TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 36

Quán môn đại lược có hai thứ:

1- Theo thiền tông và viên giáo, bậc thượng thượng căn trực quán tâm tính, chẳng lập năng sở, chẳng dùng tưởng niệm, định tán cùng quán, trong ngoài bình đẳng tức là quán mà vô quán, linh tri tịch chiếu.

2- Theo quán môn, quán tâm như cảnh hiện tiền, tuy quyền lập giả tướng thảy đều do tâm biến hiện, như trong Quán kinh lập ra mười sáu phép quán như nhật quán, thủy quán v.v… Trong kinh Thượng Sinh quán Di-lặc nội viện ở cung trời Đâu-suất v.v…

Chư Chương Sao Thích nói: Một chữ quán về lý có hai thứ: một là nhìn xem (quán chúc) hai là xem xét (quán sát). Đầu tiên là nhìn xem (quán chúc) như năm thức trước duyên lấy năm trần cảnh, tiếp xúc tiền cảnh hiển hiện rõ ràng không thể suy lường, thuộc về tính cảnh hiện lượng. Kế là xem xét (quán sát), nhằm trên tự thức, theo khuôn mẫu kiến lập cảnh giới suy tư tìm kiếm phân biệt.

Nay lập quán môn chính là môn quán sát thứ hai, căn cứ tâm năng quán thì xuất thể có bốn thứ:

1- Khắc tính xuất thể, chỉ có biệt cảnh tuệ. Tuệ này hay lựa bỏ tán loạn, tạp nhiễm, vô ký v.v…, giữ lại cảnh thiện tịnh được biến hiện ra.

2- Năng sở dẫn thể, vì định dẫn tuệ.

3- Tương ưng thể là năm uẩn trừ sắc uẩn.

4- Quyến thuộc thể là cùng với năm uẩn sắc v.v…

Hỏi: Tương ưng thể bốn uẩn, tâm vương tâm sở lấy gì làm năng quán ?

Đáp: Trước hết nói về tâm vương, kế đến nói về tâm sở. Nếu là tám thức tâm vương chỉ lấy thức thứ sáu làm năng quán.

Hỏi: Năm thức trước, thức thứ bảy, thức thứ tám đều có thể duyên lự tại sao chẳng lấy ?

Đáp: Bởi năm thức trước trong địa vị hữu lậu chỉ có hiện lượng thật sự duyên năm trần cảnh; thức thứ tám chỉ có hiện lượng duyên ba cảnh: chủng tử, căn thân, khí thế gian, bản chất của cảnh chỉ là vô ký; thức thứ bảy trong địa vị hữu lậu thường duyên lấy kiến phần của thức thứ tám làm cảnh, thuộc phi lượng. Nay tâm năng quán do giáo lý so sánh biết tướng phần biến khởi, vì tỷ lượng, thiện tính thuộc độc ảnh cảnh. Chỉ có thức thứ sáu có công năng này.

Hỏi: Thức thứ sáu tâm vương có mấy thứ ?

Đáp: Có bốn thứ ý thức:

1- Minh liễu ý thức, cùng với năm thức trước đồng duyên năm trần phân biệt rõ ràng.

2- Định trung ý thức, dần được thượng định sinh khởi trong định.

3- Độc tán ý thức, không cùng duyên với năm thức trước. Vì lựa chọn rõ ràng nên gọi là độc. Và không phải từ định khởi nên gọi là tán.

4- Mộng trung ý thức, vì trong lúc ngủ sinh khởi thức này.

Hỏi: Trong bốn loại ý thức trên, cái nào là tâm năng quán ?

Đáp: Được thượng định là định trung ý thức vì hiện lượng quán. Chưa được định là độc tán ý thức có thể làm quán thể.

Kế đến nói về tâm sở, có năm mươi mốt pháp, đại khái chia làm sáu vị. Lại nói về sự tương ưng của các thức trong hữu lậu. Năm thức trước đều có ba mươi bốn tâm sở tương ưng, đó là năm món biến hành, năm món biệt cảnh, mười một món thiện, ba món căn bản phiền não, hai món trung tùy phiền não, tám món đại tùy phiền não.

Thức thứ sáu tam giới tam tính, định tán nói chung đều có năm mươi mốt tâm sở tương ưng.

Thức thứ bảy có mười tám tâm sở tương ưng, đó là năm món biến hành, bốn món căn bản phiền não (ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái), tám món đại tùy, biệt cảnh chỉ có một món tuệ.

Thức thứ tám chỉ tương ưng với tâm sở biến hành.

Tám thức này nếu trở thành vô lậu thì chỉ tương ưng với hai mươi mốt tâm sở là những thiện pháp của biến hành và biệt cảnh.

Nay nói về tâm năng quán chỉ có thiện tính thức thứ sáu, nói tâm sở tương ưng tùy theo tâm vương. Tâm sở trong định chỉ có hai mươi mốt món, đó là năm món biến hành, năm món biệt cảnh, mười một món thiện. Hoặc trong tầm tư tùy lấy một pháp tức là hai mươi hai món. Vì tầm thô còn tư vi tế chẳng cùng khởi nên sự suy lường có cạn sâu, lấy tư tuệ làm thể. Lúc tán loạn nó tương ưng với tâm vương, thành hai mươi pháp trong các món thiện trước trừ một pháp khinh an; hoặc hai mươi mốt món vì trong tầm tư tùy lấy một pháp.

Hỏi: Tâm năng quán trong ba cảnh thuộc về cảnh nào ?

Đáp: Hai địa vị tán và định đều là độc ảnh cảnh, vì biến ra tướng phần hư giả. Tướng phần hư giả này theo kiến phần năng duyên mà chủng tử sinh ra; vì tự nó không có chủng tử nên gọi là độc ảnh. Không như tính cảnh là sắc tâm thật, đều có chủng tử sinh như nhãn thức duyên sắc v.v…

Lại không như đới chất cảnh, lúc tâm duyên tâm nhất định có chất. Tướng phần trung gian theo chất sinh ra kiến phần gọi là độc ảnh cảnh. Có hai loại:

1- Có chất, tức là tâm năng quán này gá vào cái khác làm chất.

2- Không chất, duyên theo lông rùa, sừng thỏ.

Hỏi: Đã có chất kia tại sao chẳng phải đới chất ?

Đáp: Đới chất có hai thứ:

1- Chân đới chất: Đem tâm duyên tâm, như thức thứ bảy duyên thức thứ tám, thức thứ sáu duyên các thức khác.

2- Tợ đới chất: Tâm duyên sắc, là sở quán này mang theo chất kia nên gọi là tợ đới chất.

Hỏi: Hai địa vị định và tán gá mượn chất kia duyên huân được chủng tử gì ?

Đáp: Chỉ huân tập chủng tử kiến phần tâm sở của tâm năng quán. Tướng phần là hư giả, chẳng huân tập quán tâm hữu lậu, chẳng huân tập chủng tử vô lậu.

Hỏi: Trong ba lượng là lượng gì ?

Đáp: Trong định vị thuộc hiện lượng, trong tán vị thuộc tỷ lượng. Không thuộc phi lượng vì chẳng phải chính quán.

Hỏi: Trong ba tính là tính gì ?

Đáp: Chỉ có thiện tính.

Hỏi: Bốn duyên là duyên gì ?

Đáp: Bốn duyên đều đầy đủ. Tâm vương và tâm sở của thức thứ sáu đều từ chủng tử sinh. Nhân duyên này mượn tướng phần là sở duyên làm duyên, tức là niệm trước dẫn niệm sau là đẳng vô gián duyên.

Tăng thượng duyên có hai thứ: một là thuận, hai là nghịch.

Thuận tăng thượng có hai thứ:

1- Hữu lực tăng thượng: Khi thực hành quán này các duyên hữu lực tùy thuận năng quán gọi là hữu lực tăng thượng.

2- Vô lực tăng thượng: Khi thực hành quán này không chướng ngại pháp khác, tuy vô lực nhưng không trái nghịch những pháp khác nên gọi là vô lực tăng thượng.

Nghịch tăng thượng cũng có hai thứ:

1- Trái nghịch tăng thượng: Khi thực hành quán này có thể làm trái tâm sở của tâm tán loạn, còn có thể trái nghịch tính vô ký v.v…

2- Trái tổn tăng thượng: Khi thực hành quán này có thể trái tổn các pháp nhiễm ô.

Hỏi: Trong ba y là y gì ?

Đáp: Đầy đủ ba y:

1- Nhân duyên y: Tâm năng quán có tự chủng tử làm năng duyên y. Hiện hành y theo chủng tử cho nên cũng gọi là chủng tử y.

2- Câu hữu y: Nghĩa là sáu căn có thể làm chỗ nương tựa cho tâm và tâm sở. Nay thức thứ sáu dùng thức thứ bảy và thứ tám làm sở y nên còn gọi là tăng thượng duyên y.

3- Khai đạo y: Nghĩa là tâm và tâm sở niệm trước dẫn dắt tâm và tâm sở niệm sau. Nắm lấy tâm vương trước gọi là khai đạo y. Vì niệm sau nương vào niệm trước sinh ra tức là tâm hiện tại hướng về tâm niệm sau tạm gọi là niệm trước nên còn gọi là đẳng vô gián duyên y.

Hỏi: Trong năm quả là quả gì ?

Đáp:

1- Tâm năng quán thể nó chẳng phải dị thục quả, chỉ có thức thứ tám là chân dị thục.

2- Đẳng lưu quả: Tâm sở của tâm năng quán này từ chủng tử của nó sinh ra. Chủng tử, hiện hành đều thiện, lưu loại đều đồng.

