TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 22

Hỏi: Chân tâm vô hình, diệu thể tuyệt tướng, vì sao có việc trang nghiêm báo hóa ?

Đáp: Pháp thân chư Phật như chân kim, tướng hảo tợ đồ trang sức làm bằng vàng. Lấy vàng làm đồ trang sức thì thể dụng đều như nhau. Từ tâm hiện sắc, tính tướng không hai. Như luận Khởi Tín hỏi: “Nếu pháp thân Phật không có các sắc tướng sai biệt, tại sao có thể hiện các sắc ? Đáp: Vì pháp thân là thật thể của sắc nên có thể hiện các sắc, nghĩa là từ xưa đến nay sắc tâm không hai. Vì bản tính của sắc là tự tính của tâm gọi là trí thân; vì bản tính của tâm là tự tính của sắc gọi là pháp thân. Y theo pháp thân, tất cả Như Lai hiện bày sắc thân khắp mọi nơi không gián đoạn, Bồ-tát mười phương tùy theo khả năng, tùy theo nguyện lực thấy vô lượng thân thọ dụng, vô lượng cõi nước trang nghiêm, mỗi mỗi sai biệt, không chướng ngại, không đoạn tuyệt. Sắc thân hiển hiện này, tất cả tâm ý thức của chúng sinh không thể suy lường, vì là công dụng sâu xa của chân như tự tại, cho nên biết tất cả y báo, chính báo, đồ cúng dường trang nghiêm cùng vô biên Phật sự đều từ nhất tâm khởi. Như kinh Hoa Nghiêm ghi : “Từ Ba-la-mật sinh ra tất cả lọng báu, từ nơi sự hiểu biết cảnh giới Phật thanh tịnh sinh ra tất cả trướng hoa, vô sinh pháp nhẫn sinh ra tất cả y phục, tâm nhập pháp kim cương vô ngại sinh ra tất cả lưới chuông, tâm biết tất cả pháp như huyễn sinh ra tất cả hương bền chắc, tâm trùm khắp tất cả tòa Như Lai sinh ra tất cả tòa báu vi diệu chư Phật, tâm cúng dường Phật không lười nhác sinh ra tất cả tràng báu, tâm hoan hỉ biết tất cả pháp như mộng sinh ra tất cả cung điện báu chư Phật cư ngụ, thiện căn vô trước thiện căn vô sinh sinh ra tất cả mây hoa sen báu, tất cả mây hương bền chắc, tất cả mây vô biên sắc hoa, tất cả mây y sắc diệu, tất cả mây hương chiên-đàn vô biên thanh tịnh, tất cả mây bảo cái diệu trang nghiêm, tất cả mây thiêu hương, tất cả mây diệu man, tất cả mây thanh tịnh trang nghiêm cụ, đều khắp cả pháp giới vượt qua chư thiên, những đồ cúng dường để cúng dường đức Phật. Các vị Bồ-tát kia mỗi thân đều xuất ra bất khả thuyết trăm nghìn ức na-do-tha Bồ-tát, đều đầy khắp pháp giới hư không giới tâm của họ đồng với chư Phật ba đời, vì từ pháp không do điên đảo khởi”.

Kinh Giải Thâm Mật ghi: “Bấy giờ, Mạn-thù-thất-lợi bạch Phật: Bạch Thế Tôn, Như Lai thành đẳng chính giác, chuyển chính pháp luân, nhập đại niết-bàn. Ba thứ ấy nên biết là tướng gì ? Phật bảo Mạn-thù-thất-lợi: Thiện nam, nên biết ba thứ ấy không có hai tướng, nghĩa là chẳng phải thành đẳng chính giác, chẳng phải không thành đẳng chính giác, chẳng phải chuyển chính pháp luân, chẳng phải không chuyển chính pháp luân, chẳng phải nhập đại niết-bàn, chẳng phải không nhập đại niết-bàn. Vì sao ? Vì pháp thân Như Lai cứu cánh tịnh, vì hóa thân Như Lai thường thị hiện”.

Giải thích:

– Chẳng phải thành đẳng chính giác, vì pháp thân cứu cánh tịnh, vì lìa thường kiến, vì nhập đệ nhất nghĩa đế, vì không phải là chỗ chúng sinh nghe thấy.

– Chẳng phải không thành đẳng chính giác, vì hóa thân thường thị hiện, vì lìa đoạn kiến, vì theo thế tục đế, vì tùy thời cơ chín mùi tâm hữu tình hiện. Tuy phân ra pháp thân, báo thân nhưng sự giáo hóa chân thật như nhau.

Lại pháp thân có hai phổ biến:

1- Tùy tướng các biệt biến, vì pháp thân ở khắp trong tất cả tướng lớn nhỏ mà không hoại tướng.

2- Viên dung tổng nhiếp biến, vì pháp thân vô tướng có thể dung chứa tất cả hữu tướng, tổng nhiếp quy về nhất thể.

Sắc thân là dụng của thể phổ biến. Trí thân tu thành như thể phổ biến thì mười thân bày hình ảnh trải khắp trong mười cõi. Một thể phân ra ánh sáng bất động trong một trần, sắc thân như bóng của mặt trời tùy hiện thế gian; trí thân tợ ánh sáng mặt trời chiếu khắp pháp giới.

