TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 37

Hỏi: Giáo pháp muôn hạnh đều căn cứ vào tâm để giải thích, chẳng hạn như những kinh giáo đức Phật nói đều dùng danh cú văn thân thuyên biểu mới trở thành pháp nghĩa, tại sao chỉ nói về nhất tâm mà thôi ?

Đáp: Nay trước tiên căn cứ theo cổ đức, tùy căn cơ ứng hợp mà nói pháp nhưng bản chất và ảnh tượng đều rõ ràng. Phật nói từ khi thành đạo đến lúc nhập diệt là chưa hề nói một chữ, ông cũng chưa hề nghe một câu, đây là lời nói về mật ý của Phật. Căn cứ bản chân pháp thể lìa nói năng cho nên chẳng nói một chữ, tức là các pháp tướng tịch diệt, không thể dùng ngôn thuyết.

Vả lại Phật chẳng nói một chữ ngoài tâm. Về giáo thể, ngài Hộ Pháp nói Như Lai đã thực sự hiện thân, thực sự thuyết pháp tức là thông dụng cho người nói, người nghe, chính kiêm, thanh danh, cú văn làm giáo thể. Giáo thể gồm cả hữu lậu, vô lậu, ảnh tượng và bản chất đều thích hợp với người nghe. Khi căn tính đã thuần thục liền cảm kích, trên thức của Như Lai có tướng văn nghĩa sinh, đức Phật dùng duyên lực bản nguyện từ bi vì chúng sinh nói pháp tam thừa có thanh danh, cú văn chính là bản chất giáo vô lậu.

Nếu là chúng sinh tam thừa ngũ tính, ở bên Phật nghe pháp, không thể đích thân nghe, tự biến ra tướng phần mà duyên, theo thanh danh cú văn tức là nắm lấy hữu lậu vô lậu, đây là ảnh tượng kiêm giáo. Vì lấy bản chất giáo làm gốc nên hay hiện ảnh tượng; lấy ảnh tượng giáo làm ngọn nên y theo bản chất mà có. Vì vậy theo bản chất giáo là chính giáo thể, theo ảnh tượng giáo là kiêm giáo thể.

Bồ-tát Vô Tính gạn hỏi: Tông ta chỉ lấy tướng phần ảnh tượng trên thức chúng sinh làm giáo thể là không trái duy thức. Này Hộ Pháp, nếu lấy thanh danh cú văn trên bản chất Phật làm giáo thể tức là ngoài tâm có pháp làm sao thành duy thức ?

Hộ Pháp đáp: Tông duy thức căn cứ vào thân tướng phần, chúng sinh nghe biến khởi ra tướng phần mà duyên, chẳng phải lấy bản chất khác làm tự tính. Bản chất khác chính là Phật, Bồ-tát cũng là duy thức cho nên chẳng trái nghịch nhau.

Hỏi: Tại sao không lấy bản chất làm chính giáo thể ?

Đáp: Do vì chúng sinh không thể đích thân nghe bản chất vô lậu nên phải nhờ đến ảnh tượng.

Hỏi: Nếu vậy tại sao không chỉ lấy ảnh tượng làm giáo thể mà còn đích thân nghe ?

Đáp: Tuy đích thân nghe ắt phải nhờ bản chất, thế nên luận Duy thức nói: “Uyển chuyển tăng thượng lực, nhị thức thành quyết định”.

Nói “uyển chuyển tăng thượng lực” tức là Phật cùng chúng sinh làm tăng thượng duyên cho nhau.

Nói “nhị thức thành quyết định” tức là chúng sinh căn quyết định, Như Lai bi quyết định, nghĩa là chúng sinh căn tính thuần thục cùng nghe pháp quyết định; Như Lai thì có bi quyết định, vì quyết định nói pháp cho chúng sinh là tăng thượng duyên.

Quan niệm hữu vô của ảnh tượng và bản chất các sư bất đồng, cần phải có bốn câu phân biệt:

1- Chỉ có chất không có ảnh tức là Tiểu thừa Hữu bộ v.v…

2- Chỉ có ảnh không có chất là chủ trương vô tính của Ngài Long Thọ.

3- Đều là câu (cú), là chủ trương của Hộ Pháp và Thân Quang.

4- Đều là chẳng phải (phi) là chủ trương của Long Mãnh và Thanh Biện.

Nghĩa là họ chấp trong môn thắng nghĩa chẳng biện giáo thể, hoàn toàn bác bồ-đề niết-bàn là không.

Nếu căn cứ vào bốn câu trên, bản chất và ảnh tượng đều thông thì quan điểm của Hộ Pháp là hơn cả. Nhưng nếu căn cứ vào danh cú văn thân giải thích, thuyên biểu đều là ý ngôn phân biệt. Hễ có thuyên lượng thì không ngoài tâm thức, cho đến năng thuyết sở thuyết đều thuộc kiến văn giác tri, tâm gồm thiện ác, các tâm số v.v… không có một pháp nào ngoài tâm, nên biết tâm này là gốc của các pháp, hiển sự hợp lý tâm có thể khuôn mẫu cho nên gọi là kinh. Đâu riêng nơi tâm mà cả sáu trần cũng đều gọi là kinh, do vì tâm ở khắp mọi nơi.

Pháp Hoa Huyền Nghĩa nói: “Lịch pháp minh kinh” (qua sự việc sáng tỏ kinh), nếu cho kinh là sự trở về chính đạo thì pháp gì là kinh ?”

Ngày xưa dùng ba thứ:

1- Dùng âm thanh làm kinh: Như đức Phật dùng kim khẩu diễn nói khiến người nghe đắc đạo, cho nên lấy âm thanh làm kinh. Đại Phẩm nói: Được nghe từ thiện tri thức.

2- Dùng hình sắc làm kinh: Khi Phật tại thế có thể lấy âm thanh làm kinh, nay Phật nhập diệt dùng giấy mực ghi lại lời Phật dạy, đây là dùng sắc làm kinh. Đại Phẩm nói: Nghe trong kinh dạy.

3- Dùng pháp làm kinh: Cho nên nói tu tập Phật pháp chỉ có chứng mới biết. Lại lấy trần làm kinh, như nhĩ thức bén nhạy có thể ở nơi thinh trần phân biệt tỏ ngộ thì âm thanh là kinh, những cái khác chẳng phải kinh. Nếu ý thức bén nhạy, tự có thể nghiên cứu tư duy tỏ ngộ thì pháp là kinh, những cái khác chẳng phải kinh. Nếu nhãn thức bén nhạy, nhờ văn tự diễn bày mà được đạo lý thì sắc là kinh, những cái khác chẳng phải kinh. Đây mới dùng ba trần mà thôi, ba trần còn lại chậm lụt như mũi ngửi giấy mực thì không thể biết, thân chạm kinh sách cũng không thể hiểu, lưỡi nếm văn tự làm sao phân biệt thị phi.

Như có cõi nước kia dùng cả sáu trần, cũng có cõi dùng riêng một trần, như Tịnh Danh nói: “Đem một món ăn ban cho tất cả”. Nơi thức ăn đồng thì nơi pháp cũng đồng; nơi pháp đồng thì nơi thức ăn cũng đồng. Đây là lấy thiệt căn làm kinh.

Hoặc có cõi nước nhờ thiên y chạm thân liền đắc đạo, đây là lấy xúc làm kinh. Hoặc có cõi nước thấy quang minh Phật liền đắc đạo, đây lấy sắc làm kinh. Hoặc nhờ tịch diệt vô ngôn quán tâm đắc đạo, đây lấy ý làm kinh. Hoặc như cõi Chúng Hương dùng hương thơm làm Phật sự, đây là lấy hương làm kinh. Ở phương khác sáu căn thức bén nhạy lấy sáu trần làm kinh. Cõi này ba căn thức chậm lụt, mùi không nhạy cảm bằng con lừa, con chó thì làm sao đối với hương vị xúc có thể thông đạt ?

Hỏi: Căn bén nhạy nên nơi trần là kinh, còn căn chậm lụt thì trần chẳng phải là kinh sao ?