3- Ly hệ quả: Quán hữu lậu này chưa đoạn hết các pháp trói buộc và chướng nhiễm nên chẳng phải là ly hệ quả.

4- Sĩ dụng quả: Có hai thứ:

1/ Nhân sĩ dụng: Người hay thực hành pháp quán này, người là sĩ dụng; do quán tâm thành tựu tức là sĩ dụng quả.

2/ Pháp sĩ dụng: Lúc thực hành pháp quán này các duyên pháp đều có lực, như kẻ sĩ phu ở thế gian có lực dụng, thành tựu quán tâm tức là sĩ dụng quả.

5- Tăng thượng quả: Trong bốn quả trên có pháp không thuộc về nó, nhưng nơi quán tâm có nghĩa tùy thuận, tức là do quán tâm thành tựu chính là tăng thượng quả.

Hỏi: Tâm năng quán này đủ mấy duyên mới sinh ?

Đáp: Phải đủ năm duyên mới sinh.

1- Tác ý cảnh tâm.

2- Chủng tử sinh hiện hành.

3- Căn là thức thứ bảy.

4- Cảnh giả tướng phần.

5- Căn bản tức thức thứ tám.

Nếu thêm đẳng vô gián duyên thì sáu duyên mới sinh.

Đã rõ được lý sự như trên mới hoàn thành pháp quán.

Hỏi: Nếu cảnh vốn vô sinh, tâm thường chẳng trụ sao lại rườm rà lập ra pháp quán trái nghịch tự thiên chân ?

Đáp: Vì chưa đạt vốn vô sinh mà muốn hướng ngoại vọng tu khiến cho tự nội quán, thầm hợp chân tính. Vĩnh Gia Tập ghi:

Khuyên kẻ hay chây lười
Qua biển phải lên thuyền
Không thuyền sao vượt biển ?
Tu tâm phải tu quán,
Không quán sao minh tâm ?
Tâm còn chưa sáng tỏ
Bao giờ được tương ưng.

Ở đây khuyên những người ôm lấy sự ngu muội ngồi lặng chẳng hâm mộ tiến tu, như người muốn qua sông nhưng không nhờ thuyền làm sao qua được; muốn dứt sạch sinh tử nhưng không có trí tuệ thì làm sao được ?

Lại nói: Khế hội nguồn huyền, người chưa ngộ tâm thà chấp quán mà mê ý chỉ; người đạt giáo đâu vướng ngôn ngữ mà mê lý. Lý đã sáng tỏ thì đường ngôn ngữ dứt đâu có lời để bàn luận; ý chỉ đã hội thì chỗ tâm hành diệt, quán gì để tư duy. Tâm ngôn chẳng có thể tư nghì, có thể gọi là bậc giác ngộ, là người được ý chỉ đâu cần nói đã về nhà, không cần hỏi đường đi, đã thấy mặt trăng đâu cần đến ngón tay. Cho nên Bát-nhã Ngâm:

Thấy trăng thôi nhìn tay,

Đến nhà khỏi hỏi đường

Tức tâm tâm là Phật,

Còn Phật gì để thành.

Phụ Hành Ký nói: Tứ cú tư duy xem xét thì tham dục hết sạch, chỉ có diệu quán, không còn tham dục, sao còn nói vừa khởi vừa chiếu ?

Đáp: Đề phòng lúc khởi, lý cần phải chiếu. Khởi chẳng khởi đều chiếu, chiếu chẳng chiếu đều mất, mất chẳng mất đều bặt, bặt chẳng bặt trạm nhiên, như vậy mới thành tựu nhập không quán, cho nên nói “Chẳng thấy khởi chiếu, khởi chiếu rõ ràng”.

Những quán môn nói trên, ý chỉ nhất tâm nghĩa lý rõ ràng. Hiểu biết tuy phân minh, sự tu hành phải phù hợp. Do hiểu biết mới tu hành được, sự tu tập thành tựu thì tri giải phải dẹp bỏ, không thể mãi bám lấy tri giải mà trái đạo mê tông; hạnh giải tương ưng mới rõ Tông Cảnh.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói về việc thấy tính tu hành, chẳng chấp sự học rộng hiểu nhiều, cho nên Như Lai quở ngài A-nan: Chẳng phải ông trải qua nhiều kiếp nhọc nhằn tu chứng, tuy ông ghi nhớ diệu lý thanh tịnh nhiều như cát sông Hằng của mười hai bộ loại kinh của mười phương Như Lai chỉ càng thêm hí luận. Ông dù bàn luận về nhân duyên, tự nhiên, quyết định rõ ràng, được người đời gọi là đa văn bậc nhất, dù ông trong nhiều kiếp huân tập đa văn cũng không tránh khỏi nạn Ma-đăng-già. (…) A-nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, nay con tuy nhờ pháp âm ấy mới rõ biết diệu giác minh tâm Như Lai Tạng đầy khắp mười phương cõi, được nuôi dưỡng nơi cõi nước trang nghiêm thanh tịnh của Như Lai. Như Lai lại trách con đa văn học rộng chẳng chịu tu tập, nay con như kẻ phiêu bạc bổng được Thiên vương ban cho nhà cửa xinh đẹp. Tuy được nhà cửa to lớn nhưng phải nhờ cửa mà đi vào nhà, cúi mong Như Lai rủ lòng đại bi chỉ dạy cho những kẻ tối tăm nơi hội này, xả bỏ Tiểu thừa, rốt ráo được vô dư niết-bàn của Như Lai phát bồ-đề tâm, khiến cho kẻ hữu học từ đâu nhiếp phục những phan duyên ngày trước để được đà-la-ni nhập tri kiến Phật.

Đức Phật bảo A-nan: Ông thường nghe ta tuyên nói ba nghĩa tu hành quyết định trong tỳ-nại-da: nhiếp tâm là giới, nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ, đây gọi là tam vô lậu học. A-nan, tại sao ta gọi nhiếp tâm là giới ? Nếu như những chúng sinh trong lục đạo tâm họ không còn dâm thì chẳng phải rơi vào sinh tử tương tục. Ông tu tam-muội là để ra khỏi trần lao, nhưng lòng dâm không trừ thì không thể nào ra khỏi trần lao. Cho dù có nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền mà chẳng đoạn dâm ắt rơi vào ma đạo, thượng phẩm ma vương, trung phẩm ma dân, hạ phẩm ma nữ, cho đến đem thân dâm cầu diệu quả Phật, dù được diệu ngộ đều là dâm căn, căn bản thành dâm, lưu chuyển trong tam đồ không thể ra khỏi, niết-bàn Như Lai lối nào tu chứng, cần phải thân tâm dâm cơ đều đoạn, tính đoạn cũng không thì đối với Bồ-đề Phật mới có hi vọng.

Nếu không đoạn sát sinh tu thiền định cũng như có người tự bịt tai mình rồi kêu to mong người khác đừng nghe. Đây gọi là muốn ẩn càng lộ.

Nếu không đoạn trộm cắp mà tu thiền định cũng như có người đem nước rót vào bình rò rỉ, muốn nước đầy, dù trải qua bao kiếp cùng không thể được.

Nếu không đoạn đại vọng ngữ mà tu thiền định cũng như có người đốt phân người mà muốn có mùi thơm chiên-đàn, việc ấy không thể có. Cho đến tạo mười tập nhân, thọ sáu giao báo.

Mười tập huân là:

1- Dâm tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem việc hành dâm cũng như lửa dục, Bồ-tát thấy dục như tránh hầm lửa.

2- Tham tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem việc đa cầu như là nước tham, Bồ-tát thấy tham như tránh biển độc.

3- Mạn tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem ngã mạn là uống nước si, Bồ-tát coi mạn như tránh nước lũ.

4- Sân tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sân khuể là gươm đao bén, Bồ-tát thấy sân như tránh sự giết chóc.

5- Trá tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem gian ngụy là giặc dữ, Bồ-tát thấy sự dối trá như sợ beo sói.

6- Cuống tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự lừa phỉnh là bọn cướp, Bồ-tát thấy sự gạt gẫm như giẫm phải rắn độc.

7- Oán tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai gọi oán gia là quỉ vi hại, Bồ-tát thấy oán như uống rượu độc.

8- Kiến tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem ác kiến là hầm sâu kiến chấp, Bồ-tát thấy các kiến chấp hư vọng như vào chỗ hiểm độc.

9- Uổng tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem oán báng là cọp dữ, Bồ-tát thấy sự vu vạ như gặp sấm sét.

10- Tụng tập: Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự tranh cãi phát ra sự che giấu là giặc ngầm, Bồ-tát xem che giấu như đội núi cao đi trên biển cả.

Sáu giao báo là:

1- Kiến báo.

2- Văn báo.

3- Xú báo (khứu báo).

4- Vị báo.

5- Xúc báo.

6- Tư báo.

Sáu thức này tạo nghiệp chiêu vời ác quả, từ sáu căn xuất đều chuốc lấy quả ác, lúc lâm chung thần thức đọa vô gián ngục, kiến thọ hai tướng khổ minh ám, văn thọ hai tướng khổ khai bế, khứu thọ hai tướng khổ thông bít, vị thọ hai tướng khổ nuốt vào nôn ra, xúc thọ hai tướng khổ hiệp ly, tư thọ hai tướng khổ bất giác và giác tri, mỗi mỗi đều chịu vô lượng khổ được mô tả đầy đủ trong kinh văn.