Lại các căn của Phật thân, mỗi một tướng hảo đều ở khắp pháp giới, vì thể của các căn đồng. Nếu mắt là cửa thì các căn tướng hảo và cõi Phật đều là trong mắt hiện ra. Như kinh nói: “Trong thân chúng sinh có mắt Như Lai, tai Như Lai v.v…”, vì pháp thân Phật với tính chúng sinh không có thể riêng, đều từ vô tính khởi, khởi không trái với chân; do pháp giới sinh, sinh chẳng ngại sự cho nên tất cả chư Phật ở nơi các thế giới đều là nơi đắc bồ-đề. Nếu dùng chân thân thì xứng tính khắp nơi, nếu dùng ứng thân thì tùy cơ phổ hiện.

Do đó ngài Thiên Thân nói: Quảng lược tương nhập, chư Phật có hai loại thân: Một là pháp tính pháp thân, hai là phương tiện pháp thân. Do pháp tính pháp thân nên sinh phương tiện pháp thân; do phương tiện pháp thân nên hiển bày pháp tính pháp thân. Hai loại thân này khác mà không thể phân, một mà không thể đồng, cho nên quảng lược tương nhập.

Vì pháp thân vô tướng thì không gì chẳng phải tướng, cho nên tướng hảo trang nghiêm chính là pháp thân.

Vì pháp thân không biết thì không gì chẳng biết, cho nên nhất thiết chủng trí chính là trí tuệ chân thật.

Cho nên Hoa Nghiêm Luận ghi: “Pháp thân, tướng hảo nhất thời không sai khác”.

Lời tựa Khởi Tín Luận Sớ của Nguyên Hiểu ghi: “ Đại Thừa vốn dĩ là gốc, lặng lẽ tịch diệt trạm nhiên huyền vi, huyền lại huyền đâu bày vạn tượng; tịch lại tịnh mà vẫn còn trong vòng đàm luận của bách gia. Chẳng phải bày ra vạn tượng thì năm mắt không thể thấy dung mạo của nó; còn ở trong ngôn ngữ thì bốn thứ biện tài không thể nói về hình trạng của nó”. Đây thuyết minh chân thể cùng với tất cả pháp phi nhất phi dị.

Bài tựa của Hoa Nghiêm Kinh Sớ ghi: “Ẩn chân thể trong chỗ vạn hóa, hiển đức tướng nơi cửa trùng huyền”.

Giải thích: Đây thuyết minh vô ngại thì cùng với các pháp phi nhất phi dị. Như Tăng Triệu nói: “Đạo cao xa lắm thay! Xúc sự mà chân, thể tức vạn hóa”, cho nên nói “ẩn chân thể trong chỗ vạn hóa, hiển đức tướng nơi cửa trùng huyền”, thuyết minh tướng không ngại thể.

Trùng huyền là lý thể, thuyết minh đức tướng chỉ ở trên thể; nếu lìa thể mà có tướng thì tướng chẳng phải huyền diệu. Tướng của thắng đức gọi là đức tướng. Nói đến trùng huyền, xin mượn lời của Lão Tử: “Huyền lại huyền là cửa của các điều kì diệu”. Lão Tử cho hữu danh vô danh là huyền. Hà Thượng Công nói: “Huyền là trời, trong trời lại có trời”, Trang Tử nói: “Trời là tự nhiên thì tự nhiên cũng là tự nhiên”. Nương theo đây mà sinh vạn vật cho nên nói “là cửa của các điều kì diệu”. Nay trong Tông Cảnh cũng như thế, không pháp nào chẳng thâu, không đức nào chẳng đủ, có thể nói rằng tâm chí diệu u huyền.

Thanh Lương Ký dẫn kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Phật lấy pháp làm thân
Thanh tịnh như hư không.

Hỏi: Phật thân đã biết như hư không, cớ sao lại hiện kim sắc ? Làm thế nào khiến cho người tỏ ngộ nơi hư không ?

Đáp: Có ba ý:

1- Thể tuy vô tướng nhưng vì vật mà hiện tướng, vật cần phải thấy nên tùy theo ý người.

2- Nếu chẳng hiện tướng làm thế nào khiến cho người ngộ nơi vô tướng, như không nhờ nơi lời nói thì làm sao hiển bày lý vô ngôn.

3- Nói như hư không, nắm lấy vô tướng thanh tịnh, chẳng phải lìa tướng mà tìm cầu, tướng tức vô tướng, vì chẳng trái với không. Kinh tụng:

Phật trụ thậm thâm chân pháp tính
Tịch diệt vô tướng đồng hư không
Ở trong đệ nhất chân thật nghĩa
Thị hiện tất cả các việc làm.
Bài kệ này gom thâu ba ý trên.

Triệu Luận ghi: Dụng tức tịch, tịch tức dụng; dụng tịch đồng một thể mà khác tên chẳng phải lìa ngoài dụng riêng có một tịch làm chủ của dụng; tịch dụng vốn là một thể đều phát xuất từ lý mà có tên khác chẳng phải lìa ngoài dụng riêng có một tịch làm chủ của dụng. Thể của bát-nhã phi hữu phi vô; rỗng mà soi, soi mà rỗng, cho nên nói chẳng động Đẳng giác mà kiến lập các pháp. Như gương soi bóng rỗng nhưng chẳng mất sự chiếu soi, tợ mặt trời giữa hư không chiếu soi mà rỗng rang.

