ Bí mật ẩn hiển câu thành môn:

Đây là nói theo duyên, trong một niệm tám tướng thành đạo của Như Lai không ngoài khoảng sát-na, lúc giáng sinh chính là lúc thành đạo, chính là lúc độ người, chính là lúc nhập diệt. Vì sao ? Vì tất cả pháp đều thành cùng một lúc, một thành thì tất cả thành, cho nên gọi là bí mật, thế nên ẩn thì nhất tâm vô tướng, hiển thì muôn pháp lộ bày, tính tướng đồng thời, không hữu vô ngại.

4/ Vi tế tương dung an lập môn:

Đây là nói theo tướng, vi tế có hai:

Một là vi tế sở dung, vì chân lông xứng tính có thể dung chứa các cõi, các cõi còn hình tướng nên không thể cùng khắp.

Hai là vi tế năng dung, vì một hạt bụi, một mảy lông có thể dung chứa nên tất cả lý sự chủ bạn nhất đa nhiễm tịnh v.v… đều hiển hiện từ trong nhất tâm.

Nếu các môn ẩn ánh hiển phát lẫn nhau trùng trùng lại trùng trùng trở thành vô tận, là thuộc về môn Đế võng.

Nếu các môn nhất thời hiển hiện sáng rõ như bó tên bằng đầu hiển hiện chẳng chướng ngại nhau, là thuộc về môn vi tế.

Như kinh nói: “Trong một hạt bụi nhỏ thấy bất khả thuyết cõi nước tịnh uế sai biệt”. Lại nói: “Vô tận cõi Phật chẳng ngoài một hạt bụi”.

5/ Thập thế cách pháp dị thành môn:

Đây là nói theo ba đời, như vậy thập thế do sức duyên khởi nên tương tức lại tương nhập nhưng chẳng mất đi tướng dài ngắn trước sau của ba đời nên nói là cách pháp. Tất cả mười pháp như giáo nghĩa, lý sự v.v… tương tức lại tương nhập nhưng chẳng mất sự trước sau sai biệt nên nói là dị thành.

Thập thế (mười đời), ba đời thay nhau tức nhập tức thành chín đời, buộc lại làm một niệm, một niệm chính là đời bình đẳng, cộng lại thành mười đời, như năm ngón tay co lại thành nắm tay mà không mất năm ngón tay. Mười đời một niệm chẳng mất sự ngắn dài.

Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Vô lượng vô số kiếp
Hiểu rõ là một niệm
Biết niệm là vô niệm
Thấy thế gian như thế
Một niệm đều siêu việt
Vô lượng các cõi nước
Trải qua vô lượng kiếp
Chẳng động nơi bản xứ
Bất khả thuyết các kiếp
Chính là trong chốc lát
Chớ nên thấy ngắn dài
Pháp sát-na cứu cánh
Tâm trụ nơi thế gian
Thế gian trụ nơi tâm
Nơi đây chẳng vọng khởi
Hai chẳng phải phân biệt.

Phẩm Hồi Hướng có bài tụng:

Hữu số vô số tất cả kiếp
Bồ-tát thấu rõ là một niệm
Nơi đây khéo vào hạnh Bồ-đề
Thường siêng tu tập không thoái chuyển.

6/ Chư tạng thuần tạp cụ đức môn:

Đây nói theo các hạnh, như nói về một môn bố thí thì tất cả muôn pháp đều gọi là thí, đây là thuần; môn thí này đầy đủ muôn hạnh các độ đây là tạp. Như vậy thuần tạp không chướng ngại nhau nên gọi là cụ đức. Do nghĩa thuần tạp mảy may không xâm phạm, chủ bạn thành lập cho nhau, năng sở tương sinh, cụ đức viên dung, giúp nhau vô ngại.

7/ Nhất đa tương dung bát đồng môn:

Đây nói theo lý, như vậy nhất đa duyên khởi đều là lực dụng của hải ấn pháp tính thật đức nên được như thế, vì chẳng phải là phương tiện do tu hành thành nên theo trí thể mà luận về một nghĩa, tùy trí dụng mà hiển đa môn, phi nhất phi đa, hằng không mất thể; cũng đa cũng nhất đâu ngại tùy duyên. Pháp đại duyên khởi đà-la-ni này nếu không có một thì tất cả chẳng thành. Một, chẳng phải tự tính một, vì do duyên thành; cho đến mười đều chẳng phải tự tính mười, vì do duyên thành. Cho nên tất cả duyên khởi đều không có tự tính, nếu bỏ đi một duyên thì tất cả chẳng thành, cho nên trong một đầy đủ nhiều mới gọi là duyên khởi nhất. Cho dù đa trong nhất, nhất trong đa tương dung vô ngại nhưng vẫn không phải là nhất hoặc đa.

