TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 26

Hỏi: Như trên nói diệu chỉ khó được nghe, làm sao dứt sạch hoài nghi, khởi niềm tin đầy đủ ?

Đáp: Sở dĩ nói khó tin, như nói trong một hạt bụi nhỏ chứa quyển kinh lớn như đại thiên. Người ta không tin cái lý thật tướng ở ngay tâm mình, không phải tìm đâu xa, nó gần bên mà không biết, nói mà không tin cho nên nói rằng khó tin. Thế nên cần phải có niềm tin lớn mới có thể dứt hết hoài nghi, đây là môn khó hiểu khó vào, là pháp khó tỉnh khó biết. Như trên đầu mũi kim có vô biên thân Bồ-tát, dùng cọng sen treo núi Tu-di, bất tư nghì trong bất tư nghì, tuyệt huyền diệu trong tuyệt huyền diệu. Do đó trong hội Pháp Hoa, ngài Thân Tử ba lần thỉnh, bốn chúng sợ hãi nghi ngờ, chẳng hạn như năm nghìn người chứng quả A-la-hán lui ra khỏi pháp hội khi nghe nói chỉ có pháp nhất thừa trong mười phương cõi Phật, khai quyền hiển thật, chỉ thẳng tự tâm; huống là những kẻ căn cơ hạ liệt đời mạt pháp này, nghiệp chướng sâu dày, kiến hoặc nặng nề, tình trần đầy ắp, lửa dục hừng hực mà có thể gánh vác việc lớn này chăng ? Thế nên khéo được môn này thì thành Phật chẳng lìa đương niệm. Nếu đánh mất tông chỉ thì tu nhân luống nhọc nhiều đời, chỉ do lòng tin, không có phương tiện nào khác, vì tin là gốc vào đạo, là mẹ các công đức.

Do đó Cổ đức nói: Sáng suốt thì công đức tăng trưởng ngay hôm nay, còn mê muội thì hết hi vọng trong nhiều đời. Hội ý chỉ thì năm núi dễ dời, trái tông thì lỗ kim khó lọt. Tông Cảnh Lục không phân biệt nội đạo, ngoại đạo lợi căn, độn căn, chỉ cần thấy nghe tin nhập đều chóng rõ nhất tâm, lý sự đầy đủ.

Như kinh Viên Giác nói: “Ví như biển cả không từ bỏ những dòng sông nhỏ, cho đến ruồi muỗi, a-tu-la uống nước ấy đều được no đủ”.

Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng: “Thâm tâm tín giải thường thanh tịnh”.

Người xưa giải thích: Tương ưng với lý mới gọi là thâm tâm. Nếu xưa nhiễm hay tịnh, tịnh này có trước sau, chẳng phải là thường tịnh. Tin phiền não tức bồ-đề mới là thường tịnh, vì do xứng bản tính mà phát tâm, nên xưa nay là Phật không còn tiến tu gì nữa như ở trong hư không thì tới lui chỗ nào! Thương xót chúng sinh mê muội nên khởi đồng thể đại bi, thương xưa kia không biết thệ nguyện mong chứng đắc. Vì có bi tâm nên không bị vô biên làm tịch lặng, vì có trí tuệ nên không bị hữu biên làm dao động; chẳng động chẳng tịch vào thẳng trung đạo, đây là phát tâm bồ-đề chân chính.

Lại nói: Tin thân Phật có tên gọi đồng với chúng sinh thì biết tên ta như tên Phật. Tin pháp môn của Phật tùy chỗ thích hợp lập bày thì biết vọng niệm, khổ, tập của mình cũng toàn là pháp môn. Tin ý nghiệp của Phật ánh sáng chiếu khắp nơi thì biết tự tâm không gì chẳng hay biết, tính chúng sinh đầy đủ tất cả nhân quả lý sự, như tính không phải vàng ngọc, dù có mài giũa cùng không thể thành đồ quý. Vì chúng sinh lấy tính đức làm thể, lấy trí hải làm nguồn nên cần phải khai thị. Do đó kinh Bát-nhã Văn-thù nói: “Nếu biết tính của ta thì biết không có pháp. Nếu không có pháp thì không có cảnh giới. Nếu không có cảnh giới thì không có chỗ nương. Nếu không có chỗ nương thì không có chỗ trụ . Khai thị như thế, tín nhập như thế gọi là câu nói chân thật, cũng gọi là câu nói kim cương. Vì không hư giả và có thể phá hoại nên nói là “nhĩ”.

Kinh Đại Tập nói: “Câu nói chân thật nghĩa là như một pháp, tất cả pháp cũng thế; như tất cả pháp, một pháp cũng như thế”. Lại nói: “Một tâm chúng sinh cũng như tất cả tâm chúng sinh đều bình đẳng gọi là câu nói kim cương”. Cho nên biết không có một pháp để được gọi là tin sâu, rắn chắc như kim cương không thể phá hoại, trong tâm không tin mới có thể thấy Phật. Nếu còn một pháp để tin là tà kiến, tất cả đều không tin mới thành niềm tin ấy.

Kinh Bát-nhã nói: “Nếu nghĩ đến tất cả pháp ắt không nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật. Nếu không nghĩ đến tất cả pháp ắt nghĩ đến Bát-nhã ba-la-mật. Hiểu như thế mới gọi là thâm đạt thật tướng, khéo nói pháp yếu. Do đó nói: “Không một pháp để được gọi là thâm đạt thật tướng”.

Kinh Pháp Hoa có kệ:

Nơi chư Phật quá khứ,
Tại thế hoặc diệt độ
Nếu có người nghe pháp,
Không ai chẳng thành Phật.
Chư Phật vốn thệ nguyện
Ta tu hành Phật đạo,
Đều muốn cho chúng sinh,
Cũng đồng được đạo này.
Chư Phật đời vị lai,
Dù nói trăm nghìn ức,
Vô số các pháp môn,
Thật ra là nhất thừa.
Chư Phật lưỡng túc tôn,
Biết pháp thường vô tính,
Phật chủng từ duyên khởi,
Thế nên nói Nhất thừa.
Pháp ấy trụ pháp vị,
Tướng thế gian thường trụ.
Nơi đạo tràng đã biết,
Đạo sư phương tiện nói,
Được trời người cúng dường.
Hiện tại mười phương Phật,
Số lượng như Hằng sa,
Xuất hiện nơi thế gian,
Vì an ổn chúng sinh,
Cũng nói pháp như thế,
Biết đệ nhất tịch diệt,
Do nhờ sức phương tiện,
Dù nói rất nhiều thừa
Kỳ thực chỉ Phật thừa.

Giải thích: Bổn sư dùng tướng lưỡi dài đến Phạm thiên diễn nói những lời chân thật phóng ra một vạn tám nghìn hào quang, hiện ra điềm lành hi hữu, cho đến mặt đất chấn động sáu cách, trời tuôn mưa bốn thứ hoa, âm thanh cười nói, khảy ngón tay nghe khắp cả mười cõi. Trăm nghìn thế giới chư Phật một đạo dung thông, dẫn chứng chư Phật ba đời đồng giải thích ý chỉ này, giao phó cho đại sĩ mười phương cùng hiển bày tông này. Cho nên mười phương tìm thật kỹ không còn pháp nào khác, luận về ngôi vị đây là ngôi vị tối thượng, luận về giải thích thì đây là giải thích đệ nhất. Có thể nói là chỗ trở về rốt ráo, nơi tu hành chân thật. Nếu chỉ chí tâm đọc tụng vẫn có linh cảm khó lường như lỗ lông tỏa hương tử đàn, lưỡi chuyển màu hoa sen hồng; huống là tin hiểu ngộ nhập tu hành đúng theo lời dạy, cúng dường thì phước hơn cả bậc Chính tri kiến, chỗ tu hành thì có thể khởi dựng tháp Như Lai. Việc lớn như thế ai mà chẳng nương về, ngoại trừ những kẻ ngu si thật sự khó tin nhận.