Lại chẳng động Đẳng giác mà kiến lập các pháp thì tịch mà thường dụng, chẳng hoại duyên sinh mà quán thật tướng thì dụng mà thường tịch. Đây là thiên sai vạn dụng biệt tướng dị danh, đều xuất phát từ tâm thể nhất chân. Do đó nói: Kinh gọi Thánh nhân không làm mà không gì chẳng làm. Vì không làm nên tuy động mà tịch. Vì không gì chẳng làm nên tuy tịch mà động. Tuy tịch mà động nên vật không phải một. Tuy động mà tịch nên vật không phải hai. Vì vật không phải hai nên càng động thì càng tịch. Vì vật không phải một nên càng tịch thì càng động. Pháp tính như thế động tịch khó lường, đâu thể một tịch mà hai động, cho nên danh chẳng phải danh, tướng chẳng phải tướng. Lại nói: Sở dĩ Thánh nhân giấu huyền cơ nơi chưa có điềm, ẩn vận mệnh nơi đã biến hóa. Gom lục hợp để soi tâm, họp khứ lai để thành thể. Xưa nay thông trước sau, đồng cùng nguồn tận ngọn, mênh mông bao la gọi là niết-bàn. Do đó huyền cơ của bậc Thánh dự xét việc xa chưa đến chưa có điềm, ẩn vận mệnh đã qua theo duyên biến hóa thì gương tâm hay chiếu soi muôn việc, mười phương ba đời không sót. Xưa nay, đến đi, trước sau, gốc ngọn đều đồng một thể nhất tâm không hai. Vì thế kinh Nhập Phật Cảnh Giới nói: “Như Lai như thật biết bản tế, trung tế, hậu tế”. Như pháp kia thuở quá khứ không sinh, thuở vị lai không diệt, thuở hiện tại không trụ. Như thật biết dấu vết của pháp kia, như một pháp tất cả pháp cũng như thế, như tất cả pháp, một pháp cũng như thế. Văn-thù-sư-lợi, vì nhất đa bất khả đắc nên biết chúng sinh với Phật đồng một trang nghiêm, đồng một từ tâm, đồng một bi thể.

Kinh Chư Pháp Vô Hành ghi: “Văn-thù-sư-lợi nói: Tất cả chúng sinh đều thành tựu đại bi gọi là bất động tướng.

– Văn-thù-sư-lợi, cái gì gọi là bất động tướng ?

– Bạch Thế Tôn, tất cả chúng sinh không khởi không tác tướng đều vào trong pháp bình đẳng của Như Lai, không ra ngoài tính đại bi, vì bi não không phân. Thế nên tất cả chúng sinh đều thành tựu đại bi gọi là bất động tướng.

Cho nên biết muôn pháp không động thì bi não nào phân, nhất chân chẳng dời, cấu tịnh ai phân biệt ? Tuy hiện trang nghiêm mà đều như hải ấn. Cổ đức nói: Nghĩa là hương hải lặng dừng trạm nhiên bất động, sắc thân hình tượng trong bốn thiên hạ đều ở trong đó mà có dấu ấn, như cái ấn in vật, cũng như sóng lặng muôn khoảnh, trời tạnh không mây các tinh tú, mặt trăng hiện ra sáng tỏ, không đến không đi, phi hữu phi vô, bất nhất bất dị. Biển trí Như Lai, sóng thức không sinh, lặng dừng trong sạch rất sáng rất tịnh, vô tâm hiện ngay tất cả tâm niệm căn dục chúng sinh. Tâm niệm căn dục đều ở trong trí như biển hàm chứa vạn tượng. Cho nên kinh tụng:

Như biển hiện khắp thân chúng sinh
Vì thế gọi tên là biển cả
Bồ-đề in khắp các tâm hành
Thế nên chính giác là vô lượng.

Chẳng phải chỉ có trí hiện vật tâm, cũng nương vào trí này hiện ra muôn hình, ứng khắp các loài.

Phẩm Hiền Thủ có bài tụng:

Hoặc hiện hình đồng nam đồng nữ
Trời rồng và loài a-tu-la     
Cho đến loài ma-hầu-la-già
Tùy theo sở thích đều cho thấy
Hình tướng chúng sinh đều chẳng đồng
Hành nghiệp âm thanh cũng vô lượng
Như thế tất cả đều hiển hiện
Hải ấn tam-muội uy thần lực.

Vì chúng sinh không hiểu biết mà hiển hiện sức hải ấn tam-muội, nên chư Phật dùng sức phương tiện chỉ bày các giáo tích. Thế nên người xưa nói: Phật xuất thế là do chúng sinh mê lầm, nói pháp để trình bày sự chân thật. Chẳng động chân tế mà kiến lập các pháp thì tính không thể hoại. Chẳng hoại giả danh mà nói thật tướng thì tướng không thể hoại. Đây là thiên ma ngoại đạo đều là pháp ấn nên không thể hoại. Vả lại ngũ nghịch, tứ ma vẫn là pháp giới ấn, huống là tịnh trí vô lậu tướng hảo nhất chân mà có thể chướng ngại diệu chỉ thật tướng sao ?

Cho nên kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Cửa từ thanh tịnh vô số cõi
Cùng sinh một diệu tướng Như Lai
Các tướng mỗi một đều như thế
Cho nên nhìn mãi không biết chán.

Kinh Pháp Hoa có kệ:

Thấu hiểu tướng tội phước
Chiếu khắp cả mười phương
Thân thanh tịnh vi diệu
Đủ ba mươi hai tướng.

Pháp thân là ấn của tất cả pháp, không có một pháp nào ra khỏi dấu ấn này.