Thế nên ngài A-nan đã ngộ diệu giác minh tâm, biết rõ tông bèn xin Phật dạy cho pháp tu hành, cho nên biết trước ngộ sau tu, cần phải lý thuyết với thực hành khế hợp. Nếu chỉ chấp lấy sự tri giải không chịu tiến tu thì việc muốn chứng cứu cánh bồ-đề không bao giờ có. Do đó kinh nói: “Dù diệu ngộ đều là dâm căn”, vì căn bản sinh tử chưa đoạn, cần phải giữ gìn chiếc phao mới qua được biển nghiệp.

Kinh Đại Niết-bàn nói: “Lúc ấy trong biển có La-sát, thấy sa-môn đang ôm phao vượt biển, quỷ bèn xin chiếc phao ấy. Sa-môn không cho dù nguyên chiếc, một nửa hay một mảnh…” Phiền não tham v.v… đều riêng hiện hành gọi là một La-sát. La-sát xin nguyên chiếc phao dụ cho đòi giao hợp, xin một nửa dụ cho muốn xúc chạm, xin một phần ba dụ cho đòi hành sự, cho khoảng cánh tay dụ cho ngồi chung một chỗ, cho một chút xíu dụ cho áo quần chạm nhau. Nếu chỉ phá bốn giới trọng là xin nguyên chiếc phao. Phá tăng tàn là xin phân nửa chiếc phao. Phạm thâu-lan-giá là xin một phần ba chiếc phao. Phạm xả-đọa và ba-dật-đề là xin khoảng cánh tay. Phá đột-kiết-la là xin chút xíu, cho nên những điều nhỏ nhặt cũng phải gìn giữ thì giới thể mới hoàn toàn. Tuy xin chút xíu cũng có thể làm hư hỏng chiếc phao, huống chi xin nguyên chiếc hay phân nửa ? Thế nên nếu phạm vào thiên này tội ấy càng nặng, không chỉ chướng đại đạo chẳng ra khỏi trần lao, do nghiệp ác này phải chịu quả báo đọa địa ngục.

Mười tập nhân đã làm thì sáu giao báo đâu mất, đều là một niệm ác giác tâm sinh, điên đảo tưởng khởi, đối cảnh tác nhân trở thành hư giả, tùy tình vận hành tâm tương tục, chẳng dùng con mắt trí tuệ chính quán liền rơi vào con đường phàm phu, dù chỉ một lần chạy theo ý thích song đâu nghĩ đến muôn kiếp trầm luân. Cho nên tất cả Như Lai đều bảo phải nên ghi nhớ, mười phương Bồ-tát đều sợ hãi. Thật kinh hoàng!

Do đó kinh Hoa Nghiêm ghi: “Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi Bồ-tát Pháp Thủ: Này Phật tử, như Phật đã nói nếu có chúng sinh thọ trì Chính pháp thì có thể đoạn trừ tất cả phiền não, tại sao sại có người thọ trì Chính pháp mà không thể diệt trừ phiền não như tham, sân, si, mạn, phú, phẩn, hận, tật, xan, cuống, siểm; dù thế lực xoay chuyển, người ấy không xa lìa tâm hay thọ trì pháp, tại sao nơi tâm hành lại khởi các phiền não ? Khi ấy, Bồ-tát Pháp Thủ dùng bài tụng đáp:

Phật tử khéo lắng nghe chỗ hỏi nghĩa như thật
Chẳng phải chỉ nhờ đa văn vào pháp Như Lai
Người bị nước cuốn sợ chìm mà chết khát
Nơi pháp không tu hành, đa văn cũng như thế.
Người bày thức ăn ngon bị đói mà không ăn
Nơi pháp không tu hành, đa văn cũng như thế.
Người bốc thuốc giỏi mình bệnh không thể cứu
Nơi pháp không tu hành, đa văn cũng như thế.
Người đếm của báu thiên hạ chính mình chẳng có nửa xu
Nơi pháp không tu hành, đa văn cũng như thế.
Người sinh trong vương cung phải chịu đói lạnh
Nơi pháp không tu hành, đa văn cũng như thế.
Người điếc tấu âm nhạc làm vui kẻ khác chính mình chẳng nghe
Nơi pháp không tu hành, đa văn cũng như thế.
Người mù vẽ các hình tượng cho người xem chính mình không thấy
Nơi pháp không tu hành, đa văn cũng như thế.
Như thuyền trưởng mà phải chết trong biển
Nơi pháp không tu hành, đa văn cũng như thế.
Như ở ngã tư đường nói nhiều điều tốt, chính mình không có thật đức chẳng thực hành cũng như thế”.

Kinh Đại Bảo Tích ghi: “Phật dạy: Này Ca-diếp nếu có thiện nam, thiện nữ hướng về Bồ-tát thừa vừa nghe pháp này chẳng thể sinh lòng tin sâu như thật thì không thể được vô thượng chính đẳng chính giác. Vì sao ? Vì tu học nên chứng bồ-đề, chẳng phải không tu học mà có thể chứng đẳc. Nếu người nào không tu tập mà được bồ-đề thì con mèo, con thỏ v.v… cũng phải chứng đắc vô thượng bồ-đề. Vì sao ? Vì chẳng có chính hạnh thì không thể chứng đắc vô thượng giác. Vì sao ? Nếu không có chính hạnh mà đắc bồ-đề thì âm thanh ngôn thuyết cũng phải chứng đắc vô thượng bồ-đề, nói rằng: Ta sẽ thành Phật, ta sẽ thành Phật. Do những lời này mà vô biên chúng sinh phải thành Chính giác”.

Vĩnh Gia Tập ghi:

Tâm tương ưng với không
Chê bai và ca ngợi
Có gì buồn, có gì vui
Thân tương ưng với không
Dao cắt và hương xoa
Có gì vui, có gì khổ !
Y báo tương ưng với không
Ban cho hay cướp đoạt
Có gì được, có gì mất !
Tâm cùng tương ưng với không, bất không
Ái kiến đều quên, từ bi cứu khắp.
Thân tương ưng với không, bất không
Trong như cây khô, ngoài hiện oai nghi.
Y báo tương ưng với không, bất không
Dứt hẳn tham cầu, tiền tài trợ giúp.
Tâm tương ưmg với không, bất không, phi không, phi bất không
Thật tướng mới rõ, khai tri kiến Phật.
Thân tương ưng với không, bất không, phi không, phi bất không.
Một trần nhập chính thọ, các trần tam-muội khởi.
Y báo tương ưng với không, bất không, phi không, phi bất không.
Đài hương gác báu tịnh độ hóa sinh.

Thế nên nếu chẳng dứt trừ bốn tội sâu nặng mà muốn cầu nhất thừa diệu quả như người bịt tai kêu to khó tránh khỏi người khác nghe thấy. Hoặc như người rót nước vào bình rò rỉ biết đến khi nào mới đầy bình.

Lại nếu việc làm không đúng như lời nói, lời nói không đúng như việc làm, tâm miệng tự trái nhau thì ngày nào được tương ưng, như kẻ mù vẽ các hình tượng, người điếc tấu âm nhạc, chỉ làm vui người khác, chính mình chẳng được lợi ích. Cho nên biết nghe mà không tu, hiểu mà chẳng làm, tuy ở trong kho báu đa văn như ở trong vương cung mà bị chết cóng, dạo chơi biển Phật trí như ở trong nước mà chết khát. So sánh có thể biết cần phải sửa đổi lối cũ, nếu không hổ thẹn ăn năn thì đâu gọi là người trí ?

Hỏi: Tông Cảnh Lục đối với hai giáo đốn tiệm, hai tu chân duyên làm thế nào ngộ nhập và tu hành ?

Đáp: Nay trong Tông Cảnh y theo vô tác tam-muội quán chân như nhất tâm, niệm niệm chân thật, niệm niệm viên mãn. Như Thiên Thai giáo nói rõ tu vô tác tam-muội quán thật tướng chân như, chẳng thấy nói duyên tu làm Phật, cũng chẳng thấy nói chân tu làm Phật, cũng chẳng thấy nói hai thứ duyên tu và chân tu hiệp làm Phật, cũng chẳng lìa hai thứ duyên tu và chân tu mà làm Phật. Nếu không có bốn thứ tu thì không có bốn thứ tác là vô tác tam-muội đâu đồng với các nơi phía Bắc nói về duyên tu thành Phật, các sư Đại thừa, Tiểu thừa phương Nam (Ấn Độ) phần nhiều cũng dùng duyên tu, cũng không đồng với các sư phương Nam (Trung quốc) dùng chân tu thành Phật.

Hỏi: Nếu thiên một bên có lỗi gì ?

Đáp: Đạo không tranh luận, sao lại cạnh tranh như nước với lửa. Nay nói dùng tam-muội tu Trung đạo đệ nhất nghĩa đế, khai vô minh hiển pháp tính, quên chân duyên, lìa tranh luận, bặt đường ngôn ngữ, trừ vô lượng tội, thanh tịnh nhất tâm, như nước lắng trong hạt châu Phật tính tự nhiên hiện. Thấy Phật tính chính là trụ đại niết-bàn.

Hỏi: Nếu vậy thì ngày nay nói thế nào ?

Đáp: Kinh Đại Niết-bàn nói: “Chẳng sinh chẳng diệt gọi là Đại niết-bàn”, vì tu đạo chứng đắc nên bất khả thuyết, đâu như các luận sư Đại thừa thiên chấp nói quyết định. Nay do nhân duyên nên cũng có thể nói. Nếu hiểu ý nghĩa Tứ tất-đàn như bốn thứ thuyết ở trước thì không lỗi.

