TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 29

Hỏi: Pháp luân ở khắp nơi thường hằng nói pháp không gián đoạn, tại sao lại tùy theo nơi đại hội kiết tập nói pháp bất đồng như sự diễn, nói nơi Hoa Nghiêm chín hội hoặc Pháp Hoa ba chu ?

Đáp: Rộng lược bất đồng đều là đối cơ, lấy một hiển nhiều khiến họ vào nơi vô tận. Như Hoa Nghiêm Chỉ Quy nói: “Nghĩa là trong một sát-na ở khắp mọi nơi, nói vô biên pháp hải như thế”.

Hỏi: Căn cứ theo điều đã nói, pháp hội nói kinh Hoa Nghiêm không rõ thời gian nào, vì sao có kinh giáo này ?

Đáp: Vì chúng sinh hạ liệt ở trong vô tận thuyết, đại lược lấy sự kiết tập lưu thông nên có bộ kinh này khiến cho họ thấy nghe phương tiện đưa vào trong vô hạn, như nhìn qua khe cửa thấy hư không vô biên. Nên biết lý trung đạo cũng thế, xem một bộ kinh này thấy được biển pháp vô biên cho nên biết như đề cương toát yếu, một hạt bụi còn chứa pháp giới, một chữ diễn bày vô biên, làm sao sánh với sự diễn nói nơi chín hội và ba chu ? Hiểu như thế thì một thời là tất cả thời, một lời là tất cả lời.

Hỏi: Nếu luôn nói pháp nhiều kiếp như thế, tại sao Như Lai có nhập diệt ?

Đáp: Nói kinh này Phật vốn không nhập diệt, trong phẩm Pháp Giới mở tháp chiên-đàn thấy chư Phật ba đời không có nhập diệt. Lại vì trong nhiếp hóa nghi, niết-bàn cũng là thuyết pháp để nhiếp hóa chúng sinh, cùng với thành đạo thuyết pháp không khác.

Lại nữa, Phật Xá-na thường ở hội Hoa Tạng luôn nói pháp, vốn không niết-bàn vì thường trụ. Nên biết xuất thế, niết-bàn là do chúng sinh tự thấy, vì chư Phật vốn không xuất thế cũng chẳng niết-bàn, vào trong Tông Cảnh tự nhiên hai cái thấy này đều mất.

Hỏi: Nói là pháp duy tâm, tại sao giáo lập ra năm thời, người nghe phân ra bốn chúng ?

Đáp: Chư Phật không có công đức sắc thanh, chỉ có như như và như như trí. Hễ có thấy nghe đều là bóng dáng của tự tâm chúng sinh thì nói là duy tâm nói, nghe là duy tâm nghe, lìa ngoài tâm làm gì có pháp ?

Kinh Tư Ích ghi: “Phạm Thiên nói: Vì sao nói không nghe pháp là nghe kinh ? Văn Thù nói: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chẳng rơi vào gọi là nghe pháp. Vì sao ? Vì sáu căn chẳng rơi vào sắc thanh hương vị xúc pháp nên gọi là nghe kinh…. Phạm Thiên hỏi Bồ-tát Đắc Nhẫn: Các ngài chẳng nghe kinh này sao ? Bồ-tát đáp: Cái nghe của chúng tôi là lấy không nghe làm nghe!”

Cổ đức nói: Như Lai diễn thuyết với tám biện tài và âm thanh mạnh mẽ, người nghe dựa vào khởi tâm như là nương vào dạng mạo biến khởi tướng bạch hào, bản chất vốn không có bóng dáng như đang có. Các bậc hiền kiết tập tuy theo chỗ thấy nghe của mình, căn cứ vào kiến văn ấy mà kiết tập tự ngữ, bởi vì lìa tự tâm vốn không có ngoại cảnh, lìa cảnh cũng không có nội tâm. Những người truyền pháp không phải trao truyền cho người khác, chỉ do thắng duyên khiến tự được pháp. Tự hiểu chưa xong, không thể giác ngộ người khác. Tự hiểu không do người khác, người khác hiểu đâu chẳng phải mình hiểu. Thế nên kiết tập và truyền thụ chỉ được bóng dáng chớ không được bản chất, vì không có tự tâm mình được cảnh khác. Nên biết kiết tập là kiết tập những kinh do tự tâm biến, truyền thọ là truyền thọ pháp tự tâm biến, được bóng hình mà không phải bản chất, suy nghĩ có thể biết! Nếu hay khéo phân biệt tự tâm hiện, có thể biết tất cả ngoại tính phi tính, tri kiến của người này đồng với Phật, pháp của người này nói không khác gì Phật, vì ngộ nhập tự giác Thánh trí.

Luận Bảo Tính có kệ:

Tiếng trống trời diệu pháp
Theo nghiệp mình mà có.
Chư Phật tuyên thuyết pháp,
Chúng sinh theo nghiệp nghe.
Như diệu thanh xa lìa,
Tác dụng đến thân tâm,
Khiến tất cả chúng sinh,
Lìa sợ được tịch tĩnh.
Âm thanh Phật cũng thế,
Lìa tác dụng thân tâm,
Khiến tất cả chúng sinh,
Chứng được đạo tịch diệt.

Lại kệ nói:

Ví như trong hư không,
Rưới nước tám công đức
Đến trụ xứ mặn ngọt
Sinh nhiều vị khác nhau.
Mây từ của Như Lai
Tuôn mưa bát Thánh đạo
Thấm vào tâm chúng sinh
Sinh ra vị giải thoát.

Giải thích: Như âm thanh tiếng trống trời phù hợp với chỗ hiểu biết của chư thiên cũng giống như long vương làm mưa là tùy theo duyên hay cảm với thế gian, chứng tự pháp không đồng thành ra ý vị khác biệt; pháp cũng như vậy, tùy cái thấy sai biệt, nơi nhất thừa mà mở rộng các thừa, từ một pháp mà phân ra thành nhiều pháp.

Hoa Nghiêm Tham Huyền Ký ghi: Môn duyên khởi duy tâm, tất cả giáo pháp sai biệt trên thảy đều duy tâm hiển hiện, thế nên đều cùng lấy duy thức làm thể, nhưng có hai nghĩa:

– Một là bản anh tương đối, hai là thuyết thính toàn thâu. Lúc ban đầu và khoảng giữa trình bày tổng quát về các giáo gồm có bốn câu:

Một là duy bản vô ảnh như Tiểu thừa giáo vì chủ trương không có nghĩa duy thức, các luận sư như Đạt-ma-đa-la phần nhiều lập thuyết này.

Hai là diệc bản diệc ảnh như Đại thừa thỉ giáo, chủ trương ngoài tâm chúng sinh Phật có các pháp sắc thanh vi diệu, do nghe (Phật pháp) thiện căn được sức tăng thượng duyên làm kích phát hạt giống Phật, lợi tha làm nhân trên Phật trí, văn nghĩa tương sinh là bản tính tướng giáo. Giáo này từ Phật sức tăng thượng duyên kích phát người nghe pháp chảy thấm vào hạt giống thiện căn. Lắng nghe là trên ý thức văn nghĩa cùng phát sinh, đây là ảnh tượng tướng giáo.

Luận Tam Thập Duy Thức tụng: “Triển chuyển tăng thượng lực, hai thức thành quyết định”. Luận sư Hộ Pháp v.v… đều lập nghĩa này.

Ba là duy cảnh vô bản như Đại thừa chung giáo, lìa tâm chúng sinh, quả Phật không có các công đức sự tướng sắc thân, âm thanh, chỉ có như như và như như trí, đại bi đại nguyện làm tăng thượng duyên. Chúng sinh căn cơ thuần thục được hóa độ, trong tâm họ liền hiện sắc thanh Phật thuyết pháp, thế nên Thánh giáo chỉ là bóng dáng trong tâm chúng sinh. Do đó trong kinh có kệ: “Tất cả đấng Như Lai, không có nói Phật pháp, tùy theo sự ứng hóa, mà vì họ diễn nói”. Lại có kệ: “Pháp thân Như Lai bất tư nghì, không sắc, không tướng, không gì sánh thị hiện sắc tượng vì chúng sinh, mười phương được hóa đều trông thấy”. Các Luận sư như Long Thọ, Kiên Huệ đều lập nghĩa này.

Bốn là phi bản phi ảnh như trong Đốn giáo, chẳng phải ngoài trực tâm không có Phật sắc v.v… Phật hiện ra trong tâm chúng sinh cũng là tướng không bởi vì chỉ là thức không riêng có bóng dáng, vì tính của sắc v.v… lìa, là không cho nên tất cả vô ngôn, vô ngôn cũng vô, vì vậy Thánh giáo là giáo vô giáo. Như kinh tụng: “Như Lai chẳng xuất thế, cũng không có niết-bàn”. Lại kinh Mật Nghiêm nói Như Lai luôn thường tại pháp giới không xuất hiện ở thế gian. Ngài Long Thọ và các tông phần nhiều lập nghĩa này.

Bốn thuyết này tổng họp làm thành một giáo, viên dung vô ngại không phương hại nhau vì mỗi Thánh giáo từ cạn đến sâu đều để nhiếp hóa chúng sinh, suy nghĩa như thế thì có thể thấy.