Hỏi: Nghĩa môn nhất đa là đầy đủ một lượt hay là trước sau bất đồng ?

Đáp: Tức đầy đủ, tức trước sau; nghịch thuận đồng thể, đức dụng tự tại.

Hỏi: Nghĩa nói về khứ lai tức nhập, tướng nó như thế nào ?

Đáp: Chỗ nó bất động mà luôn khứ lai (đến đi). Vì sao ? Vì khứ lai (đến đi) bất động chính là một vật, chỉ vì sinh trí hiển lý nên nói nghĩa khứ lai…

Hỏi: Là do trí hay là pháp là như thế ?

Đáp: Vì đồng thời đầy đủ nên lấy nhất nhập đa, đa nhập nhất cho nên gọi là tương dung. Tức thể không trước sau mà chẳng mất đi tướng nhất đa cho nên nói là bất đồng. Lại nhất với đa sinh khởi lẫn nhau và nhất nương vào đa sinh khởi thì nhất là sở khởi không có lực; đa là năng khởi nên có lực.

Vì đa có lực hay bao gồm nhất, vì nhất không lực hay nhập vào đa, cho nên nhất này luôn là đa. Đa nương nhất mà khởi, căn cứ theo trên thì biết đa này luôn ở trong nhất.

Do vì không cả hữu lực và vô lực nên bất tương tại; do vì một hữu lực một vô lực chẳng trái nhau nên có sự tương tại. Lý sự pháp giới duyên khởi luôn như thế.

Kinh Đại Niết-bàn ghi: “Bấy giờ, do thần lực Phật mà khoảng đất trong khu rừng nhỏ hẹp như cây kim đều có vô lượng chư Phật Thế Tôn và quyến thuộc cùng ngồi thọ thực, thức ăn cũng không khác biệt”.

8/ Chư pháp tương tức tự tại môn:

Đây nói theo dụng, nếu như đế võng môn là chiếu lẫn nhau hiện trùng trùng, vi tế môn là một lúc cùng hiển hiện, tương tức môn này là ba thế gian viên dung vô ngại tự tại tức nhập mà thành vô lận, như trong lâu các Di-lặc hiện ra việc ba đời. Pháp môn tự tại trên chính là thật đức như lý pháp giới duyên khởi kia, chẳng phải là phương tiện biến hóa đối duyên nên nói. Nếu theo các tông phái Đại thừa thì nói do thần lực biến hóa mà có lớn nhỏ tương nhập, hoặc nói do năng lực của Bồ-tát, hoặc nói do bất nhị nên nhập, không như nhất thừa thật giáo nói.

Hỏi: Nếu tông này nói tức nhập bất luận thần lực là nói tự thể thường như vậy, đây là hoàn toàn không ranh giới, vô chung, vô thỉ, làm sao rõ được mười pháp nhân quả, giáo nghĩa v.v…?

Đáp: Chỉ vì tùy theo trí sai khác nên nêu nhất làm chủ, những thứ khác làm bạn, như tấm lưới của trời Đế Thích đưa một mắt lưới làm đầu, các mắt lưới khác hiện trong đó. Một mắt lưới đã vậy, các mắt khác hiện ra cũng thế.

Lại như Bồ-tát các phương đều đến chứng thành cùng một danh hiệu, tất cả mười phương chứng thành đều như thế. Do đó chứng thành đã vô tận lại vô tận mà chẳng mất thứ lớp nhân quả trước sau và thể tính không thêm bớt, cho nên kinh nói: “Tất cả chúng sinh thành Phật nhưng cõi Phật chẳng tăng, cõi chúng sinh chẳng giảm”.

