TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 28

Pháp môn duyên khởi tự tại trong Tông Cảnh đều bàn về thật đức đúng như lý, vì pháp như thị, chẳng phải căn cứ vào quyền xảo biến hóa đối trị. Mỗi pháp được nói đến đều là toàn lực, không phải là phần lực, đều là pháp giới thể, đều trụ nơi chân như.

Như kinh Đại Bảo Tích ghi: “Nếu người muốn hiểu tất cả pháp tướng, muốn biết tâm tất cả chúng sinh đều đồng đẳng thì phải học Bát-nhã ba-la-mật”. Cho nên biết nếu chẳng trở về Tông Cảnh thì lấy gì soi sáng, đây chính là pháp môn vô ngại, không có mảy may ngăn cách.

Căn cứ vào tông Hoa Nghiêm có mười thứ vô ngại: Một là tính tướng vô ngại, hai là quảng hiệp vô ngại, ba là nhất đa vô ngại, bốn là tương nhập vô ngại, năm là tương tức vô ngại, sáu là ẩn hiển vô ngại, bảy là vi tế vô ngại, tám là đế võng vô ngại, chín là thập thế vô ngại, mười là chủ bạn vô ngại.

Nay trên sự pháp nói về mười thứ vô ngại này, những pháp khác theo đây suy biết.

1- Tính tướng vô ngại: Như kinh nói: Cánh sen có đủ mười nghĩa này. Nghĩa là cánh sen này tức đồng chân tính, chẳng ngại sự tướng rõ ràng.

2- Quảng hiệp vô ngại: Là cánh sen này trùm khắp không có bờ mé mà luôn không bỏ bản vị phân chia, đây là phân mà không phân, không phân mà phân. Kinh nói: Các cánh sen này che khắp pháp giới.

3- Nhất đa vô ngại: Là cánh sen này đủ vô biên đức nên không thể nói một; dung chứa tướng không hai nên không thể nói nhiều.

4- Tương nhập vô ngại: Một cánh sen này xòe ra vào trong tất cả pháp sai biệt. Lại có thể thu tất cả pháp vào trong chính mình, thế nên tức thu hằng nhiếp đồng thời vô ngại.

5- Tương tức vô ngại: Một cánh sen này phải dẹp tự để đồng tha, cả thể toàn là tất cả pháp hằng nhiếp tha đồng tự khiến cho tất cả pháp là tự thể. Cho nên tự tức tha thì tự chẳng còn, tha tức tự thì tha chẳng còn. Tự tha còn mất đồng thời hiển hiện.

6- Ân hiển vô ngại: Cánh sen này đã ở khắp tất cả các pháp kia cũng đều khắp nơi. Đây hay khắp nơi kia thì đây hiển kia ẩn. Kia hay khắp nơi đây thì kia hiển đây ẩn. Như vậy đây kia đều có ẩn hiển vô ngại.

7- Vi tế vô ngại: Lại trong cánh sen này có thể hiển hiện cõi nước vi tế, rõ mồm một không gì chẳng đầy đủ. Kinh nói: “Nhiều cõi nước rộng lớn an trụ trong một hạt bụi”.

8- Đế võng vô ngại: Cánh sen này ở trong mỗi hạt bụi đều có vô biên thế giới hải. Trong thế giới hải lại có vi trần, trong vi trần lại có thế giới, như thế trùng trùng không cùng tận, chẳng phải là cảnh giới mà tâm thức suy lường.

9- Thập thế vô ngại: Cánh sen này không gian khắp mười phương, thời gian suốt chín đời, vì thời gian không sai biệt, thể nương vào hoa mà lập. Hoa đã vô ngại thì thời gian cũng thế.

10- Chủ bạn vô ngại: Cánh sen này theo lý không sinh riêng lẻ, lại còn có vô lượng quyến thuộc vây quanh. Kinh nói: “Hoa sen này có quyến thuộc hoa sen nhiều như số vi trần trong thế giới hải”. Những quyến thuộc nói trong kinh này làm chủ bạn với nhau đầy đủ công đức, cho nên thấy một cánh sen này tức là thấy pháp giới vô tận, chẳng phải nhờ đây mà riêng có sự biểu lộ. Kinh nói: “Cánh sen này đều từ vô sinh pháp nhẫn sinh khởi”. Một cánh sen đã đủ mười thứ vô ngại, tất cả việc khác cũng đều như thế.

Mười huyền môn không ra ngoài sự lý, nếu từ sự lý vô ngại đan xen thì có nhân-đà-la võng môn, vi tế tương dung môn, thuần tạp cụ đức môn v.v… Nếu dựa theo sự lý nghịch thuận tương dung thì có cụ túc tương ưng môn, ẩn hiển câu thành môn, tương tức tự tại môn v.v… Thế nên nhất đa tương nhập mà chẳng phải nhất, vì giúp nhau chẳng phá hoại tự tướng đều hiển hiện nên chẳng phải nhất. Nhất đa tương tức mà chẳng phải khác, vì nhất đa tương nhiếp đều mất sạch nên chẳng phải khác. Cho nên theo Tông Cảnh hễ có một pháp một trần đều đủ mười môn vô ngại, như một cánh sen pháp nhĩ như thị. Nếu chẳng thấy thì lòng tin không thành, bị hạn cuộc, đều là quyền tiệm hoàn toàn không thể nhất đa tức nhập, tâm cảnh dung thông.

Ký Thích Liên Hoa Thập Huyền Môn ghi:

1/ Đồng thời cụ túc tương ưng môn:

Luận về mười huyền mười đôi, hễ nêu ra một sự việc ắt có mười huyền, hễ một huyền môn ắt thâu mười đôi. Nói riêng về một pháp đều thâu đủ mười đôi: Một là giáo nghĩa, hai là sự lý, ba là cảnh trí, bốn là hạnh vị, năm là nhân quả, sáu là y chính, bảy là thể dụng, tám là nhân pháp, chín là nghịch thuận, mười là cảm ứng. Như một hoa sen đủ mười đôi này, muôn pháp cũng thế.

1- Giáo nghĩa, vì thấy hoa sen liền sinh sự hiểu biết.

2- Lý sự, vì hoa là sự, cả thể đồng chân.

3- Cảnh trí, vì hoa là sở quán đồng trí tính.

4- Hạnh vị, vì vạn hạnh hoa tùy theo địa vị mà sai khác.

5- Nhân quả, vì hoa nhân kết thành quả.

6- Y chính, vì sở y cũng là năng y.

7- Thể dụng, vì thể đồng chân tính, dụng ứng căn cơ.

8- Nhân pháp, vì hằng nắm là nhân, nhiếp là pháp.

9- Nghịch thuận, vì nghịch đồng với ngũ nhiệt, thuận đồng với thập độ.

10- Cảm ứng, vì ứng khắp tất cả cũng hay cảm.

Một hoa sen đã thế thì tất cả sự việc khác theo đây suy biết.

Phẩm Diệu Nghiêm dụ Phật thân nói: “Ví như hư không hàm chứa vạn tượng”, đây nêu ra Phật thân đầy đủ các pháp.

Phẩm Phổ Kinh Tính Khởi có bài tụng:

Ba đời tất cả kiếp,
Cõi Phật và các pháp,
Các căn tâm tâm sở,
Tất cả pháp hư vọng,
Ở trong một thân Phật,
Các pháp đều hiện ra,
Thế nên nói bồ-đề,
Vô lượng và vô biên,
Cũng từ thân tâm Phật.

Phẩm Phổ Hiền Tam-muội nói: “Có thể khiến cho tất cả vi trần trong cõi nước đều chứa đựng vô biên pháp giới”.

Căn cứ vào chỗ đầy đủ mà nói, chỉ vì nghiệp dụng đều do đức tướng vốn tự đầy đủ chính là đức tướng. Khiến cho đều thấy đó là nghiệp dụng.

Phẩm Thập Hạnh nói: “Bồ-tát ở trong thân hiện tất cả cõi, tất cả chúng sinh, tất cả chư Phật”.

Phẩm Nhập Pháp Giới nói: “Thiện Tài thấy mỗi một lỗ lông trên thân Phổ Hiền đều có sơn hà đại địa, cung điện trời người, các thời kiếp, chư Phật Bồ-tát trong tất cả mười phương thế giới, như thấy thế giới hiện tại. Thuở trước thuở sau trong tất cả thế giới đều thấy rõ như thế, cho đến trong mười phương sát trần hiện ra tất cả cảnh giới, tất cả cõi Phật, tất cả chúng sinh, tất cả chư Phật, tất cả Bồ-tát và nghe tiếng nói của chư Phật Bồ-tát cùng chúng hội ba đời. Đây là đồng thời cụ túc tương ưng môn.

2/ Quảng hiệp tự tại môn:

Trước hết nói về rộng hẹp, sau đó hội thông thuần tạp.

Trước nói về rộng hẹp, như Thiện Tài khen ngợi lầu các chẳng rời chỗ ngồi mà hay đến tất cả cõi chư Phật. Trong phẩm Nhập Pháp Giới, Ma-Da phu nhân nói: Này thiện nam, ánh sáng kỳ diệu kia khi rọi vào thân ta, hình lượng của thân ta tuy không khác xưa, nhưng thật ra đã vượt qua thế gian, vì sao ? Thân ta lúc ấy đồng hư không đều có thể dung nạp Bồ-tát mười phương, thọ sinh trang nghiêm các cung điện. Lời này nói về sự rộng hẹp tự tại.

Kế là hội thông thuần tạp, như nói vạn hạnh phát tiết như hoa nở trên gấm, đây là chư tạng thuần tạp cụ đức môn. Nhưng có hai ý:

Một là nếu cho khế lý là thuần, vạn hạnh là tạp thì sự lý vô ngại, chẳng phải sự sự vô ngại. Giả sử như Bồ-tát đại bi là thuần, tận thuở vị lai chỉ thấy hạnh bi, các hạnh khác như hư không. Nếu theo tạp môn thì vạn hạnh đều tu. Hai môn này khác cũng không thành sự sự vô ngại.

Hai là như một môn bố thí, tất cả muôn pháp đều gọi là bố thí, cho nên gọi là thuần. Nhưng môn bố thí này có đủ các độ hạnh nên gọi là tạp, như vậy thuần với tạp chẳng chướng ngại nhau, nên gọi là cụ đức thì nghĩa sự độ có đủ các độ, chư độ tồn tức tương nhập môn, nếu một độ là các độ dường như là tương tức môn, nên không còn nữa. Ngài Hiền Thủ đổi lại thành Quảng hiệp tự tại môn: Nếu hoa nở trên gấm, ý lấy năm thứ tơ màu xuyên suốt nhau, màu sắc hoa tuy khác, song mỗi sợi chỉ thảy đều xuyên qua, thông dụ cho thuần, khác dụ cho tạp, cho nên thường thông thường khác gọi là vô ngại, không như bức tranh thêu chỉ khác mà chẳng thông.

Giải thích:

Nếu khác mà chẳng thông thì đánh mất đạo nhất tính viên dung. Nếu thông mà chẳng khác thì không có môn vạn hạnh trang nghiêm. Nay thường khác thường không không gián không đoạn thì chân thể lặng lẽ, chẳng ngại tùy duyên, đại dụng hiện tiền, không ngại chính tính, có thể sánh như hoa nở trên gấm, mây nổi giữa hư không.