– Thứ hai là thuyết thính toàn thâu cũng gồm bốn câu: Một là lìa ngoài tâm Phật không có chúng sinh được hóa độ huống chi là thuyết giáo. Thế nên chỉ là từ tâm Phật hiển hiện, nghĩa này như thế nào ? Nghĩa là chúng sinh không có tự thể riêng biệt, nắm lấy Như Lai Tạng trở thành chúng sinh nhưng Như Lai Tạng là trí chứng làm tự thể, vì thế nói về bản thể của chúng sinh gồm trong trí Phật, tâm Phật. Kinh có bài tụng: “Chư Phật đều biết rõ, tất cả từ tâm chuyển”. Lại nói: “Trong thân bồ-đề của Như Lai đều thấy tất cả chúng sinh phát tâm bồ-đề thành chính đẳng giác, cho đến thấy tất cả chúng sinh đều đã tịch diệt, đều là nhất tính vì vô tính”. Lại tụng:

Ba đời tất cả kiếp,
Cõi Phật và các pháp,
Các căn tâm tâm pháp,
Tất cả pháp hư vọng,
Ở trong một thân Phật,
Pháp này đều hiển hiện.

Thế nên lìa tâm Phật trí Phật không có một pháp có thể được. Trí Phật tâm Phật đều ở trong tâm chúng sinh vì lìa chúng sinh không riêng có Phật đức. Nghĩa này như thế nào ? Nghĩa là Phật chứng chân như trong tâm chúng sinh mà thành Phật, cũng do thỉ giác đồng với bản giác, cho nên thảy đều nơi tâm chúng sinh. Từ thể khởi dụng lúc thân ứng hóa, đó là cái dụng rộng lớn của chân như ở trong tâm chúng sinh, không có Phật nào khác.

– Thứ ba theo một Thánh giáo hoàn toàn chỉ có hai tâm, như trên nói cả hai không lìa nhau, nghĩa là Phật trong tâm chúng sinh là chúng sinh thuyết pháp ở trong tâm Phật, chúng sinh trong tâm Phật nghe Phật thuyết pháp trong tâm chúng sinh, như vậy toàn thâu thuyết thính vô ngại. Đó là đạo lý duy thức thật sâu xa.

– Thứ tư hoặc Thánh giáo kia đều chẳng phải hai tâm, vì cả hai hình tướng đều dẹp không hiển bày nhưng dung chứa hai vị cũng đều bặt hết, nghĩa là vì chúng sinh không nghe trong tâm Phật cho nên Phật trong tâm chúng sinh không thuyết pháp. Đó là cả hai tướng nói năng đều dứt.

Kinh nói: Người thuyết pháp không nói, không dạy người nghe pháp thì không nghe không đắc. Kinh có bài tụng: “Chúng sinh được sinh không phải sinh cũng chẳng lưu chuyển trong sinh tử”. Lại tụng: “Như Lai chẳng thuyết pháp, cũng chẳng độ chúng sinh”. Thế nên bốn điếu này đối với một Thánh giáo được viên dung vô ngại mới là cứu cánh.

Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa hỏi: Phật và chúng sinh trên thể tuy đồng nhưng tướng dụng tự khác, đâu được hoàn toàn đồng ?

Giải thích: Từ thể khởi dụng, dụng chẳng khác thể, thể đã là thể của chúng sinh, dụng nào lìa chúng sinh vì nương vào thể khởi dụng, là dụng đại của chân như trong tâm chúng sinh lại không có Phật nào khác. Nếu thế thì trong luận Khởi Tín đã có nghĩa này, sao chỉ nói Hoa Nghiêm là biệt giáo ?

Giải thích: Khởi Tín tuy nói thể của thỉ giác và bản giác không hai, thể tướng dụng đều lớn, nhưng lại là chính tự tâm mỗi người tu chứng, không nói chúng sinh và Phật cả hai toàn thâu lẫn nhau, đây là theo văn của luận Khởi Tín trở thành cái nghĩa của Hoa Nghiêm.

Lại nói thuyết thính toàn thâu, sinh Phật tương tại, sơ lược nêu ra hai ví dụ: Như hai thầy và trò cùng soi gương kẻ nói người nghe, vì thầy cho cái gương ấy là gương của thầy, đệ tử cho cái gương ấy là gương của đệ tử. Gương dụ cho nhất tâm, thầy trò dụ cho Phật và chúng sinh, nghĩa là trong gương của đệ tử thấy thầy trong gương thuyết pháp cho đệ tử, đệ tử trong gương của hòa thượng nghe hòa thượng trong gương của đệ tử thuyết pháp. Người có tri thức sẽ hiểu rõ ví dụ này. Lại thêm một ví dụ nữa, như nước và sữa hòa hợp lẫn nhau là năng hòa và sở hòa; như nói và nghe, cho năng hòa là nói, sở hòa là nghe, lại lấy nước dụ cho Phật, sữa dụ cho chúng sinh, phải nói là nước trong sữa hòa với sữa trong nước, sửa trong nước nhận lấy nước trong sữa, tuy cùng một vị nhưng năng sở rõ ràng, tuy năng sở rõ ràng mà tương tại, tương biến, tương nhiếp. Hãy suy xét từ sự việc đó. Lại nữa, Phật trong tâm chúng sinh, đây là nói chúng sinh “xứng tính phổ chu” mà Phật chẳng hoại tướng trong tâm chúng sinh. Vì chúng sinh trong tâm Phật thuyết pháp, đây là nói Phật tâm “xứng tính phổ chu” mà chúng sinh chẳng hoại tướng trong tâm Phật, không có lý khác, chỉ khác ở chỗ nói và nghe. Thế mới biết tất cả ngôn ngữ của chúng sinh đều là chính thể pháp luân, nếu lìa ngôn thuyết của chúng sinh thì Phật không có gì để nói. Cổ đức nói: “Nếu lìa lời nói phương tiện chắc chắn Phật không có nói năng. Bậc Thánh vô tâm, lấy cái tâm của vạn vật làm tâm; bậc Thánh vô thân, lấy cái thân của vạn vật làm thân, thì biết bậc Thánh vô ngôn vì cũng lấy ngôn ngữ của vạn vật làm ngôn thuyết”.

Luận Hoa Nghiêm nói: “Lấy quả báo cảnh giới trang nghiêm của các bậc hiền Thánh làm giáo thể, vì đây là thấy cảnh liền phát tâm chẳng đợi nói năng nên thấy xấu ác liền chán ghét, thấy tốt lành thì ưa thích. Tóm lại thảy đều hay phát khởi điều thiện, vì tất cả pháp đều là Phật sự. Vì lấy tất cả pháp tự tính thanh tịnh làm giáo thể, nên dùng năng lực quán sát liền được tương ưng chẳng đợi nói năng; vì lấy bốn oai nghi: đi đứng, nằm, ngồi, làm giáo thể nên trông thấy cung kính phát tâm chẳng đợi nói năng”.

Triệu Luận nói: “Dù lớn đến đâu cũng là do trái với nhỏ mà thành, rộng đến đâu cũng trở về vô danh. Sao gọi là do cái nhỏ thành ? Thông suốt trăm nghìn Hằng sa pháp môn đối với tâm địa chỉ như mảy lông. Sao là vô danh ? Hình thức giáo hóa khắp tam thiên, không danh tướng có thể được. Vì thế nên cần phải tông thuyết đều thông mới trở thành bậc thầy lớn”. Do đó trong kinh có kệ: “Tông thông tự tu hành, thuyết thông dạy chưa ngộ”.

Đại sư Chơn Giác nói: “Tông thông thuyết cũng thông, định tuệ viên minh chẳng trệ không”.

Tông thông là định, thuyết thông là tuệ, tông thuyết đều vẹn toàn thì định tuệ sáng tỏ đầy đủ, hai nghĩa này hỗ trợ lẫn nhau, làm thành cho nhau, thiếu một không thể được.

Như kinh Pháp Hoa nói: “Sức định tuệ trang nghiêm dùng để độ chúng sinh”. Người xưa có bài tụng:

Thuyết thông tông chẳng thông,
Mặt trời bị mây che,
Tông thông thuyết cũng thông,
Một trời giữa hư không.

Vì vậy nên biết nếu trước hết liễu ngộ tông ắt hẳn thuyết pháp không lỗi lầm, phẩm Tựa kinh Pháp Hoa có kệ:

Lại thấy các Bồ-tát,
Biết pháp tướng tịch diệt,
Đều ở cõi nước mình,
Thuyết pháp cầu Phật đạo.

Hơn nữa, mọi sự biểu hiện của ngôn giáo đều làm sáng tỏ tâm, chẳng nói pháp khác, hoặc nói một cách rộng rãi phóng khoáng, là trên mặt đức tướng để sáng tâm. Hoặc nói tịch diệt vô vi, là trên mặt ly quá (lìa lỗi) để sáng tâm; cho đến hoặc nói sự, là sự của tâm; hoặc nói lý, là lý của tâm. Cho nên nói: Nghìn kinh muôn luận đều nói về tâm đâu phải chỉ có Tông Cảnh mới nói ?