Đáp: Sáu trần là pháp giới, thể của nó là kinh, không phải căn cứ nhạy bén mới là kinh. Vì sao ? Đại Phẩm nói: “Tất cả pháp hướng về sắc”. Sắc này có thể thuyên bày tất cả pháp. Như màu đen của mực, một nét vạch ngang là chữ nhất, hai vạch là chữ nhị, ba vạch là chữ tam, thêm một vạch đứng là chữ Vương, thêm vạch bên phải là chữ sửu, thêm vạch bên trái là chữ điền, thêm sổ trên là chữ do, thêm sổ dưới là chữ thân, xoay chuyển như thế trình bày hoài không hết. Hoặc một chữ diễn bày vô lượng pháp, hoặc vô lượng chữ cùng diễn bày một pháp, hoặc vô lượng chữ diễn bày vô lượng pháp, hoặc một chữ diễn bày một pháp. Đối với mực đen từng chấm nhỏ xoay chuyển diễn bày sự khác biệt lớn, vẽ bên trái thành chữ ác, vẽ bên phải thành chữ thiện, điểm ở trên thành vô lậu, điểm ở dưới thành hữu lậu. Cứu, giết, cho, đoạt, khen, chê, khổ, vui đều do mực đen vẽ ra, không có một pháp nào ngoài mực đen này. Nói tóm lại, mực đen diễn bày vô lượng giáo, vô lượng hạnh, vô lượng lý. Mực đen cũng là giáo bản, hạnh bản, lý bản. Mực đen bắt đầu từ một chấm đến vô lượng chấm. Từ cái chấm đến một chữ, từ chữ đến câu, từ câu đến kệ, từ kệ đến quyển, từ quyển đến bộ.

Lại từ một câu chữ, ban đầu là một vài dòng, sau đó viết thành nhiều dòng. Lại từ một điểm ban đầu thấy lý cạn cợt, về sau lý càng sâu, đây là ba thứ giáo hạnh nghĩa được phát ra vi diệu từ màu mực đen. Cho đến phải biết chữ đen giấy trắng là gốc của các pháp. Xanh vàng đỏ trắng cũng như thế. Chẳng phải chữ, chẳng phải chẳng phải chữ, song chiếu tự phi tự, chẳng thể nói, chẳng phải chẳng thể nói, chẳng thể thấy, chẳng phải chẳng thể thấy, chỗ nào lựa chọn, chỗ nào chẳng lựa chọn, chỗ nào nhiếp, chỗ nào chẳng nhiếp, chỗ nào bỏ, chỗ nào chẳng bỏ, thị thì đều thị, phi thì cùng phi. Có thể ở nơi màu đen thông đạt tất cả phi; ở nơi tất cả phi thông đạt tất cả thị; thông đạt tất cả đều chẳng phải chẳng phải thị, tất cả pháp tà, tất cả pháp chính. Nếu đối với màu đen chẳng hiểu như thế thì chẳng biết chữ với chẳng phải chữ, xanh vàng đỏ trắng, hữu đối vô đối đều chẳng thể biết. Nếu thông hiểu màu đen thì biết được các màu khác cũng như thế, đây chính là ý của kinh Pháp Hoa lấy sắc làm kinh.

Thanh trần cũng như thế, hoặc một thanh diễn bày một pháp. Nhĩ căn bén nhạy tức là nhân duyên ái kiến hiểu thanh trần, là không, là giả, là trung. Biết môi lưỡi răng đều bất khả đắc, thanh tức phi thanh, phi thanh tức thanh, phi thanh phi phi thanh. Thanh trần là gốc của giáo, hạnh, nghĩa, những nghĩa này đều như trên đã nói, nghĩa là nếu thông đạt thanh trần thì các trần khác như hương vị xúc cũng như thế. Kinh nói: “Tất cả sự nghiệp mưu sinh ở thế gian đều không trái với thật tướng”, chính là ý này vậy. Ngoại nhập đều là kinh bao trùm khắp pháp giới, nội ngoại nhập cũng như thế. Kinh nói: “Chẳng phải nội quán được giải thoát, cũng chẳng phải lìa nội quán được giải thoát v.v…”.

Lại nói: “Hay quán tâm tính gọi là thượng định”. Tâm là thể nên hễ có tâm là sẽ được Chính giác, tâm là tông nên giữ tâm một chỗ thì việc gì chẳng xong, tâm là dụng nên ba cõi không có pháp nào khác, chỉ là nhất tâm tạo tác. Tâm giác quán là gốc của ngôn ngữ, dùng tâm phân biệt tâm, chứng tâm là giáo tướng, cho nên nói rằng hoa hương cây mây chính là pháp môn của pháp giới, chúng sinh trong cõi nước vốn là chính thể của mười thân. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tất cả pháp là kho tàng chính tư duy”.

Hỏi: Nếu ngoài tâm không có pháp, chỉ có lắng nghe chứ không có người nói, tại sao Phật nói những pháp ta nói như lá trong tay, Phật lại còn tự nói từ lúc ta thành Phật đến nay không nói một chữ v.v…?

Đáp: Người xưa giải thích: Lá trong rừng dụ lời Phật làm duyên khiến cho thức của các loài hữu tình khởi cái hiểu về pháp gọi là những pháp ta nói như lá trong tay. Chưa làm duyên tạo tác, tự tâm chúng sinh chưa khởi cái hiểu về pháp gọi là những gì ta chưa nói như lá trong rừng. Căn cứ vào tăng thượng gọi là nói mà chưa nói, lại chỉ là cái gương thức.

Hỏi: Trong đây nói đức Phật đều tự nói, vì sao lại nói Phật không nói pháp, đâu chẳng phải là lỗi tự nói trái nghịch sao ?

Đáp: Đây cũng là do tự thức của người nghe biến ra, Phật thật ra chẳng nói, chỉ là tăng thượng thôi. Vì nói trên thức chúng sinh nên dẫn làm chứng.

Hỏi: Chỉ rõ nhất tâm thì có thể thành tựu quán sâu. Nếu không thứ lớp làm sao phân trắng đen, cần phải hợp giáo thừa để trừ khoác lác quá đáng. Giáo quán đều thông đạt mới khế Phật tâm.

Đáp: Thành thật mà nói thì thiếu một không thể được, viên giáo quán tâm phải rõ lục tức. Nhờ tam quán nên tránh khỏi việc đếm của báu người khác; dùng lục tức nên không có tâm tăng thượng. Nhưng tâm chẳng phải số lượng, nào có bài kệ bốn câu sáu câu; lý hợp u huyền thì ai phân chia ngôi vị cao thấp, chỉ là chứng nhập có sai biệt, chia ra bốn giáo môn thăng tiến cũng khác nhau, cho nên bày ra ngôi vị lục tức, xuất xứ từ chính văn chỉ quán của Thiên Thai giáo. Chọn lọc thật kỹ lúc sơ tâm, chứng cứu cánh nơi hậu vị. Chỉ Quán nói: Căn cứ lục tức thì hiển bày.

Hỏi: Là tâm ban đầu hay là tâm sau cùng ?

Đáp: Như luận nói: Bấc đèn cháy chẳng phải ban đầu, chẳng lìa ban đầu, chẳng phải sau cùng, chẳng lìa sau cùng. Nếu trí tín đầy đủ, khi nghe nhất niệm liền phải. Tin nên không phỉ báng, trí nên không sợ hãi, ban đầu và sau cùng đều phải. Nếu không có tín thì sẽ suy tôn Thánh cảnh, cho rằng mình chẳng có phần; nếu không có trí thì khởi tăng thượng mạn, cho rằng mình bằng với Phật, ban đầu và sau cùng đều sai, vì việc này nên cần phải biết lục tức. Đó là lý tức, danh tự tức, quán hạnh tức, tương tự tức, phần chân tức, cứu cánh tức. Lục tức là trước phàm sau Thánh; trước phàm nên trừ nghi ngờ khiếp sợ, sau Thánh nên trừ đại ngã mạn.