Thai giáo dẫn kinh Vô Hành. Ngũ nghịch là bồ-đề, bồ-đề là ngũ nghịch. Ngũ nghịch cùng bồ-đề không ngoài tâm tính cho nên không có hai tướng thể, đã không hai nên không thể hoại. Vì ngũ nghịch xưa nay không tự tính nên khổ là thật tướng, ấm ma và tử ma là pháp giới ấn. Phiền não là thật tướng, phiền não ma là pháp giới ấn. Nghiệp là thật tướng, thiên ma là pháp giới ấn. Ma đã là ấn thì ấn đâu thể hoại ấn !

Đại Luận nói: Có Bồ-tát dạy người tu không, dứt hết tất cả niệm, sau đó mới khởi một niệm có tâm liền bị ma động, tức thời liền nghĩ nhớ đến tu không thì ma liền diệt. Tu không còn như thế, huống chi lại quán nó chính là pháp giới ấn. Do đó biết tâm có là trói buộc tâm không là giải thoát. Nếu thấu rõ tâm này thì còn gì trói buộc hay giải thoát ?!

Hỏi: Tâm không tự tính, sinh diệt vô thường, thể dụng đều không, làm sao khởi hạnh ?

Đáp: Tuy tự thể thường không, chẳng hoại nhân quả duyên sinh, dù không có tạo tác nhưng đâu mất nghiệp báo thiện ác. Cho nên Luận Tâm Vương nói: “Quán tâm không vi diệu khó lường, vô hình vô tướng có đại thần lực, hay diệt thiên tai, thành tựu muôn đức, bản tính tuy không mà hay bày phép tắc, thấy nó vô hình, gọi nó có tiếng, là vị đại pháp tướng giữ gìn giới luật, truyền bá kinh điển như trong nước có vị mặn, trong sắc có màu xanh, quyết định là có mà chẳng thấy hình tướng. Tâm vương cũng thế, dừng ở trong thân, ra vào trước mặt, ứng vật tùy tình, tự tại vô ngại, mọi việc làm đều thành tựu”.

Thanh Lương Sớ giải thích: kinh nói pháp giới như huyễn là thể theo duyên, tất cả pháp như thật tế, tức sự mà tịch. Người đời cho rằng thật tế bất biến mà nói các pháp vô thường, lý thật viên dung, tướng thế gian là thường trụ. Cổ đức dùng bảy ví dụ để giải thích những điều nghi:

1- Nghi rằng lửa huyễn hóa ở thế gian không trở thành công dụng thiêu cháy, Phật thị hiện làm lợi ích vật, đồng với huyễn hóa chăng ? Giải thích: Như bóng, cũng có nghĩa bóng râm che chở nào có thật ? Nhưng các pháp dụ đều có ba nghĩa: Một là nghĩa duyên thành, hai là nghĩa không thật, ba là nghĩa hữu dụng.

2- Nghi rằng nếu Phật như bóng thì tại sao Bồ-tát khởi hạnh tìm cầu, nhân đã không hư thì quả đâu chẳng thật ? Giải thích: Như giấc mơ, giấc mơ cũng có ba nghĩa: Vô thể, hiện thật, cùng giác làm duyên (như chiêm bao bị rượt đuổi rồi hoảng sợ giật mình tỉnh dậy), Bồ-tát hạnh cũng như thế. Nghĩa là Bồ-tát chứng lý nên không, vô minh chưa hết nên giống như thật, hay cùng Phật quả làm duyên nỗ lực không ngừng bỗng nhiên giác ngộ như chiêm bao đi qua sông.

3- Nghi rằng nếu Bồ-tát hạnh như giấc mơ tại sao kinh nói đây là hạnh Bồ-tát, đây là hạnh Nhị thùa ? Giải thích: Như tiếng vang, duyên thành không nguồn gốc theo âm thanh lớn nhỏ. Thánh giáo cũng thế, cơ cảm không nguồn gốc, tùy cơ nghe khác.

4- Nghi rằng quả hạnh như thế, thế gian chưa ngộ ứng này là thật. Giải thích: Như hóa, tâm nghiệp thần lực nắm giữ không thật mà hữu dụng.

5- Nghi rằng nếu đều như hóa, tại sao có tướng sai biệt ? Giải thích: Như huyễn.

6- Nghi rằng thân nếu như huyễn vì sao có báo loại bất đồng ? Giải thích: Như tâm, vì tâm vô hình như huyễn. Tuy như huyễn bất định không có tự tính, nhưng tùy duyên mà tạo thành các điều thiện.