Kinh Pháp Hoa nói: “Phật vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện ở thế gian”. Nói lớn thì không có gì lớn hơn tâm. Trong năm đại, hư không là lớn nhất mà vẫn còn bị tâm bao trùm nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Hư không sinh trong đại giác, như hòn bọt trong biển cả”. Lại nói: “Tịch chiếu hàm hư không”. Chẳng phải đối với số lượng mà gọi là lớn, mà vì không hình tướng vượt đối đãi nên gọi là lớn. Cho nên gọi là nhất đại sự. Lại nữa, nhất này chẳng phải nhất như bài tụng của kinh Pháp Cú nói:

Sum la và muôn tượng,
Một pháp được làm thành,
Một cũng chẳng là một,
Vì muốn phá các số.

Nên biết Phật ra đời, Tổ sư từ Ấn Độ đến đều làm sáng tỏ ý chỉ này chẳng có việc khác.

Khới Tín Sao nói: Nhất tâm bao gồm cả vạn hữu, vạn hữu chẳng ngoài nhất tâm. Ý ở đây tại “xuất thế” không tại “thâu vạn pháp”, vì e còn cái thấy ngoài vật nên tổng quát hết cả. Nhưng trong kinh giáo đều nói vạn pháp nhất tâm có sâu cạn khác nhau, nay căn cứ theo ngũ giáo nói sơ lược.

1/ Thanh văn giáo của người ngu tạm nói nhất tâm nghĩa là các pháp nhiễm tịnh thế và xuất thế gian đều do tâm tạo chiêu cảm nghiệp. Nếu xét kỹ thì cái nghĩa nhất tâm chẳng thành vì đã lập cảnh trước cho nên nói là tạm nói.

2/ Đại thừa quyền giáo cho rằng dị thục a-lại-da là nhất tâm, vạn pháp ba cõi chỉ do thức biến.

3/ Chung giáo cho Như Lai Tạng là nhất tâm, vì thức, cảnh các pháp đều như mộng huyễn.

4/ Đốn giáo chủ trương bặt dứt nhiễm tịnh cho đó là nhất tâm, vì phá các số giả danh.

5/ Viên giáo cho tất cả vạn hữu là nhất tâm sự lý, bản mạt không sai khác.

Như trên đã nói trước cạn sau sâu, cạn không đến sâu, nhưng sâu tất nhiên bao gồm cạn. Do đó Tông Cảnh tuy dẫn ra đủ lý nhất tâm của năm giáo để chứng minh, nhằm mục đích đưa về nhất tâm của Viên giáo vì giáo pháp này thu nhiếp tất cả những giáo kia.

Như Sao nói: Nhất tâm là pháp căn bản Như Lai được nói ra bởi vì Như Lai thành tựu nhờ nhất tâm, thế nên tin, hiểu, tu hành và chứng đắc đều nương vào nhất tâm, chưa từng lìa tâm này. Nếu lìa tâm này mà được thành Phật, thật không hề có việc ấy. Nếu lìa tâm mà có thuyết giáo đó là ngoại đạo. Luận Khới Tín nói: “Pháp ấy là tâm chúng sinh, tâm này bao gồm tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, căn cứ nơi tâm này hiển bày nghĩa Đại thừa.

Sớ Thích ghi: Nói về công năng của pháp dùng thể tướng nhiễm tịnh vô ngại của tâm đồng nương gá, theo dòng hoặc nghịch dòng chỉ chuyển cái tâm này. Thế nên nếu theo nhiễm liền thành bất giác, hẳn là thuộc pháp thế gian. Nếu bản giác bất biến, thỉ giác nghịch dòng, hẳn là thuộc pháp xuất thế gian. Đây là nói trên môn sinh diệt. Nếu trên môn chân như thì dụng bao gồm nhiễm tịnh không khác. Đoạn trên đã trình bày tận lý không sót. Nhưng tất cả pháp nhiễm tịnh, pháp không tự lập, chỉ do tâm chuyển; nên biết do tâm thành pháp thì pháp đâu chẳng phải tâm. Sở y đã toàn là tâm, năng y sao có khác được vì năng y từ sở y khởi, như sóng dấy lên từ nước, nữ trang từ vàng làm thành, gốc ngọn đều đồng, thể dụng không khác.

Pháp Uyển Nghĩa Lâm ghi: Xem khắp các kinh giáo đều nói tất cả duy thức chẳng ngoài năm loại:

1- Cảnh duy thức: Kinh A-tỳ-đạt-ma có bài tụng:

Quỉ, bàng sinh, trời, người,
Mỗi loài theo chỗ ứng.
Vì do tâm sai khác
Nghĩa này chẳng chân thật.

Đây nói về cảnh sở quán của duy thức, cảnh đều duy thức.

2- Giáo duy thức: Do tự tâm chấp trước những lời của bài tụng này đều là giáo duy thức.

3- Lý duy thức: Tam Thập Tụng nói:

Các thức này chuyển biến,
Phân biệt sở phân biệt.
Do kia đây đều không,
Nên thảy đều duy thức.

Đây thành lập đạo lý duy thức đều là lý duy thức.

4- Hạnh duy thức: Về các định vị của Bồ-tát có bài tụng: “Bốn thứ tầm tư như thật v.v…”“, đều thực hành duy thức, năm quả duy thức. Kinh Phật Địa nói: “Đại viên cảnh trí các xứ cảnh thức đều hiện ở trong”.

Kinh Như Lai Công Đức Trang Nghiêm có bài tụng:

Như Lai vô cấu thức,
Là cõi tịnh vô lậu,
Giải thoát tất cả chướng,
Viên cảnh trí tương ưng.

Các thuyết duy thức đắc quả đều là quả duy thức. Năm thứ duy thức cảnh, giáo, lý, hạnh, quả tổng nhiếp tất cả duy thức, nhưng trong các giáo về nghĩa phải tùy theo căn cơ. Về cảnh duy thức có nhiều thuyết khác nhau hoặc căn cứ vào chỗ chấp để nói duy thức.

Kinh Lăng Già có bài tụng:

Do tự tâm chấp trước,
Tâm tợ ngoại cảnh hiện,
Vì cảnh kia chẳng có,
Nên nói chỉ là tâm.

Chỉ vì nương vào tâm chấp trước hư dối hiện cảnh. Hoặc căn cứ vào hữu lậu để nói về duy thức. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Ba cõi duy tâm là thuộc thế gian nói duy thức”.

Hoặc căn cứ sở chấp và tùy hữu vi để nói duy thức. Tam thập Tụng nói:

Do giả thuyết ngã pháp,
Có các thứ tướng chuyển
Tướng ấy do thức biến
Y thức tự thể khởi.

Hoặc căn cứ hữu tình để nói duy thức. Kinh Vô Cấu Xưng nói: “Vì tâm thanh tịnh nên hữu tình thanh tịnh, vì tâm tạp nhiễm nên hữu tình tạp nhiễm”.

Hoặc căn cứ tất cả các pháp hữu vô để nói duy thức. Kinh Giải Thâm Mật nói: “Các thức sở duyên, duy thức sở hiện”.

Hoặc tùy chỉ sự để nói duy thức. Luận A-tỳ-đạt-ma dẫn bài tụng trong khế kinh: “Quỉ, bàng sinh, trời, người, mỗi loài theo chỗ ứng”. Các thuyết trên nêu ra vô lượng giáo môn bao gồm nội dung các giáo lý. Chỉ có giáo thứ năm vì nói chung tất cả là duy thức cho đến nói về danh ly, hợp, hội, thích. Ly là biệt, hợp là đồng. Các kinh luận mỗi mỗi riêng nói về tên của các pháp quán, nay tổng hợp giải thích chỉ là nghĩa sai biệt của duy thức nhưng thể không khác.

Một tên có ba mươi hai loại, bỏ cảnh chỉ nói thức trong kinh Hoa Nghiêm gọi là duy tâm, bỏ biên kiến và sự chấp trước trong Biện Trung Biên Luận gọi là trung đạo, trong kinh Bát-nhã nói về tính giản trạch gọi là Bát-nhã, trong kinh Pháp Hoa đưa về cứu cánh gọi là Nhất thừa. Bốn tên gọi này thông cả năng quán sở quán.