– Lý tức: Nhất tâm niệm là lý của Như Lai Tạng. Như nên tức không, tạng nên tức giả, lý nên tức trung. Tam trí đầy đủ trong nhất tâm nên không thể nghĩ bàn. Tam đế nhất đế phi tam, phi nhất. Một sắc, một hương, tất cả pháp, tất cả tâm cũng lại như thế gọi là lý tức bồ-đề, cũng là lý tức chỉ quán, tức tịch gọi là chỉ, tức chiếu gọi là quán.

– Danh tự tức: Lý tuy tức song sử dụng hằng ngày mà không biết, vì chưa nghe tam đế nên hoàn toàn chẳng biết Phật pháp như mắt trâu dê không phân biệt phương hướng. Hoặc nghe từ thiện tri thức hoặc nhờ kinh sách nói về nhất thật bồ-đề. Ở trong văn tự hiểu được thấu suốt, biết tất cả pháp đều là Phật pháp, đây là danh tự tức bồ-đề, cũng là danh tự tức chỉ quán. Khi chưa nghe thì tìm cầu, nghe rồi thì tâm tìm cầu dứt gọi là chỉ; chỉ tin pháp tính, chẳng tin các pháp khác gọi là quán.

– Quán hạnh tức: Nếu chỉ nghe gọi là miệng nói cũng như con mối ăn gỗ ngẫu nhiên tạo thành chữ, con mối này chẳng biết là chữ hay là chẳng phải chữ. Cũng như thế người này đã không thông đạt cái gì gọi là bồ-đề, cần phải quán tâm rõ lý được tuệ tương ưng, việc làm như lời nói, lời nói như việc làm. Kinh Hoa Thủ nói: “Nói năng là chẳng làm, ta không chỉ nói mà còn thực hành bồ-đề”. Tâm miệng tương ưng gọi là quán hạnh tức bồ-đề. Thích Luận nói: Tứ cú bình đẳng thì văn huệ đầy đủ cũng như con mắt được mặt trời chiếu soi thì thấy rõ ràng, quán hạnh cũng như thế; dù chưa khế lý mà quán tâm chẳng dứt như ví dụ bắn trúng đích, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là quán hạnh tức bồ-đề, cũng gọi là quán hạnh tức chỉ quán. Luôn thực hành quán tưởng này gọi là quán, dứt hết các tưởng khác gọi là chỉ.

– Tương tự tức: Vì càng quán càng sáng, càng chỉ càng tịch, như bắn trúng mục tiêu gần gọi là tương tự quán tuệ. Tất cả công việc làm ăn sản nghiệp ở thế gian chẳng trái nghịch, những tư tương toan tính đều được chư Phật trước đây nói trong kinh lục căn thanh tịnh là viên phục vô minh gọi đó là chỉ, tự trung tuệ gọi là quán.

– Phần chân tức: Nhân sức tương tự quán vào địa vị đồng luân, ban đầu phá vô minh thấy Phật tính, mở kho báu hiển chân như gọi là phát tâm trụ cho đến đẳng giác. Vô minh càng ít trí huệ càng sáng như từ ngày mùng một đến ngày mười bốn ánh trăng càng tỏ bóng tối càng lui. Nếu người đáng dùng thân Phật để độ thì hiện tám tướng thành đạo; đáng dùng thân chín pháp giới để độ thì dùng phổ môn thị hiện. Như những gì nói rõ trong kinh gọi là phần chân bồ-đề, cũng gọi là phần chân chỉ quán, phần chân trí đoạn.

– Cứu cánh tức: Đẳng giác một khi chuyển vào Diệu giác, ánh sáng trí tuệ viên mãn không còn tăng nữa gọi là quả bồ-đề, đại niết-bàn đoạn diệt mà không còn đoạn diệt gọi là quả quả. Đẳng giác không thông đạt, chỉ có Phật mới thông hiểu. Lặng im dâng lễ phẩm gọi là cứu cánh bồ-đề, cũng gọi là cứu cánh chỉ quán.

Cổ đức căn cứ vào tứ giáo để thuyết minh lục tức. Tạng giáo chấp sắc là có, bày ra cái nhân suy lường phân tích cạn cợt, thành tựu cái quả chấp không và đoạn diệt. Thông giáo chấp sắc tâm là không, thấu rõ duyên sinh vô tính, mất đi lý trung đạo bất không. Biệt giáo từ tâm sinh mười pháp giới, tâm chỉ có thể sinh lý tính của mười giới, chưa có đầy đủ nhân quả của mười giới như từ đất sinh ra cỏ cây. Viên giáo thì tâm đầy đủ mười pháp giới, không đợi năng sinh, sở sinh, cũng không có thuở trước sau; chỉ nhất niệm là thập giới, chỉ thập giới là nhất niệm. Mọi lúc, mọi nơi, mọi pháp trong niệm niệm thể nó thường viên mãn, không thiếu sót một phần vạn đức trần sa, chẳng trừ đoạn một phần tám vạn hoặc nghiệp, chẳng cho Phật là Thánh bậc nhất mà ta chưa chứng được, chẳng cho phàm là uế trược tận cùng mà ta nên lìa bỏ, đều nhìn pháp giới nơi một tâm niệm như hạt châu tròn trong suốt sáng chói, viên giải chẳng còn giác quán, tiến tu cũng chẳng thấy có phàm Thánh, thủ xả phân biệt vọng niệm đều hết. Vì hàng sơ viên tín chưa được thuần tịnh, phiền não có dày mỏng, tập khí có cạn sâu, phân biệt khó quên, phan duyên dễ khởi, tâm thô phù quán cạn cợt, lậu hoặc nặng nề, cảnh lôi cuốn mạnh. Trong đối trị nên phân lục tức, thế nên bản thể tâm tính phàm phu thật sự như bậc Thánh. Nhưng phàm phu chưa thể thường trực sử dụng bản thể mà theo cảnh sinh tâm, phân biệt tính toán đủ điều. Tuy ở trong nhân đạo mà tâm phần lớn bất định, có khi phát tâm địa ngục, có khi phát tâm ngạ quỉ súc sinh, huống là thiện đạo trời người, hoặc Thánh đạo tam thừa, tập khí từ vô thỉ làm sao có thể dứt trừ ngay. Tuy có kiến giải mà chưa thể thường chiếu nên là phàm. Nếu sinh tử tức niết-bàn, phiền não tức bồ-đề là lý tức. Nếu có thể tạm chiếu soi đế lý liền ngồi tòa Phật, chứng Phật thân, nói Phật pháp. Lúc nhất niệm này hiển hiện, chẳng thấy mười phương Phật khác với thân này niệm này của ta, hiểu mà chưa tu đây là danh tự tức. Niệm có phần số gọi là quán hạnh tức. Niệm tương tự cảnh gọi là tương tự tức. Cảnh vào trong niệm gọi là phần chân tức. Không cảnh không niệm gọi là cứu cánh tức. Tuy sáu mà thường một, cái gì phàm cái gì Thánh; tuy một mà thường sáu, phàm Thánh không còn. Lại sáu mà thường một nên nói tức; một mà thường sáu nên trước sau chẳng đồng. Lại đang quán niệm chẳng phải một chẳng phải sáu.

Lại như chẳng rời nhà cô gái nghèo mà được vàng, cô gái nghèo được vàng liền giàu có để dụ cho chúng sinh tức là Phật. Lấy vàng có thứ lớp đâu chẳng phải là sáu ? Nhổ bỏ cỏ tạp, quán hạnh chế phục lậu hoặc. Đào đất gần được vàng như thấy vật chưa rõ ràng, đâu chẳng phải tương tự thu được một phần, đâu chẳng phải phần chân tận đắc thọ dụng, cô gái vui mừng đâu chẳng phải cứu cánh ? Cho nên đốn ngộ tông rồi, còn phải ngôn hạnh tương ưng. Đã được gốc thanh tịnh còn phải lìa cấu thanh tịnh. Như bài kệ trong kinh Đại Tập nói:

Xa lìa tất cả các phiền não
Thanh tịnh vô cấu như chân thật
Tâm ấy hay phóng ánh sáng lớn
Gọi là Bảo cự đà-la-ni.