Kinh Đại Bảo Tích ghi: “Bồ-tát ma-ha-tát lại nghĩ pháp duyên khởi nhân quả này không hoại; tuy là tâm pháp tính, không có tự tính, không có tác dụng, không có chủ tể, nhưng các pháp này y chỉ nhân duyên mà được sinh khởi, ta sẽ tùy theo chỗ mong muốn của họ mà chứa nhóm thiện căn. Đã chứa nhóm rồi phải tu hạnh tương ưng trọn không lìa bỏ tâm pháp tính kia. Lại nữa, Xá-lợi-tử! Bồ-tát ma-ha-tát làm thế nào ở trong đây chứa nhóm ? Xá-lợi-tử, Bồ-tát ma-ha-tát quán tướng chứa nhóm là tâm bản tính dường như huyễn hóa, không có một pháp để bố thí. Tâm pháp tính này hay bố thí cho tất cả chúng sinh, hồi hướng chứa nhóm trang nghiêm Phật độ, đây gọi là thiện căn tích tập. Xá-lợi-tử tâm bản tính này giống như giấc mơ tướng nó vắng lặng, tâm pháp tính này hay chứa nhóm giữ gìn giới luật, đều là hồi hướng thần thông tác dụng, đây gọi là thiện căn tích tập. Xá-lợi-tử, tâm bản tính giống như bóng nắng rốt ráo diệt hết, tâm pháp tính hay tu tập tất cả sức nhẫn nhục, hồi hướng tích tập trang nghiêm bồ-đề, đây gọi là thiện căn tích tập. Xá-lợi-tử, tâm bản tính như trăng trong nước, rốt ráo xa lìa tướng tích tập, tâm pháp tính hay phát khởi tất cả chính cần, hồi hướng thành thục vô lượng Phật pháp đây gọi là thiện căn tích tập. Xá-lợi-tử, tâm bản tính không thể nắm được, không thể nhìn thấy, tâm pháp tính hay tu tập tất cả tĩnh lự giải thoát tam-ma-địa, tam-ma-bát-đề, hồi hướng chư Phật tam-ma-địa thù thắng, đây gọi là thiện căn tích tập. Xá-lợi-tử, quán tâm tính này vốn chẳng phải sắc tướng, không thấy không đối, không thể liễu tri, tâm pháp tính hay tu tập tất cả huệ cú sai biệt thuyết trí, hồi hướng viên mãn chư Phật trí tuệ, đây gọi là thiện căn tích tập. Xá-lợi-tử, tâm không sở duyên không sinh không khởi, tâm pháp tính hay kiến lập vô lượng thiện pháp, nhiếp thọ sắc tướng, như thế gọi là thiện căn tích tập. Xá-lợi-tử, tâm không sở nhân cũng không sở sinh, tâm pháp tính hay nhiếp thọ giác phần pháp nhân, đây gọi là thiện căn tích tập. Xá-lợi-tử, tâm tính xa lìa sáu cảnh giới cũng chẳng sinh khởi, tâm pháp tính hay dẫn phát bồ-dề cảnh giới nhân sở sinh tâm, đây gọi là thiện căn tích tập. Xá-lợi-tử, như thế gọi là Bồ-tát ma-ha-tát y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa nên đối với tất cả tâm, tùy tâm quán sát tu tập niệm trụ. Lại nữa Xá-lợi-tử, Bồ-tát ma-ha-tát này lại y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa nên đối với tất cả trụ, tùy tâm quán sát vì cầu chứng được thần thông thù thắng nên thúc đẩy tâm kia tu học thông trí. Được thần thông rồi thì dùng nhất tâm mà có thể khéo biết tất cả tâm tướng. Đã liễu tri rồi thì y theo tự thể của tâm mà tuyên nói các pháp”.

Lại nói: “Hóa Lạc thiên vương bạch Phật: Bạch Thế Tôn, thật tế kia ở khắp mọi nơi, không một pháp nào, mà chẳng phải thật tế. Thế Tôn, nói bồ-đề cũng là thật tế. Thế Tôn, những gì là bồ-đề ? Tất cả pháp là bồ-đề vì lìa tự tính. Cho đến năm nghiệp vô gián cũng là bồ-đề, vì sao ? Bồ-đề vô tự tính, năm nghiệp vô gián cũng vô tự tính, do đó nghiệp vô gián cũng là bồ-đề. Thế nên thấu rõ tâm bản tính tự thể vô sinh, từ trong vô sinh kiến lập các pháp. Thấy tâm vô tính, nói giáo vô tính, tùy duyên tịnh mà vô tính thành Phật, tùy duyên nhiễm mà vô tính thành phàm, không thấy hạt bụi nhỏ nào tạm ra ngoài lý tính không, không có một niệm nào trái với môn bình đẳng”. Do đó kinh Đại Bát-nhã có kệ:

Có pháp chẳng thành có pháp
Không pháp chẳng thành không pháp
Có pháp chẳng thành không pháp
Không pháp chẳng thành có pháp.

Giải thích: Có chẳng thành có, không chẳng thành không, vì là nhất thể nên không có năng thành, sở thành. Có chẳng thành không, không chẳng thành có, nghĩa là tự đã chẳng thành thì đâu thể thành tha. Cho nên biết đều không có tự thể, không thành tựu nhau. Kinh Đại Tập nói: “Tất cả các pháp cứu cánh vô sinh, tất cả các pháp không tính không sinh, không khởi không xuất”, thế nên duyên chẳng sinh nhân, nhân chẳng sinh duyên, tự tính chẳng sinh tự tính, tha tính chẳng sinh tha tính, tự tính chẳng sinh tha tính, tha tính chẳng sinh tự tính, cho nên nói tất cả các pháp tự tính vô sinh. Kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn ghi: “Bấy giờ Bồ-tát Phổ Hoa nói với Xá-lợi-phất: Ông nhập diệt tận định có thể nghe pháp chăng ? Xá-lợi-phất đáp: Thiện nam, nhập diệt tận định không có hai hạnh mà có thể nghe pháp. Bồ-tát hỏi tiếp: Xá-lợi-phất, ông tin các pháp đều là tự tính diệt tận chăng ? Đáp: Đúng vậy! Các pháp đều là tướng tự tính diệt tận, tôi tin lời ấy. Phổ Hoa nói: Nếu như thế thì Xá-lợi-phất thường ở mọi lúc không thể nghe pháp. Vì sao ? Vì tất cả các pháp đều là tướng tự tính diệt tận, thế nên các pháp vốn không, chỉ là duyên khởi. Duyên tụ hội thì dường như có, duyên tan rả thì dường như không. Có không chỉ là nhân duyên, muôn pháp vốn không có sinh diệt. Như chân kim tùy thuộc ông thợ bạc mà trở thành đồ trang sức nhưng chất vàng không biến đổi. Như hang trống tùy nhân duyên mà có tiếng vang phát ra, cùng pháp tính không trái. Có bài tụng:

Kẻ đào đất giữa đường
Rồi đắp các hình tượng
Kẻ ngu nói tượng sinh
Người trí cho là đất
Sau đó quan đi qua
Đem tượng đắp lại đường
Tượng vốn không sinh diệt
Đường cũng không mới cũ.

Thế nên biết đây chỉ là một khối đất, sinh diệt chỉ là nhân duyên, dụ cho nhất tâm vạn pháp không có trước sau. Vì sao lúc đào đường thành tượng đất cũng không bớt, lúc phá tượng đắp lại đường đất cũng không thêm, vì không mất đi khối đất cũ. Như khi thành Phật tâm cũng không thêm, lúc thành phàm tâm cũng không bớt vì lúc tâm tùy duyên chẳng mất đi tự tính.

Hơn nữa, tượng sinh chỉ là duyên sinh, tượng diệt chỉ theo duyên diệt, vì tượng không có tự thể. Như thành Phật chỉ là duyên tịnh sinh, thành phàm cũng là duyên nhiễm khởi, vì phàm Thánh vốn không sinh. Cho nên biết vạn pháp theo duyên vốn không tự tính, xưa chưa từng sinh, nay chưa từng diệt.

Như Văn-thù-sư-lợi Quán Huyễn có bài tụng:

Các thiện trong hội này
Từ xưa chưa từng làm
Tất cả pháp cũng thế
Đều đồng như thuở trước.

Do đó lúc đang làm mà không làm, vì không có kẻ làm; lúc phải làm mà chẳng làm vì không tự tính. Mặc tình theo vạn pháp tung hoành, thường giống như lúc chưa sinh, cho dù quần sinh chìm nổi cũng không lìa tông vô tính.

Lại ngày xưa có Bàng cư sĩ bảo con gái là Linh Chiếu: Ta sẽ đi trước, con hãy đến sau. Ông sai Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng ngọ trở vô cho ông hay. Linh Chiếu ra xem vào thưa: Mặt trời đã đúng ngọ, mà có nguyệt thực. Ông bước ra cửa xem. Linh Chiếu lên tòa của ông ngồi kiết già chắp tay thị tịch. Ông vào thấy, cười nói: Con gái ta lanh lợi quá! Hoa đốm, bóng rời, bóng nắng, đợt sóng, đạo ta ở trước, hạnh ta ở sau. Bèn đến Vu Công mời làm tang chủ. Ông bảo: Chỉ mong  những cái có đều không, cẩn thận đừng chấp thật những cái không! Nói xong nằm gác đầu lên gối Vu Công thị tịch. Đây cũng không rơi vào cái thấy có không, diệu đắc ý chỉ vô sinh.

Hỏi: Bồ-đề là thân tâm chính mình, tại sao trong giáo nói bồ-đề không thể dùng thân tâm để được ?

Đáp: Nói về đạo bồ-đề là tâm, đây là tự tính thanh tịnh tâm trạm nhiên bất động, bởi nó là chân trí của chính giác vô tướng, đạo ấy là thường cảnh hư huyền diệu tuyệt, người thông minh không thể nghe thấu, người trí không thể vận dụng sự hiểu biết, kẻ biện luận không thể mượn lời nói, người tưởng tượng không thể tả dáng vẻ. Vì người mê không thấu rõ chấp sắc ấm là tự thân, nhận năng tri là tự tâm. Cho nên kinh nói; Thân như cây cỏ không có tri giác, tâm như huyễn hóa hư vọng không thật”. Do đó trừ dẹp tâm chấp thủ, nên nói bồ-đề không thể dùng thân tâm để được; bồ-đề không phải xúc trần không thể dùng thân để được; bồ-đề chẳng phải pháp trần không thể dùng tâm để được.

Nếu căn cứ vào người liễu ngộ là đạt ấm thân vốn không, vọng tâm vô tướng. Vì vốn không nên pháp thân thường hiện, vì vô tướng nên chân tâm không khuyết. Từ đây phát minh năm ấm là bồ-đề, lìa năm ấm không có bồ-đề. Không thể đem bồ-đề mà cầu bồ-đề, không thể nhờ bồ-đề mà được bồ-đề.

Văn-thù nói: “Ta không cầu bồ-đề, vì sao ? Vì bồ-đề là ta, ta là bồ-đề”.

Kinh Duy-ma nói: “Chẳng quán là bồ-đề vì lìa các duyên. Bồ-đề không phải là cảnh sở quán thì không có tâm năng quán. Cảnh sở quán không là thật tướng bồ-đề tâm năng duyên tịch là tự tính bồ-đề”.

Kinh Đại Bát-nhã ghi: “Long Kiết Tường hỏi: Có người chứng được bồ-đề không ?

Diệu Kiết Tường đáp: Cũng có người chứng được!

Long Kiết Tường hỏi: Ai chứng được ?