Ý của Hiền Thủ nói: Vạn hạnh thuần tạp, có thông lý sự vô ngại và căn cứ vào sự mà nói, cho nên phế bỏ nó rồi. Nghĩa là đồng một pháp giới nên thuần, chẳng hoại sự tướng nên tạp; đây tức là sự lý vô ngại. Một hạnh tăng thêm hạnh nên thuần, chẳng ngại cái hạnh khác nên tạp. Đây chỉ căn cứ vào sự nên trước đó bỏ sự mà lập rộng hẹp, ngày nay định lĩnh hội tức sự đồng lý khắp cả nên thuần, chẳng hoại nhất đa nên tạp thì cũng có nghĩa sự sự vô ngại. Nếu nhập môn lĩnh hội thì tất cả đều nhập, trong nhập có nhiều pháp môn, nên gọi là tạp. Như phẩm Diệu Nghiêm nói “các chúng hải” đều riêng có một môn giải thoát, gọi là thuần. Bồ-tát Phổ Hiền được bất tư nghì giải thoát, gọi là tạp.

Trong phẩm Nhập Pháp Giới, đồng nữ Từ Hạnh nói: “Tôi ở nơi ba mươi sáu Hằng hà sa Phật tu hành được pháp này. Các đức Như Lai đều dùng những pháp môn khác nhau khiến cho tôi vào môn Bát-nhã ba-la-mật phổ trang nghiêm tức là thuần tạp vô ngại”.

Lại đồng tử Thiện Tài thỉnh cầu, các thiện tri thức đều nói chỉ biết pháp môn này.

Lại nói: “Nhiều kiếp chỉ tu môn này là thuần môn”. Các thiện tri thức tiếp lời: “Các tri kiến, sự tu hành, sự chứng đắc của các vị Bồ-tát là tạp môn”.

Tự nói biết một, suy luận ra người khác có nhiều. Tự tha tuy khác nhưng thuộc một thân. Đây là thuần tạp vô ngại môn.

3/ Nhất đa tương dung bất đồng môn:

Nhất đa vô ngại như nghìn ngọn đèn trong nhà trống. Do nhất cùng đa đan xen nhau làm lực dụng duyên khởi nên gọi là tương dung, vì không phá hoại tướng kia nên nói là bất đồng, như trong một cái thất có nghìn ngọn đèn cùng chiếu, đèn tùy theo ngọn khác nhau, đèn theo ánh sáng mà thông suốt đan xen vào nhau, thường biệt thường nhập hằng dị hằng dung, cho nên kinh có bài tụng:

Trong một hiểu vô lượng,
Trong vô lượng biết một,
Rõ sự tương sinh
Sẽ được vô sở úy.

Lại đúng như lý bao trùm khắp cả, thư nhiếp đồng thời. Nếu làm đầy đủ thì một là chỉ có nhập, vì một nhập tất cả; hai là chỉ có nhiếp, vì một nhiếp tất cả; ba là tức nhập tức nhiếp đồng thời vô ngại; bốn là phi nhập phi nhiếp, vì nhập tức là nhiếp nên phi nhập, vì nhiếp tức là nhập nên phi nhiếp; năm là có đủ bốn thứ trên, vì là cảnh hiểu biết; sáu là dứt sạch năm thứ trên, vì là cảnh thực hành nên hạnh khởi giải tuyệt.

Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Trong lỗ lông của Bồ-tát có thể chứa tất cả cõi nước”. Lại nói: “Trong tất cả thân đều có thể chứa tận pháp giới bất khả thuyết bất khả thuyết thân mà chúng sinh giới không thêm không bớt”. Một thân đã vậy cho đến tất cả thân khắp pháp giới cũng thế, cho nên tịch chiếu thần biến.

Kinh Tam-ma-địa ghi: “Trong tất cả thân hữu tình có thể thị hiện một thân hữu tình, lại trong một thân hữu tình hợp khắp tất cả thân hữu tình. Trong thân hữu tình có thể hiện pháp thân, lại trong pháp thân có thể hiện thân hữu tình. Cho đến có thể đem nhất tâm tùy niệm ngộ nhập tất cả chúng sinh vô tế kiếp số, hiện khắp các nghiệp quả dị thục tùy theo chỗ cảm ứng mà khai ngộ hữu tình khiến cho họ được thấy phương tiện thiện xảo”.

4/ Tương tức môn:

Phế tự đồng tha là nghĩa tương tức. Tương nhập ở phần trên là kia đây cùng tồn tại như hai chiếc gương chiếu soi nhau, đây là nói về lực dụng xen suốt nhau. Nay căn cứ vào hữu thể vô thể nên nói phế tự. Phế tự là tự vô thể, đồng tha là tha hữu thể. Kinh có bài tụng:

Nhất tức là đa, đa tức nhất
Văn tùy theo nghĩa, nghĩa tùy văn
Như vậy tất cả uyển chuyển thành
Nói thế cho người được bất thoái.

Uyển chuyển thành là loại dị thể tương vọng. Phẩm Bất Tư Nghì Pháp ghi: “Chư Phật biết tất cả Phật ngữ là một Phật ngữ”, đây là đồng loại tương tức. Phẩm Sơ Phát Tâm ghi: “Tâm vừa phát khởi liền cùng với tất cả chư Phật ba đời thể tính bình đẳng”. Cho đến nói trí tuệ chân thật v.v… đây là hiển bày địa vị cao thấp tương tức. Phẩm Nhập Pháp Giới ghi: “Bồ-tát Di-lặc bảo đại chúng: Các Bồ-tát khác trải qua vô lượng trăm nghìn ức na-do-tha kiếp mới có thể tròn đầy hạnh nguyện Bồ-tát, mới có thế gần gũi bồ-đề chư Phật. Con của Trưởng giả này có thể làm thanh tịnh cõi Phật trong một đời v.v…”

5/ Ẩn hiển môn:

Như ánh trăng ngày mùng tám thì ở chỗ sáng là hiển, ở chỗ tối là ẩn mà phải đồng thời nên nói là đều thành. Không giống như ngày rằm chỉ hiển hiện ánh trăng, ngày ba mươi chỉ ẩn mất.

Lại chỗ tối chẳng phải là không sáng, chỗ sáng chẳng phải là không tối, chỉ là chỗ sáng thì tối ẩn, chỗ tối thì sáng ẩn, nên cũng được gọi là ẩn hiển câu thành tợ như ánh trăng mùa thu, như trăng mùng tám nửa hiển nửa ẩn, đang hiển tức ẩn, không giống như ngày ba mươi trăng ẩn không hiển, ngày rằm trăng hiển không ẩn thì sáng ẩn mất là ngày ba mươi, ngày ba mươi qua đi thì có sáng xuất hiện. Như đi vào hướng đông thì phải khởi hành từ hướng đông như sáng ẩn thì tối hiển. Khởi nơi hướng tây thì phải khởi hành từ hướng tây như tối ẩn thì sáng hiển, cho nên gọi là bí mật câu thành. Cũng như trời Dạ-ma có kệ:

Tất cả ở mười phương,
Đều nói Phật nơi đây,
Hoặc thấy tại nhân gian,
Hoặc thấy nơi thiên cung,
Chỗ thấy gọi là hiển,
Không thấy gọi là ẩn,
Chẳng phải Phật chẳng khắp.

Phẩm Thập Định nói: “Có người thấy Phật thân cao lớn bảy trượng, có người thấy Phật thân cao lớn tám trượng, có người thấy Phật thân cao lớn chín trượng, cho đến có người thấy Phật thân cao lớn như thế giới bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số. Lúc thấy thân bảy trượng thì bảy trượng hiển, các lượng khác đều ẩn. Các thứ khác hiển cũng như thế, cho nên có ví dụ như người ở cõi Diêm-phù-đề nhìn mặt trăng thấy nhỏ, nhưng mặt trăng cũng chẳng giảm; còn những kẻ ở trên mặt trăng thấy nó lớn nhưng mặt trăng cũng chẳng tăng.

Giải thích: Thấy lớn thì lớn hiển nhỏ ẩn, thấy nhỏ thì nhỏ hiển lớn ẩn. Song chẳng tăng giảm đây là bí mật câu thành. Các pháp khác suy ra có thể biết.

Như kinh nói: Nơi đây Ma-da phu nhân làm mẹ của Bồ-tát, ở tam thiên thế giới làm mẹ cũng thế. Nhưng thân của ta chẳng phải ở một chỗ, chẳng phải ở nhiều chỗ, cũng là nghĩa ẩn hiển. Chỗ này làm mẹ, đây hiển kia ẩn v.v… Chẳng phải ở một chỗ là nhất ẩn, y theo đây có đa hiển. Chẳng phải ở nhiều chỗ là đa ẩn, y theo đây có nhất hiển, cũng là câu cùng đoạt cùng mất, là nghĩa bí mật phi ẩn phi hiển. Nhưng căn cứ vào trí huyễn là môn nghiệp dụng, căn cứ vào ngôi vị tột bực là môn đức tướng.

6/ Vi tế tương dung môn:

Kinh có bài tụng:

Trong mỗi lỗ chân lông,
Đều hiện vô số cõi.

Đây là môn nghiệp dụng.

Lại tỳ-kheo Đức Vân nói: Trụ môn niệm Phật vi tế, ở trên đầu lông có bất khả thuyết Như Lai xuất hiện, đều đến nơi ấy thừa sự. Đây gồm cả đức tướng và nghiệp dụng. San Định Ký ghi: Đức vi tế này không giống với đức tương tại. Kia căn cứ vào biệt thể biệt đức tương vọng tương tại, đây chỉ là ngay nơi pháp liền đầy đủ tất cả, đều hiển hiện rõ ràng.

7/ Nhân-đà-la võng môn:

Đế võng quán này như một hoa, một trần do vì xứng tính nên có thể nhiếp tất cả. Các trần khác các pháp khác cũng đều xứng tính thì đâu có một pháp nào mà chẳng nhiếp ? Cần phải đem trần đối với cõi nước để nói về sự trùng trùng vô tận. Muốn cho dễ thấy, hãy lấy một trần đối với các trần khác, nghĩa là trong một trần bao gồm các cõi nước, các cõi nước ấy cũng có thể thành trần. Cái hay thành trần này cũng phải xứng tính. Trần đã xứng tính cũng phải bao hàm cõi nước. Trong lớp thứ hai các cõi được bao hàm cũng có thể thành trần. Trần lại xứng tính cũng phải bao hàm cõi nước. Trần ở lớp thứ ba bao hàm cõi nước lớp thứ tư. Trần ở lớp thứ tư bao hàm cõi nước lớp thứ năm. Lớp lớp trần thành, lớp lớp xứng tính, vô cùng vô tận, giống như gương với đèn dụ cho lưới báu của trời Đế Thích. Nếu nói theo Đế võng thì từ dụ được tên, nếu đứng về pháp lập nên có tên Trùng hiện vô tận môn, như trong một hạt châu hiện ngay muôn hình tượng, như trong một trần chợt hiện các pháp. Nhưng một lớp một hạt châu hiện ra nơi các hạt châu mới thành nghĩa trùng trùng. Hạt châu sáng sạch như trần xứng tính, một hạt châu hiện ra nơi nhiều hạt châu, cũng như một trần hiện ra nơi nhiều hạt châu, cũng như một trần hiện ra nơi nhiều sát trần. Bóng hạt châu được hiện ra nơi nhiều sát trần. Bóng hạt châu được hiện ra lại có thể hiện bóng, như sát trần trong trần lại có thể hiện cõi nước, lớp lớp bóng hiện rõ ràng nên nói là vô tận.

Giải thích:

Trùng trùng vô tận là mỗi pháp đều hàm chứa tâm chân như, lý tính vô tận cho nên lớp lớp bao trùm lẫn nhau. Như kinh Vô Tận Ý Bồ-tát ghi: “Vô Tận Ý nói: Nhờ nhất niệm huệ mà thành tựu vô thượng chính đẳng chính giác tôi nên giác liễu phân biệt như thế. Này Xá-lợi-phất, đây gọi là Bồ-tát nhất đạo vô tận”. Lại kinh Bồ-tát Anh Lạc Bản Nghiệp ghi: “Này Phật tử, pháp môn đó là thập tín tâm, là gốc của tất cả hạnh. Thế nên một tín tâm trong mười tín tâm có mười phẩm tín tâm là trăm pháp minh môn. Lại từ một tâm trong trăm pháp minh tâm có trăm tâm là nghìn pháp minh môn. Lại từ một tâm trong nghìn pháp minh tâm có nghìn tâm là muôn pháp minh môn. Như thế tăng tiến đến vô lượng minh cùng tiến lên thượng pháp, cho nên gọi là minh minh pháp môn bách vạn a-tăng-kỳ công đức; tất cả hạnh đều vào minh môn này.