Lại nói : Nếu có bất giác tất cả cảnh giới và tự cảnh giới, người ấy có thể điều phục chăng ?

Hỏi: Như Lai không có mật ngữ, Ca-diếp chẳng che giấu thì tâm chúng sinh thường tự hiện rõ, cần gì giáo quán khai thị, rộng bàn ngang dọc ?

Đáp: Chỉ là tri kiến Phật chứa nơi tâm chúng sinh, dù hiển hiện mà kẻ mê muội chẳng biết, vì khách trần che lấp, vọng kiến chướng ngại. Tuy có mà như không như kho báu ở thế gian bị vật che khuất nào có ai biết. Thế nên cần phải chỉ chỗ cất của báu để người thấy được, lấy được của báu lợi ích vô cùng. Việc này cũng như thế, nhờ môn phương tiện được thấy tâm bảo rồi dùng duyên liễu đích thân đắc hiện tiền, trí tạng phong phú, pháp tài đầy đủ, được lợi ích thù thắng, giáo tích chẳng phải rỗng không. Như kinh Đại Niết-bàn nói: Ví như biển cả tuy cùng một vị mặn, trong đó cũng có nước thượng diệu vị như sữa. Như Tuyết Sơn tuy sản sinh nhiều cây thuốc lợi ích, song cũng có cây có độc. Thân chúng sinh cũng như thế tuy có rắn độc bốn đại, trong ấy cũng có diệu dược. Đại vương cho rằng Phật tính chẳng phải là pháp tạo tác, chỉ vì khách trần phiền não che khuất. Nếu có thể đoạn trừ phân biệt tộc tính sát-lợi, bà-la-môn, tỳ-xá, thủ-đà liền thấy Phật tính thành đạo vô thượng. Do đó Cổ đức nói: Nói về khai mở nguồn tính của sự vật, chỉ vì tính chúng sinh bao gồm biển trí, thức rỗng suốt chân không, nhưng chỉ vì hạt châu giấu trong áo, kho tàng chôn trong nhà, phải nhờ khai thị mới ngộ nhập, phải nhờ quán tuệ để khế hợp vô sinh. Lại muốn mở rộng nghĩa dụng ấy thì phải rõ pháp môn ngang dọc. Dọc chỉ có nhất tâm, ngang khắp tất cả. Tâm chẳng phải ngang dọc, ngang dọc là tâm, ẩn hiển đồng thời, linh hoạt vô ngại, niệm niệm tương tức, pháp pháp dung thông. Đem dọc so ngang thì không ngang nào mà chẳng dọc, mỗi mỗi pháp đều đến nguồn tâm. Đem ngang so dọc thì không dọc nào mà chẳng ngang, đầy đủ tất cả câu, tất cả câu đều bao la như pháp giới. Do đó Nghĩa Hải nói: “Thể không sai khác, nêu lên thì hoàn toàn bén nhạy; lý chẳng sai biệt, nói ra đều hiển bày ngay”. Chính do tướng nhị biên hết sai biệt thể dung thông, tùy trí linh động, ứng cơ linh hoạt, thế nên nói khởi liền khởi. Ai nói con đường chẳng thông nên nhiều liền nhiều; ai bảo pháp không tồn tại nên biết lập giáo đều là đối cơ. Cơ nghi bất đồng nên giáo phân nhiều thứ. Chẳng hạn như quán một pháp sắc mà ngũ giáo chứng nhập chẳng đồng.

Ban đầu Tiểu thừa thấy là thật sắc, chẳng nói tính không. Sơ giáo thấy sắc pháp này từ duyên tạo thành ắt không tự tính, tức không vô sở hữu như sóng trở về nước. Chung giáo thấy sắc không vô ngại, vì chân không chẳng giữ tự tính tùy duyên thành sắc là huyễn sắc dựa vào không mà thành, sắc ấy tướng rỗng thể không, tự tính luôn có mà không hiện. Cho nên sắc tức không mà thường mất, không tức sắc mà thường còn, cần phải hết sắc mới là không sắc, cái không làm thành sắc mới là chân không, toàn thể dung thông nhau không chướng ngại như nước vào sóng. Đốn giáo một sắc pháp cũng thuộc chân lý, cho nên sắc này đồng một vị với chân lý, không còn pháp nào khác để nói như nước và sóng đều dứt. Viên giáo khởi tức toàn thâu, nhất đa hỗ nhiếp, đồng thời thành lập. Một khối viên minh có lúc đưa ra là sắc, có lúc đưa ra là không. Nghĩa vị tự tại, theo trí nắm dụng. Vì sao ? Nêu ra một môn không gì chẳng hiển hiện. Cổ đức nói: Đều là nhất tâm mà xâu suốt các pháp. Nhất tâm bao gồm vạn pháp, chia ra giới định tuệ, mở ra thành lục độ, rải ra thành vạn hạnh. Vạn hạnh chưa từng chẳng phải nhất tâm, nhất tâm chưa từng trái vạn hạnh. Vậy thì nhất tâm sinh ra vạn pháp mà không thuộc về vạn pháp. Được nhất tâm thì đối với pháp được tự tại, thấy nhất tâm thì đối với giáo được vô ngại. Vốn chẳng phải pháp nên chẳng thể lấy pháp nói, vốn chẳng phải giáo nên chẳng thể đem giáo truyền, đâu thể lấy vết cũ để tìm kiếm ? Cho nên biết chỉ cần nghiên cứu chuyên một pháp nội chiếu phân minh, tự nhiên nhuần nhuyễn, nhập thần thuận pháp giới tính, vô tâm hợp đạo liền giẫm lên môn nhất tế. Do đó luận Đại Trí Độ nói: “Vì tâm con người phần nhiều tán loạn như điên cuồng, như giặc cướp, như say sưa. Một lòng kính tin là cửa ban đầu của các công đức, nhiếp tâm đắc thiền liền được trí tuệ chân thật, được trí tuệ liền được giải thoát, được giải thoát thì được hết khổ, như thế mọi sự đều từ nhất tâm”.

Hoa Nghiêm Tư Ký ghi: “Vô phược vô trước hồi hướng, vì chỉ thấu rõ tất cả đều như nên được vô phược vô trước. Biết tất cả đều không trói buộc, không cởi mở một pháp đã vậy, tất cả pháp đều thế. Do đó tất cả pháp là một pháp, một pháp là tất cả pháp. Nếu tất cả pháp đều vô tính là phân thân Phật tập họp, bảo tháp xuất hiện, Tu-di vào trong hạt cải. Hiểu một là hiểu tất cả thì biết Phật xuất sinh trong vô sở hữu, pháp kiến lập trong tất cánh không. Vì vô sinh vô tính nên xoay vần do tâm liền được tập họp phân tán đồng thời, lớn nhỏ tức nhập”. Do đó nghĩa thú sum la, ảnh tượng báo hóa cho đến vô lượng đức nghiệp, thần thông quảng đại hiển hiện một lượt trong Tông Cảnh. Chẳng hạn như loài rồng, loài sò hoàn toàn là nghiệp quả sinh tử của thân còn hiện lực dụng bất tư nghì, huống là ngộ được nguồn tâm đầy đủ trí như thật mà không thể hiện thần thông quảng đại sao ?

Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Này Phật tử, như La-hầu a-tu-la vương bản thân cao bảy trăm do-tuần, hóa ra cao mười sáu vạn tám nghìn do-tuần, ở trong biển hiện ra nửa thân cao bằng núi Tu-di. Này Phật tử, a-tu-la vương tuy hóa thân cao mười sáu vạn tám nghìn do-tuần song cũng không phá hoại tướng bản thân, các uẩn giới xứ đều như cũ, tâm không thác loạn, đối với hóa thân không nghĩ là thân khác, đối với bản thân không nghĩ là chẳng phải mình, bản thân thọ sinh mà hằng hưởng thụ khoái lạc. Hóa thân thường hiện các thứ thần thông oai lực tự tại. Này Phật tử, a-tu-la vương có đầy đủ tham sân si kiêu mạn mà vẫn có thể biến hiện thân kia như thế, huống chi bậc đại Bồ-tát liễu đạt sâu xa tâm pháp như huyễn, tất cả thế gian đều như mộng, tất cả chư Phật xuất thế đều như ảnh tượng, tất cả thế giới như biến hóa, ngôn ngữ âm thanh như tiếng vang, thấy pháp như thật. Lấy pháp như thật làm thân mình, biết tất cả pháp bản tính thanh tịnh, rõ biết thân tâm không có thật thể, thân mình trụ khắp vô lượng cảnh giới. Với trí tuệ Phật sáng suốt rộng lớn tịnh tu tất cả hạnh bồ-đề, cho đến như nhà ảo thuật tùy theo một chỗ bày các trò huyễn thuật, chẳng vì nơi diễn trò làm hư hỏng vùng đất ấy, chẳng vì ngày diễn trò làm hỏng ngày ấy. Bồ-tát ma-ha-tát cũng lại như thế, chỗ không có cõi nước hiện cõi nước, nơi có cõi nước hiện không cõi nước, nơi có chúng sinh hiện không chúng sinh, nơi không chúng sinh hiện có chúng sinh; không sắc hiện sắc, sắc hiện không sắc, trước chẳng loạn sau, sau chẳng loạn trước, Bồ-tát rõ biết tất cả thế pháp đều như huyễn hóa. Vì biết pháp huyễn nên biết trí huyễn. Vì biết trí huyễn nên biết nghiệp huyễn. Biết rõ trí huyễn nghiệp huyễn khởi từ huyễn trí; quán tất cả nghiệp như các huyễn thế gian, là chẳng ở ngoài nơi chốn mà hiện các việc huyễn hóa, cũng chẳng ngoài các việc huyễn hóa mà có nơi chốn. Bồ-tát ma-ha-tát cũng lại như thế, chẳng ngoài hư không mà vào thế gian, cũng chẳng ngoài thế gian mà vào hư không, vì sao ? Vì hư không với thế gian không khác nên trụ ở thế gian cũng như trụ hư không. Bồ-tát ma-ha-tát ở trong hư không có thể thấy có thể tu tất cả nghiệp diệu trang nghiêm sai biệt của thế gian; trong một niệm đều biết rõ vô số thế giới hoặc thành hoặc hoại, cũng biết các kiếp lần lượt nối nhau, có thể ở trong một niệm hiện vô số kiếp mà không làm cho một niệm ấy rộng lớn. Bồ-tát ma-ha-tát được huyễn trí giải thoát bất tư nghì, đi đến bờ kia trụ nơi cõi huyễn, đi vào kiếp số như huyễn, tư duy các pháp thảy đều như huyễn, chẳng trái thế gian huyễn hóa, tận cùng huyễn trí, biết rõ ba đời như huyễn, quyết định thông đạt tâm không biên tế, như chư Như Lai trụ như huyễn trí tâm được bình đẳng. Bồ-tát ma-ha-tát cũng như thế, biết các thế gian đều như huyễn, tất cả chỗ đều không chấp trước, không có ngã sở như nhà ảo thuật diễn trò huyễn hóa. Tuy không sống chung với các trò huyễn hóa mà cũng không mê hoặc đối với các huyễn sự. Bồ-tát ma-ha-tát cũng như thế, biết rõ cứu cánh của tất cả pháp, tâm chẳng chấp ta có thể vào trong pháp, cũng chẳng lầm lẫn đối với pháp.

Hỏi: Như tự tâm phải quán như thế nào ?

Đáp: Tính bao gồm trước sau, thể chẳng phải là duyên sinh diệt. Thể ở khắp trong mê ngộ, tính chẳng thuộc sáng tỏ hay mê lầm.

Lại nói: Nguồn tâm vốn tịnh vô vi vô số, phi nhất phi nhị, vô sắc vô tướng, phi thiên phi viên, tuy còn giác tri cũng không giác tri, trong bốn trường hợp kiểm soát tâm niệm chưa niệm cứu cánh bất khả đắc, đâu thể thứ lớp, không thứ lớp quán thiên viên ? Như hư không bình đẳng không sai biệt, tâm tính này cứu cánh vô tâm, lúc có nhân duyên cũng được minh tâm. Đã có nói về tâm tức là có phương cách dạy về chính quán, như hư không cũng có nắng mưa âm dương; tâm cũng như thế tuy không có thiên viên cũng nói về đốn tiệm. Nếu quán tâm có đầy đủ tính tam đế, được tam quán và tất cả pháp không trước không sau, không có thứ lớp, một niệm đầy đủ mười pháp giới. Nếu quán tâm phi không phi hữu, các pháp từ tâm sinh cũng phi không phi hữu. Như vậy tất cả các pháp trong nhất tâm, nên biết quán nguồn tâm này như quán Phật. Nếu thực hành viên quán như thế, người này đi đứng ngồi nằm đều nên khởi tháp sinh tâm Như Lai. Quán tâm như thế gọi là quán Phật tâm.

Phụ Hành Ký ghi: “Tâm tạo là tâm cụ (đủ), cho nên dẫn văn tâm tạo để chứng minh tâm cụ”. Kinh Hoa Nghiêm có kệ:

Tâm như người họa sĩ
Tạo mọi thứ ngũ ấm
Trong tất cả thế giới
Không pháp nào chẳng tạo.
Như tâm Phật cũng thế
Như Phật cùng chúng sinh.
Tâm, Phật và chúng sinh
Ba thứ không sai biệt.
Nếu người muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Cần nên quán như thế.

Câu “tâm tạo chư Như Lai” còn không hiểu thì làm sao hiểu nổi bài kệ nói “tâm tạo tất cả ba thứ không sai biệt” ?

Nói tâm tạo là không ngoài hai ý: Một là theo lý thì tạo tức là cụ (đầy đủ); hai là theo sự thì chẳng ngoài ba đời. Ba đời lại có ba thứ:

1- Quá khứ tạo ra hiện tại, quá khứ hiện tại tạo ra tương lai, như từ vô thỉ đến hiện tại và cho đến tạo ra tận thuở vị lai, tất cả các nghiệp chẳng ngoài mười thế giới, trăm thế giới, ba nghìn thế giới.

2- Hiện tại tạo ra hiện tại, tức là hiện tại cùng cảm một nghiệp; chạy theo cảnh tâm biến đổi gọi là tạo. Vì tâm có nên tất cả đều có, vì tâm không nên tất cả đều không, như đối với một vị quan, mỗi người nhận thấy khác nhau, có người sợ, có kẻ mến, có người thân, có kẻ oán.

3- Thánh nhân biến hóa cũng khiến cho tâm chúng sinh biến hóa mà thấy và do lý cụ mới có sự dụng. Nay muốn tu quán chỉ cần quán lý cụ cùng phá cùng lập đều là pháp giới, tự nhiên bao gồm sự biểu hiện của quyền thật.

Hỏi: Bất tư nghì này cũng theo thứ lớp để giải thích mười pháp giới cùng với tư nghì có gì khác ?

Đáp: Thật ra không có gì khác. Tư nghì là nói sinh ra từ tâm; bất tư nghì là nói nhất tâm đầy đủ.