Diệu Kiết Tường đáp: Nếu không danh tính và nói năng là chứng được!

Long Kiết Tường hỏi : Như thế thì làm sao chứng được ?

Diệu Kiết Tường đáp: Tâm kia vô sinh, không nghĩ đến bồ-đề và tòa bồ-đề, cũng không nhớ thương tất cả hữu tình, dùng tâm không biểu thị, tâm không thấy biết v.v… chứng được vô thượng chính đẳng bồ-đề.

Long Kiết Tường nói: Nếu vậy thì dùng tâm gì để chứng bồ-đề ?

Diệu Kiết Tường đáp: Ta không có sở thú cũng không có năng thú đều không chỗ tu học, chẳng phải ta sẽ đến cội bồ-đề, ngồi tòa kim cương, chứng đại bồ-đề, chuyển diệu pháp luân, cứu khổ sinh tử. Vì sao ? Các pháp không động không thể phá hoại, không thể nhiếp thọ tất cánh không tịch. Ta dùng tâm bình đẳng phi thú hướng như thế mà chứng được bồ-đề.

Long Kiết Tường nói: Tôn giả, những lời nói trên đều y theo thắng nghĩa khiến cho các hữu tình tin hiểu pháp này giải thoát phiền não. Nếu các hữu tình giải thoát hết phiền não thì có thể phá tan lưới ma.

Diệu Kiết Tường nói: Lưới ma không thể phá hoại, vì sao ? Ma không khác lời nói về bồ-đề, vì sao ? Vì tính của ma và ma quân đều chẳng có, đều là bất khả đắc. Thế nên ta nói ma không khác lời nói về bồ-đề.

Long Kiết Tường hỏi: Bồ-đề nghĩa là gì ?

Diệu Kiết Tường nói: Bồ-đề ở khắp trong tất cả pháp, mọi lúc, mọi nơi như hư không không chướng ngại đều hiện hữu trong các pháp mọi lúc, mọi nơi. Bồ-đề cũng thế, vì không chướng ngại nên ở khắp trong các pháp mọi lúc mọi nơi. Như vậy bồ-đề vô cùng tối thượng, nay ông muốn chứng bồ-đề nào ?

Long Kiết Tường nói: Muốn chứng vô thượng bồ-đề.

Diệu Kiết Tường nói: Ông nên biết vô thượng bồ-đề không phải là pháp để chứng. Ông muốn chứng nó liền thành hí luận. Vì sao ? Vì vô thượng bồ-đề tịch diệt lìa tướng, như có người nói rằng tôi làm cho người huyễn ngồi tòa bồ-đề, chứng huyễn vô thượng bồ-đề. Nói như thế đúng là hí luận. Vì người huyễn còn không có, huống là khiến chứng bồ-đề hư huyễn! Huyễn nơi huyễn pháp chẳng phải hợp, chẳng phải tan, không lấy không bỏ, tự tính đều không. Chư Phật Thế Tôn nói tất cả pháp không thể phân biệt, đều như trò ảo thuật. Nay ông muốn chứng vô thượng bồ-đề, đâu chẳng thành phân biệt pháp huyễn, nhưng tất cả pháp đều không thể lấy cũng không thể bỏ, không thành không hoại. Phi pháp ở nơi pháp hay có sự tạo tác và có sự hoại diệt; vô pháp ở nơi pháp hay sự hòa hợp và có sự phân ly. Vì sao thế ? Vì tất cả pháp chẳng phải hợp chẳng phải tan, tự tính đều không, lìa ngã và ngã sở, đồng với hư không giới, không nói không dạy, không khen không chê, không cao không thấp, không tổn không ích, không thể tưởng tượng, không thể hí luận, bản tính hư tịch, đều rốt ráo không, như huyễn như mộng, không so không sánh, đâu thể đối với bồ-đề mà khởi tâm phân biệt.

Long Kiết Tường nói: Lành thay tôn giả, nay tôi nhờ đây mà quyết định được bồ-đề, vì sao ? Do tôn giả vì tôi mà nói pháp sâu xa.

Diệu Kiết Tường nói: Nay tôi chưa từng vì ông nói gì cả, hoặc hiển hoặc mật, hoặc sâu hoặc cạn làm sao khiến ông có thể được bồ-đề. Vì sao ? Tự tính các pháp đều không thể nói. Ông cho rằng tôi nói những pháp sâu xa là thành hí luận. Thật ra tôi không có nói, vì tự tính các pháp cũng không thể nói. Như có người nói tôi có thể bàn nói về thức tướng của người huyễn, nghĩa là thức của người huyễn sai biệt như vầy như vầy. Do nói thế mà họ tự hại lời nói thật của mình. Vì sao ? Vì người huyễn còn không thể biết, huống là có thức tướng ? Nay ông nói rằng tôi nói pháp sâu xa khiến ông chứng được vô thượng bồ-đề cũng như thế, vì tất cả pháp đều như trò ảo thuật, rốt ráo tính không, còn không thể biết, huống có nói năng, thế nên tính của tất cả chúng sinh là bồ-đề bình đẳng vô tướng, ở trong tự tính làm sao có sự sai biệt của năng chứng và sở chứng ?”

Như kinh Bát-nhã nói: “Vì biết tự tính của pháp lìa các phân biệt là bồ-đề”. Lại kinh nói: “Những điều làm ra hoặc có hoặc không đều là bồ-đề; những gì thuộc về có liền có cảnh sở chứng và tâm năng chứng, năng sở hết là đại giác. Nghĩa đại giác là ngộ tự tâm”.