Kế đó nói về sự chứng thành, nếu quán vô minh thấy Trung đạo tức là vào pháp môn bất nhị, trụ bất tư nghì giải thoát cho nên phẩm Nhập Bất Nghì Pháp Môn nói: “Nếu biết vô minh là minh, minh cũng bất khả đắc, là vào pháp môn bất nhị”. Nếu nhập Trung đạo liền có thể song chiếu hai đế, tự nhiên tuôn chảy vào biển Tát-bà-nhã.

Nay y theo Tứ tất-đàn khắp vì các căn cơ ở trong chân tu và duyên tu là vô tác chân tu trong bốn câu của đốn tiệm. Nếu căn cứ vào thượng thượng căn là đốn ngộ đốn tu; nếu căn cứ vào bậc thượng căn là đốn ngộ tiệm tu.

Hỏi: Thế nào là chân tu và duyên tu ?

Đáp: Nếu căn cứ vào duyên tu dụng trí thành Phật, vì chân như chỉ là cảnh. Y theo duyên tu để biết rõ chính mình. Chân tu dùng nhất tâm chân như làm Phật, vạn hạnh với trí chỉ là phước trí trang nghiêm, cho nên dùng nhất tâm chân như làm tự, tất cả phước trí làm tha.

Nếu lập tức liễu ngộ chân tâm liền thành Phật đây là tông viên đốn. Nếu không liễu ngộ tâm này vọng có tu chứng đây là quả đoạn diệt của hai giáo Tạng và Thông. Nếu y theo tâm này phát hạnh biệt tu đây là Đại thừa Biệt giáo. Còn theo Viên giáo tức tâm liền đủ, công trình hạnh vị vun bồi dần, cho nên nói rằng tức tâm ngay đó là đốn, phát tâm thực hành là tiệm.

Hỏi: Đã tức tâm thì cần gì tu ?

Đáp: Vì chỉ là như thế nên phải tu, như sắt chẳng phải vàng nên không thể đúc thành đồ trang sức.

Hỏi: Thế nào là bốn câu đốn tiệm ?

Đáp:

1- Tiệm tu đốn ngộ.

2- Đốn ngộ tiệm tu.

3- Tiệm tu tiệm ngộ.

4- Đốn ngộ đốn tu.

Trong kinh Lăng Già có bốn tiệm bốn đốn, kinh ghi: “Đại Huệ bạch Phật: Bạch Thế Tôn, làm thế nào tịnh trừ tự tâm hiện lưu là đốn hay là tiệm ?”

Trong đây đáp rằng trước nói bốn thứ tiệm, sau đó nói bốn thứ đốn.

Kinh ghi: “Phật bảo Đại Huệ: Tiệm tịnh chẳng phải đốn”.

1- Như quả am-la chín dần dần (tiệm) không phải liền tức khắc (đốn). Như Lai tiệm trừ hiện lưu tự tâm chúng sinh cũng lại như thế, tiệm tịnh chẳng phải đốn.

2- Như người thợ gốm chế tác dần đồ vật chẳng phải có ngay được.

3- Như quả đất được cấu tạo dần dà chẳng phải có ngay.

4- Như học nghề phải lâu ngày mới thành.

Bốn loại tiệm trên căn cứ vào sự tu hành chưa chứng lý.

Bốn loại đốn dưới đây là căn cứ vào sự đã chứng lý.

1- Ví dụ gương sáng hiện ngay, kinh nói: “Như gương sáng hiện ngay tất cả sắc tượng vô tướng. Như Lai tịnh trừ tất cả hiện lưu tự tâm chúng sinh cũng như thế, đốn hiện pháp giới thanh tịnh vô tướng vô sở hữu”.

2- Ví dụ mặt trời mặt trăng liền chiếu soi, kinh nói: “Như mặt trời mặt trăng chiếu ngay hiển bày mọi sắc tượng. Như Lai vì lìa tập khí tự tâm và lầm lỗi của chúng sinh cũng như thế, hiển bày ngay cảnh giới bất tư nghì thắng trí”.

3- Ví dụ tàng thức biết ngay, kinh nói: “Như tàng thức liền phân biệt biết tự tâm hiện và cảnh giới thân an lập thọ dụng, các báo Phật cũng như thế, liền làm thành thục cảnh giới chúng sinh, vì người tu hành ở yên nơi cõi trời sắc cứu cánh”.

4- Ví dụ Phật quang lập tức soi chiếu, kinh nói: “Như pháp do Phật tạo ra y theo ánh sáng Phật chiếu soi, tự giác Thánh trí cũng như thế, chiếu soi trừ diệt các pháp tướng hữu tính vô tính ác kiến vọng tưởng”. Nay lấy đốn ngộ tiệm tu, phù hợp giáo lý sâu xa.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Lý tuy đốn ngộ, nhờ ngộ tập khí mới dần tiêu; sự phải nhờ tiệm tu tuần tự dứt hết, như trên biển cả gió lớn dừng thì sóng mòi lặng; như trẻ con đã có các căn đầy đủ nhưng khả năng của căn từ từ biểu hiện; như ánh sáng mặt trời xuất hiện nhưng sương mù dần tan; như in sách liền thành mà đọc sách thì phải lần lượt trước sau. Hoặc đốn ngộ đốn tu chính là Tông Cảnh, như tông Hoa Nghiêm chấp lấy ngọ như mặt trời chiếu, tức giải ngộ chứng ngộ đều là đốn. Lại như mài gương nhất thời mài cho sáng phải làm từ từ. Nay luận về minh là bản minh, tiệm là viên tiệm.

Minh là bản minh, e rằng lau gương chẳng phải là đốn, gương sáng xưa nay vốn sáng sạch, đâu cần lau chùi bụi bặm. Đây là đả phá sự tiệm tu, hiển bày thẳng bản tính như Lục Tổ chủ trương.

Nay vì thuận theo kinh nói về sự tiệm chứng, tùy tiệm tiệm minh đều là bản minh, cho nên nói rằng minh là bản minh tức trên thể vô niệm tự có chân tri, chẳng phải riêng có tri, tri là tâm thể.

Tiệm là viên tiệm chính là ý của ngài Thiên Thai Trí Giả. Họ nói: Tiệm tiệm phi viên tiệm, viên viên phi tiệm viên. Nghĩa là tiệm gia (người chủ trương tiệm) cũng có viên tiệm, viên gia (người chủ trương viên) cũng có viên tiệm.

Tiệm gia tiệm như con sông bắt nguồn từ núi Mân. Tiệm gia viên như sông dài nghìn dặm. Viên gia tiệm như nước mới vào biển dần dần sâu, một giọt nước cũng làm đầy con sông lớn huống chi là chén nước ? Viên gia viên như tận cùng đáy biển.

Ngay nói tiệm là tiệm của viên gia vẫn hơn viên của tiệm gia, huống chi tiệm của tiệm gia.

Thiền Nguyên Tập nói: Đốn môn có hai thứ: một là trục cơ đốn, hai là hóa nghi đốn.

1- Trục cơ đốn: Gặp phàm phu, thượng căn, lợi trí chỉ thẳng chân pháp, vừa nghe liền đốn ngộ hoàn toàn đồng quả Phật. Như trong kinh Hoa Nghiêm lúc mới phát tâm bồ-đề liền đắc vô thượng bồ-đề, trong kinh Viên Giác quán hạnh liền thành Phật.

2- Hóa nghi đốn: Nghĩa là Phật mới thành đạo vì hàng thượng căn cơ duyên thành thục đời trước nhất thời liền nói tính tướng sự lý mọi mê lầm của chúng sinh, vạn hạnh của Bồ-tát, địa vị của hiền Thánh, vạn đức của chư Phật, nhân gồm biển quả, sơ tâm liền được bồ-đề; quả suốt nguồn nhân, vị mãn cũng đồng Bồ-tát. Chỉ có kinh Hoa Nghiêm được gọi là đốn giáo. Trong ấy nói các pháp là các pháp của nhất tâm, nhất tâm là nhất tâm của các pháp, tính tướng viên dung, nhất đa tự tại.

Lại căn cứ căn cơ đốn tiệm bất đồng, có chỗ nói trước hết nhân tiệm tu công thành mà chợt đốn ngộ như đốn cây từ từ cây sẽ ngã, như đi về thành thị từng bước một ngày nào đó sẽ đến.

Có chỗ trước hết nhân đốn tu sau tiệm ngộ như người học bắn tên; đốn như là mỗi mũi tên nhắm thẳng đích; tiệm như là tập lâu ngày mới bắn trúng đích. Đây là nói dụng tâm đốn tu, không nói công hạnh đã đầy đủ ngay.

Có chỗ nói tiệm tu tiệm ngộ như leo lên đài cao chín tầng càng lên cao càng thấy xa. Trên đây đều là chứng ngộ.

Có chỗ nói trước hết cần phải đốn ngộ rồi mới tiệm tu, đây là căn cứ giải ngộ. Nếu căn cứ vào đoạn chướng như mặt trời xuất hiện thì sương mù dần tan. Nếu căn cứ vào thành đức như trẻ con sơ sinh liền đầy đủ tứ chi lục căn, khi trưởng thành lần lượt thành tựu chí khí công dụng. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lúc mới phát tâm liền thành Chính giác, lần lượt tu chứng tam hiền thập Thánh”. Nếu chưa tỏ ngộ mà tu thì chẳng phải chân tu bởi vì chẳng phải hạnh của bậc chân lưu nên không gọi là chân; làm gì có cái chân giả tạo ? Kinh nói: “Nếu chưa nghe pháp này dù nhiều kiếp tu lục độ vạn hạnh song rốt cuộc chẳng chứng chân”.