Nếu có thể tin hiểu như trên sẽ được phước đức vô lượng, đem so sánh với Phật thì vạn hạnh khó bằng. Như trong kinh Pháp Hoa có kệ:

Nếu người cầu Phật huệ
Trong tám mươi vạn ức
Na-do-tha kiếp số
Hành năm ba-la-mật.
Ở trong các số kiếp
Bố thí cúng dường Phật
Và đệ tử Duyên giác
Cùng các chúng Bồ-tát
Thức ăn uống ngon lạ,
Thượng phục và ngoạ cụ,
Chiên-đàn lập tinh xá
Để trang nghiêm vườn rừng
Những sự bố thí ấy
Thảy đều rất vi diệu
Tận cùng các kiếp số
Để hồi hướng Phật đạo.
Nếu giữ gìn cấm giới,
Thanh tịnh không khiếm khuyết
Để cầu đạo vô thượng
Được chư Phật khen ngợi.
Lại thực hành nhẫn nhục
Ở trên đất nhu hòa,
Dù điều ác xâm hại
Tâm cũng không lay động.
Như có kẻ đắc pháp
Ôm lòng tăng thượng mạn
Khinh chê và xúc não
Cũng có thể nhẫn nhục.
Nếu lại siêng tinh tiến
Chí niệm luôn kiên cố
Nơi vô lượng ức kiếp,
Nhất tâm không lười biếng.
Lại nơi vô lượng kiếp,
Trụ ở nơi vắng vẻ,
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Không ngủ thường nhiếp tâm.
Do vì nhân duyên ấy
Thường sinh các thiền định.
Tám mươi ức vạn kiếp
An trụ tâm bất loạn
Giữ gìn nhất tâm này
Mong cầu đạo vô thượng.
Ta được nhất thiết trí
Tận cùng các thiền định.
Người này trong trăm nghìn
Muôn ức kiếp thực hành
Các thứ công đức này
Những gì đã nói trên
Có thiện nam tín nữ
Nghe ta nói thọ mạng
Cho đến một niệm tin
Phước ấy nhiều hơn kia.

Văn Cú Sớ Thích ghi: Một niệm tin hiểu nghĩa là tùy chỗ nghe chợt được khai sáng, tùy lời nói mà thể nhập không chướng ngại, tin tất cả pháp đều là Phật pháp và tin Phật pháp chẳng xa rời các pháp. Chẳng được Phật pháp thì chẳng được tất cả pháp. Thấy tất cả pháp cũng là thấy Phật pháp, tức một mà ba, tức ba mà một. Cũng là hành phi đạo thông đạt Phật đạo, hành Phật đạo thông đạt tất cả đạo; chẳng được Phật đạo tất cả đạo mà thông đạt Phật đạo tất cả đạo, không có mà có, có mà không có, phi sở hữu, phi vô sở hữu, như con đường trước cửa thông suốt cả bốn phía đông tây nam bắc, sáu căn đối với sáu trần cũng đều như thế. Vô nghi là tin, thấu rõ là hiểu. Đây gọi là một niệm tâm tin hiểu. Một niệm tâm tin hiểu này đồng tâm Phật, tin như tin Phật, vào tính bát-nhã chân thật, đến nguồn giải thoát cứu cánh. Do đó công đức tu tập năm ba-la-mật trong vô lượng vô số kiếp so sánh với công đức một niệm tín giải Tông Cảnh chẳng được muôn một, cho nên nói chẳng biết huyền chỉ uổng công niệm tĩnh. Vì vậy trước hết phải ngộ Tông Cảnh rồi sau mới viên tu, lý hạnh không khác mới phù hợp.

Hỏi: Quán tâm như trên thế nào là môn sở nhập năng nhập ?

Đáp: Năng nhập, sở nhập chỉ là nhất tâm. Nói theo trí tạm phân năng sở. Sở nhập là lý sở chứng của nhất tâm; năng nhập là trí năng quán của nhất tâm. Lại lý là thể của tâm, trí là dụng của tâm, như ánh sáng mặt trời phản chiếu mặt trời, do tâm quang này phản chiếu tâm thể thì hai mà chẳng phải hai, thể dụng hợp nhất; chẳng phải hai mà hai, năng sở dường như phân. Nay căn cứ theo tiên đức, y theo tông Hoa Nghiêm lập hai môn năng nhập, sở nhập:

Trước hết nói về sở nhập, tổng quát nhất chân pháp giới, nghĩa là vắng lặng mênh mông sâu rộng bao gồm vạn hữu chính là nhất tâm. Thể tuyệt hữu vô, tướng phi sinh diệt, mê thì sinh tử vô cùng, tỏ rõ thì rỗng rang đại ngộ, đây là khai thị chung, chẳng biết lấy danh mục gì miễn cưỡng chia ra hai môn lý sự mà lý sự dung nhau không chướng ngại: một là sự pháp giới, hai là lý pháp giới.

Đại lược có hai môn:

Một là môn tính tịnh: Tại triền chẳng nhiễm tính hằng thanh tịnh, tuy ở khắp tất cả mà chẳng đồng tất cả. Như tính ướt gồm cả động tĩnh, ngưng chảy không thay đổi, sạch nhơ vẫn hằng như.

Hai là môn ly cấu: Do đối trị chướng tận, tùy theo địa vị cạn sâu. Thể tuy lặng lẽ tùy duyên có khác.

Ba là sự lý vô ngại pháp giới cũng có hai môn:

1- Tương tức vô ngại môn: Nhất tâm pháp giới gồm hai môn sinh diệt xen suốt lẫn nhau chẳng hoại tính tướng, như sóng thuộc về nước chẳng phải tĩnh, nhiếp nước bao gồm sóng chẳng phải động.

2- Hình đoạt vô ký môn: Nghĩa là không sự nào chẳng phải lý cho nên sự chẳng phải sự; không lý nào chẳng phải sự cho nên lý chẳng phải lý.

Bốn là song dung đều lìa: Tính tướng hồn nhiên có mười môn:

1- Do lìa tướng nên sự hoại mà tức lý.

2- Do lìa tính nên lý mất mà tức sự.

3- Do lìa tướng mà chẳng hoại tướng nên sự tức lý mà sự còn, lấy chẳng phải sự làm sự.

4- Do lìa tính mà chẳng mất tính nên lý tức sự mà lý còn, lấy chẳng phải lý làm lý.

5- Do lìa tướng không khác lìa tính nên sự lý cùng đoạt vượt lên ngôn ngữ và ý niệm.

6- Do chẳng hoại, chẳng khác, chẳng mất nên có sự lý đều tồn tại thấy được rõ ràng.

7- Do chẳng hoại, chẳng mất, chẳng khác, lìa tướng lìa tính nên một sự lý vô ngại pháp giới khiến cho diệu pháp đều vượt qua thấy nghe và thông cả thấy nghe, dứt sạch thâm nghĩa tư nghì, chưa từng ngại ngôn ngữ và ý niệm.

8- Do đem lý dung nhiếp sự nên khiến cho không phân chia, như lý khắp cả một nhập tất cả, như lý bao gồm tất cả nhập một, cho nên pháp duyên khởi mỗi mỗi đều bao gồm pháp giới vô tận.

9- Do vì pháp nhân quả bao gồm tất cả nên khiến cho trong thân Phổ Hiền Phật Phật vô lận, trong chân lông của Phật có Bồ-tát trùng trùng.

10- Pháp nhân quả pháp giới sai biệt bao gồm pháp giới không sót, tùy mỗi một môn mỗi một vị đều bao gồm trùng trùng như cõi nước và thân hình to lớn, hạt bụi, mảy lông đều là tướng vô tận. Lấy môn sau cùng bao gồm chín môn trước làm môn dung thông.

Pháp giới là tên gọi chung của nhất tâm, là nơi hướng về của vạn hạnh. Luận Hoa Nghiêm nói: “Từ thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập nhất địa và Phật quả đều lấy pháp giới làm quả thể. Văn-thù là lý pháp giới, Phổ Hiền là trí pháp giới. Lý trí diệu dụng là một Phật môn. Dùng một môn này chia làm hai pháp để hóa độ chúng sinh. Nếu như theo cơ tùy tục thì pháp môn vô tận; nếu nói về thật lý thì chẳng lìa một pháp trong vô pháp giới, nhất đa vô ngại gọi là Phổ Hiền. Ban đầu dẫn dắt người mới học khéo phân biệt chính tà đạt trí tuệ vô sinh trong lý vô tính gọi là Văn-thù, cũng gọi là Đồng Tử Bồ-tát; trong cõi khổ thực hành lợi sinh, gìn giữ gia pháp Phật gọi là Phổ Hiền. Hai vị này đạt được thể tính gọi là Phật. Xưa nay tự tại gọi là pháp giới. Từ đầu đến cuối đều lấy pháp giới làm thể không có pháp nào khác. Đây là nơi tụ hội nhân quả của tất cả chư Phật, cũng là con đường lớn các bậc Thánh hiền cùng đi; cũng là ngôi nhà lớn của tất cả trí vương; cũng là chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh, cho nên gọi là pháp giới.