Nếu quán trên cảnh chân tục thì chính trí là chân, gia hạnh trí với hậu đắc trí thông cả chân tục, hậu đắc trí là tục. Trong kinh Thắng Man dẹp hư vọng gọi là nhất thật đế; hiển bày pháp căn bản cũng gọi là nhất y; do không mà chứng còn gọi là không tính, cũng gọi là không; hiển bày chúng sinh ra khỏi sinh tử, hiển nhiếp Phật đức, Như Lai từ trong ấy ra gọi là Như Lai Tạng; nói về thể vô nhiễm, pháp tính chân thật gọi là tự tính thanh tịnh tâm; công đức tự thể cũng gọi là pháp thân; có thể ra khỏi tứ thừa mà vào nhị thừa cũng gọi là nhất thừa, nhưng khác với nhất thừa của Pháp Hoa. Kinh Vô Cấu Xưng bỏ lý sai biệt gọi là pháp môn không hai. Trong kinh Đại Huệ trình bày vô khởi tận cũng gọi là bất sinh bất diệt. Trong kinh Niết-bàn nêu lên nhân của pháp thân gọi là Phật tính, lìa trói buộc được giải thoát cũng gọi là niết-bàn. Trong kinh Lăng Già trình bày lìa ngôn thuyết gọi là bất tư nghì. Trong Du-già v.v… hiển bày không thể thi thiết gọi là phi an lập. Trong Nhiếp Đại Thừa v.v… hiển bày sự phổ biến này thường đồng gọi là Viên thành thật. Trong luận Đối Pháp v.v… nói về chẳng phải hư vọng điên đảo gọi là chân như. Mười lăm tên gọi này chỉ là lý sở quán, chỉ là cảnh chân trí, vì sợ văn rườm rà nên nói đại khái như thế, chứ không phải không còn nữa. Nghĩa là các pháp giới có pháp tính, bất hư vọng tính, bất biến dị tính, bình đẳng tính, ly sinh tính, pháp định, pháp trụ, pháp vị, chân tế, hư không giới, vô ngã, thắng nghĩa, bất tư nghì giới v.v…

Cho đến trong luận Du-già vì thi thiết phi thi thiết cạn sâu khác biệt nên gọi là an lập phi an lập đế. Đó là hữu tác tứ Thánh đế và vô tác tứ Thánh đế trong kinh Thắng Man. Trong kinh Niết-bàn còn gọi là thắng nghĩa đế và thế tục đế. Cho đến kinh Giải Thâm Mật v.v… hiển bày các loại sai biệt như hữu vô, sự lý của tất cả pháp gọi là tam tính, hiển bày ba thứ tính đều không có biến kế sở chấp nên gọi là tam vô tính.

Lại trong Du-già nói về những phương tiện xa lìa sự ràng buộc gọi là tam giải thoát môn, biểu thị lý sâu xa gọi là tam vô sinh nhẫn. Luận Đại Trí Độ hiển bày sai biệt gọi là Tứ Tất-đàn, các luận sau này xem xét vi tế nên còn gọi là Tứ như thật trí. Trong kinh Nhân Vương ấn chứng những vị khác nhau cùng gọi là ngũ nhẫn. Như vậy tất cả dù khác tên gọi nhưng đều là tên sai biệt của cảnh trí duy thức.

Lại có người nói nhân quả thể chỉ có một nhưng do thức tác dụng nên thành nhiều, đó là nghĩa của một hạng Bồ-tát.

Hoặc gồm cả nhân quả nói một, trong phần quyết trạch có thuyết về tâm địa, nghĩa là bản thức và chuyển thức.

Hoặc chỉ có nhân nói hai như luận Biện Trung Biên có bài tụng: “Thức sinh biến tợ nghĩa, hữu tình ngã cập liễu”.

Hoặc gồm cả nhân quả nói ba như luận Tam Thập Duy Thức nói: Nghĩa là dị thục, tư lương và liễu biệt cảnh thức. Vì nhiều dị thục tính nên nói thiên lệch một bên, thức A-đà-na (thức thứ tám) gọi là lý thông quả.

Hoặc chỉ có quả nói bốn như kinh Phật Địa nói bốn trí phẩm.

Hoặc gồm cả nhân quả nói sáu (chỗ này thiếu nghĩa thứ năm), thuận theo trong kinh Tiểu thừa nói sáu thúc.

Hoặc gồm cả nhân quả nói bảy, các giáo nói bảy tâm giới.

Hoặc gồm cả nhân quả nói tám, nghĩa là tám thức.

Hoặc gồm cả nhân quả nói chín như trong kinh Lăng Già bài tụng thứ chín nói: “Tám thức, chín thức như những làn sóng”. Đây y cứ kinh Đồng Tính, luận Vô Tướng, lấy chân như làm thức thứ chín, vì chân có một thức, tục có tám thức họp lại thành chín. Nay lấy bản thức thứ tám lúc đã thanh tịnh làm thức thứ chín, vì bản thức nhiễm tịnh là gốc sở y nên được trình bày riêng, vì thức này còn gọi là thức A-mạt-la. Thức thứ tám nhiễm tịnh sai khác cho là thức thứ chín.

Như vậy các thức sai biệt đã nói, theo Thành Duy Thức luận ghi: “Tự tính tám thức không thể xác định là khác, vì tính nhân quả vô định như sóng với nước; cũng chẳng phải một vì hành tướng duyên sở y tương ưng khác nhau, nên khởi diệt, huân tập sai khác”. Kinh Lăng Già có bài tụng:

Tâm ý thức tám thứ,
Tục nên tướng có khác,
Chân nên tướng không khác,
Tướng sở tướng đều không.

Như vậy chủng loại các thức sai biệt gọi là duy thức. Thức hư huyễn này nếu gia hạnh quán chỉ là chung chẳng phải riêng, nếu hậu đắc quán là tự tướng quán, vì mỗi mỗi y tha mỗi mỗi chứng đắc. Những điều dẫn ra ở trên là biết những gì chư Phật chứng được, Bồ-tát tu tập hoặc giáo, hoặc lý, hoặc nhân, hoặc quả, hoặc hạnh hoặc vị, cho đến thế gian, xuất thế gian, tất cả muôn pháp đều là tâm, đại chỉ Tông Cảnh thấy nghe tin tưởng hướng về như được xác quyết bằng ấn báu, được soi chiếu bởi gương sáng, dứt hẳn mọi hoài nghi. Nhưng tất cả dị sinh hoặc ở bất định tụ, tập tính dễ nhiễm như sợi tơ trắng. Mạnh Tử nói: “Tâm tính con người tợ dòng nước xiết, tháo ra phía đông thì chảy theo phía đông, tháo ra phía tây thì chảy theo phía tây; như con sâu đo ăn màu vàng thì thân màu vàng, ăn màu xanh thì thân màu xanh”.

Lại trong tám thức có đủ chủng tử mười pháp giới tùy theo pháp đã nghe liền phát khởi hiện hành. Nếu nghe Tông Cảnh liền huân tập khởi chủng tử Phật thừa nhưng cần phải nhiễm thần nhập tâm, tận nguồn thấy tính, không đợi vào tai ra miệng chỉ là ghi nhớ những lời phủ phiếm. Tuân Tử nói: “Cái học của người quân tử là vào nơi thân, dính nơi tâm, bủa khắp tứ chi động tịnh đều là pháp. Cái học của kẻ tiểu nhân là vào nơi tai ra nơi miệng, giữa tai miệng là bốn tấc làm sao đủ toàn thiện tấm thân bảy thước”.

Hỏi: Biển giáo lý rộng lớn vô biên của mười phương chư Phật, làm sao trong mười pho sách nói hết được ?

Đáp: Nếu xét về sự thì biển giáo lý vô tận, còn nếu tóm tắt diệu chỉ, lý lẽ tận cùng yếu văn trăm quyển thì một lời nói đã đạt đến nguồn huống là mười pho sách, vì vô lượng kinh giáo đều là nhất tâm. Do đó kinh Pháp Hoa nói: “Mọi ngôn từ diễn nói nhất pháp”. Như Hành Lộ Nan của Phó đại sĩ nói:

Anh thấy chăng ?
Tâm tướng lạ lùng rất tinh tế,
Phi tác phi duyên phi sắc danh,
Tuy lại thản nhiên phi hữu tướng,
Hoặc phàm hoặc Thánh vẫn linh thiêng,
Linh ấy vô hình lại thường ứng,
Tuy thường ứng song thật vô hình.
Tâm tính không đến cũng không đi,
Duyên lự lưu chuyển không dừng nghỉ,
Chính giác ấy là chân thường giác,
Nơi vườn Lộc Dã Phật thuyết kinh.

Lại nói:

Nên biết tâm này không cách ngại
Sinh tử hư vọng không buộc ràng
Nhưng nhất tâm này đều đầy đủ
Tám vạn bốn nghìn các luật nghi.

Kinh Tư Ích nói: “Ví như đám lửa lớn, tất cả các ngọn lửa đều là tướng thiêu đốt. Đúng thế các thiện nam, các pháp được nói đều vào pháp tính”. Cho nên biết những lời nói của tất cả phàm Thánh đều vào Tông Cảnh hoàn toàn không có pháp khác. Do đó kinh có bài kệ: “Lời thô cùng tế nhị, quy về đệ nhất nghĩa”. Cho đến những lời nói ngang dọc, rộng lược, trước sau tất cả đều dẫn vào trong đệ nhất nghĩa. Nếu thật sự vào trong ấy thì Phật pháp đều hiển hiện, chẳng cần ghi một chữ mà nhớ tất cả kinh, chẳng cần hiểu một pháp mà lãnh hội vô biên nghĩa, chẳng cần nói một câu mà thường chuyển chính pháp luân, chẳng cần cất bước mà tham học thiện tri thức khắp pháp giới. Vì sao ? Nếu ghi nhớ được là thuộc phạm vi của tưởng, nếu hiểu được thì rơi vào ý căn, nếu nói được là thuộc môn biện tài, nếu tham học được thì rơi vào cái học của ngoại đạo, đều chẳng phải là việc của chính mình. Tông Cảnh không tiếp nhận, như nắm lấy hư không lao nhọc vô ích. Do đó ngước lên mà không thấy phía trước, đi theo mà không thấy phía sau, còn mà tất cả đều không, mất mà chỗ chỗ đều có.