Phẩm Thần Lực có kệ:

Sau khi Phật diệt độ,
Người hay trì kinh này,
Chư Phật đều hoan hỉ,
Hiện vô lượng thần lực, 
Vì giao phó kinh này, 
Ca ngợi kẻ thọ trì,
Ở trong vô lượng kiếp
Cũng không thể cùng tận.
Công đức của người này
Thật vô lượng vô biên
Như mười phương hư không,
Rộng lớn không bờ mé.
Người hay trì kinh này
Thì đã được thấy ta,
Cũng thấy Phật Đa Bảo
Và thấy các phân thân.

Cho nên biết rằng chứng một chút linh trí này, lượng hơn cả thái hư vô tận như nhìn qua khe cửa thấy cả mười phương. Hiện thần lực để phó chúc vì sợ rơi vào văn chương chữ nghĩa. Phát hoan hỉ để khen ngợi, vì thế tinh thông ý chỉ. Nay kẻ tín sĩ có duyên gặp người chính giáo này, từ xa xưa sinh chướng sâu nghiệp nặng, chư Phật xuất thế mà chẳng thấy hào quang nhưng nhờ nghe Chính pháp như kẻ nghèo đói được bữa tiệc ngon. Lại nghĩ đến lời nguyện ngày trước có chút ít duyên lành nên trong đời mạt pháp tình cờ gặp được di giáo này. Đã vui mừng được gặp Chính pháp lại thương kẻ chưa được nghe nên bèn trình bày đại khái yếu lý để phổ biến cho hàng hậu học. Có thể gọi là đề-hồ nguyên chất mà chẳng hay chẳng biết, là diệu môn cam-lộ mà chẳng hỏi chẳng tin. Sự mất mát lớn như thế thật đáng sợ! Thế nên phẩm An Lạc Hạnh ghi: “Phật bảo đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Ở giai đoạn cuối khi Phật pháp sắp diệt, có người trì kinh Pháp Hoa này, trong hàng tại gia, xuất gia phát tâm đại từ, trong hạng chẳng phải Bồ-tát sinh tâm đại bi, phải nên nghĩ rằng: Những người như thế đánh mất hẳn Như Lai phương tiện tùy nghi thuyết pháp, không nghe không biết, không hay không hỏi, không tin không hiểu. Những người này tuy không hỏi không tin không hiểu kinh này, nhưng khi tôi được vô thượng chính đẳng chính giác dù họ ở bất cứ nơi đâu tôi cũng dùng sức thần thông, sức trí tuệ dẫn dắt họ được trụ trong pháp này”.

Giải thích: Trong hàng tại gia xuất gia sinh tâm đại từ là biểu thị môn phương tiện nhất tâm của Như Lai, lòng từ hay ban sự an vui, khiến cho chúng sinh tín nhập đồng chứng niềm vui bốn đức niết-bàn. Trong hạng chẳng phải Bồ-tát sinh tâm đại bi là những kẻ ngoại đạo tà kiến không chính tín, lòng bi hay xoá đi nỗi khổ, là biểu thị môn giải thoát nhất tâm của Như Lai, khiến cho chúng sinh ngộ giải hoàn toàn dứt hết cái khổ phần đoạn sinh tử và biến dịch sinh tử.

Bộ Tông Cảnh Lục về sau nếu gặp kẻ có duyên và có lòng tin, hoặc kẻ ngày đêm siêng năng nghiền ngẫm không mệt mỏi, lấy việc tỏ ngộ làm kỳ hạn, chẳng quản nhọc nhằn. Thế nên các bậc đại Bồ-tát đều nghĩ rằng trong quá khứ trôi nổi biển khổ làm những việc vô ích làm mất đi vô số thân không lợi ích. Ngày nay lại còn ở trong nghiệp ác sinh tử đều là vì không siêng năng tu hành trong đời quá khứ, nay gặp được chính điển này có thể gọi là tọa tham. Chỉ nhờ oai thần Tam bảo, chư Phật trợ giúp, không có những tai nạn, sớm được tâm khai, phổ cập tất cả chúng sinh trong pháp giới đều được tỏ ngộ như mình. Nên biết Viên tông khó gặp như hạt cải ném trúng đầu kim, Chính pháp khó nghe như rùa mù gặp được bọng cây. Nếu chẳng phải xưa kia đã huân tập chủng tử Đại thừa, lâu dài tích lũy căn lành thì làm sao gặp được sách này, được trực tiếp truyền thọ, cần phải vui mừng tiếp nhận từ ân của Phật.

Do đó người xưa hoặc có người trọng giáo khinh tài, xem thường vàng bạc, hoặc có người vì pháp quên thân, suốt đêm đứng trong tuyết. Vả lại, vàng bạc là của cải phù du ngoài thân, đâu thể sánh với kinh giáo. Mạng sống là nghiệp báo một thời đâu bằng chân thuyên. Thế nên nhờ nghe thâm kinh Bát-nhã để làm chủng tử đại thừa, liền được “thừa cấp”, thường nghe diệu âm, có thể lấy thân thể là tòa, thịt làm đèn quy mạng cúng dường, da làm giấy, xương làm bút để sao chép thọ trì.

Kinh Đại Niết-bàn ghi: “Phật dạy: Thiện nam, đối với thừa hoãn thì gọi là hoãn, đối với giới hoãn thì chẳng gọi là hoãn. Bậc đại Bồ-tát đối với đại thừa tâm không biếng nhác, kiêu mạn, đây gọi là bản giới. Để gìn giữ Chính pháp nên dùng nước đại thừa tự gột rửa, thế nên Bồ-tát tuy hiện phá giới mà chẳng gọi là hoãn”.

Chỉ Quán nói: Giới cấp thừa hoãn, nghĩa là sự giới nghiêm cấp mảy may không phạm nhưng ba thứ quán tâm hoàn toàn không thấu hiểu. Do giới cấp mà thọ sinh trời người, hoặc tùy theo thiền định mà sinh lên cõi trời sắc giới đam mê định lạc. Thế gian tuy có Phật thuyết pháp độ người song đối với họ đều không lợi ích. Cho dù gặp được cũng không thể thấu hiểu. Một nước Trung Hoa chẳng hay chẳng biết, ba ức Xá-vệ chẳng nghe chẳng thấy, ham thích chư thiên và sinh nơi biên địa không thể đến nghe pháp, là ý nghĩa này. Ví như người bị tù tội, dùng tài vật cầu xin các vị có quyền chức kéo dài ngày tháng hành hình để mong được ân xá. Ở trong trời người cũng thế, mong cho thiện tri thức hóa đạo tu đại thừa để có thể được giải thoát. Nếu những người này không tu đại thừa, quả báo nếu hết, trở lại ba đường ác, trăm nghìn đức Phật xuất thế cũng không đắc đạo. Nếu lý sự đều hoãn thì vĩnh viễn bị đọa địa ngục, mất đi quả báo trời người, thần thức tăm tối, không có kỳ hạn đắc đạo, luân hồi trầm luân không được độ thoát. Cho nên biết hàng tục gia bị câu thúc trong tù ngục tam giới, không cầu một niệm xuất ly mà tưởng như kẻ được thảnh thơi. Vậy cần phải sinh vào nhà Như Lai, gặp thiện tri thức lắng nghe Chính pháp, suy tư như lý, sự giới lý thừa song hành song chiếu thân luật tâm huệ cùng tập cùng trì. Vì giới cấp nên thọ thân trời người, vì thừa cấp nên tiếp nối ngôi vị Phật Tổ. Như thế mới hoàn thành bản nguyện chẳng phụ sơ tâm, có thể trên hợp từ lực, dưới đồng bi ngưỡng, khó gặp điều kiện tốt, lo sợ duyên sau, rất mong các bậc hiền chớ để hối tiếc về sau.