Có chỗ nói đốn ngộ đốn tu, đây là nói bậc thượng thượng trí, căn tính và sở thích đều thù thắng, một nghe nghìn ngộ được đại tổng trì, nhất niệm chẳng sinh thuở trước thuở sau đoạn trừ. Nếu nói theo đoạn chướng thì như chặt một cuộn tơ muôn sợi tơ đều đứt. Nếu nói theo tu đức thì như nhuộm một cuộn tơ muôn sợi liền có màu.

Hà Trạch nói: “Thấy thể vô niệm chẳng theo vật sinh”.

Lại nói: “Nhất niệm cùng bản tính tương ưng, tám muôn hạnh ba-la-mật đều hiển tác dụng”. Lại đốn ngộ là ở ngay đời này liền được giải thoát cũng như sư tử con vừa mới sinh đã là sư tử thật. Ngay khi tu liền vào địa vị Phật như vào mùa xuân tre mọc măng thì chồi măng và cây tre không khác. Vì sao ? Vì ruột nó rỗng. Nếu trừ vọng niệm dứt sạch ngã nhân thì cùng Phật không khác. Kinh nói: “Chẳng hoại thế gian mà siêu việt thế gian, chẳng lìa phiền não mà nhập niết-bàn”. Chẳng tu đốn ngộ như con dã can đi theo sư tử trăm nghìn kiếp cũng không thể thành sư tử, cho nên biết nếu không rõ tự tâm thì đâu thể thành viên đốn, theo người khác tu học sai lầm trọn không thể nào thành chân. Tông Cảnh Lục là môn viên đốn, chính ngay nơi tâm rõ biết không ngằn mé, không trước sau, muôn pháp đồng thời. Do đó Chứng Đạo Ca nói:

Thế nên thiền môn rõ tự tâm
Liền vào vô sinh từ nhẫn lực.

Lại nếu do ngộ mà tu đó là giải ngộ; nếu nhờ tu mà ngộ đó là chứng ngộ. Lại đốn giáo ban đầu như hải hội Hoa Nghiêm ở trong rừng Thệ-đa (rừng Kỳ-đà, rừng Kỳ Viên) Như Lai nhập Sư tử tần thân tam-muội, mọi người đều chứng ngay pháp giới không sai khác, về sau cho đến sắp diệt độ, nơi Sa-la song thọ thành Câu-thi-na, Như Lai cất tiếng sư tử rống để hiển bày pháp thường trụ, quyết định nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Hễ có tâm thức thì quyết định sẽ thành Phật, cứu cánh niết-bàn thường lạc ngã tịnh đều khiến cho an trụ trong tạng bí mật. Vì giáo pháp này vốn từ tâm thể nhất chân của Thế Tôn lưu xuất, cũng chỉ là chân thể nhất tâm mà phàm Thánh nương nhờ tùy duyên lưu xuất triển chuyển mọi nơi trong thân tâm của tất cả chúng sinh. Chỉ riêng nơi tự tâm, tịnh niệm như lý tư duy, tức hiển hiện như thị như thị. Trong Tông Cảnh thấu tỏ rõ ràng, khởi cái chiếu soi không bờ bến này khắp pháp giới hư không vô tận, không một trần nào mà chẳng tiếp nhận ánh sáng, không một niệm nào mà không được chiếu soi, đây là sự chiếu soi của Bát-nhã vô tri, sự chiếu soi này nào có bờ mé ? Tông của niết-bàn đại tịch làm sao có tận ? Cho nên luận Bát-nhã Vô Tri ghi: “Kinh Phóng Quang cho rằng Bát-nhã không có tướng sở hữu không có tướng sinh diệt. Kinh Đạo Hành cho rằng Bát-nhã không có cái biết cũng không có cái thấy”. Đây là nói về công dụng của trí chiếu là vô tướng vô tri. Thật ra có cái tri vô tướng và cái chiếu bất tri. Vì sao ? Hễ có cái được biết thì có cái chẳng được biết, vì tâm bậc Thánh vô tri nên không gì chẳng biết. Cái biết của cái không biết là biết tất cả. Cho nên kinh nói: “Tâm bậc Thánh không biết mà không gì chẳng biết”. Thế nên Thánh nhân để tâm trống rỗng mà chiếu soi rõ ràng, suốt ngày biết mà chưa từng biết, cho nên có thể lặng lẽ soi sáng, tâm rỗng lặng mà chiếu soi linh diệu; dẹp bỏ trí thông minh chỉ còn tính giác hiển lộ. Vậy thì trí chiếu soi tận cùng u huyền mà vô tri đâu ? Thần có dụng ứng hội mà vô lự đâu ? Vì thần vô lự nên làm vua ở thế gian, trí vô tri nên hay soi sáng mọi việc bên ngoài. Trí tuy ở ngoài sự mà chưa thể vô sự, thần tuy ngoài thế mà trọn ngày vẫn an định. Do đó cúi ngửa thuận hóa ứng tiếp vô cùng, không chỗ u huyền nào mà chẳng thấy, đây là chỗ tri của vô tri, chỗ thể hội của Thánh thần. Nhưng vì là vật, thật mà chẳng có, hư mà chẳng không, tồn tại mà không thể nói được. Nó chỉ là Thánh trí ư ? Tại sao muốn nói nó có nhưng không hình không tên; muốn nói nó không nhưng bậc Thánh cho là linh thiêng. Vì nó linh thiêng nên rỗng mà chẳng mất chiếu soi. Vì không hình không tên nên chiếu mà chẳng mất cái rỗng. Vì chiếu chẳng mất rỗng nên đầy khắp mà chẳng thay đổi. Vì rỗng chẳng mất chiếu nên động để tiếp thô. Thế nên cái dụng của Thánh trí chưa thể tạm bỏ, chưa thể tìm được hình tướng của nó. Cho nên Bảo Tích nói: “Do không tâm ý mà hiện hành”. Phóng Quang nói: “Bậc đẳng giác bất động mà kiến lập các pháp”. Do đó Thánh tích muôn mối nhưng cuối cùng chỉ là một mà thôi. Thế nên Bát-nhã rỗng mà chiếu, chân đế có thể mất mà biết, ngay muôn động mà tĩnh, Thánh ứng vốn không mà hiển hiện. Đây là chẳng biết mà tự biết, chẳng làm mà tự làm thì còn biết cái gì nữa, còn làm cái gì nữa ?

Hỏi: Chân tâm bậc Thánh chiếu sáng, mọi vật cùng soi, ứng tiếp vô phương, linh động cùng hòa hội với sự vật. Vì mọi vật cùng chiếu nên tri không sót chỗ nào. Vì linh động cùng hòa hội với sự vật nên hòa hội đúng lúc. Vì hòa hội đúng lúc nên có hiểu những gì đáng hiểu. Vì biết không sót chỗ nào nên có biết những gì đáng biết. Vì có biết những gì đáng biết nên Thánh chẳng biết suông. Vì có hiểu cái đáng hiểu nên Thánh chẳng hiểu suông. Đã biết đã hiểu mà nói không biết không hiểu là thế nào ? Nếu người quên cái biết còn cái hiểu thì đó là Thánh vô tư đối với sự hiểu biết để thành tựu riêng cái của mình, đây gọi là chẳng tự có cái biết thì đâu được vô tri ?

Đáp: Công lao của Thánh nhân cao hơn nhị nghi (âm dương) mà không nhân từ, sáng hơn nhật nguyệt mà xa tối tăm thì đâu thể nói gỗ đá si mê bám lấy sự vô tri sao ? Thật ra các thứ ấy khác với con người ở chỗ sự sáng suốt cho nên không thể tìm cầu trên sự tướng. Theo y ông, Thánh nhân chẳng tự có biết mà Thánh nhân chưa từng chẳng có biết. Không như vậy thì trái với tâm Thánh nhân, mất đi ý nghĩa của kinh văn! Vì sao ? Kinh nói: Chân Bát-nhã thanh tịnh như hư không, vô tri vô kiến, vô tác vô duyên, đây là tri tự vô tri, đâu phải đợi phản chiếu rồi sau mới vô tri!”

Nếu có người biết tính không mà tự xưng là thanh tịnh thì chẳng cần nói đến si mê hay trí tuệ, mà cả tam độc tứ đảo cũng đều thanh tịnh, sao chỉ suy tôn bát-nhã là thanh tịnh.

Nếu dùng sở tri ca ngợi bát-nhã, sở tri chẳng phải bát-nhã, sở tri tự thường thanh tịnh, bát-nhã chưa hề thanh tịnh, cũng không tạo nhân duyên làm thanh tịnh bát-nhã.

Nhưng kinh nói bát-nhã thanh tịnh, cho rằng thể tướng của bát-nhã thật sự là thanh tịnh, cái biết vốn không chấp thủ không mê lầm. Cái biết không chấp thủ, không mê lầm không thể biết tên gọi sao ? Đâu chỉ có vô tri gọi là vô tri, tri tự là vô tri rồi. Thế nên Thánh nhân dùng bát-nhã vô tri chiếu soi chân đế vô tướng. Chân đế chẳng sót một vật gì, bát-nhã soi xét tất cả. Do đó hiểu mà chẳng sai, đúng mà chẳng phải, lặng lẽ e chẳng biết mà biết khắp tất cả. Hỏi gạn rằng phàm vật không thể tự thông hiểu, nên phải đặt tên để hiểu vật. Vật tuy chẳng phải tên, nhưng thật ra có vật có thể gọi tên đúng với tên gọi. Cho nên ngay tên tìm vật, vật không thể ẩn mà nói rằng tâm Thánh vô tri.