Cho nên hòa thượng Chí Công nói: “Lời Phật Tổ là việc bên ngoài, nếu chấp trước thì không đúng, tác ý tìm câu thật ra không có dấu vết, bọn ma sinh tử tha hồ thử thách”.

Tiên đức nói: Nhất là đối với giáo pháp và phương tiện giáo hóa không nên hiểu biết trên văn tự, thật ra không có pháp nhất định mà Như Lai thuyết, trong tông môn ta không bàn đến việc này, chỉ cần biết tự tâm là đủ, không cần nghĩ ngợi lăng xăng. Lại kệ nói:

Nghìn thứ sánh không được,
Muôn loại so chẳng thành,
Người trí không thể biết,
Bậc hiền cũng chẳng hay.

Hỏi: Đã nói rằng đạo vô ngôn, chân tuyệt tướng, tại sao dẫn nhiều lý lẽ, nói rộng hành tướng ?

Đáp: Chẳng nói làm sao biết được vô ngôn, chẳng phải tướng làm sao có thể hiển bày vô tướng ?

Kinh Hoa Nghiêm có kệ:

Rõ pháp chẳng nơi lời,
Khéo vào chỗ vô ngôn,
Mà diễn bày ngôn thuyết,
Như tiếng vang thế gian.

Kinh Tịnh Danh nói: “Bàn về nói pháp, không nói không dạy mới gọi là nói đúng như pháp”. Lại nói: “Không lìa văn tự nói giải thoát”.

Kinh Pháp Hoa có kệ:

Tướng tịch diệt các pháp,
Không thể dùng lời tuyên,
Do bởi sức phương tiện
Vì năm tỳ-kheo nói.

Lại có kệ:

Lại thấy Bồ-tát,
An thiền chắp tay,
Dùng nghìn bài kệ
Ca ngợi chư Phật.

Đây là lấy vô ngôn hiển bày lời nói, dùng lời nói hiển bày vô ngôn.

Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Phật lấy pháp làm thân,
Thanh tịnh như hư không,
Các sắc tướng hiện ra,
Đều vào trong pháp này.

Lại có kệ:

Sắc thân chẳng phải Phật,
Âm thanh cùng như thế.
Cũng chẳng lìa sắc thanh,
Thấy sức thần thông Phật.

Kinh Kim Cương nói: “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng thì thấy Như Lai”. Đây là dùng tướng hiển bày vô tướng thì vô ngôn chẳng ngại ngôn thuyết, vô tướng chẳng ngại tướng. Cho nên biết vô ngôn là ngôn, đâu có thể khác, tướng là vô tướng, nào có hình khác. Cho nên kinh có kệ:

Trong không chẳng có hai
Không hai cũng là không
Ba cõi thảy đều không
Chư Phật thấy như thế.

Lại trong chỗ thấy chư Phật đâu đặt ra cái thấy hữu vô đồng dị.

Cho nên Tiên đức nói: Phật chứng ly ngôn thuyết, lưu lại âm thanh bằng sự nghe và nói, diễn nói kinh Đại thừa tại long cung. Thế nên biết cứu cánh chẳng phải xa, công hạnh chứng đắc rất sâu; lời nói chẳng phải gần, lòng rỗng tự thể hội, đạt lý dứt ngôn mà chẳng phải dứt, phát huy kinh giáo mà chẳng phải phát huy, cho nên tức ngôn vong ngôn. Do đó ngôn vô ngôn mà phân ra kinh giáo mênh mông, hữu phi hữu mà lập nên nghĩa lý bao la.

Duy Thức Sớ Tự Sao Thích ghi: Sớ rằng ngôn vô ngôn như gió cuốn, hữu phi hữu như sóng xô. Bốn câu sớ văn này, hai câu trước hiển bày bản chất giáo của Phật, hai câu sau hiển bày ảnh tượng giáo của người nghe. Vì sao ? Nghĩa là giáo lý của Phật lìa tâm vô thể gọi là vô ngôn, vì từ tâm hiện ra nên gọi là ngôn, đây là hay kích phát, như gió cuốn, đó là ba thừa, mười hai phần giáo do Phật đứng trên hậu đắc trí lợi tha hiển hiện, và để làm tăng thượng duyên cho chúng sinh giúp cho tâm thức người nghe tiếp nhận văn nghĩa, nên gọi là ngôn vô ngôn như gió cuốn. Hữu phi hữu như sóng xô, là trên thức của người nghe tiếp nhận văn nghĩa, vì từ bản chất khởi ra giáo lý như sóng xô. Vì lìa tâm vô thể nên gọi là phi hữu, vì từ tâm hiện ra nên gọi là hữu.

Lại nói: Ngộ thì được lý quên lời, mê thì chấp văn mất ý chỉ, chứng thì lời nói chân lý là nhất tâm. Nên biết nếu vào Tông Cảnh thì không có lời ngoài ý chỉ để nắm bắt, không có ý chỉ ngoài lời để đạt đến, lý sự cùng bặt, ngộ mê đều dứt.

Hỏi: Từ thiền định phát huệ, do tĩnh lự mà chứng chân, sao chẳng dứt niệm lắng thần hợp tông chiếu thể, cho nên nói thiền hay tẩy sạch dục cấu của căn tình, xô ngã núi cao kiết sử, diệt gió mạnh giác quán, ngăn tên độc phiền não, sao lại bàn rộng về thuyết tổng biệt ? Phật nói người sơ cơ có tâm hoặc loạn có trái kinh điển chăng ?

Đáp: Thiền có bốn thứ:

1- Tạo tác mưu kế, ưa cõi trên chán cõi dưới mà tu đây là thiền ngoại đạo.

2- Tin nhân quả cũng vì ưa chán mà tu, đây là thiền phàm phu.

3- Rõ lý sinh không, chứng đạo thiên chân mà tu, đây là thiền tiểu thừa.

4- Đạt nhân pháp nhị không mà tu, đây là thiền đại thừa.

Nếu trái với giáo lý thì chỉ thành chứng mù, chỉ vì mắt của mình không sáng, giữ lấy sự lặng lẽ và chỉ ngồi si thiền, cho nên huệ tâm chẳng sáng, uổng theo tà hạnh chưa đáng chân tu. Lúc đầu vào đạo cần phải có đủ giáo quán, nắm lấy quán môn bỏ đi giáo chỉ, trọn thành ngu si thượng mạn; chạy theo lời nói của người, trái với tự tâm thì bị chê trách là đếm của báu. Do đó kinh Hoa Nghiêm nói về sự thành tựu trí tuệ vô sinh, trước tiên phải nhờ vào đa văn. Kinh Phật Tạng nói về pháp môn chóng vào niết-bàn đều do nghe pháp.

Kinh Phật Tạng có bài tụng:

Trăm nghìn tăng ngu dốt
Vô tuệ tu tĩnh lự
Trải qua trăm nghìn kiếp,
Chẳng ai đắc niết-bàn.
Người thông minh trí huệ,
Hay nghe pháp nói pháp,
Chính niệm trong chốc lát,
Hẳn chóng đến niết-bàn.

Bài tụng này là tự lợi nhập đạo.

Lại có bài tụng:

Giả sử đầu đội trần sa kiếp,
Thân làm giường tòa khắp tam thiên,
Nếu không truyền pháp lợi chúng sinh,
Nhất định không thể thật báo ân.
Bài tụng này là lợi tha báo ân.

Hoa Nghiêm nói Bồ-tát chứng tuệ quang vô sinh đều do khéo lắng nghe học hỏi. Hơn nữa, công năng nghe pháp trợ giúp cho quán chiếu và phát khởi niềm tin, có thể viên mãn công hạnh của mình; thuyết pháp có công năng đoạn nghi thành Phật có thể giáo hóa người khác. Cho nên kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Như của báu ở trong tối,
Không đèn chẳng thể thấy.
Phật pháp không người nói,
Người trí cũng không biết.

Thế nên nói giáo viên đốn in vào tâm chúng sinh, mở môn đại thí, thành tựu lợi ích vô biên. Nếu không đem pháp này chỉ dạy người, dù có lợi tha cũng không hoàn thiện. Chỗ lợi ích càng lớn thì dụng lực càng nhiều. Nếu chỉ thẳng tự tâm, đưa ra của báu như trút túi nghiêng kho đại thí vô giá, nhân quả thấu suốt cứu cánh thường lạc.

Do đó Phụ Hành Ký ghi: “Nếu đem pháp phương tiện giáo hóa người, pháp môn dù mở rộng mà chẳng gọi là nghiêng kho. Nay với nhất tâm mở cửa lợi tha, nghiêng kho bí mật bày châu báu chân thật. Tâm đã vô cùng thì kho cũng vô lượng, kho đã vô lượng thì châu báu vô biên. Vì chứa tất cả pháp nên gọi là tạng. Lý thể không thiếu sót dụ như châu báu, đây là khai thị chúng sinh vốn có kho giác tạng, chẳng phải bên ngoài đến”.