Lại lời văn ghi chép trong sách Tông Cảnh chỉ vì bậc căn cơ tối thượng, không phải vì những chúng sinh khác, chỉ muốn cho chủng tử Phật không gián đoạn, nghe những gì chưa nghe, thề báo từ ân, chẳng phụ bản nguyện, nếu vướng vào danh lợi thì chẳng phải căn cơ này.

Như Cổ đức giải thích có năm loại người chẳng phải căn khí trong giáo lý Hoa Nghiêm:

1- Trái chân nghĩa là không phát tâm bồ-đề, chẳng cầu xuất ly, nương dựa kinh để cầu danh cầu lợi trang sức ngã nhân. Kinh nói: Vì danh lợi mà thuyết pháp đây là nghiệp ma. Lại nói: Bất tịnh thuyết pháp đọa ác đạo v.v…

2- Trái chính nghĩa là dối hiện đại tâm, ngụy tạo tà thiện, gần thì mất báo trời người, xa thì trái với quả Phật, đọa vào ngục A-tỳ nhiều kiếp thọ khổ. Kinh nói: Quên mất tâm bồ-đề, tu các căn lành, đây là nghiệp ma.

3- Trái thật nghĩa là tuy không tà nguỵ nhưng tùy theo kiến chấp mà bám chặt kinh văn khiến cho đạo lý siêu việt hoàn toàn chẳng nhập tâm. Địa Luận nói: Nghe làm nghe hiểu không thể không nghe, lại như theo âm thanh mà chấp lấy nghĩa có năm lỗi v.v…

Ba ngôi vị trên đây đều là cảnh giới của chúng sinh phàm ngu. Kinh nói: kinh này không nên vào tay những chúng sinh khác, chỉ trừ Bồ-tát, vì kinh này chẳng phải là duyên làm chúng sinh lưu chuyển.

4- Hẹp hòi nghĩa là tất cả hàng Nhị thừa không có tâm rộng lớn. Kinh nói: Tất cả Thanh văn, Duyên giác không chịu nghe kinh này huống là thọ trì.

5- Giữ lấy phương tiện nghĩa là các vị Bồ-tát của tam thừa cộng giáo tu hành trong tự tông chưa mãn a-tăng-kỳ đầu tiên, đây cũng chẳng phải căn khí. Kinh nói: Đại Bồ-tát tuy vô lượng ức na-do-tha kiếp thực hành sáu thứ ba-la-mật, tu tập đạo phẩm, hoặc chưa nghe kinh này, hoặc nghe rồi mà không tin thọ trì tùy thuận, đây vẫn gọi là Bồ-tát giả danh.

Hỏi: Trong kinh Anh Lạc nói mười nghìn kiếp tu Thập Tín thì hạnh mãn, cớ sao trong đây nói vô lượng ức kiếp không tin kinh này ?

Đáp: Vì họ chỉ ở trong địa vị hành bố tu hành tín v.v… Đối với viên dung Phổ Hiền Thập Tín này một nhiếp tất cả vẫn chưa nghe tin, cho nên biết rằng không gặp được văn kinh này thì uổng công nhiều kiếp, vừa nghe ý chỉ này liền vào viên thông. Chỉ cần không vướng vào năm loại chẳng phải căn khí kia thì vĩnh viễn củng cố Phật chủng Nhất thừa, có thể thủ đắc, có thể tâm truyền, dặn dò kẻ hậu hiền không để mất pháp lợi. Nếu trong quá khứ đã từng nghe pháp này mà chưa được tín nhập thì dùng pháp lực huân tập mới khởi lòng nghi. Nếu chưa từng nghe thì hoài nghi không thể khởi.

Luận Nhập Đại Thừa nói: “Kẻ bạc phước chẳng sinh nghi, người hay nghi chắc chắn phá được các cõi”. Thế nên những chúng sinh chấp hữu đều do nhiễm tập, như mảy lông nhẹ bất định, nhơ sạch tùy duyên, như sợi tơ được nhuộm màu xanh vàng tùy ý. Sức huân tập này đều là cửa vào tam thừa, huống là nghe Tông Cảnh chóng phát chủng tử Nhất thừa. Chỉ cần kẻ có tâm huân tập đều được thành.

Luận Hoa Nghiêm nói: “Tất cả giếng suối trên thế gian đều lấy biển làm thể, nếu ai uống vào đều được vị của biển, một thể không sai khác, chỉ tùy theo nghiệp lực mà có vị mặn. Kinh này cũng thế, nếu chúng sinh có tâm đại thừa nghe rồi tin nhập liền được trí vị đại bi Phật tính pháp thân Như Lai. Kẻ xiển đề không thể gánh vác. Nhưng trí tính Như Lai thường làm cái nhân cho nên biết người đủ tín căn đại thừa nghe qua liền thành Phật. Còn kẻ chẳng tin là xiển đề. Tuy nhiên kẻ chẳng tin cũng huân tập chủng tử kia, cho nên nói trí tính Như Lai thường làm cái nhân”. Do đó kinh Pháp Hoa có kệ:

Nếu có người nghe pháp,
Không ai chẳng thành Phật.

Xưa kia có con sò nghe pháp mà sinh thiên, voi ở trong chuồng nghe kinh mà chừa việc ác, tỳ-kheo đùa giỡn mà được quả, người nữ tư duy mà ngộ lý không, huống chi nghe đốn giáo viên mãn trong Tông Cảnh.

Như Luận Thiện Kiến Luật ghi: “Xưa lúc Phật tại thế, ngài đi đến nước Chiêm-ba-la, bên bờ ao Ca-la, vì chúng nói pháp. Lúc ấy trong ao có con sò nghe âm thanh của Phật nói pháp bên bờ ao liền nhảy ra khỏi ao núp dưới bụi cỏ lắng nghe. Bấy giờ, có người cầm gậy đuổi trâu thấy Phật đang nói pháp liền đến chỗ Phật nghe pháp, vô tình chống gậy xuống đất trúng phải con sò, tức thời sò chết sinh lên cõi trời Đao-lợi. Do phước báo nghe kinh nên sò trở thành thiên tử có cung điện rộng đến mười hai do-tuần, vui chơi với các thiên nữ. Thiên tử ấy từ cung điện đến chỗ Phật đảnh lễ, đức Phật biết nên hỏi: Ngươi là ai mà lễ dưới chân ta, thần thông quang minh tướng hảo chiếu sáng ? Thiên tử dùng kệ đáp: Xưa kia làm thân sò, trong nước tìm thức ăn, nghe tiếng Phật nói pháp, ẩn núp dưới bụi cỏ, có một người chăn trâu, cầm gậy đến nghe pháp, chống gậy trúng đầu con, mệnh chung sinh lên trời.

Phật lấy bài kệ của thiên tử để nói pháp cho bốn chúng nghe. Khi ấy, tám muôn bốn nghìn người trong chúng đều được đạo tích, thiên tử được quả Tu-đà-hoàn mỉm cười và lui ra”.