Lại nói vô sở bất tri, ý bảo rằng vô tri chưa từng tri, tri chưa từng vô tri, đây gọi là sự thông hiểu giáo lý, đúng với ý muốn trình bày. Nhưng luận giả muốn cái nhất của tâm bậc Thánh khác với ý nghĩa của văn kinh, Tìm sự thật trong văn kinh thì chưa chính xác. Vì sao ? Nếu biết được tâm bậc Thánh thì không biết không có điều để nói. Nếu không biết được tâm bậc Thánh thì biết cũng không có điều để nói. Nếu cả hai đều không được thì chẳng có gì để nói sao ?

Đáp: Nghĩa của bát-nhã là vô danh vô thuyết, phi hữu phi vô, phi thật phi hư, đây là pháp vô danh nên chẳng phải lời nói, lời nói thuộc về năng sở. Lời tuy không thể nói ra nhưng chẳng phải lời không thể truyền, cho nên Thánh nhân cả ngày nói mà chưa từng nói.

Nay thử vì ông nói bàn những lời ngông nghênh. Tâm bậc Thánh vi diệu vô tướng, không thể cho là hữu, sử dụng nó thì càng siêng năng; không thể cho là vô, vì không thể là vô cho nên Thánh trí tồn tại. Không thể là hữu nên danh tự giáo nghĩa dứt bặt. Thế nên nói biết chẳng phải biết là muốn thông hiểu sự chiếu soi của nó. Nói chẳng biết chẳng phải chẳng biết là muốn biết rõ cái tướng của nó. Biết rõ tướng ấy chẳng phải không, thông hiểu sự chiếu soi kia chẳng phải có. Chẳng phải có nên biết mà không biết; chẳng phải không nên không biết mà biết. Cho nên biết là không biết, không biết là biết chẳng thể nói khác mà khác với tâm bậc Thánh.

Hỏi: Chân đế sâu xa chẳng phải trí thì không thể suy lường, khả năng của Thánh trí được hiển bày nơi đây, vì thế kinh nói chẳng được bát-nhã thì không thể thấy chân đế, chân đế là duyên của bát-nhã. Lấy duyên cầu trí, trí thì biết rõ vậy.

Đáp: Lấy duyên cầu trí, trí chẳng phải là biết. Vì sao ? Kinh Phóng Quang nói: “Chẳng duyên sắc sinh khởi thức, đây gọi là chẳng thấy sắc”. Lại nói: “Năm ấm thanh tịnh nên bát-nhã thanh tịnh, bát-nhã là năng tri, năm ấm là sở tri, sở tri là duyên”.

Tri với sở tri cùng có, cùng không. Vì cùng không nên vật chẳng phải có; vì cùng có nên vật chẳng phải không. Vì vật chẳng phải không nên là chỗ khởi của duyên; vì vật chẳng phải có nên duyên không thể sinh. Vì duyên không thể sinh nên xét duyên chẳng phải biết; vì là chỗ khởi của duyên nên biết duyên làm nhân cho nhau mà sinh. Thế nên tri và vô tri đều phát sinh từ sở tri. Vì sao ? Vì tri lấy sở tri chấp tướng nên gọi là tri. Chân đế tự vô tướng, chân trí đâu phải do tri! Vì sao ? Bởi sở tri chẳng phải sở tri, sở tri sinh tri. Sở tri đã sinh ra tri, tri cũng sinh ra sở tri. Sở tri đã sinh lẫn nhau, sinh lẫn nhau là pháp nhân duyên. Vì là pháp nhân duyên nên chẳng phải chân đế. Cho nên Trung Quán nói: “Vật sinh ra từ nhân duyên nên chẳng phải chân thật; những vật không từ nhân duyên sinh ra mới là chân thật”. Vì chân chẳng phải duyên nên không có vật nào từ duyên mà sinh, cho nên kinh nói: “Chẳng thấy có pháp không do nhân duyên mà sinh”. Tâm chân trí quán chân đế này chưa hề chấp lấy sở tri. Trí chẳng chấp lấy sở tri, trí này đâu phải do tri. Nhưng trí chẳng phải vô tri, nhưng vì chân đế chẳng phải sở tri cũng chẳng phải tri, vậy mà ông muốn lấy duyên cầu tri, lấy trí làm tri, duyên tự phi duyên chỗ nào mà cầu tri ?

Hỏi: Luận nói chẳng chấp lấy, là vô tri mới chẳng chấp lấy hay là tri rồi mới chẳng chấp lấy ? Nếu không biết mà chẳng chấp thì Thánh nhân cũng mờ mịt như đi đêm không phân biệt được tăng tục. Còn nếu biết rồi sau chẳng chấp thì biết khác với chẳng chấp.

Đáp: Chẳng phải vô tri nên chẳng chấp thủ, cũng chẳng phải tri rồi mới chẳng chấp thủ. Vì biết thì chẳng chấp thủ nên có thể chẳng chấp thủ mà biết.

Hỏi: Luận nói chẳng chấp thủ thật ra tâm bậc Thánh không chạy theo vật nên không có chấp thủ sai lầm. Chẳng chấp thì chẳng phải, chẳng phải thì chẳng xứng. Cái gì tương xứng với tâm bậc Thánh mà nói tâm bậc Thánh không gì chẳng biết ?

Đáp: Đúng là chẳng phải thì chẳng xứng. Phàm chẳng xứng thì không vật gì chẳng xứng, chẳng phải thì không vật gì chẳng phải. Vì vật không gì chẳng phải nên phải mà chẳng phải; vì vật không gì chẳng xứng nên xứng mà chẳng xứng. Cho nên kinh nói: “Thấy tất cả các pháp mà không hề chấp”.

Hỏi: Tâm bậc Thánh không gì chẳng phải, thật ra chẳng phải mới là phải; dù chẳng phải cho nên cần nên phải nơi cái không phải. Vì thế kinh nói: “Vì chân đế vô tướng nên bát-nhã vô tri”; thật ra bát-nhã không có cái tri hữu tướng. Nếu cho vô tướng là vô tướng thì sao lại dính mắc vào chân đế ?

Đáp: Thánh nhân chẳng phải vô tướng, vì sao ? Nếu cho vô tướng là vô tướng thì vô tướng tức là tướng, bỏ có rồi mới không như tránh ngọn núi mà chạy vào hang cũng đều là tai họa. Thế nên bậc chí nhân ở nơi có mà chẳng có, ở nơi không mà chẳng không. Tuy chẳng chấp hữu vô, song cũng chẳng bỏ hữu vô, do đó họ có thể hòa mình trong trần lao, lăn lộn nơi năm đường, đi lại vẫn lặng lẽ an nhiên, tự tại vô vi, không gì chẳng làm.

Hỏi: Tâm tính tuy vô tri nhưng đạo ứng hội kia không sai, thế nên nếu có thể ứng liền ứng đó, còn không thể ứng thì giữ lại đó. Vậy thì tâm Thánh có lúc sinh, có lúc diệt phải không ?

Đáp: Sinh diệt ấy là tâm sinh diệt. Thánh nhân vô tâm thì sinh diệt làm sao khởi! Nhưng chẳng phải vô tâm, chỉ là tâm vô tâm thôi, lại chẳng phải không ứng, chỉ là ứng không ứng thôi! Thế nên ứng hội thì tin. Như thực chất của bốn mùa lấy hư vô làm thể, đây là sự sinh diệt không thật.

Hỏi: Cái không của Thánh trí với cái không của hoặc trí đều chẳng sinh diệt, vì sao khác biệt ?

Đáp: Cái không của Thánh trí là không biết; cái không của hoặc trí là biết không. Cái không đó tuy đồng song lại có khác biệt nhau. Vì sao ? Vì tâm Thánh rỗng lặng nên vô tri có thể tính không, nên gọi là vô tri chứ không gọi là tri vô. Hoặc trí có biết nên hữu tri có thể tính không, nên gọi là tri vô chứ không gọi vô tri.

Vô tri là cái vô của bát-nhã, tri vô là cái vô của chân đế. Cho nên bát-nhã và chân đế, nói về dụng thì đồng mà khác, nói về tịch thì khác mà đồng. Đồng nên vô tâm chẳng phân biệt, khác nên chẳng mất công phu chiếu soi. Thế nên nói đồng là đồng đối với dị, nói dị là dị đối với đồng, đây là sự dị đồng bất khả đắc. Vì sao ? Trong có ánh sáng độc chiếu, ngoài thật có muôn pháp. Vạn pháp tuy thật song đều chiếu soi, trong ngoài hỗ trợ nhau để thành công phu chiếu soi, đây chẳng phải là hoạt dụng chung của chư Thánh. Trong tuy chiếu mà vô tri, ngoài tuy thật mà vô tướng, trong ngoài lặng lẽ hỗ trợ nhau đều không, đây là chỗ lặng lẽ như nhau của chư Thánh. Cho nên nói: “Các pháp không sai khác”, đâu cho rằng cắt chân hạc nối vào chân le le, san bằng núi non lấp đầy thung lũng rồi sau đó mới không khác biệt ? Thật ra vì chẳng khác nơi khác cho nên tuy khác mà chẳng khác. Do đó kinh nói: “Lạ thay! Thế Tôn ở trong pháp không khác biệt mà nói các pháp khác biệt”. Lại nói: “Bát-nhã và các pháp cũng chẳng phải nhất tướng, cũng chẳng phải dị tướng”.

Hỏi: Luận nói: Nói về dụng thì khác, nói về tịch thì đồng; chưa am tường bên trong của bát-nhã thì có sự sai biệt của tịch dụng chăng ?