Giải thích:

Tại sao vào minh môn này ? Vì tự tâm sáng suốt, vì hay thông muôn pháp nên gọi là môn, như Đế châu sáng sạch bóng hiện trùng trùng, cũng như trần sát tính sáng sạch có thể hàm chứa muôn pháp.

Như kinh Quán Phật Tam-muội Hải ghi: “Phật bảo A-nan: Thiện pháp đó là vô lượng thiền định, các pháp niệm Phật đều từ tâm tưởng sinh, đây gọi là công đức tạng”.

Tạp Hoa Nghiêm Kinh Nhất Thừa Tu Hành Giả Bí Mật Nghĩa Ký ghi: “Duyên khởi đà-la-ni là một khởi thì tất cả khởi, thấy một là thấy tất cả, cho nên tất cả các pháp bất khả thuyết bất khả thuyết. Trong một pháp có mười lớp lớp hiển hiện, những gì hiện ra trong một pháp này thì trong tất cả pháp cũng như thế. Thập trùng trùng hiển hiện vô tận vô tận như kinh Ma-ni Vũ Bảo có nói về thập bất khả thuyết thập vô tận, dùng đà-la-ni vô tận bảo này rưới xuống tất cả các báu thập bất khả thuyết thập vô tận. Trong các báu được rưới xuống lại tuôn xuống thập vô tận bảo, cho đến vô tận vô tận, nên gọi là nhân đà-la-ni. Trong đây nói rằng đà-la-ni chẳng có chỗ khác, không ra ngoài pháp thân của Đại Nhật Như Lai. Thân này là thân của tất cả chúng sinh, tổng trì thập bất khả thuyết thập vô tận pháp nên gọi là đà-la-ni. Trong thân này có tám thứ ngũ ma-ni. Nếu đứng về viên dung chẳng kể Phật với chúng sinh thì đều cùng viên dung hiển hiện không thể nói hết được. Phàm phu không hiểu nên chẳng được năm diệu dụng của căn, bậc Thánh hiểu nên được năm diệu dụng của căn. Được năm diệu dụng của căn gọi chung là hai thứ đà-la-ni, tức là căn bản nhân đà-la-ni và duyên khởi đà-la-ni.

Tám thứ ngũ ma-ni là:

1- Phía trên thân thể có năm thứ ma-ni: Một là mắt hai là tai, ba là mũi, bốn là lưỡi, năm là miệng.

2- Phía bên trái có năm thứ ma-ni: Một là ngón tay cái, hai là ngón tay trỏ, ba là ngón tay giữa, bốn là ngón tay vô danh, năm là ngón tay út.

3- Phía bên phải có năm thứ ma-ni: Tức là năm ngón tay bên tay phải.

4- Phía dưới bên trái cũng có năm thứ ma-ni: Một là ngón chân cái, hai là ngón chân trỏ, ba là ngón chân giữa, bốn là ngón chân vô danh, năm là ngón chân út.

5- Phía dưới bên phải có năm thứ ma-ni: Tức là năm ngón chân bên chân phải.

6- Toàn thân lại có năm thứ ma-ni: Một là đầu, hai là tay trái, ba là tay phải, bốn là chân trái, năm là chân phải.

7- Ngũ đại có năm thứ ma-ni: Một là địa (đất), hai là thủy (nước), ba là hỏa (lửa), bốn là phong (gió), năm là không (hư không).

8- Ngũ nội lại có năm thứ ma-ni: Một là tim, hai là phổi, ba là thận, bốn là tỳ, năm là gan.

Nói về nghiệp dụng:

1- Phía trên thân thể có năm ma-ni:

Một là mắt, hay phân biệt soi khắp các pháp thiện ác ở mười phương, thập vô tận Phật quốc độ vi trần số chư Phật, Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, thập bất khả thuyết thể tướng tâm hành. Lại soi thấy thập vô tận các việc khổ vui ở thế gian của thập bất khả thuyết chúng sinh. Quang minh bảo ma-ni vương này, nếu chẳng khéo sử dụng thì trong một sát-na chìm đắm trong luân hồi chịu khổ không cùng tận, nếu khéo sử dụng chỉ trong một sát-na rốt ráo vô thượng bồ-đề. Như một sát-na, tất cả sát-na cũng thế.

Hai là tai, hay phân biệt các âm thanh vui buồn ở thế gian, cùng âm thanh của bậc Thánh vô lậu. Quang minh bảo ma-ni vương này, nếu khéo sử dụng trong một sát-na rốt ráo vô thượng bồ-đề; nếu không khéo sử dụng trong một sát-na chiêu lấy quả khổ không có ngày thoát. Ba là mũi, hay phân biệt các thứ danh hương thế gian, các mùi thơm của thân thể chính báo cùng cung điện y báo của phàm Thánh, cùng các thứ hương trong thế gian như làm thiện làm ác, nghĩ thiện nghĩ ác, cho đến nghĩ đến vô thượng bồ-đề. Quang minh bảo ma-ni vương này, nếu khéo sử dụng trong một sát-na rốt ráo vô thượng bồ-đề, nếu không khéo sử dụng trong một sát-na chiêu lấy thập vô tận khổ.

Bốn là lưỡi, hay phân biệt diễn nói thập bất khả thuyết vô lậu diệu pháp của thập vô tận Phật sát trần số tất cả chư Phật, Bồ-tát, cho đến tất cả nghiệp hạnh thân khẩu ý thiện bất thiện ở thế gian. Quang minh bảo ma-ni vương này, nếu khéo sử dụng trong một sát-na cứu cánh vô thượng bồ-đề, nếu không khéo sử dụng trong một sát-na chiêu lấy quả khổ không có ngày ra khỏi.

Năm là miệng, hay phân biệt diễn nói thập bất khả thuyết ba nghiệp hạnh của thập Phật sát trần số chư Phật, Bồ-tát, cùng các pháp tà chính của thập vô tận chúng sinh. Quang minh bảo ma-ni vương này, nếu khéo sử dụng trong một sát-na rốt ráo vô thượng bồ-đề nếu không khéo sử dụng trong một sát-na chiêu lấy quả khổ không có ngày ra khỏi.

2- Phía trên bên trái có năm ma-ni, mỗi một ma-ni bao trùm thập bất khả thuyết pháp giới, hay tuôn ra thập bất khả thuyết các thứ mây trang nghiêm như áo trời, cơm trời, hương, hoa v.v… Quang minh bảo ma-ni vương này, nếu khéo sử dụng trong một sát-na rốt ráo vô thượng bồ-đề, nếu không khéo sử dụng trong một sát-na chiêu lấy quả khổ không có ngày ra khỏi.

3- Phía trên bên phải có năm ma-ni, cũng giống như bên trái.

4- Phía dưới bên trái có năm thứ ma-ni, hay khiến bay đi mười phương bất khả thuyết thập vô tận pháp giới, hư không giới Phật quốc độ hải, phụng sự cúng dường chư Phật. Dùng thần túc vô ngại này trong một sát-na đi đến thập bất khả thuyết tất cả chúng sinh giới để chỉ dạy họ vui vẻ hồi hướng Phật đạo không biết mệt mỏi. Quang minh bảo ma-ni vương này, nếu khéo sử dụng trong một sát-na rốt ráo vô thượng bồ-đề, nếu không khéo sử dụng trong một sát-na chiêu lấy quả khổ không có ngày ra khỏi.

5- Phía dưới bên phải có năm ma-ni, tuôn ra vô tận bảo cũng như bên trái.

Như trên nói trong mỗi một thân phận pháp giới pháp nhĩ thập trùng trùng, thập vô tận không cùng cực. Như phẩm Bất Tư Nghì ghi : “Tất cả pháp giới, thế giới đồng hư không đều dùng đầu lông đo lường khắp cả. Mỗi đầu lông ở trong mỗi một niệm biến hóa ra bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần thân, cho đến trong mỗi một pháp nói bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần danh cú văn thân, tất cả chúng sinh đầy trong pháp giới không ai chẳng nghe, tận thuở vị lai thường chuyển pháp luân. Đây là không gian thì dùng đầu lông bao trùm pháp giới, thời gian thì dùng sát-na tận nơi kiếp hải, nghĩa là ở chỗ này chợt khởi nghiệp dụng, nghĩa là ngay lúc này thường khởi nghiệp dụng, đây cũng không đợi nhân duyên chư Phật pháp nhĩ.

6- Toàn thân có năm ma-ni, nếu khéo sử dụng gọi là kim cương luân, nếu không khéo sử dụng gọi là địa ngục mãnh hỏa luân. Ma-ni phía trên gọi là nhật nguyệt tinh tú ma-ni, nếu khéo sử dụng không dấy sấm gió mây mù, nếu không khéo sử dụng thì hiện ra các việc không lành. Bốn thứ ma-ni còn lại gọi chung là Cự địch kiếm luân.

7- Ngũ đại ngũ ma-ni, gọi chung là trang nghiêm Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh.

8- Ngũ nội ma-ni, có mười nghĩa:

Một gọi là nhân-đà-la võng, thể có đủ năm loại châu, ý nghĩa trùng trùng vô tận.

Hai gọi là trấn quang pha lê, như chiếc gương pha lê chợt hiện vạn tượng.

Ba gọi là gương tròn sáng, ý nghĩa hiện khắp các pháp không phân biệt. Đây là hai gương hai tên gọi một nghĩa.

Bốn gọi là trăng tròn đầy, ý nghĩa mát mẻ giải thoát vì dập tắt ngọn lửa phiền não.

Năm gọi là lửa mạnh, ý nghĩa khiến cho không dư sót, vì như kiếp hỏa.

Sáu gọi là chày kim cương, ý nghĩa cự địch, vì phá tan giặc phiền não.

Bảy gọi là vàng diêm phù, ý nghĩa nguyên chất vô giá.

Tám gọi là vô giá ma-ni, ý nghĩa tuôn ra của báu vô lượng cũng không có gì sánh bằng.

Chín gọi là vô úy ấn, như cầm ấn vua trong tay đi đến đâu cũng không sợ.

Mười gọi là Đại Nhật Như Lai, ý nghĩa đoạt mất ánh sáng của trăm nghìn ức thập bất khả thuyết nhật nguyệt.

Lại nhân-đà-la võng, căn cứ vào ví dụ mà nói thì Võng chúa là Thiên chúa, do đời trước thập bất khả thuyết kiếp phụng sự cúng dường những vị vua Đế Thích, Phạm Thiên, nên được quả báo này. Dùng lưới báu này trang nghiêm thiên cung để giáo hóa các thiên chúng khiến họ biết tất cả nghiệp báo thiện ác. Các thiên chúng thấy việc này rồi, thảy đều chẳng buông lung mà siêng năng tinh tiến, bèn dùng lưới này để biết pháp môn thập vô tận trùng trùng pháp giới. Cho nên hiển bày thể đức đầy đủ năm loại châu, năm loại châu vô tận này năm lần năm là bộ, số nó vô lượng. Vì sao được y báo trang nghiêm ấy ? Do trong một niệm đem thập vô tận năm phần pháp thân đó là giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, cho đến diễn nói thập bất khả thuyết thập vô tận pháp môn hải, huân tu thân tâm mình cho nên được thập vô tận y báo ấy trong thế giới hải, thập bất khả thuyết chư thiên chúng đều trôi vào quả hải Đại Nhật Tỳ-lô-giá-na. Như một niệm, tất cả niệm cũng thế không cùng tận, đây gọi là thể đức đầy đủ năm loại châu.