Kinh Duy-ma nói: “Hội pháp thí là không trước không sau, đồng thời cúng dường tất cả chúng sinh”.

Pháp sư La Thập nói: “Một khi khởi từ tâm thì mười phương đồng duyên. Tột đỉnh trong việc bố thí không bắt đâu từ đây, nên nói không có trước sau”.

Pháp sư Tăng Triệu nói: “Thông thường muốn hiểu người không thể trong chốc lát, cứu giúp người không thể chu toàn trong một lúc”. Thế nên hội thông không giới hạn thì phiền tạp mà chẳng sơ sót, pháp trạch thầm gia bị thì không thay đổi thời mà trùm khắp, cho nên một khi thể hội không còn giới hạn thì tất cả đều thấm nhuần đạo, lòng rỗng gìn đức mà vật tự nghe theo, sao lại giữ lấy trí tuệ nhỏ bé bọt bèo mà bỏ đi lợi ích lớn lao của sông biển, bỏ pháp thí một thời mà lập ra tài thí lâu dài ? Tài thí nuôi thân, pháp thí nuôi thần. Đạo dưỡng thần còn thì sự lợi ích âm thầm, vì sao quần sinh lưu chuyển lấy vô cùng làm con đường cát bụi, âm thầm nối nhau chớ nên tự trái, cho nên bậc đại sĩ lập đức chẳng vì mình, một niệm thiện đều vì quần sinh. Vì quần sinh nên hạnh nguyện đều là quả. Hạnh quả thì công đã lập, nguyện quả thì quần sinh lợi ích. Công đã lập thì có khả năng cứu giúp kẻ khác, quần sinh lợi ích thì có bổn phận nghịch dòng. Vậy thì Bồ-tát bắt đầu lập đức từ bên trong, quần sinh nhờ lợi ích từ bên ngoài, cần gì chờ nuôi dưỡng dẫn dắt rồi sau làm lợi ích ?

Bồ-đề là con đường cứu tế rộng lớn, thế nên vì bồ-đề khởi từ tâm, mỗi niệm mỗi thời lợi ích vô biên, đây là nhờ vào ánh sáng của Tông Cảnh chiếu soi khắp pháp giới không sót.

Thủ Lăng Nghiêm Sớ Sao ghi: Tâm linh biến hóa vô cùng tọa thiền nhập định mà vẫn không biết được cảnh ma khác nhau.

Ngày xưa có thiền sư tọa thiền trên núi, thấy một người con hiếu vác xác chết đến đặt trước mặt thiền sư, vừa khóc vừa nói: Cớ sao ông giết mẹ tôi ? Thiền sư biết là ma nên nghĩ: Đây là cảnh ma, ta phải dùng rìu chặt nó. Ngài liền lấy chiếc rìu để trên cây cột mà chặt cho một rìu, người ấy bỏ chạy. Sau đó thiền sư cảm thấy trên đùi ươn ướt, nhìn lại mới thấy máu, chẳng biết tự chặt. Đây là đang lúc ngồi thiền trong tâm thiền sư khởi thấy ma bên ngoài đến nhập vào tâm hành giả, đều chẳng biết là do tự tâm, hoặc tự ca múa v.v… vốn là bóng dáng của tự tâm. Cho nên biết nếu rõ duy tâm thì các cảnh tự mất làm gì ngoài tâm riêng có cảnh ma ?

Lại xưa kia có thiền sư đang ngồi thấy con lợn đến trước mặt, thiền sư biết là ma liền thong thả nắm mũi heo rồi kêu đem đèn đến thì thấy thiền sư tự nắm lấy mũi của mình. Biết rõ do tâm biến hiện, chỉ cần tu chính định thì làm gì có việc ma ?

Như kinh nói: “Tâm ông ngu si nhận kẻ trộm làm con, năm mươi cảnh ma đều do vọng tâm là kẻ trộm, đánh cắp pháp tài trí bảo trong pháp giới của ông làm cho ông qua lại khổ sở nghèo cùng cô độc ở trong ba cõi”.

Hỏi: Pháp nhiễm thế gian có tham sân si là sở trị, pháp tịnh xuất thế có giới định tuệ là năng trị thì chân tục hiển bày lẫn nhau năng sở đối trị, hành tướng phân minh, lý sự đầy đủ, tại sao chỉ nói ý chỉ nhất tâm dẹp trừ muôn pháp ?

Đáp: Cổ đức nói: Chí đạo vốn nơi tâm, tâm pháp vốn vô trụ, tâm thể vô trụ linh tri không mê muội thì muôn pháp xuất sinh đều y theo nhất tâm vô trụ làm thể, lìa ngoài tâm không riêng có pháp, như sóng nương vào nước, lìa nước không có sóng, như vạn tượng nương hư không, lìa hư không không có vạn tượng.

Luận Đại Trang Nghiêm có kệ:

Xa lìa nơi pháp giới,
Không riêng có pháp tham.
Thế nên chư Phật nói,
Tham sinh ra tham khác.

Như Phật đã nói, ta chẳng nói có pháp tham khác hay sinh ra tham, sân si cũng thế, do lìa pháp giới pháp vô thể. Cho nên tính của pháp tham sân si được gọi là tham sân si. Đây nói tính của pháp tham sân si hay sinh ra tham sân si, nghĩa này là chỉ thú của kinh.

Lại tụng:

Nơi tham khởi chính tư
Nơi tham được giải thoát,
Nên nói tham sinh tham,
Sân si cũng như thế.

Giải thích: Lìa ngoài tham không riêng có pháp, vì tham pháp giới thì trong tất cả pháp thú, tham là sự ưa thích khó bỏ. Vì sao ? Nếu chính tư duy về tham, thấu rõ tham không có tự tính thì giải thoát được tham. Nếu đối với tham khởi tà tưởng, mê tham sinh chấp trước thì bị tham trói buộc, trói buộc và giải thoát liền thành hai môn chân tục, hai môn chân tục gồm thâu các pháp nhiễm tịnh. Một pháp tham đã vậy thì tám muôn bốn nghìn môn trần lao phiền não như sân, si cũng thế, vì tất cả bao trùm pháp giới. Đây là môn chỉ thú các kinh, cũng có thể toàn chứng đại ý Tông Cảnh. Nếu mê phương tiện, tham các nghĩa môn thì nghi ngờ nước lửa làm trôi nổi người, đi vào thành huyễn, dựa vào hư dối thì tự mất, được chân thật thì nào lo gì! Ý nghĩa của nhất tâm muôn đức quy về, hoặc thiện hoặc ác đều hay hồi chuyển, hoặc nghịch hoặc thuận đều làm cho thiện thành. Do đó trong thập huyền môn có môn duy tâm hồi chuyển thiện thành.

Người xưa giải thích: Duy tâm hồi chuyển, những nghĩa môn trước đều là Như Lai tạng tính, là chỗ kiến lập của chân tâm thanh tịnh, hoặc thiện hoặc ác chuyển đổi theo tâm, cho nên gọi là hồi chuyển thiện thành. Ngoài tâm không có cảnh khác nên nói là duy tâm. Nếu thuận chuyển gọi là Niết-bàn, kinh nói tâm tạo các Như Lai. Nếu nghịch chuyển là sinh tử, kinh nói ba cõi hư dối đều do nhất tâm tạo ra, sinh tử niết-bàn đều chẳng ngoài tâm, cho nên không được nói nhất định là tính tịnh hoặc bất tịnh, Vì thế kinh Niết-bàn ghi: “Phật tính chẳng phải tịnh cũng chẳng bất tịnh”, vì tịnh cùng bất tịnh đều là duy tâm, lìa tâm không còn pháp nào khác.

Kinh Lăng Già có kệ:

Duy tâm không cảnh giới,
Không trần hư vọng thấy.

Cho nên biết thuận nghịch chỉ do người chuyển, khổ vui tự theo phận duyên, nhất niệm không trụ chân tâm, trần kiếp chưa hề biến đổi, chỉ tùy theo trí phân biệt mà thấy khác nhau.

Niết-bàn Sớ ghi: Nếu nói tâm tính vốn tịnh bị lậu hoặc che phủ, vẫn còn thuộc về giáo đạo, lại nói theo phương tiện. Nếu nói bản tâm thanh tịnh, chúng sinh nghe được liền khởi tà kiến. Nghĩa là tâm chẳng chịu tu đạo, vì muốn chúng sinh dứt trừ tham sân si mới thấy Phật tính nên nói rằng không được nói nhất định v.v… Nếu dựa vào thật lý tâm tính xưa nay chưa thanh tịnh, như từ vô thỉ chỉ có băng không có nước. Tuy toàn là băng nhưng không được nói là băng chẳng phải nước, tâm tính chúng sinh cũng như thế, tuy vốn là vô minh nhưng không được nói là chẳng phải kho tàng bí mật ba đức. Cho nên bậc viên giáo chỉ cần quán ba đạo vô thỉ là ba đức, vì vậy không như hàng quyền giáo dẹp trừ sự che phủ mới thấy.