Sau đó nói về năng nhập, có hai thứ: một là quả hải lìa ngôn thuyết, hai là nhân môn phải nhờ ngôn thuyết.

Nay nói sơ lược về trí vô phân biệt chứng lý pháp giới, có năm môn:

1- Năng sở rõ ràng, nghĩa là với trí vô phân biệt chứng đắc lý vô sai biệt, như mặt trời trong hư không, tuy chẳng thể phân mà mặt trời chẳng phải hư không, hư không chẳng phải ánh sáng mặt trời.

2- Năng sở không hai, nghĩa là vì biết tất cả pháp chính là tự tính của tâm, lấy trí tức thể chiếu trở lại tâm thể; nêu ra một thâu tất cả, nêu lý thâu trí, trí chẳng phải ngoài lý; nêu trí thâu lý, thể của trí vắng lặng, như hạt minh châu tự có ánh sáng, ánh sáng chiếu trở lại hạt châu.

3- Năng sở đều mất, do trí là lý nên trí chẳng phải trí, vì toàn đồng lý không tự thể; do lý là trí nên lý chẳng phải lý, vì toàn đồng trí không tự lập, như sóng chẳng phải nước tướng động liền rỗng, nước chẳng phải sóng tướng tĩnh cùng ẩn. Động tĩnh đều mất, tính tướng cùng lìa.

4- Mất còn vô ngại, lìa tướng lìa tính thì năng sở cùng mất; tính tướng chẳng hoại thì năng sở rõ ràng, như sóng với nước tuy động tĩnh đều mất mà chẳng hoại tính ướt của sóng.

5- Nêu một thâu tất cả, bốn môn trên nêu ra là muốn hiển rõ nghĩa sai khác, lý đã dung nhiếp thì không có hai như một giọt nước biển có đủ vị của trăm sông.

Lại cảnh sở nhập là cảnh giới giải thoát bất tư nghì. Sao gọi là bất tư nghì ? Vì tâm hành và ngôn ngữ không thể đến được. Pháp nào bất tư nghì ? Đó là cảnh giới giải thoát. Giải thoát có hai: một là tác dụng giải thoát, vì tác dụng tự tại thoát khỏi sự ràng buộc; hai là ly chướng giải thoát, vì đầy đủ hai trí thoát khỏi hai chướng.

Hai chướng là hai chướng phiền não và sở tri. Phiền não chướng sự, sở tri chướng lý. Tất cả chúng sinh không chứng được chân tâm bởi do hai chướng này trói buộc. Do bên trong lìa chướng, bên ngoài không trói buộc, hai nghĩa tương thành gọi là giải thoát. Cảnh giới có hai thứ: một là cảnh phân chia, như lãnh thổ một nước đều có sự phân chia, song đức dụng của Phật và Phổ Hiền không thể phân chia; hai là cảnh giới sở tri, vì lý sự vô biên chỉ có Phật và Phổ Hiền mới biết tường tận. Do vì chứng cảnh sở tri vô biên cho nên thành tựu đức dụng vô biên, hai thứ tương thành gọi là cảnh giới. Hai mà không hai nên bất tư nghì.

Lại năng nhập là hạnh nguyện của Phổ Hiền, nhân với pháp đều xứng với nghĩa phổ, căn cứ vào nhân là Phổ Hiền, căn cứ vào pháp là phổ pháp.

Nói nhập nghĩa là năng sở khế hợp, dứt sạch không nương gá, nhất nhập toàn chân mới gọi là chân nhập. Lại chẳng nhập mà nhập vì trí thể tức như, ngoài như không có pháp để phan duyên nên không thể nhập. Tâm hành xứ diệt, vắng lặng không nhập không mất sự chiếu dụng, luôn với nhất như quán các pháp nên gọi là nhập. Hai thứ này vô ngại mới là chân nhập.

Lại nhập Phật cảnh mà không chỗ nhập có ba:

1- Căn cứ vào tất cả chúng sinh là Như Lai tạng thì còn chỗ nhập nào nữa ? Chuyển mê thành ngộ nên nói là chứng nhập.

2- Căn cứ vào lý, vì phi tức phi dị nên nói là nhập vô sở nhập.

3- Căn cứ vào tâm, vì cảnh tâm khế hợp chân cảnh nên nói là nhập. Nếu có sở nhập cảnh trí chưa mất thì đâu được gọi là nhập. Thật sự vô sở nhập mới gọi là chân nhập.

Lại nữa hai nghĩa nhập và chẳng nhập trên căn cứ vào duyên khởi tương do môn, căn cứ vào pháp tính dung thông môn là một chữ tính. Pháp tính dung thông cần phải chẳng hoại tướng mà là chân tính. Nhập thì hoại duyên khởi không có tướng nhập. Chẳng nhập thì hoại tính, tính chẳng trùm khắp tất cả pháp. Do chẳng phá hoại tính tướng mới là nghĩa pháp tính dung thông. Hai thứ lại phải do chẳng nhập mới có thể nhập cũng gồm cả hai môn: Chỉ đứng trên tướng mà nói, nếu căn cứ vào môn duyên khởi phải do các duyên rõ ràng chẳng nhập thì mới được trợ nhau bao trùm tương nhập; nếu căn cứ vào pháp tính dung thông môn, phải do sự tướng rõ ràng mới theo lý dung thông tất cả pháp, cho nên nói nếu chỉ căn cứ vào lý thì không thể tức nhập. Nếu cùng căn cứ vào đệ nhất nghĩa trên tính tướng thì tướng là chẳng nhập, tính là năng nhập. Nếu chỉ có tướng chỉ có tính thì đều không thể nhập, hai thứ cần phải tương dung mới có thể nhập.

Lại nếu căn cứ vào thể không thì vô lai vô nhập; nếu chỉ căn cứ vào tính thì không thể tức nhập; nếu căn cứ vào tướng chẳng hoại gốc như vô sai biệt, hoặc chỉ căn cứ vào sự thì không thể tức nhập. Vì tính dung tướng nên được hỗ nhập, là hiển bày nghĩa chính nhập, nghĩa là nhất sự chẳng khác lý hoàn toàn nhiếp pháp tính, lúc ấy khiến cho đa sự chẳng khác lý ấy tùy theo cái lý sở y đều hiện ra nhiều trong một, nhất sự nhiếp lý đã vậy thì đa sự nhiếp lý cũng thế. Một sự tùy theo lý sở y đều hiện trong nhiều, nên được hỗ nhập, đây là pháp tính dung thông môn, vì một môn này hay nhập vạn pháp. Cho nên Pháp Hoa Sớ nói: Do thật tướng nhập chân, quyết rõ pháp Thanh văn, là vua của các kinh; thật tướng nhập tục, tất cả sự nghiệp mưu sinh đều chẳng trái nghịch thật tướng. Thật tướng nhập trung thì các pháp đều là Phật pháp. Nếu nhập tam quán này tức là nhập tất cả pháp, vì các pháp chẳng ngoài tam đế.

Hỏi: Lúc Bồ-tát Thập trụ chứng nhập chỉ có một chân như không có cảnh giới, tại sao lại nói chia ra hai thứ cảnh giới ?

Đáp: Đây là cảnh giới bất tư nghì, chẳng phải như tình chấp, hoặc còn hoặc mất, hoặc tổng hợp hoặc tách rời cũng không ngoài nhất tâm. Nếu còn tình chấp thì chẳng lập pháp ngoài tâm là còn sự toàn lý. Nếu mất tình chấp thì chẳng hoại lý toàn sự, bặt luôn cái thấy ngoài thể thì chẳng ngại tâm cảnh mà nhất vị, chẳng hoại nhất vị mà nhận được tâm. Cho nên kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Cảnh Như Lai sâu mầu
Lượng ấy bằng hư không
Tất cả chúng sinh nhập
Kỳ thật vô sở nhập.