Năm loại châu là bạch châu, xích châu, thanh châu, huỳnh châu, hắc châu. Một châu làm pháp gốc, gồm hết bốn loại châu kia.

Lại trong bạch châu hiện ra bốn loại châu còn lại và bóng của bạch châu bóng lại hiện bóng, như bạch châu hiện trong bóng, lại bóng hiện tất cả hạt châu cũng thế, như vậy thập trùng trùng thập vô tận không thể nói hết.

Lại bóng hiện các nghiệp thiện ác vô ký của chúng sinh đã tạo tác, đủ ngôi vị thượng trung hạ nhân quả mà các bậc Thánh vô lậu đã chứng. Như trong hạt châu trời hiện ra tất cả lầu gác cung điện, cột, kèo, xà ngang, rui, mè v.v… Khi ấy chư thiên trông thấy liền khởi tâm từ bi, tâm cứu hộ, trong ba nghiệp không có tâm xấu ác, siêng năng tinh tiến chẳng dám buông lung.

Lại trong hạt châu ngũ sắc tùy theo nghiệp chúng sinh hiện bóng. Trong bạch châu hiện nghiệp thanh tịnh chư thiên, trong xích châu hiện nghiệp vô ký, trong thanh châu hiện nghiệp ngạ quỉ súc sinh, trong huỳnh châu hiện nghiệp thiện thế gian không rời nhau phải luân chuyển trong nhân gian, trong hắc châu hiện nghiệp khổ địa ngục. Cho đến tám tướng thành đạo của chư Phật mười phương cũng đều trùng trùng ảnh hiện ở trong đó. Tâm như hạt châu ngũ sắc nhân-đà-la võng cũng thế. Trong đó có nghiệp thức tướng tế, trong chuyển thức hiện nghiệp thức tướng thô.

Khi mắt thấy sắc gợi tham thì gân mắt nổi màu vàng, màu vàng huân theo màu vàng của ngũ sắc ma-ni hiện ra, đây gọi là nghiệp tham hiện ra năm đường do nghiệp tạo tác.

Khi mắt thấy sắc đáng giận thì gân mắt nổi màu xanh, màu xanh huân theo màu xanh của ngũ sắc ma-ni hiện ra, đây gọi là nghiệp sân hiện ra năm đường do nghiệp tạo tác.

Khi mắt thấy sắc đáng ưa hoặc đáng ghét, biết hay không biết thì gân mắt nổi màu đen, màu đen huân theo màu đen của ngũ sắc ma-ni hiện ra, đây gọi là nghiệp si hiện ra năm đường do nghiệp tạo tác.

Khi thuần màu trắng là nghiệp chư thiên hiện ra.

Nói theo sự thật thì trong mỗi một nghiệp có đủ tất cả, như vậy trùng trùng vô tận, tức là đức dụng tự tại môn, là căn bản nhân đà-la-ni, đều là thật nghĩa chẳng phải biến hóa thành. Đây là như lượng cảnh giới trong trí đúng như lý, đều là thật đức pháp tính, pháp nhĩ như thị, thập trùng trùng tạng, thập vô tận tạng. Đây căn cứ vào pháp Viên giáo lấy số mười hiển trùng trùng cũng lấy số mười hiển vô tận.

Lưới trời này hay hiện tất cả bóng là ý nghiệp, hay tuôn ra tất cả báu là thân nghiệp, hay phát ra tất cả âm thanh là khẩu nghiệp. Nhưng tất cả pháp đều sinh ra từ trong quả hải và trở lại vào trong quả hải.

Nói theo sự thật chí lý thì người ở nơi đây chính là đang ở trong quả hải. Trong đây có ba: Một là đức dụng tự tại dụ như hạt châu, hai là biết căn hải, ba là như năm diệu dụng của căn.

Như trên đã nói, có ba hạng người biết căn hải này: Một là Phật, hai là Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, ba là phàm phu.

Thế nào là căn hải ? Nghĩa là biển trí tạng của Đại Nhật Tỳ-lô-giá-na. Trong biển này có ba thứ sóng, ba hạng người nói trên lần lượt có thể biết. Biển này xưa nay lặng lẽ vì sao có sóng ? Do chợt dấy một niệm gió vô minh sinh ra sóng. Thế nào là tướng sóng ? Ngọn gió vô minh này thổi động biển trí tạng sinh ra sóng. Ví như lấy chiếc nồi đựng nước trong đặt trên bếp lửa, lúc đầu nước dao động sủi bọt, dần dao động mạnh hơn nước chảy thành dòng, dần dần dao động hơn nữa nước trào vọt. Có vẻ tự nhiên theo gió hoặc phá hoại ngũ cỗc, cỏ cây hoặc nảy mầm ngũ cốc, làm chín các cây trái. Lúc sắp nổi gió, ban đầu phải có mây vần vũ bên ngoài, sau đó mới nổi gió lớn. Hoặc nó nhổ bật cả gốc rễ cỏ cây và ngũ cốc thì trên biển nổi mây đen. Hoặc nó phá hoại ngũ cốc tất cả cây trái mà chẳng nhổ cả gốc rễ cỏ cây thì trên biển nổi mây xanh. Hoặc làm ngũ cốc được mùa, hoa cỏ nảy mầm thì trên biển nổi mây trắng vàng. Hoặc nó phi thiện phi ác thì trên biển nổi mây đỏ sắc lành. Do ba thứ năng tri này đối với tướng cực nhỏ thì bậc thứ nhất biết, đối với tướng trung bình thì bậc thứ hai biết, đối với tướng cực thô thì phàm phu biết. Như vậy trong biển trí tạng Tỳ-lô-giá-na có ba thứ gió ba thứ sóng, bí mật khó biết. Bởi vì trong tự tâm của tất cả chúng sinh có tám cánh hoa hòa hợp thành hoa sen. Trong hoa sen này có biển chính biến tri, gọi là Tỳ-lô-giá-na trí tạng, còn gọi là Liên hoa tạng trang nghiêm thế giới hải. Biển này có ba loại sóng: Một là nghiệp tướng, hai là chuyển tướng, ba là hiện tướng. Nhưng biển liên hoa tạng này có hai môn: Một là đại tạng kim cương môn, hai là sai biệt kim cương môn. Hoa của phàm phu chưa nở, hoa của bậc Thánh đã nở. Hoa chưa nở này trên đài có chín lỗ gọi là sai biệt kim cương môn, trên cuống hoa có một lỗ lớn gọi là đại tạng kim cương môn.

Nghiệp chúng sinh sắp khởi phải từ gió đại tạng môn thổi lay động biển tâm, cho đến xuất hiện trong môn sai biệt trở về sau, năm căn mắt v.v… trên mặt cho đến tuôn chảy khắp trong các căn, chẳng biết tay múa chân giẫm hay tay quơ chân lắc, mới phát khởi vi tế, đây gọi là nghiệp tướng, cảnh giới của chư Phật. Dần dần xuất hiện môn sai biệt, chưa hiện diện mạo, đây gọi là chuyển tướng, cảnh giới của chư Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác. Sau cùng trên diện mạo các căn hiển hiện tướng thiện ác rất thô, đây gọi hiện tướng, cảnh giới của phàm phu. Nếu chư Phật hiện tại ở trong một sát-na biết rõ mười đời chín đời vô ngại, như một sát-na, tất cả sát-na cũng thế, đây gọi là biết căn hải.

Lại nơi lưới giăng ra gọi là cung điện, nếu phối hợp với pháp thì cung điện chính là chi mạt nhân-đà-la vô tận, năm thể đức đầy đủ năm hạt châu chính là căn bản nhân-đà-la.

Nếu bí mật giải thích thì Thiên chúa nhân-đà-la chính là thật tính trong thân tất cả chúng sinh. Ngày xưa do cùng đồng một nhân với Tỳ-lô-giá-na Như Lai và cùng đồng một thiện căn với các đệ tử lớn của Phật.

Lại thập bất khả thuyết tất cả thiên chúng này đều cho rằng thập bất khả thuyết đồng loại, thập vô lượng dị loại tam duyên lự thanh tịnh, còn những bất khả thuyết khác hiện ra nghiệp ảnh tạp nhiễm, tất cả đều là dục giới, đều là tâm tạp nhiễm.

Lại nói: Các thứ cảnh giới như quốc độ viên dung, thế giới hải sai biệt v.v… đều không ngoài tâm. Trong hông sư tử có năm hoa tạng xen lẫn vào nhau, thập trùng trùng thập vô tận, do nghịch thuận mà thành mười hoa tạng cũng như lưới nhân-đà-la hiện bóng lẫn nhau.

Lại nói: Năm hoa tạng, nhiều không quá sáu, ít không dưới bốn, tất cả ngũ bộ y theo đây có thể biết, tám ngũ tướng cũng như thế.

Năm hoa tạng là năm loại hoa sen: một là hoa sen trắng, hai là hoa sen đỏ, ba là hoa sen xanh, bốn là hoa sen vàng, năm là hoa sen đen. Năm hoa sen này đều từ vô sinh pháp nhẫn khởi, đều do đại bi thai tạng sinh. Tướng sắc của hoa này chính là hoa sen lớn năm màu ở trong hông sư tử, đây là tướng cõi nước thù thắng của sư tử mà trong kinh đã nói.

Một là căn cứ ngũ hành để giải thích sắc tướng:

1- Phế hoa: Ba cánh màu trắng tợ bán nguyệt.

2- Tâm hoa: Màu đỏ có ba góc.

3- Can hoa: Tám cánh màu xanh đủ ngũ sắc.

4- Tỳ hoa: Một cánh màu vàng có bốn góc.

5- Thận hoa: Tám cánh màu đen.

Hai là căn cứ ngũ đại:

1- Phong đại: Màu đen tợ bán nguyệt.

2- Hỏa đại: Màu đỏ có ba góc.

3- Không đại: Màu xanh đủ ngũ sắc.

4- Đại địa: Màu vàng có bốn cạnh.

5- Thủy đại: Màu trắng.

Hỏi: Tại sao sự phối hợp không nhất quán ?

Đáp: Phế gọi là kim. Kim thuộc hướng tây màu trắng, do trong phế có hơi thở nên gọi là phong. Thận gọi là thủy. Thủy thuộc hướng bắc màu đen, do có thận làm thủy, nên hay hình thành vật thể, tính không trái nhau.

Năm hoa tạng này, nếu dị thể thì các hoa đều sai biệt, nếu đồng thể thì cùng trụ một mà ứng khắp. Vì trong các hoa đều từ một hoa ứng khắp nhiều hoa, nhiều hoa hoàn toàn là một hoa, thế nên hay có nhiều hoa, một hoa. Nhưng nhiều hoa, một hoa kia do một hoa ứng ra nhiều hoa. Tuy có đa nhất hoa, song đa nhất hoa ấy cùng với bổn nhất hoa thể không sai khác, cho nên gọi là đồng thể. Do vì trong môn duyên khởi có ba nghĩa:

Một là nghĩa không tương do, vì đầy đủ tự đức.

Hai là nghĩa tương do, vì sai biệt.

Ba là nghĩa vô ngại, vì bất khả thuyết.

Cho đến do duyên khởi này là thật đức của pháp giới, là cảnh giới công đức tự tại vô ngại Phổ Hiền, tức là viên mãn giáo chủ Đại Nhật Tỳ-lô-giá-na Như Lai dùng thân rộng lớn viên dung như thế ở trong thế giới hải trang nghiêm bằng liên hoa tạng rộng lớn viên dung mà nhiếp tất cả thế giới hải rộng lớn viên dung khác.