Luận Đại Trí Độ ghi: “Ngày xưa có vị vua nuôi voi để đánh giặc, mỗi khi có quân địch thì voi được trang bị vũ khí chiến đấu, đánh đâu thắng đó, về sau các nước thù địch đều sợ hãi. Lâu ngày không có quân địch nên vua cho xây chuồng ở trong chùa để nuôi dưỡng voi. Con voi ở trong chùa nghe tăng chúng lễ niệm lâu ngày huân tập vào tâm những điều lành trở nên hiền thiện. Về sau có nước láng giềng xua quân xâm lăng, vua liền trang bị cho voi ra chống giặc, nhưng voi không chịu chiến đấu. Nhà vua buồn rầu lo sợ mất nước, quần thần thưa: Con voi này lâu nay ở trong tinh xá hàng ngày thấy nghe điều lành đã được giáo hóa rồi. Hãy cho nó ở lò mổ để thường thấy giết hại thì chẳng bao lâu tâm ác khởi trở lại”. Súc sinh còn như thế, huống là con người, gần thiện mà chẳng thiện, gần ác mà chẳng ác. Cho nên trong sách Nho cũng khuyên răn người quân tử hãy cẩn thận với thói quen. Nay nếu nghe Tông Cảnh huân khởi Nhất thừa rộng lớn khó lường, thiện lợi vô tận.

Kinh Tạp Bảo Tạng ghi: “Phật pháp bao la, tế độ vô biên, chí tâm cầu đạo thảy đều được quả, cho đến đùa giởn phước cũng không mất. Ngày xưa có tỳ-kheo tuổi đã già, tinh thần mụ mẫm, thấy các tỳ-kheo trẻ nói pháp, nghe đến bốn quả Thánh sinh lòng hâm mộ, bèn nói tỳ-kheo trẻ: Các thầy thông tuệ xin đem bốn quả Thánh cho tôi. Các tỳ-kheo trẻ nói đùa: Chúng tôi có bốn quả Thánh, nếu được ăn ngon chúng tôi sẽ cho ông. Khi ấy, tỳ-kheo già nghe thế rất vui mừng liền bày thức ăn ngon mời các tỳ-kheo trẻ ăn. Ăn xong còn vẫy tay trêu chọc tỳ-kheo già: Đại đức, ông hãy ngồi ở một góc nhà này, chúng tôi sẽ đem Thánh quả cho ông. Tỳ-kheo già nghe xong hoan hỉ làm y theo lời nói. Các tỳ-kheo trẻ liền lấy quả cầu da đánh lên đầu tỳ-kheo già mà nói đây là quả Tu-đà-hoàn. Tỳ-kheo già nghe xong hệ niệm không rời liền được sơ quả.

Các tỳ-kheo trẻ lại nói đùa: Tuy ông đắc quả Tu-đà-hoàn nhưng vẫn còn bảy lần sinh tử, nếu ông dời sang một góc khác, chúng tôi sẽ cho ông quả Tư-đà-hàm. Khi ấy tỳ-kheo già do đắc sơ quả nên tâm càng tăng tiến liền dời sang ngồi góc khác, các tỳ-kheo trẻ lại lấy quả cầu da đánh lên đầu ông mà nói chúng tôi cho ông quả thứ hai. Tỳ-kheo già càng thêm chuyên niệm liền chứng quả thứ hai.

Các tỳ-kheo trẻ lại nói đùa tuy nay ông đã đắc quả Tư-đà-hàm nhưng vẫn còn sinh tử một lần nữa, nếu ông dời sang ngồi góc khác chúng tôi sẽ ban cho ông quả A-na-hàm. Khi ấy tỳ-kheo già dời ngồi qua góc khác, các tỳ-kheo trẻ lại lấy quả cầu da đánh lên đầu ông mà nói chúng tôi cho ông quả thứ ba. Tỳ-kheo già nghe xong hoan hỉ, càng thêm chí tâm liền chứng quả A-na-hàm.

Các tỳ-kheo trẻ lại bông đùa, nay ông đã được quả bất hoàn, nhưng ở cõi sắc, vô sắc thọ thân hữu lậu, vô thường thay đổi hư hoại, niệm niệm là khổ, nếu ông lại dời chỗ ngồi, chúng tôi sẽ cho ông quả A-la-hán. Tỳ-kheo già làm theo lời nói, các tỳ-kheo trẻ lại lấy quả cầu da đánh lên đầu ông mà nói chúng tôi đã cho ông quả thứ tư. Bấy giờ, tỳ-kheo già nhất tâm tư duy liền chứng quả A-la-hán. Sau khi đắc bốn quả Thánh, tỳ-kheo già vô cùng hoan hỉ, bày các thức ăn ngon, các hương hoa dâng cúng các tỳ-kheo trẻ để báo ân đức, đồng thời cùng họ bàn luận về công đức vô lậu các đạo phẩm. Các tỳ-kheo trẻ nói năng ngắc ngứ, khi ấy tỳ-kheo già mới nói tôi đã chứng được quả A-la-hán. Các tỳ-kheo trẻ nghe câu nói này thảy đều xin tha thứ cho tội đùa giỡn trước kia”. Thế nên người tu hành cần phải nhớ đến điều thiện, cho đến đùa giỡn vẫn được thật báo, huống là chí tâm.

Kinh Tạp Bảo Tạng ghi: “Ngày xưa có một cô gái thông minh trí tuệ tin sâu Tam Bảo, thường đến chúng tăng thỉnh một tỳ-kheo đến nhà cúng dường. Sau đó, có tỳ-kheo già yếu chậm lụt dốt nát đến nhà cô gái. Khi tỳ-kheo thọ trai xong, cô gái chí tâm cầu thỉnh nói pháp, ông vẫn ngồi xếp bằng nhắm mắt tĩnh tọa. Tỳ-kheo tự biết mình không thể nói pháp liền bỏ cô gái mà chạy thật nhanh về chùa. Nhưng cô gái chí tâm tư duy pháp hữu vi vô thường, khổ, không, chẳng được tự tại, quan sát sâu xa liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Cô bèn đến chùa tìm tỳ-kheo ấy để báo ân, nhưng ông ta xấu hổ lại càng ẩn trốn. Biết cô gái tìm kiếm mãi vất vả nên tỳ-kheo buộc lòng xuất hiện. Cô gái thấy tỳ-kheo liền nói về nhân duyên đắc đạo quả, thiết trai cúng dường để báo ân. Nghe thế, tỳ-kheo hổ thẹn, tự quở trách, rồi cũng đắc quả Tu-đà-hoàn”.

Thế nên hành giả cần phải chí tâm chân thành cầu pháp, nếu chí tâm thì sở cầu ắt chứng. Những quả Thánh được chứng ở trên đâu phải do tiền nhân nói pháp thâm diệu mà đều do tự ngộ, từ tâm chứng đắc. Có thể nghiệm theo Tông Cảnh, người thông đạt không nghi.

Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán ghi: “Phật dạy: Hôm nay ta nói diệu pháp tâm địa dẫn dắt chúng sinh thể nhập Phật trí. Diệu pháp ấy chư Phật Như Lai trong vô lượng kiếp đều nói, cho đến nhân duyên khó thấy khó nghe như bồ-đề chính đạo, pháp môn tâm địa. Nếu có thiện nam, thiện nữ một lần được nghe diệu pháp này, trong chốc lát nhiếp niệm quán tâm, huân tập chủng tử vô thượng bồ-đề, chẳng bao lâu sẽ ngồi tòa báu kim cương dưới cội bồ-đề, được thành vô thượng chính đẳng chính giác”.

Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa ghi: “Bồ-tát Kim Cương Tạng nói: Này Phật tử, pháp môn này tập họp công đức của nhất thiết chủng, nhất thiết trí, cũng là kinh điển nói về Bồ-tát hạnh; nếu chúng sinh nào không trồng căn lành thì không được nghe. Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi: Nghe pháp môn này được bao nhiêu phước ? Bồ-tát Kim Cương Tạng nói: Như phước đức do nhất thiết trí tập họp, nghe pháp môn này phước đức cũng thế, vì sao ? Nghe pháp môn công đức này rồi tin hiểu thọ trì đọc tụng, huống là tinh tiến tu hành đúng lời dạy. Thế nên phải biết muốn được nghe pháp môn công đức do nhất thiết trí tập họp rồi tin hiểu thọ trì tu tập sẽ đạt đến nhất thiết trí”. Cho nên biết rằng nếu không nghe được pháp môn viên đốn oai đức rộng lớn bất tư nghì này thì do đâu tu hành chóng chứng nhất thừa rốt ráo quả đại niết-bàn thường lạc ngã tịnh! Do vì chúng sinh ở trong bất định tụ, nghe tiểu tu tiểu, gặp quyền tập quyền, không gặp được sách này nên bị tổn thất lớn. Nay biên tập sách này lợi ích rộng lớn, dù nghe mà không tu tập cũng làm thành chủng tử, huống là lắng nghe, suy ngẫm, tu tập!

Tiên đức nói: Nếu muốn lĩnh hội ngay chỉ cần không chấp các tướng liền được, không còn nói gì nữa. Phật là nghĩa tự tâm, cũng gọi là đạo, cũng gọi là giác. Giác là tính của linh giác. Nay tự soi xét lời nói, ứng cơ tiếp vật, nhướng mày liếc mẳt, huơ tay động chân, đều là tính của linh giác chính mình, cũng là tâm. Tâm là đạo, đạo là Phật, Phật là thiền. Một chữ Thiền phàm phu không sao lường được. Nếu biết các pháp từ tâm sinh thì không còn chấp. Chấp là chẳng biết. Nếu không thấy bản tính thì mười hai phần giáo là bịa đặt. Cho nên biết nhân giáo rõ tâm, vì sao lại chấp văn nghĩa ? Lại giáo từ tâm sinh tâm do giáo lập, lìa tâm không giáo, lìa giáo không tâm đâu ngoài tâm riêng có giáo để chấp thủ ?

Do đó Duy Thức Sớ ghi: Như môn đốn giáo, đại thừa chẳng từ tiểu thừa thì không có ba thời tuần tự trước sau chính là duy nhất tâm trong kinh Hoa Nghiêm, là lời nói đầu tiên lúc mới thành Phật. Lại nói: Các ngu phu từ vô thỉ đến nay do sự phân biệt hư vọng nên chấp lìa ngoài tâm nhất định có năng thủ sở thủ chân thật. Như Lai đại bi cho họ uống pháp cam-lộ để dứt tâm cuồng vọng, bỏ chấp có không, chứng chân liễu nghĩa. Trong kinh Hoa Nghiêm nói tất cả pháp đều là duy thức, do đó Phật chứng duy thức nói kinh nhất tâm để họ nương theo tu học.

Giải thích: Thiên Thân làm bài tụng thành lập kinh Phật để giúp người học biết rõ muôn pháp đều chẳng lìa tâm, tức là hiển bày nghĩa lý trung đạo đại thừa. Phải biết lòng tin trong viên giáo rất khó hình thành. Như Khởi Tín Sao hỏi: Lòng tin này nếu nói vốn có cớ sao chúng sinh chìm đắm trong mê ? Nếu nói vốn không thì dựa vào đâu phát khởi ? Đáp: Lòng tin này xưa nay chẳng phải có chẳng phải không. Vì chẳng phải có nên chúng sinh chìm đắm trong mê, vì chẳng phải không nên gặp duyên liền khởi. Nếu nói nhất định không thì phát khởi cái gì ? Nếu nói nhất định có thì đâu nhờ nhân duyên! Nhưng những điều nói trên đều là căn cứ vào nhân duyên mê ngộ mà nói, nếu luận về lòng tin này thì không tin tất cả pháp mới là tin, cũng chẳng phải phi hữu phi vô. Vì sao ? Vì chúng sinh không giác ngộ, dường như mê mà chẳng phải mê, chân tính không chìm đắm nên chẳng phải phi hữu. Vì nhất niệm lại vốn dường như ngộ mà chẳng phải ngộ, chẳng phải mới được nên chẳng phải phi vô, cho nên tự tâm khởi lòng tin trở lại tin tự tâm.

Vì sao khó tin tâm này ? Vì thể bản giác Như Lai là tâm chúng sinh. Chư Phật, Bồ-tát không thể thấy, vì thể bản giác Như Lai lìa tướng thấy. Nên biết rằng tâm chúng sinh miên mật cũng không thể thấy. Kinh Đại Phẩm nói: “Phật quán tâm chúng sinh, ngũ nhãn không thể thấy, vì không có tướng tự tha năng sở”. Người xưa có thơ:

Biển cạn nhìn thấy đáy,
Người chết chẳng biết tâm.

Lại nói:

Quen khắp cả thiên hạ,
Biết tâm được mấy người?

Cho nên thâm chỉ Tông Cảnh, diệu môn nhất tâm chẳng phải bậc đại trí thì không thể quán, chẳng phải hàng đại căn thì không thể tin. Quán đó liền đồng Phật trí, tin đó liền vào viên thông, chỉ cần chí thành không nghi thì nhất định thành tựu mọi việc.

Như Quản Tử nói: Vì lợi ích hiện tại, dù núi cao nghìn trượng cũng leo tới, sông sâu trăm thước cũng lặn thấu. Như thương nhân thông suốt giá cả bôn ba ngày đêm trên đường thiên lý vì cái lợi trước mắt. Như người đánh cá vào biển cả muôn nghìn nguy hiểm mà ngày đêm không chịu rời biển, chỉ vì cái lợi của biển. Đây là ý chí cần khổ cầu lợi của thế gian. Như quyết tâm cầu chí đạo ngày đêm quên mệt mỏi, chẳng hướng ngoại,  lắng đọng tâm tư, lặng lẽ tĩnh tọa trong thất, chỉ vì lợi ích nơi tâm. Như lợi ích hiện tại cầu đều được, huống là đạo tại tâm tin thì không gì chẳng được. Cho nên những lời giáo huấn không được bỏ qua, cần phải khắc cốt ghi tâm. Do đó Sở Trang coi thường đất nước nghìn cổ xe mà xem trọng một lời của Thân Thúc; Phạm Hiến chê ruộng muôn mẫu mà quí trọng lời nói của người lái đò. Đây là vì thành tựu gia nghiệp, xây dựng đất nước mà khinh của báu trọng lời nói, huống là ngay dưới lời nói trong Tông Cảnh khế hợp vô sinh, nghe rồi thành tựu đại đạo thì đâu thể xem thường ?

Hỏi: Nhất tâm đủ thật tính, phàm Thánh là hư danh, tại sao lúc làm phàm phu bị trói buộc trong các cõi, khi chứng Thánh được chân không giải thoát, bèn biết không những chỉ có danh mà còn có việc ấy ?