Đáp: Dụng tức tịch, tịch tức dụng; dụng tịch cùng một thể mà tên gọi khác nhau, không còn có cái tịch vô dụng thuộc về dụng. Thế nên trí càng tối, chiếu càng sáng; thần càng tĩnh, ứng càng động; đâu thể nói sáng tối động tĩnh khác biệt ? Cho nên Thành Cụ nói: “Chẳng làm mà từng làm”. Bảo Tích nói: “Vô tâm vô thức mà không gì chẳng giác tri”. Đây là cùng thần tận trí, là lời nói cùng tột có thể biết tâm bậc Thánh như trong văn kinh.

Giải thích:

Bát-nhã vô tri là giềng mối của bộ luận, là đại thể của Tông Cảnh, vi diệu khó hiểu cho nên toàn dẫn chứng minh. Bát-nhã là trí dụng; vô trí là trí thể; dụng chẳng lìa thể, tri là vô tri; thể chẳng lìa dụng, vô tri là tri.

Nếu có tri tức là cái tri chấp tướng, liền bị sở tri ràng, buộc, không thể biết hết tất cả, cho nên luận nói. “Hễ có cái biết thì có cái chẳng biết”.

Nếu là cái tri vô tướng thì không bị sở tri trở ngại là có thể biết khắp tất cả cho nên luận nói: “Do tâm bậc Thánh vô tri nên không chỗ nào mà chẳng biết”.

Nói tóm lại, chỉ là lý sự vô ngại, chẳng phải tức, chẳng phải ly, như luận nói vì tinh thần không lo lắng nên được tự tại trên đời, vì trí vô tri nên có thể chiếu soi mọi sự bên ngoài đây là chẳng phải tức sự. Trí tuy ngoài sự song chưa hề vô sự, thần tuy biểu hiện trên đời nhưng cả ngày ở trong lĩnh vực của nó, đây là chẳng phải ly sự.

Lý phi tức phi ly cũng như sự vậy. Cho nên lý từ sự hiển, lý suốt nơi sự; sự nhờ lý thành, sự suốt nơi lý. Lý sự xen suốt bát-nhã mới tròn, mới có thể hữu vô, quyền thật đồng hành, đâu có thể chấp hữu chấp vô mà mê muội ý Phật ? Do đó luận nói: Muốn nói nó có nhưng không hình không tên; muốn nói nó không nhưng bậc Thánh cho là linh diệu. Vì sao ? Cái có này là cái có mà chẳng có làm sao có tên gọi ? Cái không này là cái không mà chẳng không làm sao thiếu cái thể ? Hữu vô tuy phân hai tên gọi nhưng thể tính chỉ là một, chẳng thể cho có là có, cho không là không, vì thế luận nói vì phi hữu nên tri mà vô tri, vì tri tự vô tính, đâu phải đợi mất tri rồi sau mới vô tri! Luận nói chẳng phải không nên vô tri mà tri; vì tri vô tướng chẳng phải như gỗ đá chẳng biết gì hết mà mất khả năng chiếu soi. Tính linh tri này tuy không có danh tướng nhưng tịch chiếu không sót. Như luận nói: Khảo sát ý Phật trong kinh điển lại có tâm chân ngụy khác biệt, sắc không soi chiếu sai biệt ư ? Thế nên theo vô tướng mà chẳng mất công năng hòa hội, thấy biến động mà không trái ý chỉ vô tướng; có mà chẳng khác không, không mà chẳng khác có, chưa từng chẳng có, chưa từng chẳng không, cho nên nói không động đến Đẳng giác mà kiến lập các pháp.

Từ đây suy ra, tịch dụng làm sao ngăn ngại, tại sao cho rằng cái biết biến động khác biệt với cái chiếu vô tướng ?

Luận nói: Tri là vô tri, vô tri là tri không thể nói khác mà là khác biệt đối với tâm bậc Thánh. Cho nên biết rằng nếu nói hữu vô, đồng dị đều là ngôn ngữ thế gian, chỉ có hư danh không có thật thể. Đâu thể đem lời lẽ bất định mà muốn định nghĩa diệu tính vô ngôn ?

Nay tóm tắt đại ý bát-nhã vô tri chỉ là vô tâm tự nhiên linh chiếu, chẳng phải chờ tướng hiển, chẳng phải nhờ duyên sinh, không trụ hữu vô, không kẹt năng sở, phi nhất phi dị mà thành diệu đạo. Do đó tiên đức nói tâm bậc Thánh không tư duy, dứt sạch danh ngôn; vì thể nó rỗng không nên không thể dùng sắc nắm bắt, vì không suy nghĩ nên không thể đem tâm cầu. Trùm khắp pháp giới mà chẳng lớn, trên mảy lông mà chẳng nhỏ, lặng lẽ dứt hết sinh diệt, ứng vật không khứ lai, soi suốt gương trời mà chẳng nhọc chiếu soi. Trí khắp mười phương mà chẳng sinh hai tướng, sum la vạn tượng cùng nó đồng nguồn. To lớn thay! Diệu dụng mà vô tâm đó chỉ là bát-nhã vô tri.

Sớ sao nói: Đề xướng vô tri là phá tà chấp. Có bốn thứ tà chấp, trong luận đả phá tất cả: một là chấp có biết là thường kiến, hai là chấp không biết là đoạn kiến, ba là chấp cũng biết cũng không biết là tương vi kiến, bốn là chấp chẳng phải có biết chẳng phải không biết là hí luận kiến.

1- Phá thường kiến hữu tri: Kẻ ngu nghe nói bát-nhã là trí tuệ. Trí là biết, tuệ là thấy thì cho rằng Thánh nhân đồng với phàm phu có tâm chấp tướng, thấy biết rơi vào thường kiến chẳng rõ bát-nhã. Luận chủ liền bác, nghe bậc Thánh có biết cho là có tâm là phá cái chấp này cho nên nói bát-nhã vô tri. Đây là theo tục mà chẳng chấp tướng, theo chân mà chẳng trước không. Chẳng chấp chẳng trước tức là tứ cú vốn mất, không gì chẳng biết mà chưa từng phân biệt. Dùng cái biết vô duyên chiếu rọi cảnh thật tướng, trí tuy chiếu mà vô tri, cảnh tuy thật mà vô tướng. Vì trí cảnh hợp nhất, cùng nhau lặng lẽ, năng sở đều mất nên gọi là bát-nhã vô tri. Cho nên nói rằng đem chân trí quán chân đế chưa từng chấp lấy sở tri, trí này do đâu mà biết ?

Lại nói: Không nhờ thể tướng chân tịnh của bát-nhã vốn là cái biết chẳng mê chấp thì chẳng thể biết được tên gọi. Lại nói: Hễ nói đến hữu vô là sinh ra trí phàm phu. Tột cùng ở trong tướng, pháp vốn vô tướng Thánh trí làm sao biết ? Cho nên Trung Luận nói: “Giả sử không có hữu thì làm sao có vô. Hữu vô đã không thì ai biết hữu vô”. Trên đây là phá thường kiến hữu tri.

2- Phá đoạn kiến vô tri: Người ngu nghe kinh nói chân bát-nhã là vô tri, vô kiến, vô tác, vô duyên liền cho rằng bát-nhã như thái hư vô tình, rơi vào đoạn kiến trái nghịch bát-nhã bị luận chủ đả phá, nên nói rằng thế gian gọi là vô tri, nghĩa là gỗ đá thái hư vô tình chiếu soi kín đáo nhiệm mầu, hình chưa xuất hiện, đạo không ẩn cơ, thì làm sao bảo là vô tri ? Do đó Luận nói vô tri là nói tâm bậc Thánh không có cái tri chấp tướng nên nói là vô tri, chẳng phải nói là không có chân tri. Vì sao ? Vì bát-nhã chiếu soi nhiệm mầu không gì chẳng biết không như thái hư một bề vô tri. Vậy thì đoạn kiến vô tri đại khái có mười một thứ, trong luận nói sơ lược ba thứ.

Mười một thứ ấy là:

1- Thái hư, 2- Gỗ đá, 3- Mù điếc, 4- Ngu si, 5- Điên cuồng, 6- Tâm loạn, 7- Bất tĩnh, 8- Hôn túy, 9- Ngủ mê, 10- Vô tưởng định, 11- Diệt tận định.

Những thứ trên đây là mê hoặc điên đảo không phải là bát-nhã vô tri.

3- Phá cũng hữu tri cũng vô tri: Người học đạo nghe kinh nói lúc thì bát-nhã hữu tri, lúc thì bát-nhã vô tri, họ không thể lý giải chân chính bèn sinh dị chấp. Luận chủ phá dị chấp đó có ba thứ:

Một là vì phản chiếu nên vô tri, nghĩa là người học đạo cho rằng Thánh nhân thật sự có biết, chỉ vì lúc biết vật lại quên mất biết tâm, không tự nói tôi biết. Đây chỉ là không tự cho mình hiểu biết, chẳng phải hoàn toàn chẳng biết.

Hai là vì bát-nhã tính không phải vô tri, nghĩa là người học đạo cho rằng bát-nhã thật sự có biết, nhưng vì biết tính không nên vô tri. Đây chỉ là tính không nên vô tri, nhưng chưa phải vô tri không mê chấp.

Ba là chân đế cảnh tịnh nên bát-nhã vô tri. Vì sao ? Người học đạo cho rằng bát-nhã có thể biết chân đế. Do vì cảnh tịnh vô tướng nên bát-nhã vô tri. Đây chỉ là cảnh là vô tri, bát-nhã là hữu tri.