Lấy thập bất khả thuyết pháp giới hải ấy làm cảnh giới, ngồi tòa sư tử ma-ni liên hoa tạng rộng lớn viên dung hình bán nguyệt, thị hiện thân tướng uy nghi rộng lớn viên dung vô tận cùng nghiệp dụng sai biệt vô biên vô biên, như vậy trùng trùng vô tận vô tận mà Như Lai không vãng lai, không công dụng. Những việc này đều hiển hiện rõ ràng trong hải ấn tam-muội, cũng là pháp giới pháp nhĩ. Trống trời phát ra âm thanh như ma-ni tuôn báu tuy không công dụng vẫn có âm thanh. Như vậy sự hiển hiện tuy rộng lớn, nhưng luận về thời gian thì không lâu hơn một sát-na, luận về không gian thì không ngoài một hạt bụi. Như thế tất cả đều từ một sát-na hiện ra, như một sát-na tất cả sát-na cũng thế; như một hạt bụi tất cả hạt bụi cũng thế. Cho nên biết trong tâm đại hải này có tâm đại bồ-đề vô biên vô tận. Tâm này có tất cả pháp vô biên vô tận nên năng lực con người trong cõi Diêm-phù-đề không thể thọ trì. Trong phẩm Hải Vân Tỳ Kheo Sở Trì Tính Khởi có nói: “Dù lấy ngọn bút đỉnh núi Tu-di cùng nước mực bốn biển như bốn thiên hạ trần số chẳng thể vẽ, vì tâm tính vô tận, bậc trí chẳng nên tìm cầu viễn vong”.

Hỏi: Vì sao hoa sen có tám cánh ?

Đáp: Nghĩa là quả đức tam thừa thể nó chiếu khắp mà dụng nó chưa khắp nên nói rằng tám cánh. Nếu đức đầy khắp mười phương thì gọi là mười cánh. Nay căn cứ vào tứ nhiếp, tứ vô lượng nên gọi là tám cánh. Một cánh biểu thị nhất thật, năm cánh biểu thị năm thừa.

Lại nội tâm biện chính bát, hòa hợp làm thể của hoa sen nên gọi là tám cánh. Lại tất cả tâm phàm phu tuy chưa tự biết song nội tâm của họ cũng tự nhiên có tám cánh hợp thành hình hoa sen. Nay chỉ soi thấy tâm này khai mở tức là tam-muội bảo. Nếu thấy hoa tâm tám cánh này liền tương ưng với lý. Tám cánh này có bốn cánh tiêu biểu cho tứ nhiếp, bốn cánh tiêu biểu cho tứ trí của Như Lai. Hoa này xưa nay vô sinh tức là tâm bồ-đề, nên biết tất cả pháp môn đều từ tâm mà có. Nếu hiểu như thế thì tâm hoa tự nhiên nở thường hay thấy Phật, như nói tâm khai ý giải chính là nghĩa này vậy.

Khai tâm là vào môn vô sinh. Lại trong tâm có bốn thứ ma-ni:

1- Nguyệt tạng: Là hàng Thanh văn. Nguyệt là nghĩa mát mẻ, do vì dập tắt ngọn lửa phiền não nên gọi là giới nguyệt tạng.

2- Nhật tạng: Là hàng Duyên giác. Nhật là nghĩa trí tuệ, do vì trí tuệ bén nhạy có thể làm khô cạn sông lớn mười hai nhân duyên nên gọi là huệ nhật tạng.

3- Ủy hoa bảo: Là Bồ-tát tam tạng tổng trì biện tài vô biên mới được Phật quả bảo, nên Bồ-tát như ngu như ngốc. Phàm phu không biết mà biết như hoa mới nở, Bồ-tát biết mà không biết như hoa héo tàn, nên gọi là ủy hoa bảo.

4- Bảo tịnh: Là chư Phật, ma-ni bảo thanh tịnh, quang minh thành tựu nên gọi là bảo tịnh.

Các bảo trong đây, phàm phu ngu si đối với các bảo không thật chẳng biết được, cần phải thử rồi mới biết là thật bảo. Ví như có bốn thứ lửa than như già-đà-la v.v… ném vào trong đó để thử. Đem nguyệt tạng ném vào trong lửa tuy không ra hay ra khỏi lửa đều đổi sắc nên biết là chẳng phải thật bảo. Lại đem nhật tạng ném vào trong lửa, ở trong lửa thì đổi sắc, nhưng khi ra khỏi lửa thì trở lại sắc cũ nên biết là chẳng phải thật bảo. Lại đem ủy hoa bảo ném vào trong lửa, tuy không ra hay ra khỏi lửa đều không đổi sắc nhưng cũng có mất màu chút ít nên biết là chẳng phải thắng bảo. Lại đem bảo tịnh ma-ni bao ném vào trong lửa, tuy không ra hay ra khỏi lửa đều không đổi sắc mà còn tuôn mưa báu vô tận. Hai bảo trước là hạ bảo, một bảo giữa là trung bảo, một bảo sau là thắng bảo.

Như thế bốn thứ chân ma-ni trong tâm, thử xem nó thật hay không thật làm sao biết được có vô lượng tử ma. Đem Thanh văn ném vào địa ngục tiêu khiếu, tuy chẳng ra hay ra đều sinh tâm nhàm chán vì thế biết là tính hạ liệt. Lại đem Duyên giác ném vào địa ngục đại khiếu hoán, ở trong đó sinh tâm nhàm chán, khi ra khỏi địa ngục thì được bản tâm. Lại đem Bồ-tát ném vào địa ngục thiêu nhiệt tuy ra hay không ra đều không biến đổi, nhưng sự cung kính bậc thiện tri thức dần dần có giảm nên biết tuy bất biến vẫn có mất chút ít. Lại đem Phật ném vào địa ngục a-tỳ, tuy ra hay không ra đều bất biến cũng không có tâm sợ hãi, mà lại cúng dường thiện tri thức, độ chúng sinh, thị hiện tám tướng không nghỉ ngơi, thường thay thế tất cả chúng sinh chịu những khổ não trong các đường không sinh tâm nhàm chán, như ngựa báu của Luân vương trong một sát-na đi khắp bốn thiên hạ, trong tất cả thời, trong tất cả sát-na chư Phật đi khắp cõi nước như vi trần không nhàm chán.

Lại nói: Tất cả chúng sinh từ xưa đến nay đồng một thật tính tướng, lúc giác không tăng, khi mê chẳng giảm, bất luận phàm Thánh, chỉ là tính tướng thiện xảo của Đại Nhật Tỳ-lô-giá-na. Lúc vọng niệm không thay đổi, khi là phàm phu thiện ác vô ký, tất cả phiền não vọng tưởng, tất cả các pháp như cõi nước, núi sông, cát đá ngói gạch, cây cối tùng lâm, các loài cầm thú mạnh yếu ăn nuốt lẫn nhau, con trống con mái dâm dục giành giựt nhau trong hang, thế gian nam nữ trộm cắp cướp đoạt, tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi tàn sát lẫn nhau, cho đến tất cả tính tướng pháp ác đã sinh, hiện sinh, chưa sinh, cho đến tất cả pháp thiện đã làm, hiện làm, chưa làm, cho đến ngọc bích vàng bạc đồng sắt, chân châu, tất cả hoa hương, tràng phan, bảo cái, cung điện, lầu gác, tất cả mọi vật tượng được sử dụng đều là đức dụng độ sinh của Đại Nhật Tỳ-lô-giá-na, toàn là thân vân pháp giới này. Vì sao ? Nếu lìa ngoài tướng này chư Phật dùng phương tiện gì để hóa độ chúng sinh. Thế nên một pháp trong pháp giới đều là pháp của chư Phật, nhưng tất cả phàm phu trái với các tướng sai biệt khởi lên các dị kiến, do bất giác chợt khởi vô minh, chấp các dị kiến, như trong kinh nói, y theo chính luận giải thích, chỉ là một phương tiện thiện xảo quanh co trở thành hoa tạng nương tựa, trong một cánh hoa hiển bày mười Phật để cho biết. Tướng tuy muôn vàn sai khác mà đều là mười thân tạo tác của Tỳ-lô-giá-na, mười thân sai biệt có nhiều cơ cảm.

Lại Duyên khởi đà-la-ni có hai:

1- Tịnh duyên khởi như ao nước trong dậy sóng.

2- Nhiễm duyên khởi như dòng sông đục dậy sóng.

Trong đục tuy khác nhưng tính ướt không khác như tịnh duyên nghịch dòng trong đất Thánh, nhiễm duyên thuận dòng trong cõi phàm, phàm Thánh tuy khác mà nhất tâm lặng lẽ. Đây là căn cứ vào mê ngộ dường như phân chia, nhưng nếu trực liễu nhất tâm toan thành tính khởi, không còn tên phàm Thánh, đâu có nói đục trong.

Hỏi: Tác dụng của năm căn đều gọi là quang minh bảo ma-ni vương hay tuôn các báu, căn khí của phàm phu cũng thế chăng ?

Đáp: Kinh nói: Lục tự tại vương thường thanh tịnh, do đó gọi là vương. Vương là nghĩa tự tại, thế nên nhãn căn hồn nhiên thấy sắc tự tại vô ngại. Kinh nói: Ví như ánh mắt chiếu rọi tiền cảnh, ánh sáng viên mãn không có sự thương ghét. Lại thường ở nơi hiện lượng bản tính không thay đổi, há chẳng phải như vua thường được tự tại sao ?

Ma-ni là nghĩa tuôn châu báu. Như nói lúc chạm vào mắt như nghìn mặt trời chiếu muôn hình tượng không thể nào tránh cái bóng của nó, đâu chẳng phải là nghĩa rưới châu báu sao ?

Lại nói: Con mắt phóng ánh sáng chiếu phá núi sông thế giới, chẳng phải nghĩa phóng quang sao ? Đây là soi tỏ chỗ huyền diệu, nhìn suốt chỗ sâu kín, năm căn theo dụng cũng như thế. Cho đến ý căn một niệm biết nghìn dặm không chướng ngại, như nói lúc chạm vào ý quét sạch phân biệt chiếu soi vạn vật chẳng hết, thấu qua vách đá núi sông. Vả lại lúc chiếu mà thường tịch diệt, cho nên biết rằng lục căn thanh tịnh vẫn đồng chính giác, người trí vô vi, kẻ ngu tự buộc. Có thể gọi là thân bảo tạng, tâm minh châu chẳng nói chẳng biết uổng chìm trong biển khổ, đó là lý do khiến bậc tiên Thánh xót thương.

Lại pháp được đặt ra dụ cho những kẻ chưa tin, đây là thế gian ma-ni sánh với châu báu trong tâm mình, như đem biển cả sánh với sự sâu rộng của tâm mình. Vả lại, ma-ni là sắc pháp chất ngại đâu đồng với pháp tài cao quí vô tận. Biển cả có sóng làm giới hạn đâu thể sánh bằng tính nước tinh nguyên vô cùng tận, đây là sự so sánh đại lược. Có thể nói trời đất cách xa, tìm muôn trượng mà chưa được hào ly, chỉ trăm phần mà mới nói được một hai, chớ có tự hạ mình không dám đảm đương.

8/ Thác sự hiển pháp sinh giải môn:

Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Trăm nghìn ức na-do-tha bất khả thuyết Bồ-tát chúng trụ nơi cung Đâu-suất vì từ pháp siêu việt ba cõi sinh ra, do lìa các phiền não sinh ra, tâm vô ngại cùng khắp sinh ra, pháp phương tiện sâu xa sinh ra, trí rộng lớn vô lượng sinh ra, lòng tin kiên cố thanh tịnh sinh ra, thiện căn bất tư nghì sinh ra, thiện xảo biến hóa a-tăng-kỳ thành tựu, tâm cúng dường Phật hiện ra, pháp môn vô tác được ấn định”.