9/ Duy tâm hồi chuyển thiện thành môn:

Đây nói theo tâm, tất cả nghĩa môn vô tận v.v… các lý sự đều là Như Lai tạng tính, đều do chân tâm thanh tịnh kiến lập, hiển hiện vô ngại, hoặc thiện, hoặc ác, hoặc phàm, hoặc Thánh, chuyển đổi theo tâm. Thân mà Thế Tôn nói đầy khắp bảy nơi chín hội cho đến pháp giới mười phương như tất cả vi trần trong chân lông đều chẳng lìa chỗ thành đạo ban đầu. Kinh nói: “Tuy ở nơi bảy nơi chín hội mà không rời đạo tràng tịch diệt”. Lại nói: “Chẳng rời cội bồ-đề mà lên cõi trời Đao-lợi”. Đây là muôn cảnh muôn duyên đều chẳng ngoài chân tâm.

Phẩm Hồi Hướng có bài tụng:

Như thế chúa tể trong nhân gian
Tùy theo cảnh giới mình sở hữu
Thảy đều liễu ngộ trong một niệm
Cũng không xả bỏ hạnh bồ-đề.

Lại có bài tụng:

Tất cả các cõi Phật
Đều đầy các Phật tử
Bình đẳng cùng nhất tâm
Việc làm đều chẳng không
Tất cả mỗi đầu lông
Nhất thời thành Chính giác
Cùng đại nguyện như thế
Vô lượng vô biên tế
Hư không cùng chúng sinh
Pháp giới và niết-bàn
Phật xuất hiện thế gian
Phật trí tâm cảnh giới.

Hỏi: Nếu tất cả muôn pháp nhiễm tịnh đều do tâm tạo thành, như người thấy bên ngoài có vật, khi có người khác lấy vật đi nhưng tâm vẫn cho là có, khi ấy thực sự không có vật sao gọi là do tâm tạo thành ?

Đáp: Nếu theo vọng tâm chuyển đổi vật bên ngoài cũng theo tâm mà có không, đây là tâm cũng theo vật chuyển đổi mà chẳng mất vật.

Nếu nói theo Như Lai tạng tính tịnh tâm chân thật, vật này chẳng động bản xứ, thể ứng mười phương, tính luôn không chuyển đổi, dù dời đến nơi khác vẫn không động chỗ cũ. Lúc mê thì cảnh chi phối tâm, khi ngộ thì tâm chi phối cảnh. Vì sao lúc mê chỉ theo cảnh chuyên, cảnh chính tâm chính, cảnh tà tâm tà; theo duyên tà chính sẽ thành nghiệp thiện ác. Khi ngộ thì biết chỉ có tâm mình, tâm có cảnh có, tâm không cảnh không; chẳng nhất định do không hữu thì đâu thành sai biệt vật ngã. Phi không phi hữu, năng không năng hữu mỗi mỗi đều tự tại chuyển. Do đó kinh Tịnh Danh nói: “Thiên ma ngoại đạo đều hầu hạ ta”. Đây vẫn còn thuộc trong giáo đối trị, vì bị vật chuyển nên phương tiện nói chuyển. Nếu người nhận ra ngay tâm tính thì không vật sở chuyển cũng không trí năng chuyển.

Tóm lại, mười huyền môn trên đều nhờ môn duy tâm hồi chuyển thiện thành này mà thành tựu, không ngoài nghĩa nhất tâm.

Tâm bình đẳng là nghĩa nhất; tâm sai biệt là nghĩa đa; nhất tâm tức nhất thiết tâm là nghĩa tương tức, là nghĩa đồng thời tương ưng; nhất thiết tâm nhập nhất tâm là nghĩa tương nhập; nhất tâm nhiếp nhất thiết tâm là nghĩa ẩn; nhất thiết tâm nhờ nhất tâm là nghĩa hiển; chẳng hoại tâm sai biệt mà hiện tâm bình đẳng là nghĩa nhất trong đa; chẳng ẩn tâm bình đẳng mà hiện tâm sai biệt là nghĩa đa trong nhất; tâm nhỏ nhiệm chẳng ngại tâm rộng lớn, tâm rộng lớn chẳng ngại tâm nhỏ nhiệm là nghĩa nhất đa bất đồng; vì tâm nhất thật là tâm thuần sai biệt, tâm tạp sai biệt là tâm nhất thật, tâm nhất thật tạp mà hằng thuần chính là tâm sai biệt, thuần mà hằng tạp là nghĩa chư tạng thuần tạp; vì nhất tâm đem nhất thiết tâm trở về nhất tâm là nghĩa đế võng; do tâm hiện cảnh, thấy cảnh biết tâm là nghĩa thác sự hiển pháp; kiếp dài kiếp ngắn thời lượng dài ngắn đều từ tích niệm mà thành chỗ hiện của nhất tâm là nghĩa thập thế; nhân chính nghĩa nhất tâm diễn bày pháp môn khó tư nghì, cứu cánh quy về bặt ngôn ngữ dứt tư duy là nghĩa duy tâm hồi chuyển. Tâm mình đã vậy, tâm người cũng thế, xen lẫn vào nhau trùng trùng vô tận.