Hỏi: Nếu lúc chính quán thành tựu, do hữu tâm thành hay do vô tâm thành ?

Đáp: Vào tông này không thể đem hữu vô để cầu, không thể dùng năng sở để nói. Nếu đem hữu niệm phân tích quy về vô niệm thì niệm này trở lại thành hữu; còn nếu lấy vô tâm làm không chẳng hiểu biết gì cả thì thành đoạn diệt, đều rơi vào ý thức, không ra khỏi sự thấy biết. Lại nếu nghịch nó thì chẳng hợp sự lý; nếu thuận nó thì thành năng sở, chỉ có thể diệu hội, không thể đem sự để cầu, do đó Hoa Nghiêm hội ý: Cần phải trừ niệm hội ý tương tục không gián đoạn thuận pháp tu hành. Nếu động niệm khởi tâm liền rơi vào lưới ma, vì pháp chẳng động niệm nên thuận pháp thì niệm trừ. Ngã kiến là vọng tâm. Vì trái pháp nên sinh tử, là biết pháp không động niệm không thể đem hữu niệm để cầu. Lại chẳng phải vô niệm nên không thể dùng vô tâm để được, cần phải lĩnh hội sâu sắc mới nắm được ý nghĩa ấy. Như nói hữu, bất hữu, vô, bất vô v.v… chỉ là ngay động tâm liền lặng đó gọi là thuận pháp. Nếu đem tâm thuận pháp liền có năng sở, chẳng phải thuận pháp. Cho nên kinh Duy-ma nói: “Pháp lìa tất cả quán hạnh”. Pháp sư Tăng Triệu nói: Pháp vốn vô tướng, quán hạnh không thể thấy được, chỉ có vô quán mới thấy được. Như nơi Xích Thủy tìm huyền châu, chỉ có Võng Tượng tìm được. Cho nên nói ẩn chứa trong thân, chẳng chứa trong sông; ở nơi tâm, chẳng ở trong nước. Vì thế Trang Tử nói: Vua Huỳnh Đế dạo chơi phía bắc Xích Thủy, leo lên núi Côn Lôn, nhìn về hướng nam tìm huyền châu bèn sai người trí tìm nhưng không được, lại sai Ly-lâu tìm cũng không được, chỉ có Võng Tượng tìm ra. Huỳnh Đế nói: Lạ thay, Võng Tượng đã tìm được. Chân lý không thể hữu tâm cầu, chỉ có vô tâm mới được”. Như Lộng Châu Ngâm:

Võng Tượng vô tâm mới được châu,
Hay thấy hay nghe là hư dối.

Tuy vậy chẳng rơi vào thấy nghe và chẳng phải là không có tri giác. Như Tín Tâm Minh của Dung đại sư nói:

Tỉnh tỉnh liễu tri rộng thấy biết
Lặng lẽ chẳng thấy nhà tối chẳng dời
Tỉnh tỉnh không vọng tưởng
Lặng lẽ vẫn sáng suốt.
Bảo ấn chân tông sum la một tướng.

Vì thế vô niệm là niệm mà vô niệm, vì niệm không có tự tính. Duyên khởi tức không. Lại duyên khởi đều là duyên khởi trong chân tính đâu thuộc hữu vô, cho đến tức sinh vô sinh, tức diệt vô diệt cũng như thế. Cho nên luận Bảo Tạng ghi: “Nếu nói nó sinh thì không hình không tướng; nếu nói nó diệt thì xưa nay thường linh”. Lại nói: “Thế nên dù cho chém đầu thiêu chết cũng không tổn hại sinh mạng; dù cho uống kim đan, ngọc tiết cũng không tăng trưởng sinh mạng, cho nên chân sinh bất diệt, chân diệt bất sinh, có thể gọi là thường diệt, có thể gọi là thường sinh. Người thích sinh ghét diệt là chưa ngộ lý thường diệt; người thích diệt ghét sinh là chưa ngộ lẽ thường sinh”.

Vĩnh Gia Tập ghi: Nên biết diệu đạo vô hình, vạn tượng không trái chỗ tận cùng; chân như tịch diệt các âm vang không khác cội nguồn của nó. Mê thì thấy phiền não điên đảo sinh, ngộ thì thuận nghịch không còn, lặng lẽ chẳng phải có, duyên hợp thì sinh; sừng sững chẳng phải không, duyên tan thì diệt. Diệt đã chẳng phải diệt, thì lấy diệt nào để diệt; sinh đã chẳng phải sinh thì lấy sinh nào để sinh. Sinh diệt đã rỗng không thì thật tướng thường trụ. Hoa Nghiêm Sớ ghi: Vô sinh của sinh thì chân tính lặng lẽ; sinh của vô sinh thì nghiệp quả rõ ràng. Đây là biết nếu tức niệm là còn có niệm đó là thường kiến; lìa sinh cầu vô sinh đó là đoạn kiến; cả hai đều là chẳng thông đạt lý thật tướng vô sinh vô diệt. Nếu thật sự rõ vô sinh thì vô sinh không gì chẳng sinh, làm sao có hai kiến chấp hữu sinh, vô sinh ? Do đó nói:

Ai vô niệm, ai vô sinh ?
Nếu thật vô sinh không chẳng sinh,
Hãy gọi người gỗ đến hỏi xem,
Cầu Phật thi công sớm tối thành.
Nếu từ dứt niệm về vô niệm
Cũng như cây lạnh và tro tàn
Nào có khác chi là người gỗ,
Đâu thể mong mỏi đến niết-bàn ?

Đây là còn chưa biết tức niệm vô niệm thì làm sao biết đến nhất niệm đốn viên!

Hỏi: Diệu hạnh chỉ là vô niệm, nay thấy thiện thấy ác, nguyện lìa nguyện thành, mỏi mệt thân tâm làm sao là đạo ?

Đáp: Như kiến chấp lìa niệm cầu vô niệm là chưa được thật vô niệm, huống chi niệm vô niệm vô ngại ? Lại vô niệm chỉ là một hạnh làm sao thành nhất niệm viên đốn ? Ý chỉ của nhất niệm viên đốn chẳng phải ý thức biết được, chỉ có quên tình mới có thể khế hội.

Bài tựa của Ngộ Huyền ghi: “Huyền đạo không thể được nhờ công phu; Thánh trí không thể biết với hữu tâm; chân đế không thể hội nếu còn ngã; chí công không phải do tạo tác. Quên lời mới được hợp đạo, rỗng tâm mới được thông lý, ngộ tâm mới được chân nhất, bỏ trí mới đồng với bậc Thánh. Tuy nói hợp với đạo nhưng phải vô tâm đối với hợp mới thật hợp; tuy nói đồng với Thánh nhưng không mong cầu được đồng, thế mới là đồng. Vô tâm nơi hợp thì không hợp không tan; chẳng cầu ở nơi đồng thì chẳng dị chẳng đồng, vượt lên phi nơi bách phi thì phi chỗ không thể phi; quên thị nơi vạn thị thì thị chỗ không thể thị. Thị chỗ không thể thị thì không thị; phi chỗ không thể phi thì không phi. Không dị không đồng thì oán thân không hai, không phi không thị thì chê khen là một. Cho nên quên lời là bỏ nôm lưới, rỗng tâm là lìa chấp trước, ngộ tâm là không còn ngã kiến, bỏ trí là dứt năng chứng. Nếu vận dụng tâm để hợp đạo thì trái đạo, nếu khởi niệm cầu đồng thì mất đồng; nếu là thị sở thị thì mất thị; nếu là phi sở phi thì mất phi. Nói tóm lại, chỉ cần ngay đó vô tâm thì đồng dị đều không, thị phi cùng mất. Mất này cũng mất, không này cũng không, đây vẫn còn mượn ngôn thuyết nhờ giáo lý đối đãi; nếu được tuyệt đãi đốn ngộ nhất tâm, chỉ khế hợp tương ưng không đợi nói nữa”.