Giải thích:

Trên đây đều nói về nguyên nhân. Lại nói: Vượt qua sự cúng dường chư thiên là cúng dường chư Phật tức là nói về nhiều quả. Kế đến một nhân thành một quả kinh nói từ ba-la-mật sinh ra tất cả bảo cái, nơi tất cả cảnh giới thanh tịnh của chư Phật sinh ra tất cả hoa trướng, vô sinh pháp nhẫn sinh ra tất cả áo, cho đến tâm hoan hỉ biết các pháp như giấc mơ sinh ra tất cả cung điện báu nơi Phật an trú. Vì vô sinh pháp nhẫn chỉ sinh ra áo v.v… nên nói là một nhân một quả. Sau cùng một nhân thành nhiều quả, nghĩa là chỉ nêu vô sinh làm nhân sinh ra các quả. Kinh nói: Vô trước thiện căn, vô sinh thiện căn sinh ra tất cả mây hoa sen báu, tất cả mây hương kiên cố, tất cả mây hoa vô biên sắc v.v… Tùy một sự tức là vô tận, huống chi một sự đều xứng tính nên đều là pháp giới vô tận, chỉ tùy một nghĩa để đặt tên. Như hiển bày viên minh thì gọi là bảo, như nói tự tại thì gọi là vương, như nói nhuận ích thì gọi là vân. Cho nên thế giới kim sắc tức là bản tính, lầu gác Di-lặc là pháp môn, núi đao rừng lửa của Thắng Nhiệt Bà-la-môn là Bát-nhã, trí vô phân biệt v.v… đều là việc ấy. Vì mỗi một sự đầy đủ pháp vô tận, nên lập ra đức cụ túc vô tận chẳng ngoài điều này.

9/ Thập thế cách pháp dị thành môn:

Vì thời gian không có thể sai biệt, nương vào hình ảnh hoa sen để lập nhất niệm nhiếp khắp, thập thế dung thông. Do đó thấy nở hoa là mùa xuân, kết trái là mùa hè, tàn tạ là mùa thu, tiềm tàng là mùa đông, đều do sự vật mà biết bốn mùa.

Lại nhất niệm cửu thế thành thập thế, cửu (chín) căn cứ theo nghĩa, nhất (một) căn cứ theo thật thể, vì thể dụng tương dung nên thường cửu thường nhất không chướng ngại. Thể dụng tương đoạt, lìa tướng cửu nhất nên đồng quả hải. Ngày nay dung thông vô ngại tự tại đại khái có bốn lớp: Một là tương dẫn câu tận, hai là tương dữ lưỡng tồn, ba là tương tùy hỗ nhiếp, bốn là tương thị hỗ tức.

Trong lớp thứ nhất, kể từ gốc đến ngọn chỉ có sự không có lý; từ ngọn về gốc chỉ có lý không có sự.

Trong lớp thứ hai là lý của toàn sự, chẳng phải sự nên nhất tướng không thời gian; là sự của toàn lý, chẳng phải lý nên cửu thế chẳng loạn.

Trong lớp thứ ba, vì lý theo sự nên một thời dung chứa tất cả thời; do sự theo lý nên tất cả thời theo lý vào trong một thời, nhiều và một trái với trên nên biết hỗ nhập.

Trong lớp thứ tư, do sự tức lý nên khiến một thời là tất cả thời; do lý tức sự nên khiến tất cả thời là một thời. Chỉ có lý không có vật nên có thể tương tức tương nhập. Chỉ có sự ngại nhau nên không thể tức nhập. Bởi vì sự lý theo nhau vô ngại mới có tức nhập, hãy suy xét sẽ thấy.

Lại như Thiện Tài một đời có thể biết được sự tu hành nhiều kiếp như tiên nhân Tỳ Mục chắp tay có sức mạnh của bậc thiện hữu trong nháy mắt. Hoặc có Phật được thấy trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp tu hành không mỏi mệt, sao một đời mà không trải qua nhiều kiếp ? Vì sức của tiên nhân dài ngắn tự tại. Như Thế Vương Chất gặp tiên nhân Kỳ-linh-phủ-kha-lạn ba năm cho là trong bữa ăn, có thể lấy dài làm ngắn, cũng có thể lấy ngắn làm dài. Như Châu Mục tùy theo người huyễn tuy trải qua nhiều năm mà thật ra chỉ trong chớp mắt, cho nên biết thế pháp, Phật pháp đều bất khả tư nghì. Thế pháp còn không thể lường huống chi Phật pháp, không nên lấy thời gian dài ngắn, nơi chỗ rộng hẹp mà định ý nghĩa.

10/ Chủ bạn viên minh cụ đức:

Phẩm Hoa Nghiêm Hiện Tướng ghi: “Bồ-tát My Gian Xuất Thắng Âm cùng xuất hiện với vô lượng quyến thuộc, là nhân quyến thuộc. Phật phóng quang minh giữa chặng mày, lấy vô lượng trăm nghìn ức quang minh làm quyến thuộc là quang minh quyến thuộc. Lại pháp giới tu-đa-la lấy Phật sát vi trần số tu-đa-la làm quyến thuộc, là pháp quyến thuộc.

Cho nên tất cả đều có quyến thuộc, nếu so với kinh khác thì chỉ là quyến thuộc, không phải chủ bạn.

Nay nói về quyến thuộc, căn cứ những sự việc trong kinh này lấy làm quyến thuộc, quyến thuộc là bạn nên chứng chủ bạn. Mười huyền môn của hoa sự này dụ cho những việc khác. Hoa đã thế thì một trần cũng vậy. Mười môn trên hoa chỉ căn cứ theo sự mà nói, nghĩa là trên hoa sự, nhất thiết sự, đồng thời cụ túc sự, quảng hiệp vô ngại sự, nhất đa sự, cho đến chủ bạn sự.

Hoa sự có mười nghĩa đồng thời mà còn đủ mười môn giáo nghĩa v.v… nghĩa là trên sự có giáo nghĩa đồng thời cụ túc giáo nghĩa, quảng hiệp giáo nghĩa, nhất đa giáo nghĩa, cho đến chủ bạn giáo nghĩa.

Lại giáo nghĩa đến cảm ứng đều có đồng thời v.v… làm trăm môn. Lấy sự sở y dụ cho sở y khác, nghĩa là sự pháp đã có trăm môn, nhị giáo nghĩa là trăm môn, cho đến cảm ứng đủ trăm môn nên có nghìn môn. Như giáo nghĩa v.v… có nghìn môn, dùng sở y dụ cho môn năng y cũng thành nghìn môn, nghĩa là trước lấy thể sự sở y làm đầu, nay lấy huyền môn năng y làm đầu, nghĩa là trong môn đồng thời có đủ đồng thời giáo nghĩa, đồng thời sự lý, đồng thời cảnh trí, cho đến đồng thời cảm ứng cho nên có mười môn. Trong môn đồng thời có đủ quảng hiệp v.v… Quảng hiệp này cùng có quảng hiệp giáo nghĩa v.v… nên thành trăm môn, hai là quảng hiệp đủ trăm môn giống như môn đồng thời, ba là tương nhập môn đủ trăm môn, bốn là tương tức môn đủ trăm môn, cho đến chủ bạn môn thứ mười đủ trăm môn nên làm thành nghìn môn.

Nhưng nghìn môn trước không khác nghìn môn sau, chỉ nêu ra đầu tiên mà trở thành sai khác. Nếu lớp lớp nắm lấy cho đến vô tận, kết thành vô tận.

Nói lớp lớp nắm lấy nghĩa là trong một môn đầu tiên có đủ mười. Trong mười nắm lấy một. Một này cũng phải có mười có trăm, có nghìn, bởi vì chẳng lìa nhau. Như một đã vậy, nghìn môn đều có mười cũng như thế thì có mười nghìn. Trong mười nghìn tùy theo nắm lấy một cũng có mười nghìn. Như một nghìn đồng tiền cùng làm duyên khởi, một đồng tiền là khởi đầu thì có một nghìn đồng tiền, những cái khác cũng như thế thì có nghìn nghìn. Trong nghìn nghìn tùy theo nắm lấy một cũng có nghìn nghìn, nên đến vô tận.

Lại nói về lớp lớp, trong một sự cũng có nhiều cảnh, trong một trí lại có nhiều trí v.v… lại chen vào nhau cũng vô tận. Dùng pháp môn cụ đức vô tận này chỉ có bậc thượng trí mới có thể vào cảnh giới Phổ Nhãn. Cho nên siêng năng tu hành chắc chắn sẽ được lợi ích lớn.

Hỏi: Lý do gì đặt ra Thập huyền môn ?

Đáp: Vốn là nhất tâm chân như diệu tính, lý vô tận, do vì thể dụng co duỗi, tính tướng tức nhập, lý sự bao trùm, duyên tính y trì, nghĩa chia nhiều loại, nói đại lược có sáu tướng, nói rộng ra có mười huyền, đây là đức tướng nghiệp dụng của chư Phật, Bồ-tát. Một hạnh một pháp đều có mười huyền, thảy đều vào Tông Cảnh, ý chỉ nhất tâm vô tận.

Như Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa ghi:

1- Đồng thời cụ túc tương ưng môn, vì là tổng quát nên xuyên suốt cả chín môn kia.

2- Quảng hiệp môn: Trong biệt, trước tiên nói về môn này, là duyên do của biệt môn. Do trong sự lý vô ngại ở trên, sự lý bao trùm nhau nên sinh ra các môn. Vả lại, căn cứ vào sự đúng như lý ở khắp nơi nên rộng, chẳng hoại sự tướng nên hẹp, cho nên bắt đầu cho sự sự vô ngại.

3- Do rộng hẹp vô ngại bao trùm nên có nhiều, vì tự hướng về đa nên có nhất đa tương dung. Tương dung thì hai thể đều còn, chỉ có lực dụng xen suốt.

4- Vì cái này dung cái kia nên cái kia là cái này. Vì cái này khắp cái kia nên cái này là cái kia v.v… cho nên có môn tương tức.

5- Do tương nhiếp nên có ẩn hiển, nghĩa là vì nhiếp tha tha sở kiến nên có môn tương nhập. Vì nhiếp tha tha vô thể nên có môn tương tức. Vì nhiếp tha tha tuy còn mà không thể thấy nên có môn ẩn hiển. Vì là môn riêng biệt nên ba môn này đều do tương nhiếp mà có. Tương nhập như hai chiếc gương chiếu nhau, tương tức như sóng với nước thâu nhau, ẩn hiển như mảnh trăng in bóng.

6- Do cái này nhiếp cái kia tất cả cùng nhiếp, do sự thâu nhiếp ấy nên có vi tế tương dung.

7- Do nhiếp nhau trùng trùng nên có đế võng vô tận.

8- Do đã như đế võng, vì tùy một là tất cả vô tận nên có môn thác sự hiển pháp.

9- Do tám môn trên đều là sở y. Pháp sở y đã dung hợp, tiếp theo mới nói về năng y, thời của năng y cũng như thế.

10- Do pháp pháp đều thế nên tùy nêu ra một liền làm chủ, liên đới duyên khởi nên có môn bạn chủ.

San Định Ký chia ra đức tướng nghiệp dụng đều riêng có mười huyền:

1- Đức tướng có mười huyền: Một là đồng thời cụ túc tương ưng đức, hai là tương tức đức, ba là tương tại đức, bốn là ẩn hiển đức, năm là chủ bạn đức, sáu là đồng thể thành tức đức, bảy là cụ túc vô tận đức, tám là thuần tạp đức, chín là vi tế đức, mười là nhân-đà-la võng đức.

2- Nghiệp dụng có mười huyền: Một là đồng thời cụ túc tương ưng dụng, hai là tương tức dụng, ba là tương tại dụng, bốn là tương nhập dụng, năm là tương tác dụng, sáu là thuần tạp dụng, bảy là ẩn hiển dụng, tám là chủ bạn dụng, chín là vi tế dụng, mười là nhân-đà-la võng dụng.