10/ Thác sự hiển pháp sinh giải môn:

Đây nói theo trí, do trí quán chiếu nên muôn pháp như gương, hay sinh kiến giải chân chính không khởi tà đảo. Như kinh nêu ra thế giới kim sắc ban đầu, hiển bày tâm thật tế mới khởi, tất cả tràng phan, bảo cái được thấy trong pháp giới đều hiển bày trí hạnh vô sinh, như Thiện Tài thấy lâu các viên lâm đều vào pháp giới.

Mười huyền môn tự tại vô ngại nói trên đều là duyên khởi tương do, đầy đủ hữu lực, vô lực, hữu thể, vô thể, tức nhập giữ gìn nhau dường như có hiển hiện. Tông Cảnh là môn pháp giới đại duyên khởi đều do hai nghĩa tức nhập mà có được các môn thành tựu hiển bày nhất tâm vô ngại. Do hai pháp thể dụng làm thành hai nghĩa tức nhập. Một y cứ vào thể thì có không và bất không đều cùng thể nên có nghĩa tương tức; hai y cứ vào dụng, thì có hữu lực và vô lực giao triệt nhau, hữu lực giữ gìn vô lực nên có nghĩa tương nhập; lại do dụng thâu thể, không còn thể khác nên có tương nhập; do thể thâu dụng, không còn thể khác nên có tương tức; vì thể dụng không hai nên thường tương tức tương nhập.

Lại thể là lý, dụng là sự; không phân là lý, phân là sự, phân và không phân đều không chướng ngại, đều riêng có bốn câu:

– Lý có bốn câu:

1- Vô phân, vì ở khắp mọi nơi.

2- Phân, vì trong một pháp đầy đủ tất cả.

3- Đều có phân và vô phân, vì phân và vô phân cùng một vị, vì toàn thể tại một pháp và tất cả chỗ luôn đủ, như thấy cả pháp giới trong một hạt bụi nhỏ.

4- Đều chẳng phải phân và vô phân, vì tự thể bặt đối đãi.

– Sự có bốn câu:

1- Hữu phân, vì tùy theo sự tướng có phân chia.

2- Vô phân, vì toàn thể đắc lý. Đại Phẩm nói: “Sắc hiện tại và sắc vị lai đều bất khả đắc”.

3- Đầy đủ hai nghĩa phân và vô phân vô ngại.

4- Đều chẳng phải phân và vô phân, vì hai nghĩa hòa hợp, vì tất cả duyên khởi chẳng ngoài lý sự.

Vì sự nên phi nhất, vì lý nên phi dị. Nơi tính không sai biệt mà có tính sai biệt thì tính theo tướng mà dị, đây là bất dị mà dị. Nơi sự hữu phân tùy theo lý vô phân thì sự theo lý mà nhất, đây là bất nhất mà nhất. Bất nhất mà nhất mới thành nhất; bất dị mà dị mới thành dị.

Lại các pháp lý sự do bất dị mới được bất nhất. Vì sao ? Nếu dị tức là vọng có thể tính, chẳng nương chân lập ra; vì chẳng nương chân thì không có vọng. Nay có vọng là do bất dị nên được thành bất nhất. Vì vọng không có tự thể nên hoàn toàn nương chân mà thành. Rõ được vọng thành nên cùng chân bất nhất. Như sóng nương vào nước, do nó không khác nước mà được thành sóng; vì thành sóng nên cùng với sự ẩm ướt không đồng.