Đáp: Tuy có việc ấy nhưng cũng như việc trong mộng. Cho dù có danh nhưng đều chẳng phải danh của vật có được, cho nên biết mê với tỉnh đều không thật, danh với thể đều vắng lặng. Tịnh Danh Tư Ký ghi: Tướng pháp như thị làm sao nói được ? Nếu nói được thì nói rằng có một pháp để được, còn pháp để hiểu, vẫn là nghiệp sinh tử. Hiện nay chỉ muốn cho chúng sinh trừ tất cả kiến chấp, trong đây thấy không có ý nghĩa đặc biệt, cũng không có giải thích khéo. Như ban đêm người năm mơ thấy đủ thứ, đến khi thức dậy không có gì cả. Nay cũng thế, trong giấc mơ hư vọng nói có muôn pháp, nếu tỏ ngộ tính kia rốt cuộc không có một vật để được. Trong đây cũng chẳng nói chẳng dạy, cũng chẳng nghe chẳng được, thế nên loài dị sinh chẳng phải đọa vào phàm phu, chỗ mê muội hoàn toàn cũng không. Chư Phật chẳng chứng môn chân như, khi ngộ vô đắc thì chẳng thấy có một pháp để đoạn, chẳng có cửa sinh tử để ra; chẳng thấy có một pháp để thành, chẳng có lối bồ-đề để vào.

Kinh Tư Ích ghi: “Chư Phật xuất thế không vì giúp chúng sinh ra khỏi sinh tử để nhập Niết-bàn, mà chỉ vì độ hai kiến chấp sinh tử, niết-bàn”.

Kinh Hiện Bảo Tạng ghi: “Văn-thù-sư-lợi nói: Đại đức Ca-diếp, như người bị bệnh sốt nói năng mê sảng, trong đó làm gì có ma quỉ nhập vào. Có thầy thuốc giỏi cho người ấy uống thuốc bệnh sốt liền hết, không còn nói nhảm, trong đó có thể có ma quỉ xuất ra chăng ? Đáp rằng không. Cho đến thế gian bệnh sốt điên đảo như thế không có ngã, ngã tưởng; trụ ngã tưởng rồi trôi nổi sinh tử. Thế nên Như Lai xuất thế tùy theo các hình sắc mà thuyết pháp môn giải thoát. Nói pháp cho chúng sinh biết rõ ngã tưởng, dứt điên đảo. Chúng sinh nghe pháp liền diệt trừ tất cả tưởng, không còn chấp trước. Biết rõ ngã tưởng rồi vượt lên các dòng đến bờ kia gọi là niết-bàn, trong ấy có thể có ngã, chúng sinh, thọ mạng, người dưỡng dục và trượng phu để niết-bàn chăng ? Đáp rằng không! Văn-thù nói: Vì lợi ích này nên Như Lai xuất thế, chỉ vì hiển thị tướng bình đẳng, chẳng vì sinh, chẳng vì diệt mà chỉ vì biết rõ phiền não chẳng thật”.

Giải thích: Như Lai xuất thế chỉ vì hiển thị tướng bình đẳng, nghĩa là chấp lấy vọng khổ mà cầu thoát ly, mong cầu Thánh lượng mà muốn tu hành đều là vọng ngã tạo tác, tình thức phân biệt. Thế nên bậc Đại Hùng xuất hiện chỉ là biểu thị pháp môn chính tông phá vọng ngữ hiển chân ngã, bài xích tình thức để quay về tịnh thức. Chân ngã, tịnh thức chính là tướng bình đẳng, vì tịnh thức dứt phân biệt, chân ngã không tình chấp. Vì dứt phân biệt nên sai biệt tự mất, vì không tình chấp nên bình đẳng tự hiện.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Do ông từ vô thỉ tâm tính cuồng loạn, sự thấy biết vọng phát, phát vọng không dứt, mệt mỏi sinh ra trần lao. Như mỏi mắt sinh ra hoa đốm lăng xăng. Nơi tinh minh sáng suốt không do đâu loạn khởi tất cả núi sông đất đai trên thế gian sinh tử niết-bàn đều chính là tướng hoa đốm điên đảo”.

Kinh Đại Bát-nhã ghi: “Phật dạy: Này Thiện Hiện tất cả pháp đều lấy vô khởi vô tác làm mục tiêu. Các vị đại Bồ-tát không thể vượt qua mục tiêu ấy, vì sao ? vì trong vô khởi vô tác, thú hướng với phi thú hướng đều bất khả đắc”.

Kinh Đại Tập ghi: “Phật dạy: Nếu có Bồ-tát thành tựu phương tiện trí huệ tự nhiên cầu bồ-đề, trong năm ấm này vì như thật giác ngộ nên cầu bồ-đề. Bồ-tát biết sắc vô thường thực hành bố thí, cho đến thọ tưởng hành thức cũng như thế. Biết rõ vô thường nên thực hành bố thí, biết rõ khổ, biết rõ vô ngã, biết rõ căn cơ chậm lụt, biết rõ vô trí, biết rõ như huyễn, biết rõ như ngựa hoang, biết rõ như trăng đáy nước, biết rõ như giấc mơ, biết rõ như bóng, biết rõ như tiếng vang, biết rõ như vòng lửa quay, biết rõ không có ngã, biết rõ không có chúng sinh, biết rõ không có thọ mạng, biết rõ không thọ, biết rõ không chủ, biết rõ không dưỡng, biết rõ như hư không, biết rõ vô tướng, biết rõ vô nguyện, biết rõ vô tác, biết rõ vô sinh, biết rõ vô khởi, biết rõ vô xuất, biết rõ vô hình, biết rõ tịch tịnh, biết rõ ly, biết rõ vô thỉ, biết rõ vô chung, biết rõ đồng với hư không v.v… cho đến biết rõ như tính niết-bàn mà thực hành bố thí. Khi Bồ-tát bố thí như thế; vì lìa bố thí nên sự biết bố thí cũng lìa; vì lìa biết lìa nên sự biết bố thí cũng lìa; vì sự biết bố thí lìa nên sự biết nguyện cầu cũng lìa; vì sự nguyện cầu lìa nên sự biết bố thí nguyện cầu cũng lìa; vì sự biết bố thí nguyện cầu lìa nên sự biết bồ-đề cũng lìa; vì bồ-đề lìa nên sự biết bố thí nguyện cầu cũng lìa mà biết tất cả pháp đồng tính bồ-đề. Thiện nam, đây là bố thí ba-la-mật xuất thế gian của Bồ-tát, vì biết rõ không, cho nên tất cả phàm Thánh vạn pháp đều không. Do thấu rõ cái không này mới có thể tu hành vô thượng bồ-đề, đầy đủ mười ba-la-mật thì bi trí viên mãn, hai sự lợi ích không sót. Có đủ bi trí này để làm gì ? Vì Phật chủng không dứt mất. Phật chủng không dứt mất thì có những tướng gì ? Đó là thành tựu ba đức, cứu hộ chúng sinh, tạo nên ân đức, dứt sạch phiền não thành tựu đoạn đức, biết rõ các hành thành tựu trí đức”. Thế nên vào Tông Cảnh, mọi việc đều duy tâm, không còn một pháp nào có thể phá hoại.

Kinh Đại Hư Không Tạng Sở Vấn ghi: “Ví như hữu tình đi trong hư không mà không bị hư không làm tổn hại, cũng thế tất cả hữu tình đi trong chân như mà không bị chân như gián đoạn phá hoại. Bồ-tát cũng thế, nhờ trí tuệ đối với sắc, đối với pháp dùng chân như xác chứng, chẳng bị chân như gián đoạn phá hoại, đây là Bồ-tát dùng ấn Như Lai ấn lên chân như, vì không gián đoạn trí thiện xảo”.

Hỏi: Quy mạng Tam bảo là nương tựa thắng duyên, pháp môn Tứ đế y theo hai cảnh chân tục, cho đến ba thừa ba tạng, sáu độ sáu thông, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười tám pháp bất cộng làm sao chung quy chính nghĩa nhất tâm mà đều viên thông ?