Cho nên biết rằng không có một pháp nào không có đủ vô biên tính đức chân như diệu dụng. Thế nên những lớp huyền môn này đường danh ngôn dứt, sự diễn giải theo trí để mở rộng sự hiểu biết chỉ chứng mới biết, chẳng phải phàm tình hiểu được. Nếu lúc thân chứng đều là cảnh hiện lượng, nơi nơi vào pháp giới, niệm niệm thấy Giá-na. Nếu hiểu theo văn nghĩa chỉ là thức ấm y thông, lúc đối cảnh thuận nghịch vẫn thành trệ ngại, gặp chỗ hỏi sai biệt đều rơi vào nghi tình. Như Hòa thượng Diêm Quan hỏi đại sư giảng Hoa Nghiêm: Kinh Hoa Nghiêm có mấy lớp pháp giới. Đáp: Nói sơ lược có mười pháp giới, nói rộng có trùng trùng vô tận. Diêm Quan dựng đứng cây phất tử nói: Đây là pháp giới thứ mấy ? Khi ấy đại sư cúi đầu suy nghĩ, sư liền quở: Suy mà biết, nghĩ mà hiểu đều là kế sống của ma quỉ. Mặt trời lặn chỉ có một ngọn đèn leo lét, quả nhiên không đủ ánh sáng.

Hỏi: Câu nghĩa sai biệt của môn tổng trì đà-la-ni số nhiều như Hằng sa, tại sao chỉ nơi nhất tâm thảy đều khai diễn ?

Đáp: Lìa tâm không nói, lìa nói không tâm, duỗi ra thì Hằng sa pháp môn, co lại thì nhất tâm diệu chỉ. Quyển kinh trong hạt bụi cả đại thiên mà chưa bày hết toàn văn, pháp môn Phổ Nhãn dốc hết biển cả mà chẳng chép một bài kệ. Như trống trời Đao-lợi diễn chân thuyên khôn lường, rừng báu Lôi Âm nói diệu kệ vô sinh. Trong cõi An Dưỡng nước chim đều nói pháp khổ, không, trong biển Hoa Tạng đài mây đều phô diễn viên chỉ.

Do đó kinh Hoa Nghiêm ghi: “Ví như chư thiên có trống pháp lớn gọi là giác ngộ, lúc các thiên tử buông lung thì ở trong hư không phát ra âm thanh: Các ông nên biết tất cả dục lạc đều vô thường, hư vọng điên đảo phút chốc biến hoại, chỉ dối gạt kẻ ngu làm họ mê đắm. Các ông chớ buông lung. Nếu buông lung sẽ đọa vào các đường ác, sau này hối hận không kịp.

Nghe những lời này, các thiên tử ấy cảm thấy lo sợ, bỏ hết những dục lạc nơi cung điện mình, đi đến thiên vương cầu pháp hành đạo. Này Phật tử, âm thanh của trống trời ấy vô chủ vô tác, vô khởi vô diệt mà có thể lợi ích vô lượng chúng sinh”.

Kinh A-di-đà nói: “Lại nữa Xá-lợi-phất, cõi ấy thường có các loài chim lạ kỳ nhiều màu sắc cùng sống chung như bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá-lợi, ca-lăng-tần-già. Các loài chim này ngày đêm sáu thời hót tiếng hòa nhã, diễn nói các pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ-đề phần, bát chánh đạo phần. Chúng sinh ở cõi ấy nghe âm thanh rồi đều niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng”.

Đây đều là đốn ngộ tự tâm, không còn pháp nào khác. Nhất tâm pháp giới này là thể chung của các kinh nên mười hai phần giáo do Như Lai nói chính từ trong tâm đại bi lưu xuất, tâm đại bi phát xuất từ hậu đắc trí, hậu đắc trí phát xuất từ căn bản trí, căn bản trí lưu xuất từ pháp giới thanh tịnh, tức là nguồn gốc không còn chỗ bắt đầu, không có pháp nào lìa pháp giới mà có. Môn nhất tâm này là vua trong một chữ, cũng gọi là một lời, cũng gọi là một câu.

Kinh Tư Ích ghi: “Phật đã nói các ông tụ hội phải làm hai việc như sau: Hoặc như hiền Thánh nói pháp, hoặc như hiền Thánh im lặng. Thế nào là nói pháp ? Thế nào là im lặng ? Đáp: Chẳng trái Phật, chẳng trái Pháp, chẳng trái Tăng đây gọi là nói pháp. Nếu biết pháp là Phật, lìa tướng là Pháp, vô vi là Tăng, đây gọi là hiền Thánh im lặng. Lại nữa thiện nam, nói Tứ niệm xứ là hiền Thánh thuyết pháp, không nghĩ nhớ tất cả pháp là hiền Thánh im lặng. Lúc nói pháp tâm khế hợp chân lý là không nói mà tai nghe rõ, chẳng phải ngậm miệng gọi là không nói”.

Kinh Nhập Phật Cảnh Giới ghi: “Phật dạy: Này Văn-thù-sư-lợi, chư Phật Như Lai không có người thấy, không có người nghe, không có người hiện tại cúng dường, không có người vị lai cúng dường. Này Văn-thù-sư-lợi, chư Phật Như Lai không nói các pháp đồng, không nói các pháp khác. Này Văn-thù-sư-lợi, chư Phật Như Lai chẳng chứng bồ-đề, chư Phật Như Lai chẳng phải nhờ một pháp mà được tên, cũng chẳng phải nhờ nhiều pháp mà được tên. Này Văn-thù-sư-lợi, chư Phật Như Lai chẳng thấy các pháp, chẳng nghe các pháp, chẳng nhớ các pháp, chẳng biết các pháp, chẳng giác các pháp. Này Văn-thù-sư-lợi, chư Phật Như Lai chẳng nói một pháp, chẳng dạy các pháp”.

Kinh Anh Lạc nói: “Dùng một câu kệ giáo huấn tám vạn bốn nghìn cõi nước”.

Kinh Đại Tập có kệ:

Bậc trí vô lượng, thật con Phật
Số nhiều như vi trần mười phương
Từng vô lượng kiếp thưa hỏi Phật
Chẳng hết nghĩa một chữ Như Lai.

Lại nói: “Có thể đem một chữ vào trong tất cả pháp, vì chúng sinh mà nói, đây gọi là Bát-nhã ba-la-mật không bờ mé”.

Kinh Tổng Trì nói: “Một lời Bát-nhã ba-la-mật có thể đáp cho muôn ức tâm”.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam-muội ghi: “Văn Thù nói: Nếu ai được nghe một câu giáo pháp liền hiểu được ý nghĩa của nghìn vạn câu, trăm nghìn muôn kiếp diễn nói, trí tuệ biện tài không thể cùng tận, đây gọi là đa văn”.

Kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu thấy Như Lai thường không nói pháp, đây gọi là cụ túc đa văn”.

Lại nói: “Mong được nghe ít hiểu nhiều nghĩa lý chứ không mong nghe nhiều nghĩa bất liễu” liền vào Tông Cảnh, hiểu thấu một điều thì nghìn điều có thể biết; tuy dẫn ra rất nhiều kinh chỉ để minh chứng nghĩa này. Bậc thượng căn một khi xem qua liền dứt nghi hoặc, bậc trung căn xem qua hai lần mới có thể đầy đủ niềm tin.

Do đó kinh Thắng Thiên Vương Bát-nhã ghi: “Phật lại bảo Bồ-tát Thiện Tư Duy: Thiên tử Hiền Đức đã từng trong quá khứ vô lượng trăm nghìn ức kiếp tu tập môn đà-la-ni, cùng kiếp nói pháp cũng không cùng tận. Bồ-tát Thiện Tư Duy bạch Phật: Bạch Thế Tôn, thế nào là đà-la-ni ? Phật nói: Này thiện nam, đó là các pháp chẳng vào môn đà-la-ni. Này thiện nam, môn đà-la-ni này vượt qua các văn tự, lời nói không thể vào, tâm không thể lường, các pháp trong ngoài đều bất khả đắc. Này thiện nam, không có một chút pháp có thể vào môn này cho nên gọi là các pháp chẳng vào môn đà-la-ni. Vì sao ? Pháp này bình đẳng không có cao thấp, cũng không có ra vào, không có một chữ từ ngoài vào, cũng không có một chữ từ pháp này ra. Lại không có một chữ trụ trong pháp này, cũng không một chữ cùng thấy nhau, cũng chẳng phân biệt pháp với phi pháp. Các văn tự này nói cũng không giảm, chẳng nói cũng không tăng, từ xưa đến nay không khởi tạo, không hoại diệt. Này thiện nam, như văn tự, tâm cũng như thế; như tâm, tất cả pháp cũng như thế. Vì sao ? Pháp lìa ngôn ngữ cũng lìa tư lương, vốn không sinh diệt nên không ra vào, đây gọi là các pháp chẳng vào môn đà-la-ni. Nếu có thể thông đạt pháp môn này thì biện tài vô tận. Vì sao ? Vì thông đạt không ngừng pháp vô tận. Này thiện nam, người có thể vào hư không chắc chắn vào môn đà-la-ni này.

Kinh Hoa Nghiêm phẩm Xuất Hiện ghi: “Này Phật tử, Bồ-tát Ma-ha-tát nên biết âm thanh Như Lai đến mọi nơi, vì vô lượng âm thanh này trùm khắp. Nên biết âm thanh Như Lai tùy theo tâm ưa thích khiến cho họ hoan hỉ nên nói pháp rõ ràng. Nên biết âm thanh Như Lai tùy theo sự tín giải khiến cho họ hoan hỉ nên tâm được mát mẻ. Nên biết âm thanh Như Lai cảm hóa đúng lúc, vì nghe được điều cần nghe. Nên biết âm thanh Như Lai không sinh diệt vì như tiếng vang. Nên biết âm thanh Như Lai vô chủ, vì tu tập tất cả nghiệp đã sinh khởi. Nên biết âm thanh Như Lai thậm thâm, vì khó thể đo lường. Nên biết âm thanh Như Lai không cong lệch, vì do pháp giới sinh. Nên biết âm thanh Như Lai không dứt mất, vì vào khắp pháp giới. Nên biết âm thanh Như Lai không biến đổi, vì đạt đến rốt ráo. Này Phật tử, Bồ-tát ma-ha-tát nên biết âm thanh Như Lai chẳng phải lượng chẳng phải vô lượng, chẳng phải có chủ chẳng phải vô chủ, chẳng phải chỉ bày chẳng phải không chỉ bày”.

Sớ thích ghi: Tóm lại mười loại âm thanh trên không ngoài ba thứ sau đây: Căn cứ vào tướng thì rộng vô lượng, căn cứ vào thể thì không có chủ tể, căn cứ vào dụng thì có hiển bày. Nay cả hai đều chẳng phải để hiển bày trung đạo, nghĩa là không cùng tận bờ mé nên chẳng phải lượng, tùy cơ tùy thời có nghe không nghe nên chẳng phải vô lượng, vì nhiều duyên tập họp nên chẳng phải có chủ, vì thuần một pháp giới sinh nên chẳng phải vô chủ, vì đương thể vô sinh nên không thể chỉ bày, vì khéo hiển bày nghĩa lý nên chẳng phải không chỉ bày.

Lại dùng bốn câu để nói về thể dụng vô ngại:

1- Vì dụng theo thể, do thể không gì không có nên khiến cho mười loại âm thanh trên đây đều bao trùm tất cả, không chỉ bao trùm âm thanh mà còn bao trùm mọi lúc, mọi nơi, chúng sinh, Như Lai, pháp giới v.v… Tuy bao trùm cả sắc v.v… mà hằng không tạp loạn. Nếu chẳng cùng bao trùm thì âm thanh chẳng phải viên âm. Nếu do cùng bao trùm mà mất đi âm điệu thì viên âm chẳng được âm thanh. Nay chẳng hoại âm điệu mà cùng bao trùm, chẳng động đến bao trùm mà sai vần điệu mới thành viên âm.