Lại bất nhất mới thành bất dị, do có năng y, sở y nên giao triệt bất dị, như có sóng nên nói sóng chính là sự ẩm ướt; do có sự ẩm ướt nên nói nước là sóng. Cho nên nhất dị vô tính, toàn thể tương thâu, chẳng phá hoại hình lớn nhỏ mà làm thành thế tức nhập. Vì lý sự đều vô tính nên thành lập lẫn nhau. Vì sự không có thể nhất định nên dài chẳng phải tướng dài, ngắn chẳng phải tướng ngắn. Đã không dài ngắn thì không phải hư hoại. Vì tướng tức vô tướng nên kiếp dài là kiếp ngắn, kiếp ngắn là kiếp dài; vì vô tướng tức tướng nên hạt bụi lớn vào hạt bụi nhỏ, hạt bụi nhỏ vào hạt bụi lớn. Vì tức nên lý đồng, vì nhập nên sự dị; vì lý tức sự nên phi dị tức là phi nhất; vì sự tức lý nên phi nhất tức là phi dị. Do phi nhất tức phi dị nên khiến sự pháp này chẳng lìa một chỗ mà khắp cả mười phương. Do phi dị tức phi nhất nên khắp cả mười phương mà chẳng động một vị. Lý nhất vô tính, nghĩa tự tại thành, vi tế tương dung vô ngại an lập, lý sự như trên dung thông phi nhất phi dị phi hữu phi vô, chẳng rơi vào biên tà mới có thể ngộ nhập. Lý không phần hạn nên gọi là vô biên; sự có phần hạn nên gọi là hữu biên. Nếu y lý thành sự, lý tính toàn ẩn thì vô biên là biên. Nếu hội sự quy lý, sự tướng dứt bặt thì biên là vô biên. Nay không phải vậy, chẳng mất lý mà sự hiện gọi là biên của vô biên; chẳng hoại sự mà lý hiển gọi là vô biên của biên.

Nếu nhất định nói nhất, dị, phi nhất, phi dị, phi phi nhất, phi phi dị v.v… đều đồng hí luận, chẳng khế hợp chân như, nên luận Tam Vô Tính kế đến luận Vô Hí gọi là chân thật. Vô hí luận vì ở nơi các tướng lìa nhất dị hư vọng.

Nếu chân như cùng các tướng là dị thì có ba lỗi: một là chân như này chẳng phải là thật thể các tướng; hai là tu quán hạnh thì không nhờ các tướng làm phương tiện để được thông đạt chân như; ba là giác chân như rồi thì lẽ ra chưa đạt các tướng, vì các pháp chẳng liên quan nhau.

Nếu chân như cùng các tướng là nhất thì cũng có ba lỗi: một là chân như đã không có các tướng sai biệt thì lẽ ra cũng không sai biệt; hai là thấy các tướng bình đẳng là thấy chân như; ba là thấy chân như không thể tính thanh tịnh như thấy các tướng bình đẳng thì không có Thánh nhân, không được giải thoát, không có niết-bàn thế gian, xuất thế gian sai biệt.

Thế nên do lìa nhất dị và không hí luận nên không biến đổi; vì không biến đổi nên là tính chân thật, là biết phi nhất, phi dị, phi hữu, phi không. Ý chỉ thâm áo của Tông Cảnh tự tại viên dung, nghĩa là muốn nhất thì nhất, muốn dị thì dị, muốn còn thì còn, muốn mất thì mất, dị chẳng ngại nhất, mất chẳng ngại còn mới là tự tại. Thường nhất thường dị, thường còn thường mất gọi là viên dung.

Như hạt châu Linh Chi chẳng ở giữa hư không, chẳng rơi xuống đất, chẳng ở trong tay. Đã không ở ba nơi, cũng chẳng ở một chỗ. Chẳng ở giữa hư không là dụ cho chẳng trụ không quán; chẳng rơi xuống đất là dụ cho chẳng trụ giả quán; chẳng ở trong tay là dụ cho chẳng trụ trung quán. Đã chẳng trụ ba cũng chẳng thành một thì chẳng phải một chẳng phải ba mà ba mà một, đây là vi diệu vậy. Nếu chưa khế hợp ý chỉ này thì sự thấy nghe đều rơi vào đoạn thường, chẳng thành huyền diệu. Nếu thể nhập Tông Cảnh thì chẳng rơi vào tà kiến, những gì ngày xưa không biết thì ngày nay được biết; những gì ngày xưa chẳng thấy thì ngày nay được thấy. Kinh Đại Niết-bàn nói: “Trong nhất tâm hiện đầy đủ thân năm loài”. Tại sao ? Vì được thế lực của kinh Như Lai đại niết-bàn, đây gọi là ngày xưa chẳng được ngày nay được. Cho đến trong một niệm biết khắp cả tâm chúng sinh trong sáu đường, đây gọi là việc Bồ-tát ngày xưa chưa biết ngày nay được biết.