Đáp: Chư Thánh nhờ vô vi mà được danh, viên tu nhờ vô tác mà thành hạnh. Không phân biệt các cảnh là chân thật điều phục tâm, rõ tất cả pháp không thì thường ở trong tam-muội. Kinh Siêu Nhật Tam-muội ghi: “Biết sắc tâm không thì thành Phật có khó gì ?” Cho nên biết rằng tất cả pháp đều do tâm, tâm gồm thâu tất cả, như hạt châu như ý không gì chẳng đầy đủ.

Nếu luận về Tam bảo thì nghĩa rộng bao la, nay theo Cổ đức, căn cứ ngũ giáo môn, đại lược nói về sự đồng dị giữa hai thứ Tam bảo:

I- Quán biệt luận Tam bảo:

1- Tiểu thừa: Vọng tâm tức không là Phật bảo, tịch diệt là Pháp bảo, vô tranh là Tăng bảo.

2- Sơ giáo: Vọng tâm bất khả đắc là Phật bảo, lìa tư duy là Pháp bảo, vô ngã là Tăng bảo.

3- Chung giáo: Vọng tâm không có tự tính vô ngại tự tại là Phật bảo, vì nó bao la là Pháp bảo, vì vô sở cầu là Tăng bảo.

4- Đốn giáo: Vọng tâm vốn vô sinh là Phật bảo, tuyệt niệm là Pháp bảo, không phân biệt là Tăng bảo.

5- Nhất thừa viên giáo: Vọng tâm khởi không tướng ban đầu là Phật bảo, không thị phi là Pháp bảo, không thị phi là Tăng bảo.

II- Đồng thể Tam bảo:

1- Tiểu thừa: Căn cứ môn lập sự tựu nghĩa, vì ngọn về gốc, trên Phật thể ý nghĩa giác chiếu là Phật bảo, ý nghĩa phép tắc là Pháp bảo, không tranh cải là Tăng bảo.

2- Sơ giáo: Căn cứ môn hội sự tùng lý, vì hay chấp tướng sai biệt của Tam bảo là bình đẳng, chân không là Phật bảo, cái không này lìa tự tha là Pháp bảo, cái lìa này không hai là Tăng bảo.

3- Chung giáo: Căn cứ môn lý sự dung hiển, vì trong sự có lý, trong lý có sự, bản giác là Phật bảo, Hằng sa tính đức là Pháp bảo, tính đức không hai là Tăng bảo.

4- Đốn giáo: Căn cứ môn tuyệt tướng lý thật. Vì tướng vô vi của Tam bảo đồng với hư không là Phật, Phật là Pháp, Pháp là Tăng.

5- Viên giáo: Căn cứ môn dung thông vô ngại, vì các pháp trong pháp giới đều quí báu. Nói về nghĩa giác là Phật bảo, nói về phép tắc là Pháp bảo, nói về hòa hợp là Tăng bảo.

Thế nên chẳng động chân tâm mà thành nhất thể Tam bảo. Tuy theo căn cơ mà mở ra năm giáo tùy theo trí khác nhau, nhưng không lìa môn nhất tâm mà chia ra sự đồng dị, do đó trong kinh chỉ nói tự quy y Phật v.v… mà không bao giờ nói quy y kẻ khác, cho nên nói rằng tự tính chẳng quay về nơi không chỗ quay về.

Quy là nghĩa trở về cội nguồn. Sáu căn chúng sinh từ nhất tâm khởi, đã đi ngược lại cội nguồn chạy theo sáu trần. Ngày nay nói về sinh mạng, gồm có tất cả lục tình, trở về cội nguồn nhất tâm, nên nói rằng quy mạng nhất tâm liền đầy đủ Tam bảo.

Nhất thể Tam bảo chỉ là nhất tâm, tâm tính tự hay giác chiếu là Phật bảo, tâm thể vốn tự tính lìa là Pháp bảo, tâm tính không hai là Tăng bảo.

Kinh Tư Ích ghi: “Biết pháp gọi là Phật, biết lìa gọi là Pháp, biết vô vi gọi là Tăng, đó là khắp các hạnh của Bồ-tát”. Biết pháp gọi là Phật tức là pháp thân Như Lai chân Phật, vì Phật là pháp, pháp là Phật, cũng như nói Như Lai là nghĩa như của các pháp. Tiếp đó nên hỏi: Pháp là Phật, nghĩa này đã rõ, thế nào là pháp ? Câu trả lời lìa là pháp, vì bản tính của tất cả pháp lìa, vì tâm thể lìa niệm là giác. Tiếp theo nên hỏi pháp vốn tự lìa, không cần tu hành thì làm gì có Tăng ? Giải rằng biết vô vi gọi là Tăng, vô vi là Pháp, pháp vốn tự lìa, do biết vô vi nên được thành Tăng. Cho nên kinh Đại Phẩm nói: “Do biết các pháp không phân biệt như Tu-bồ-đề v.v…” Kinh Đại Bát-nhã nói: “Bát-nhã sâu xa, vì biết bản tính của tất cả pháp lìa”. Văn-thù nói: Chư Phật Thế Tôn nhận sự cúng dường vì đối với các pháp các ngài biết rõ thật tính. Thế nên kinh nói: “Biết rõ như thật tất cả pháp gọi là đại xả”.

Giải thích: Đối với các pháp các ngài đã thấy tâm tự tính là tính giác cứu cánh như thật, chính là ý nghĩa lập tức thành Phật, ý nghĩa Tam bảo thường hiện thế gian, ý nghĩa chân thật từ, ý nghĩa đồng thể bi, ý nghĩa đại hỉ xả, ý nghĩa đầy đủ bố thí ba-la-mật, ý nghĩa tất cả nguyện hạnh thành tựu.

Đại sư Tăng Xán hỏi ngài Huệ Khả: Chỉ thấy hòa thượng liền biết là Tăng, chẳng biết thế nào là Phật, thế nào là Pháp ?

Đáp: Tâm này là Phật, tâm này là Pháp, Pháp Phật không hai, ông biết chăng ?

Nếu có kẻ không tin những lời chân thật của chư Phật nói trên đây về nhất thể Tam bảo quy y tự tâm thì không chỉ chịu hậu quả đọa địa ngục lâu dài mà hiện đời thọ báo xấu ở nhân gian.

Kinh Đại Niết-bàn ghi: “Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: Này thiện nam, ông không nên như hàng Thanh văn và phàm phu phân biệt Tam bảo. Đối với đại thừa không có tướng phân biệt tam quy. Vì sao ? Ở trong Phật tính sẵn có Pháp, Tăng, vì muốn hóa độ Thanh văn và phàm phu nên Phật phân biệt nói tướng sai biệt của Tam quy”.

Lại nói: “Nếu có ai không biết Tam bảo thường còn do nhân duyên này mà môi miệng khô cháy, như người ăn ngon miệng mà không biết mùi vị ngon, đắng, cay chua, mặn, lạt sai khác. Tất cả chúng sinh ngu si vô trí chẳng biết Tam bảo là pháp thường tồn, thế nên gọi là môi miệng khô cháy. Lại nữa thiện nam, nếu có chúng sinh nào chẳng biết Như Lai là thường trụ, phải biết người này là kẻ mù. Nếu kẻ nào biết Như Lai là thường trụ, người ấy tuy có nhục nhãn, song ta nói họ có thiên nhãn”.

Lại nếu quyết định trực tâm tin nhận thể nhập Tông Cảnh, trong khoảng sát-na luôn luôn thấy nhất tâm Tam bảo thường hiện thế gian. Hoặc có kẻ chướng nặng nghiệp sâu, dù trải qua trần kiếp cũng không tin thì tên Tam bảo còn không được nghe đến, huống là gặp được đạo nhất chân!