Ba kiến chấp trên đây xem xét đều vừa là hữu tri vừa là vô tri, trái nghịch Thánh trí, cho nên luận chủ đả phá.

4- Phá phi hữu tri, phi vô tri: Nghĩa là người ngu nghe kinh nói chân bát-nhã phi hữu phi vô, không sinh không diệt, không thể chỉ dạy người, không thể bặt lời mà lĩnh hội huyền chỉ, họ cho rằng bát-nhã chỉ là phi hữu phi vô liền sinh kiến giải phi hữu phi vô, đây là tâm lượng, trái với chân trí, nên luận chủ đả phá.

Cho nên nói nó phi hữu là nói nó phi là hữu, chẳng phải cho rằng phi hữu; nói nó phi vô là nói nó phi là vô, chẳng phải cho là phi vô. Phi hữu phi phi hữu, phi vô phi phi vô, đạo tuyệt ngôn này làm sao truyền ? Đây phá phi hữu tri, phi vô tri. Lập luận như thế này là phá bốn kiến chấp, lý lẽ quá rõ ràng. Nay đề mục chỉ nói vô tri, vì nêu một suy ra ba, vì vậy bậc trí nghe nói vô mà chẳng chấp vô, chẳng chấp cũng hữu cũng vô, phi hữu phi vô, đây là ly tứ cú tuyệt bách phi, có thể gọi là chân vô tri. Trong luận rõ ràng phá bốn kiến chấp ấy mà người ta chẳng tự thấy. Luận nói: Thế nên Thánh nhân ở nơi hữu mà chẳng hữu đây là phá hữu tri; ở nơi vô mà chẳng vô đây là phá vô tri; tuy chẳng chấp hữu vô đây là phá cũng hữu tri cũng vô tri; nhưng cũng chẳng bỏ hữu vô, đây là phá phi hữu tri phi vô tri. Nhưng bốn thuyết phá chấp trên đây tuy trước sau biện biệt chẳng đồng mà ý của bản luận muốn trong một câu có đủ lý lẽ bốn câu. Vì sao ? Ở nơi hữu mà chẳng hữu tức là ở nơi vô mà chẳng vô, tức là chẳng chấp hữu vô, tức là chẳng bỏ hữu vô. Đây là tâm của bậc Thánh có thể bặt tứ cú lìa các hiện lượng, có thể gọi là “lời vô tri khiến lý thiên lệch được vẹn toàn”, nên nói rằng vô tri.

Nay căn cứ theo ý của ngài Tông Bản để giải thích bát-nhã vô tri, cũng là bậc thiền gia đáng truyền tụng. Luận nói về bát-nhã vô tri là hai trí quyền thật đại huệ bình đẳng, nay nói sơ lược để bao quát, lời ước lược nghĩa phong phú chỉ nói bát-nhã liền hiểu là hai trí. Cho nên Tông Bản nói Âu-hòa Bát-nhã (trí tuệ thù thắng) gọi là đại huệ. Vì sao ? Nếu chỉ có bát-nhã quán thật tướng mà chẳng có quyền trí đi vào hữu thì chìm đắm nơi không. Nếu chỉ có quyền trí đi vào hữu mà chẳng có bát-nhã đạt không thì lúc vào hữu sẽ nhiễm trần lụy. Nếu hai trí viên minh thì chân trí quán chân đế mà chẳng chấp không, quyền trí hóa độ vật mà chẳng chấp hữu cho nên luận nói: “Trí có sự chiếu soi nhiệm mầu mà vẫn vô tri, đây là chân trí chiếu chân mà chẳng chấp không; thần có dụng ứng hội mà vẫn vô lự, đây là quyền trí đi vào tục mà chẳng chấp hữu. Thần vô lự được tự tại trên đời, trí vô tri nên chiếu soi sự việc bên ngoài, đây gọi là hai trí đều có thể chiếu chân, trong quyền có thật. Trí tuy ngoài sự mà chưa hề vô sự, thần tuy tự tại mà suốt ngày trong lĩnh vực của nó, nghĩa là hai trí có thể chiếu tục thì trong thật có quyền. Vậy thì quyền thật tự tại, sự lý viên dung, nơi hữu mà chẳng nắm lấy trần, nơi vô mà chẳng chìm trong tịch, chân tục đều mất, không hữu cùng tiêu, gì là thật, gì là quyền, gì là cảnh, gì là trí, vượt cả không gian thời gian chẳng lấy chẳng bỏ, có thể gọi là đại huệ bình đẳng, nên nói là bát-nhã vô tri”.

Luận Khởi Tín nói: “Giác có nghĩa là tâm thể lìa niệm”. Tướng lìa niệm đồng hư không giới khắp tất cả. Pháp giới nhất tướng chính là pháp thân Như Lai bình đẳng. Y theo pháp thân này gọi là bản giác. Lìa niệm là vô tri trong luận này. Chân tri của vô tri là bản giác. Bản giác là nhất thiết trí của Phật. Khắp là không chỗ nào chẳng biết. Tất cả cảnh giới chỉ là ở trong một tâm niệm, nhất thời liền biết không sót, chân tục cùng chiếu chẳng rơi vào hữu vô.

Cho nên luận nói: Tri là vô tri, vô tri là tri, không thể nói khác mà khác nơi tâm bậc Thánh.

Tri là vô tri tức là chân trí biết khắp gọi là nhất thiết trí.

Vô tri là tri tức là không gì chẳng biết, gọi là nhất thiết chủng trí.

Tâm Thánh không sai biệt; vì tâm không hai nên chỉ có một trí; vì tùy cảnh chiếu mà nói có hai trí. Hai đã chẳng phải hai, một cũng chẳng phải một.

Nếu căn cứ theo Thiên Thai thì nói trực duyên trung đạo gọi là nhất thiết trí, song chiếu hai đế gọi là nhất thiết chủng trí.

Lại Phật trí chiếu không như Nhị thừa thấy gọi là nhất thiết trí, chiếu giả như Bồ-tát thấy gọi là đạo chủng trí, Phật trí chiếu trung thấy được thật tướng gọi là nhất thiết chủng trí, cho nên nói ba trí ở trong nhất tâm chứng được. Nhất tâm chính là trí của bát-nhã vô tri. Vì tâm chẳng thuộc về hữu vô, thường chiếu trung đạo tức là tự tính có nghĩa đại trí huệ quang minh, nghĩa biến chiếu pháp giới, nghĩa chân thật thức tri, cho nên nói đây là chẳng biết mà tự biết, tức là chẳng cần tác ý nên chẳng biết, tự tính chiếu sáng nên tự biết. Vì tính thần giải tự nhiên tịch mà thường chiếu, chẳng nương theo cái khác mà phát khởi, cho nên Tín Tâm Minh nói: “Hư minh tự chiếu, chẳng nhọc tâm lực”. Lại nói: Nếu thể tự nó không có cái tri chấp tướng thì gọi là vô tri. Chẳng phải niệm trước khởi tri, đến niệm sau quên đi tri tưởng rồi mới gọi là vô tri. Nếu thế thì thành ra tâm vô ký, làm sao gọi là bát-nhã vô tri được ? Bởi trí vô duyên chiếu cảnh vô tướng, chân cảnh vô tướng, chân trí vô tri, cảnh trí hợp nhất, lý không gì chẳng tận, soi không gì chẳng cùng, có thể gọi là Phật trí kiến tính.

Hễ có cái tri chấp tướng thì tâm bị ngăn ngại, không thể cấu tịnh đều “như” hữu vô “nhất chỉ”; theo không mà mê muội cả hữu, biết tục trái nghịch làm sao rõ chân; không thể soi rõ khắp các pháp nên nói rằng có chỗ chẳng biết. Vĩnh Gia Tập nói: Nếu dùng tri biết tịch, đây không phải cái tri vô duyên như bàn tay cầm hạt như ý chẳng phải không có tay như ý. Cái tự biết tri cũng không phải cái tri vô duyên như bàn tay tự làm thành nắm tay chẳng phải không có nắm tay. Cũng chẳng biết tri tịch, cùng chẳng tự biết tri thì không thể là vô tri, vì tự tính vốn rõ biết chẳng như gỗ đá. Bàn tay chẳng cầm hạt như ý, cũng chẳng tự làm thành nắm tay thì chẳng thể là không có tay, vì tay rõ ràng không phải như sừng thỏ. Cho đến nay nói tri là chẳng cần biết tri mà chỉ tri thôi thì trước chẳng tiếp diệt, sau chẳng dẫn khởi. Trước sau đứt đoạn, khoảng giữa cô lập, đương thể không quan tâm, ứng thời tiêu diệt. Thể của cái biết đã diệt thì rỗng rang như hư không, trong khoảng tịch lặng chỉ là giác vô sở đắc tức là giác mà không giác, không giác mà giác khác hẳn gỗ đá. Hòa thượng Trừng Quán nói: “Tri vô duyên trên là chỗ vi diệu của Thiền tông, vì nó chỉ hiển bày chân trí vô duyên lấy làm chân đạo. Nếu đoạt nó thì chỉ hiển bản tâm không theo vọng tâm, chưa có trí huệ soi sáng nguồn tâm vì thế cần phải năng sở bình đẳng chẳng mất chiếu soi là vô tri mà tri. Cái tri này biết tạng tính Như Lai vô sinh không tịch mới là vi diệu”. Trên đây y theo giáo phương tiện dù chia ra đốn tiệm song chẳng lìa nhất tâm. Như có bài kệ nói:

Các luận nói khác nhau,
Tu hành lý không hai.
Tranh chấp lắm thị phi
Đạt đạo không tranh cãi.