Kinh Kim Cương Tam-muội ghi: “Trưởng giả Phạm Hạnh nói: Các pháp chỉ có một vị tại sao trí tuệ của tam thừa có sai khác ? Phật dạy: Này trưởng giả, như sông ngòi biển cả lớn nhỏ, cạn sâu, tên gọi khác nhau; nước ở trong sông gọi là nước sông, nước ở trong kênh gọi là nước kênh, nước ở trong ao gọi là nước ao, ở trong biển gọi là nước biển. Pháp cũng như thế, cùng ở nơi chân như chỉ gọi là Phật đạo. Thế nên ngang dọc huyễn cảnh ở nơi một tính mà dung chân, tịch diệt linh không gá vào sum la mà hiển tướng.

Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Như năng lực nhất tâm,
Hay sinh tất cả tâm,
Như thể một thân Phật,
Hiện khắp tất cả Phật.

Kinh Hoa Thủ có kệ:

Nếu muốn với một niệm,
Biết hết tất cả tâm,
Tâm này không hình sắc,
Như huyễn chẳng bền chắc.

Kinh Hiền Kiếp Định Ý ghi: “Thấy để chứng minh ba cõi như huyễn, tất cả bản nguyên không trái nghịch, đây gọi là nhất tâm”.

Lại nói: “Vì danh hiệu này không thật có nhưng nhìn thấy tất cả nên gọi là nhất tâm”.

Kinh có bài kệ:

Các thế giới rộng lớn,
Vô lượng không bờ mé,
Biết tất cả là một,
Biết một là tất cả.

Vì sao ? Vì một là một của muôn pháp, vì tâm là tự tính. Vì vậy người xưa có bài tụng:

Muôn pháp do tâm sinh,
Tâm tịnh muôn pháp tịnh,
Ngũ thông không chướng ngại
Tâm vương như con mắt.

Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội ghi: “Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của đồng tử Nguyệt Quang nên nói kệ hỏi: Nếu Bồ-tát tương ưng với một pháp thì được công đức tối thắng, chóng thành vô thượng chính đẳng chính giác. Thế nào là một pháp ? Này đồng tử, nếu Bồ-tát đối với thể tính của tất cả pháp liễu tri đúng như thật, như bài kệ nói: “Các pháp chỉ nói một, gọi là pháp vô tướng, là điều bậc trí nói, như thật mà liễu tri”. Nếu nói pháp như thế, Bồ-tát liễu tri thì được biện tài vô ngại nói ức tu-đa-la, được đạo sư gia hộ, hiển bày thật tế, không từng nói chẳng phân biệt giả danh, do một biết tất cả, do tất cả biết một. Tuy nói nhiều thứ mà không kiêu mạn, tâm họ hay liễu tri tất cả pháp vô danh, tùy thuận dùng danh ngôn để diễn nói sự chân thật”.

Giải thích: Nếu như thật liễu tri thể tính tất cả pháp chính là thể tính tự tâm, quán tất cả pháp đều vô danh vô tướng, dùng danh tướng hư giả để diễn nói sự chân thật khiến trở về chân nguyên vô tướng, thật tế vô danh liền vào trong biển tu-đa-la biện thuyết vô cùng.

Như kinh nói: “Này đồng tử, tâm ấy vô tính và không hình sắc không thể thấy được. Này đồng tử, như vậy thể tính của tâm là thể tính của công đức Phật, như vậy thể tính của công đức Phật là thể tính của tất cả các pháp. Do nghĩa này cho nên nếu Bồ-tát nói thể tính các pháp một nghĩa biết đúng như thật gọi là Bồ-tát, tâm vắng lặng khéo biết thiện căn, xuất ly tam giới, liễu tri như thật, tri kiến như thật, nói đúng như thật, không nói sai khác. Cho đến khéo hiểu pháp ly văn tự, khéo hiểu trí phân biệt văn tự, khéo hiểu pháp ly ngữ ngôn v.v…”

Kinh Lăng Già có kệ:

Bất sinh luôn hiện sinh,
Bất thoái thường hiện thoái
Đồng thời trăng đáy nước,
Hiện ra muôn ức cõi,
Một thân và vô lượng,
Lửa cháy và mưa dầm,
Tâm tâm thể không khác,
Nên nói chỉ là tâm;
Trong tâm chỉ là tâm,
Tâm vô tâm mà sinh,
Các thứ tướng hình sắc,
Tất cả chỉ là tâm.

Lại có kệ:

Trong tâm không đoạn thường,
Thân nương gá nơi tâm.
Kẻ ngu si vô trí
Không vật mà thấy có.

Lại có kệ:

Phật tử nhìn thế gian,
Duy tâm không các pháp,
Thảy chẳng do thân tạo,
Thành tựu sức tự tại.

Vì sao ? Nếu được tâm vương thì tất cả tự tại, muốn thành liền thành, chẳng bị kẻ khác trở ngại.

Như Bồ-tát Trì Địa nói: Ta thường san lấp những con đường gập ghềnh hiểm trở để xe ngựa đi lại dễ dàng, đến nỗi được Tỳ-Xá Như Lai xoa đầu, bảo ta nên bình tâm địa thì thế giới sẽ bình. Vì sao ? Vì tâm không bình thì đất đai không bằng phẳng. Như Xá-lợi-phất trong tâm có cao thấp nên thấy gò nổng hầm hố, là biết đề cương toát yếu chẳng qua quán tâm, thấy đạo trong một sát-na, thủ chứng như trở bàn tay.

Pháp Hoa Sám Văn của vua Văn Đế nhà Trần ghi: “Lý tột cùng không hai, đồng một ý chỉ. Chỉ do nghiệp và tâm nên thụ nhận thức muôn loài, theo cái thấy có chấp trước nên tạo ra tướng sai khác của quần sinh”.

Kim Cương Sám của Lương Võ Đế ghi: “Được đó nhờ tâm, rồi sau vì pháp, thế nên đồng tử không nói mà được sự kỳ diệu của vô ngôn, Bồ-tát chẳng nói mà thấy sự sâu xa của không nói”.

Lý tột cùng không hai đồng một ý chỉ thì một pháp nêu bày tông chỉ, những lối khác không cần thiết. Sự kỳ diệu của vô ngôn, sự sâu xa của không nói, nếu không thân chứng tự tâm thì làm sao thấu suốt sự kỳ diệu sâu xa kia, cho nên đường ngôn ngữ tư duy dứt, thầm hợp tông này.

Hoàng đế Đường Đức Tông nói: “Pháp của muôn loài vốn duyên nơi tâm, tâm sinh pháp sinh, tâm diệt pháp diệt, cho nên dùng tâm quán tâm, ngoài tâm không pháp, tâm tính thường trụ, đạo nào có xa!”.

Như Tiên đức nói: Thể của sự tu đạo tự biết pháp thân xưa nay thanh tịnh, bất sinh bất diệt không có phân biệt, tự tính viên mãn. Tâm thanh tịnh này là bổn sư. Cho nên biết chân tâm chính mình tự nhiên mà có, chẳng phải từ ngoài đến. Cái gần gũi nhất trong ba cõi không gì hơn tâm!

Hỏi: Chúng sinh với Phật đồng thể, vì sao có khổ vui khác nhau ?

Đáp: Chư Phật ngộ đạt pháp tính đều tự nhiên rõ biết nguồn tâm, vọng tưởng không sinh, chẳng mất chính niệm, tâm ngã sở diệt, nên không bị sinh tử, là cứu cánh thường tịch diệt, do tịch diệt nên mọi điều vui tự quy về. Còn tất cả chúng sinh mê muội chân tính, không đạt bản tâm, nhiều vọng tưởng mất chính niệm, nên khởi yêu ghét. Do yêu ghét nên tâm sinh lý bị tổn thương liền bị sinh tử, cho nên các khổ tự hiện, muốn rõ pháp yếu thì giữ tâm là bậc nhất. Nếu một người không giữ chân tâm mà được thành Phật thì không có lẽ ấy. Cho nên kinh nói chế tâm một chỗ thì việc gì chẳng xong. Tất cả muôn pháp chẳng ngoài tự tâm, tám vạn pháp môn, tam thừa vị thể, tất cả hiền Thánh, bàn về tông giáo đều lấy tự tâm làm gốc.

Văn Cú Sớ ghi: Nếu tìm giáo tích, giáo tích rộng mênh mông tự uổng công lao nhọc. Nếu tìm lý bản, lý bản cao vút khó thể đạt đến, như thế ngày đêm đếm của cải người khác mà tự mình không được nửa xu. Chỉ cần quán sự cao rộng của tự tâm, giữ lấy sự cảm ứng linh thiêng vô cùng, cơ hội đến cảm được lợi ích cho mình, cho nên dùng quán tâm giải thích. Nên biết các thứ thanh giáo hoặc nhỏ hoặc lớn, hoặc quyền hoặc thật đều là Phật đạo. Đại kinh có kệ:

Lời thô và nhã nhặn
Quy về đệ nhất nghĩa.

Phẩm phương Tiện (kinh Pháp Hoa) có kệ:

Ta vốn lập thệ nguyện,
Khiến cho tất cả chúng,
Đồng được đạo quả này,
Giống như ta không khác.

Lại có kệ:

Chính trực bỏ phương tiện,
Chỉ nói đạo vô thượng.