Kinh Pháp Hoa có kệ:

Chúng sinh đã tin nhận
Ý chất trực dịu hòa
Nhất tâm muốn thấy Phật,
Không tự tiếc thân mạng,
Ta cùng với chúng tăng
Đều ra khỏi Linh Thứu,
Ta nói với chúng sinh,
Thường ở đây bất diệt,
Do bởi sức phương tiện,
Hiện có diệt bất diệt.
Các chúng sinh tội lỗi,
Vì nhân duyên ác nghiệp,
Qua a-tăng-kỳ kiếp,
Chẳng nghe tên Tam bảo.
Các nơi tu công đức,
Người nhu hòa chất trực,
Thảy đều thấy thân ta,
Thuyết pháp tại nơi đây.

Thế nên biết rằng đích thân thấy Phật và nghe Pháp rất khó. Ngài A-nan hai mươi năm làm thị giả cho Phật mà còn không thấy mặt Phật, chỉ thấy bậc cứu thế luân hồi trong lục đạo. Ngài chỉ nghe pháp với tâm phan duyên, pháp này cũng là duyên nên chẳng đắc pháp tính.

Kinh Đại Bảo Tích ghi: “Người tu hành dùng thân chính pháp vẫn chưa thấy Phật, huống chi hình sắc; dùng không viễn ly mà vẫn chưa thấy Pháp, huống chi tham đắm âm thanh ngôn ngữ; dùng pháp vô vi vẫn chưa thấy Tăng, huống chi đang thấy có hòa hợp chúng. Xá-lợi-phất hỏi các tỳ-kheo:

– Các ông nghe pháp từ đâu ?

– Nghe pháp từ nơi không có ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới.

– Các ông là đệ tử của ai ?

– Là đệ tử của bậc vô đắc vô tri”.

Cho nên ngộ rồi mới biết chẳng phải là chỗ biểu thị của lời nói.

Lại tâm biết như thật về khổ gọi là khổ đế, tâm tính không hòa hợp gọi là tập dế, tâm vốn tịch diệt gọi là diệt đế, tâm vốn viên thông gọi là đạo đế.

Quán tâm “không” sinh ra Thanh văn thừa, quán tâm “giả” sinh ra Bồ-tát thừa, quán tâm “trung” sinh ra chư Phật thừa, quán tâm thật tướng phi sắc phi tâm chẳng đồng chất ngại nên phi sắc, chẳng đồng thọ, tưởng v.v… vọng tình phân biệt nên phi tâm. Phi sắc phi tâm cho là giới thể sinh ra luật tạng.

Kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh ghi: “Nếu hay trì kinh này thì đầy đủ mọi giới luật”. Kinh Kim Cương Tam-muội nói về tỏ ngộ bản giác, Phật dạy những người như thế không còn hai tướng, tuy không xuất gia mà chẳng ở tại gia; tuy không mặc pháp phục, tuy không đủ giới luật nhưng với tự tâm vô vi tự được Thánh quả.

Kinh Đại Bảo Tích ghi: “Văn-thù-sư-lợi nói: Tất cả các pháp rốt ráo tịch diệt, vì tâm tịch diệt nên gọi là cứu cánh tỳ-ni”.

Lại nói: “Nếu không được tâm thì không nhớ đến giới, nếu không nhớ đến giới thì không nghĩ đến huệ, nếu không nghĩ đến huệ thì không còn khởi nghi hoặc, đã không còn nghi hoặc thì không trì giới, nếu không trì giới đây gọi là chân thật trì giới”.

Kinh Văn-thù-sư-lợi Sở Vấn ghi: “Nếu có tâm phân biệt nam, nữ, phi nam, phi nữ v.v… đây là Bồ-tát phạm tội ba-la-di”.

Kinh Bồ-tát Anh Lạc Bản Nghiệp ghi: “Giới của tất cả Bồ-tát phàm Thánh đều lấy tâm làm thể, thế nên tâm cũng tận, giới cũng tận, tâm vô tận nên giới cũng vô tận”.

Kinh Đại Thừa Thiên Bát Đại Giáo Vương ghi: “Một là tất cả tâm pháp Như Lai, kim cương tự tính xưa nay thanh tịnh, rốt ráo tịch diệt. Nếu Bồ-tát ở trong đại thừa tính hay giữ mười giới trọng thì tâm giác ngộ chân tịnh, thấy rõ tâm tính không nhiễm không trước. Thế nên Bồ-tát hay giữ mười giới trọng gọi là bất hoại tỳ-ni”.

Lai tất cả pháp thiện ác v.v… để tuân trì sinh ra Kinh tạng, quán tâm hay nghiên cứu diệu nghĩa sinh ra Luận tạng. Thế nên bố thí do tâm xả, viên mãn môn bố thí thanh tịnh. Giới do tâm trì, thành tựu tịnh luật tự tính. Nhẫn nhục do tâm thọ, đầy đủ đại nhẫn vô sinh. Tinh tiến do tâm hành trì, đầy đủ môn tinh tiến kiên cường. Hay quán sát tâm tính gọi là thượng định thì thiền do tâm phát. Bát-nhã soi chiếu thấu suốt cùng tận thì trí từ tâm khởi. Đấy là môn lục độ. Cho nên kinh nói: “Không tâm bất động đầy đủ sáu ba-la-mật”. Vì sao kinh nói: “Không có gì để cho gọi là bố thí thì làm gì ngoài tâm có pháp để trụ tướng ?”

Kinh có bài kệ:

Tính giới như hư không,
Giữ giới là điên đảo.
Đâu thể chấp sự pháp
Phân biệt trì phạm ư ?

Kinh nói: “Nhẫn nhục là trong một sát-na dứt sạch tất cả tướng và cảnh sở duyên”. Lại nói: “Thế nào gọi là Bồ-tát hay thực hành nhẫn nhục ? Phật dạy thấy tâm tướng niệm niệm diệt, đâu phải đè nén tự tâm đối trị tiền cảnh gọi là nhẫn nhục ?”

Kinh có bài kệ:

Nếu tâm chẳng sinh khởi,
Tinh tiến không bờ bến.

Lại nói: “Thế nào là Bồ-tát hay thực hành tinh tiến ? Phật dạy tìm tâm không thể được, nào phải đắm trước hữu vi, vọng khởi lăng xăng !”

Kinh nói: “Chẳng thấy tâm tướng gọi là chính định đâu phải tránh ồn náo tạp nhạp giữ lấy yên tịnh trong trần lao !”

Kinh nói: “Chẳng cầu nhân duyên tính tướng các pháp đây gọi là chính huệ, đâu phải theo văn ngôn bên ngoài gượng sinh tri giải”. Biết ngoài tâm thấy pháp gọi là ngoại đạo, cho nên kinh nói ngoại đạo thích kiến giải, nếu họ biết rõ tự tâm thì chẳng bị các kiến giải làm dao động. Như kinh nói: “Bồ-tát không chấp cái thấy (vô sở kiến) là không chấp có (vô sở hữu). Vô sở hữu là tất cả pháp”. Nói vô sở kiến là không phải lìa tất cả pháp mà nói vô sở kiến, là thấy tất cả pháp mà không chỗ thấy. Vì không là tất cả pháp, vì tất cả pháp là không. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Pháp pháp hình trạng thế nào ?” Do đó kinh có bài tụng:

Nếu hay trừ bệnh mắt
Xa lìa nơi sắc tưởng
Chẳng thấy tướng các pháp
Tức là thấy Như Lai.

Pháp sư Đại Túc khi lâm chung có viết bài kệ lên vách:

Thật tướng dứt nói nghĩ
Chân như bặt thấy nghe
Đây là chỗ an ổn,
Dị học lắm luận bàn.