2- Vì thể theo dụng, mỗi một âm thanh đều bao hàm chân tính.

3- Vì dụng là thể, mười loại âm thanh trên đều bất khả đắc, vì chỉ có đệ nhất nghĩa lìa hẳn sở chấp nên pháp loa thường trổi diệu âm mà luôn thường tịch, gọi là âm thanh tịch tĩnh. Như tiếng vang trong hang trống có mà rỗng. Nếu không rỗng thì chẳng những mất một âm mà còn chẳng được viên dung tự tại.

4- Vì thể là dụng nên tịch mà hằng tuyên, như trống trời vô tâm mà ứng tất cả, như gió thổi qua nhiều lỗ trống phát ra âm thanh bất đồng. Nếu chẳng khắp đồng thì không những mất năng viên mà còn chẳng được chân nhất.

Cho nên kinh nói: Tất cả ngữ ngôn của chúng sinh đều chẳng lìa pháp luân Như Lai, vì sao ? Vì thật tướng của ngôn âm là pháp luân, thế nên ngôn âm chúng sinh đều không ngoài tính hư không. Vì tính ấy sẵn có nên pháp luân bao trùm khắp nơi không gián đoạn.

Chỉ Quán nói: “Quán tâm bao gồm tất cả giáo”.

Luận Tỳ-bà-sa nói: “Tâm hay đặt tên cho tất cả pháp, nếu vô tâm thì không có danh tự. Nên biết danh tự thế gian xuất thế gian đều từ tâm sinh khởi. Nếu quán tâm vắng lặng và thuận theo dòng vô minh thì có tất cả ác giác khởi, đó là chín mươi lăm tà kiến của các giáo phái Tăng-khư-vệ-thế sinh ra, cũng có các thiện giáo khởi lên. Ngũ hành, lục giáp, âm dương, bát quái, ngũ kinh, tứ sử, thế trí, vô đạo, danh giáo đều từ tâm khởi.

Thế nào là xuất thế danh giáo đều từ tâm khởi ? Luận Bảo Tính nói: Có một quyển kinh lớn như tam thiên đại thiên thế giới ghi chép những việc đại thiên giới. Loại trung bình như tứ thiên hạ, loại nhỏ như tam giới đều ghi chép các sự việc trong một hạt bụi. Một hạt bụi đã vậy, tất cả hạt bụi cũng thế. Một người xuất thế với thiên nhãn thanh tịnh thấy quyển kinh lớn này liền nghĩ: Tại sao quyển kinh lớn ở trong hạt bụi không lợi ích cho chúng sinh, liền dùng cách phá vỡ hạt bụi lấy quyển kinh ra để làm lợi ích người khác. Quyển kinh trí tuệ vô ngại của Như Lai có sẵn trong thân chúng sinh, nhưng vì điên đảo che lấp nên chẳng tin chẳng thấy, đức Phật dạy chúng sinh tu bát Thánh đạo để phá tất cả hư vọng, thấy rồi trí tuệ bằng với Như Lai. Đây là căn cứ vào hữu lấy vi trần làm ví dụ.

Còn căn cứ vào không lấy hư không làm ví dụ, luận Phát Bồ-đề Tâm nói: Ví như có người thấy Phật pháp diệt, liền đem mười hai bộ loại kinh của Như Lai chép giữa hư không đầy đủ rõ ràng, tất cả chúng sinh không ai biết. Mãi về sau lại có người dạo chơi nơi hư không thấy quyển kinh bèn than tại sao chúng sinh chẳng biết chẳng thấy. Người ấy liền chép lại để chỉ dẫn chúng sinh. Chép kinh như thế nào ? Nghĩa là khiến cho chúng sinh tu bát chính đạo phá hư vọng v.v… Tu có nhiều loại:

– Nếu quán tâm nhân duyên sinh diệt vô thường tu bát chính đạo đây là chép kinh Tam tạng.

– Nếu quán tâm nhân duyên khởi là không tu bát chính đạo đây là chép kinh Thông giáo.

– Nếu quán tâm nhiều phân biệt so đo, phàm phu Nhị thừa không thể lường, pháp nhãn Bồ-tát mới thấy được, tu vô lượng bát chính đạo này đây là chép kinh Biệt giáo.

– Nếu quán tâm là Phật tính, viên tu bát chính đạo đây là chép kinh Trung đạo. Rõ được tất cả pháp đều xuất phát từ trong tâm, tâm là đại thừa, tâm là Phật tính tự thấy rồi trí tuệ bằng với Như Lai.

Lại quán tâm tức giả tức trung, đây thuộc kinh Hoa Nghiêm. Nếu quán tâm nhân duyên sinh pháp sinh diệt đây thuộc kinh giáo bốn bộ A-hàm như sữa. Nếu quán tâm tức không đây thuộc kinh Bát-nhã như lạc. Nếu quán tâm nhân duyên sinh pháp tức không tức giả tức trung đây thuộc kinh Phương đẳng như sinh tô. Nếu chỉ dùng tức không tức giả tức trung đây thuộc kinh Đại phẩm như thục tô. Nếu dùng tức trung quán tâm đây thuộc kinh Pháp Hoa khai đại sự nhân duyên tri kiến Phật như đề-hồ. Nếu dùng bốn câu tương tức quán tâm đây thuộc kinh Niết-bàn đồng thấy Phật tính đề-hồ.

Nếu quán nhân duyên, lại quán nhân duyên là Phật tính, Phật tính là Như Lai đây gọi là giết người trong sữa.

Nếu quán tích không, lại quán tích không là Phật tính, Phật tính là Như Lai, đây gọi là giết người trong lạc.

Nếu quán tức không, quán tức không là Phật tính, đây gọi là giết người trong sinh tô.

Nếu quán giả danh, lại quán giả danh là Phật tính, đây gọi là giết người trong thục tô.

Nếu quán tức trung, lại quán tức trung là Phật tính, đây gọi là giết người trong đề-hồ.

Giết người là nắm lấy hai cái chết (biến dịch và phần đoạn sinh tử), dứt ba đường thanh tịnh cũng gọi là giết người, đây gọi là chỉ quán nhiếp giáo bất định.

Tâm nhiếp các giáo có hai thứ:

1- Trong tâm tất cả chúng sinh đầy đủ tất cả pháp môn, Như Lai soi xét tâm pháp kia thấy rõ tâm ấy nói vô lượng giáo pháp từ tâm ra.

2- Xưa kia Như Lai từng quán tâm đầy đủ thiên viên, nương theo pháp quán tâm này vì chúng sinh nói giáo hóa đệ tử khiến học theo Như Lai phá vỡ hạt bụi lấy quyển kinh, cho nên có chỉ quán nhất tâm nhiếp hết tất cả kinh giáo.

Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Nếu muốn tam thiên đại thiên giới,
Giáo hóa tất cả các quần sinh,
Như mây giăng bủa khắp tất cả,
Tùy sự ưa thích được hoan hỉ
Số Phật vô lượng mỗi đầu lông
Tâm vui chúng sinh cũng vô cùng
Tâm họ ứng hợp với pháp môn,
Tất cả pháp giới đều như thế.

Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa ghi: “Bậc chí Thánh răn dạy về nhất tâm huyền diệu, hàng đại sĩ diễn bày lời vi tế sâu xa. Tuy quên nhớ ý chỉ được thuyên bày mà biển văn nghĩa mênh mông, vì muốn gởi lại chút dấu vết để thấu được ý thú vô tận”.

Cho nên biết không có lời nói thì không có văn tự, không có văn tự thì không thể trình bày ý nghĩa, không có ý nghĩa thì không thể đạt đến sự huyền diệu. Do đó muốn đạt đến sự huyền diệu thì phải thấu được ý chỉ vô tận của Tông Cảnh. Ý chỉ đã vô tận thì chẳng nói chẳng biết.

Nay vì người chưa biết, chớ không vì người đã biết mà nói, hoặc thoát khỏi kiến giải sai biệt, dị chấp của các tông, hoặc không hữu trái nhau, lớn nhỏ tranh chấp. Đây là chưa đạt đến gốc chân lý, miễn cương nói dị đồng. Vào trong Tông Cảnh thì hơn thua đều dứt, như bẻ vàng từng đoạn đều là vàng, cắt cành ngọc từng khúc đều là vật báu.

Hỏi: Người tin vào pháp môn này có thoái thất không ?

Đáp: Tin có hai thứ:

1- Nếu chính tín bền vững, thấu hiểu vô ngại, lý quán rõ ràng, thừa giới đều gấp. Người như thế một đời đã xong việc, còn nói chi đến thoái thất!

2- Nếu tin đại khái, sức quán thô phù, tập khí nặng nề, ngoại cảnh mạnh mẽ thì gặp duyên liền thoái thất.

Luận Hoa Nghiêm ghi: “Kinh Niết-bàn nói nghe hai chữ thường trụ còn không bị đọa địa ngục trong bảy đời. Kinh Hoa Nghiêm nói cho dù nghe danh hiệu Như Lai cùng pháp Như Lai nói mà không tin hiểu cũng có thể thành chủng tử chắc chắn được giải thoát, cho đến thành Phật. Tại sao kinh nói trụ tâm thứ sáu và từ tín vị phàm phu vẫn có thoái thất ? Ý này dường như hòa hội!”

Giải thích: Trong Thập Tín sự thắng giải chưa thành, chưa được cho là được liền sinh kiêu mạn, không gần bạn lành, chẳng kính bậc hiền. Do kiêu mạn giãi đãi nên ở lâu trong trời người nghiệp ác liền khởi, hay thành tựu nghiệp đại địa ngục. Nếu một khi tin rồi không còn kiêu mạn, thường gần bạn tốt thì không có lỗi này. Nếu trong quyền giáo hàng trụ tâm thứ sáu có thể có thoái vị; trong thật giáo vì những kẻ dừng lại mà khiến trách cho họ tiến tu, như ngài Xá-lợi-phất thị hiện Thanh văn, thật sự chẳng phải Thanh văn, ngài tạm mượn phương tiện để độ chúng sinh khiến họ tiến tu.

Như bậc trụ tâm thứ sáu trong quyền giáo có thể nói là thật sự thoái thất, vì sao ? Vì bậc tam hiền địa tiên trong quyền giáo đều chưa thấy đạo, sự tu hành của họ thuộc hữu vi, họ phải chiết phục vô minh, do công phu kém nên dễ sinh thoái lui. Nếu chiết phục có đủ sức mạnh thì cũng không thoái thất, như rắn có nọc độc, nhờ sức thần chú nên nọc độc không thể phát tác. Chỉ cần ở trong Phật pháp gieo trồng lòng tin, khiêm hạ không kiêu căng kính thuận bậc hiền lương, đối với những kẻ ác tâm thường từ nhẫn, đối với kẻ hơn mình nên học hỏi những điều chưa nghe, vâng theo thực hành thắng pháp đã được nghe, y theo giáo diệt trừ những điều hư vọng, đối với đạo bồ-đề của ba thừa luôn tinh cần không dứt. Pháp nhân sinh, pháp hợp như nhiên, chỉ cần không tăng trưởng điều ác, đâu lo thoái thất ?

Hoa Nghiêm Sớ ghi: Thâm tâm tín giải thường thanh tịnh, nghĩa là tin phiền não là bồ-đề, mới là thường tịnh. Do xứng bản tính phát tâm bồ-đề, xưa nay là Phật, không còn chỗ tiến lên, như ở hư không nào có chỗ thoái lui ?