Chính này không phải chỉ cho thế gian, chẳng phải chỉ cho tích trí như ánh sáng đom đóm, chẳng phải chỉ cho thể pháp trí như đèn đuốc, chẳng phải chỉ cho đạo chủng trí như mặt trăng, mà chỉ cho nhất thiết chủng trí như ánh sáng mặt trời. Sự truyền bá này chẳng phải vì lá cây, ngựa gỗ, trâu đất, chẳng phải truyền bá bán tự, chẳng phải truyền bá cộng tự, chẳng phải truyền bá biệt tự, mà chỉ truyền bá kinh pháp mãn tự. Như ánh sáng Tông Cảnh không còn chiếu soi nào khác, chẳng những địa vị cao công hạnh mãn mà còn nhân quả đầy đủ, khéo vụn sai biệt, nhanh chậm không đồng.

Luận Đại Trí Độ ghi: Như trị bệnh bằng thuốc đắng hay bằng châm cứu có sự sai khác, như có diệu dược tên Tô-đà-phiến-đà người bệnh nhìn thấy liền dứt bệnh tuy cùng trị bệnh mà phương pháp hay dở khác nhau, hàng Thanh văn, Bồ-tát giáo hóa người cũng như thế. Bậc đầu-đà khổ hạnh suốt đêm siêng năng thiền quán mà đắc đạo, đây là Thanh văn giáo. Quán các pháp tướng không ràng buộc không giải thoát tâm được thanh tịnh, đây là Bồ-tát giáo.

Thế nên liễu tâm thật tướng ngộ trong sát-na tích chứa công hạnh mà thành nhân quả tiệm tiến. Chỉ cần có một chút thiện đều tùy hỉ hồi hướng về tâm thật tướng, cho đến trong bốn oai nghi gặp đâu cũng quán xét, niệm niệm khế hợp ý chỉ, mỗi bước đi vào nhiệm mầu, chẳng chạy theo trần để mất chân trí, như mũi tên bắn mặt đất nơi nơi đều trúng. Cho nên luận nói: Lại nữa chính hồi hướng, Bồ-tát nên tư duy: Như chư Phật mười phương ba đời hiểu biết, dùng trí tuệ vô thượng, biết các tướng thiện căn, trong nhất thiết trí đức Phật là bậc thù thắng đệ nhất, Phật biết các thiện căn chắc chắn là thật tướng. Như Phật đã biết, ta cũng dùng các tướng thiện căn như thế để hồi hướng. Như lúc bắn mặt đất nơi nơi đều trúng, nếu bắn vật khác thì hoặc trúng hoặc trật. Như Phật đã biết tùy hỉ cũng như bắn mặt đất liền trúng, nếu dùng cách khác mà tùy hỉ cũng như bắn vật khác hoặc trúng hoặc trật. Hồi hướng như thế là không phỉ báng chư Phật, cho nên biết tin hiểu tâm thật tướng vào trong Tông Cảnh, vừa khởi niệm đều là chân như, mới thuận theo chỗ thấy biết của Phật, chẳng phỉ báng Tam Bảo. Nếu được trí tuệ thật tướng che chở thì tất cả muôn hạnh đều thành tựu, như bóng chim đại bàng che chở chim con để chim con khôn lớn. Ngày nay người học chỉ cần trực liễu tự tâm, chớ nghi ngoại cảnh. Nếu tâm thấu rõ ngoại cảnh đều hư giả; một pháp vừa thông thấu, vạn tượng đều quy tâm địa; một bánh xe có vấn đề thì trở ngại giao thông, rõ ràng chỉ tại tự tri, niệm niệm không gì chẳng phải chân thật. Thô sơ bên ngoài không thể soi, không sợ người nghi; bí mật bên trong khó cùng tận chỉ cần thân chứng.

Như Bàng cư sĩ có kệ:

Bậc trung thích tịch tĩnh,
Người thường chuộng oai nghi,
Bồ-tát tâm vô ngại,
Giống phàm, phàm không biết,
Phật là thể vô tướng,
Đâu cần tướng giữ gìn
Chỉ tâm rõ mọi việc,
Đừng để người ngoài nghi,
Như người khát uống nước,
Lạnh nóng tự mình biết.

Ngoại Thư Trung ghi: “Người có uy danh trên đời, nếu gọi tên người ấy có thể khiến trẻ con nín khóc”. Ngụy Lược ghi: Trương Liêu bị Tôn Quyền vây hãm, Trương Liêu xông ra làm cho quân sĩ Tôn Quyền rối loạn bỏ chạy. Do uy danh chấn động Giang Đông khi trẻ con khóc không chịu nín, cha mẹ gọi tên Trương Liêu để cho chúng nó sợ mà nín khóc.

Đôn Hoàng Thực Lục ghi: Tống Chất Trực phá nước Lỗ có uy danh, trẻ con sợ nín khóc. Tuy nó chưa biết người này chỉ nghe tên liền nín khóc. Hai câu chuyện này đều chứng tỏ duy tâm. Cho đến như niệm danh hiệu Quan Âm lửa không thể đốt cháy v.v… Đây là niệm Quan Âm làm tăng thượng duyên đều là từ tâm cảm được linh nghiệm này, may rủi thành bại vinh nhục thăng trầm tất cả đều do tâm. Do đó Đại sư Pháp Dung có bài tụng:

Cũng chẳng phải trời sinh,
Cũng chẳng từ đất ra
Chỉ là không tâm tính,
Chiếu soi như mặt trời.

Như mặt trời chiếu, ánh sáng nào mà không thấu thì vừa chạm mắt liền khởi niệm không gì chẳng phải tâm ta; đều thành pháp bảo, đều là gia trân, tự lợi lợi tha dùng mãi không hết.

Tam Gián Ca của Phó đại sĩ ghi:

Bỏ thế vinh, bỏ thế vinh hoa,
Đạo lý càng thêm nỗ lực,
Ân cần học ba điều can.
Ngăn thân tâm trở về quê cũ,
Ngăn ý căn chớ cho vọng khởi,
Ngăn miệng lưỡi đừng nên nói nhiều,
Ngăn bàn tay chớ vung roi gậy,
Ba (điều) ngăn ba vua, vua tự thơm
Hư không tự được đến cõi tiên,
Cõi tiên chẳng gần cũng chẳng xa,
Chần chừ chỉ là đứng ở giữa.
Nếu muốn tới lui nơi cõi tiên,
Chẳng cần lăn lóc chốn quê người.
Nếu muốn cầu niệm Phật Di-đà,
Đông tây nam bắc là Tây phương.
Tây phương Di-đà đâu cũng thấy,
Trước mặt sau lưng bảy lớp hàng,
Hoặc vàng hoặc đỏ hoặc hồng trắng,
Hoặc lớn hoặc nhỏ hoặc ngắn dài.
Bầu trời chính là nhà Di-đà,
Phòng Di-đà ấy là bọng cây,
Không trung chính là đường Di-đà,
Quê của Di-đà là cỏ cây,
Ngày đêm ồn ào, miệng phóng quang.
Nếu muốn lễ bái Phật Di-đà,
Chẳng dùng tư tưởng quá rối ren.
Nếu hông dối người là lễ bái,
Nếu chẳng cầu người là đạo tràng,
Nỗ lực tự làm ba công tác,
Tinh cần trang bị đủ tư lương
Núi sông, vô tận tạng của mình
Cỏ cây, kho đầy ngập của người
Nước bùn, vựa đầy ắp của người
Cây đậu, túi không đáy của người
Làm nhiều công phu tự thành tựu,
Chỉnh đốn cử chỉ thật trang nghiêm.
Nếu muốn vãng sinh nước An Lạc,
Chỉ là vật ấy chính Tây phương.

Lại ca:

Quê hương chư Phật tại thế gian
Phật thân đầy khắp cả núi sông
Phật cùng chúng sinh đồng một thể
Giả danh của Phật là chúng sinh
Muốn thấy Phật hãy nhìn chúng sinh
Đang ở ruộng vườn hoặc nhà cửa
Hoặc đang bay lượn trong hư không,
Hoặc cất tiếng vang dội núi sông,
Hoặc kết bè bạn chơi qua lại,
Hoặc lại cô đơn đi một mình,
Hoặc khiến ban ngày chạy đông tây,
Hoặc khiến ban đêm tuần năm canh.
Hoặc đen hoặc đỏ rồi lại trắng,
Hoặc tía hoặc đen rồi vàng xanh,
Hoặc lớn hoặc nhỏ rồi mới nuôi,
Hoặc trẻ hoặc già sinh đời trước,
Hoặc ở trên lưng có đèn đuốc,
Hoặc trên vây cánh có đàn tranh,
Hoặc dạo hư không loạn trên dưới,
Hoặc tại cỏ cây loạn dọc ngang,
Hoặc không nói năng ra khỏi cửa,
Hoặc vào hầm hố tạm ký sinh,
Hoặc khoét bọng cây làm quê quán,
Hoặc khắp cỏ cây làm hang ổ
Hoặc giăng màn lưới thành làng xóm
Nằm trên đất đá làm thềm bậc
Nhà chư Phật, Bồ-tát như thế,
Đây được gọi là thành Xá-vệ.