Kinh Đại Tỳ-lô-giá-na Thành Phật ghi: “Khi ấy, Bồ-tát Kim Cương Thủ lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn, ai tìm cầu nhất thiết trí ? Ai vì bồ-đề mà thành chính giác ? Ai phát khởi nhất thiết trí ? Phật dạy: Này Bí Mật chủ, tự tâm tìm cầu bồ-đề và nhất thiết trí, vì sao ? Vì bản tính thanh tịnh, tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa, vì tâm không có thật. Cho đến muốn biết về bồ-đề cần phải biết về tự tâm”.

Kinh Trang Nghiêm Bồ-đề Tâm ghi: “Phật nói tâm bồ-đề chẳng phải có, chẳng phải tạo, lìa văn tự. Bồ-đề là tâm, tâm là chúng sinh. Nếu có thể hiểu như thế, đây gọi là Bồ-tát tu tâm bồ-đề, ngoài tâm không có bồ-đề thì còn tìm cầu gì nữa ? Ngoài bồ-đề không có tâm thì chứng được cái gì ?”, Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Biết tất cả pháp vô tướng là tướng, tướng là vô tướng, vô phân biệt là phân biệt, phân biệt là vô phân biệt, chẳng phải có là có, có là chẳng phải có, không làm là làm, làm là không làm, chẳng phải nói là nói, nói là chẳng phải nói, bất khả tư nghì. Biết tâm với bồ-đề đồng, biết bồ-đề với tâm đồng; tâm, bồ-đề và chúng sinh đồng”.

Lại tụng:

Tuy tận thuở vị lai
Dạo khắp các cõi Phật
Chẳng cầu diệu pháp này
Trọn không thành bồ-đề.

Cho nên biết tâm pháp vi diệu mà đương thể hiện tiền. Nếu hướng ngoại tìm cầu thì mất chân đạo, cho nên nói Thiện Tài viếng thăm các bậc thiện hữu mà chẳng ra khỏi rừng Sa-la; Từ Thị lập công phu một đời thành Phật mà chẳng lìa một niệm vô sinh tính hải.

Do đó kinh Tịnh Danh nói: “Nếu Di-lặc được A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề thì tất cả chúng sinh đều cũng phải được. Vì sao ? Tất cả chúng sinh là tướng bồ-đề. Nếu Di-lặc diệt độ thì tất cả chúng sinh cũng phải diệt độ. Vì sao ? Chư Phật biết tất cả chúng sinh rốt ráo tịch diệt là tướng niết-bàn, không còn diệt nữa. Cho nên biết đã thành rồi không còn thành nữa, đã diệt rồi không còn diệt nữa. Vì những kẻ chưa biết mà phương tiện nói thành, phương tiện nói diệt, nếu chấp phương tiện thì mất bản tông.

Kinh Đại Trang Nghiêm Pháp Môn ghi: “Khi ấy, Văn-thù-sư-lợi nói với cô gái tên Kim sắc: Như thế thể tính năm ấm là thể tính bồ-đề, thể tính bồ-đề là thể tính tất cả chư Phật. Như thể tính năm ấm trong thân cô chính là thể tính tất cả chư Phật, thể tính chư Phật chính là thể tính năm ấm tất cả chúng sinh. Cho nên ta nói thân cô là bồ-đề.

Lại nữa, biết năm ấm gọi là biết bồ-đề, vì sao ? Chẳng phải lìa năm ấm mà Phật được bồ-đề, chẳng phải lìa bồ-đề mà Phật biết năm ấm. Phương tiện này biết tất cả chúng sinh đều đồng bồ-đề, bồ-đề cũng đồng tất cả chúng sinh. Thế nên ta nói thân cô là bồ-đề”.

Kinh Đại Bảo Tích ghi: “Bồ-đề gọi là tâm bình đẳng vì không chỗ khởi. Bồ-đề gọi là chúng sinh bình đẳng vì vốn không sinh. Cho đến bồ-đề là tính tướng như thế. Nếu có sự nguyện cầu đối với pháp này thì uổng công vô ích. Vì sao ? Bồ-tát phải thực hành như bồ-đề tính, hay thực hành như thế gọi là chính hạnh”.

Kinh Tư Ích có kệ:

Bồ-tát không hoại sắc
Mà phát tâm bồ-đề
Biết sắc tức bồ-đề
Đây gọi hành bồ-đề.
Bồ-đề cũng như sắc,
Đồng nhập nơi tướng như,
Không làm hỏng pháp tính,
Đây gọi hành bồ-đề.
Chẳng hoại các pháp tính,
Đây là nghĩa bồ-đề.
Trong nghĩa bồ-đề này
Cũng không có bồ-đề,
Chính hành đệ nhất nghĩa
Đây gọi hành bồ-đề.

Kinh Anh Lạc nói: “Phát tâm trụ là người còn bị ràng buộc chưa biết Tam bảo cho đến gặp được Phật, Bồ-tát ở trong giáo pháp khởi một niệm liền tin mà phát tâm bồ-đề, nói rằng vừa từ phàm phu mới phát tâm, biết rõ trong đây phát tâm gồm cả trước sau”.

Hỏi: Đây đã là ban đầu, làm sao được đầy đủ các hạnh vị và hạnh đức Phổ Hiền ở sau ?

Cổ đức giải thích việc này có hai môn:

1- Hành bố thứ đệ môn: Nghĩa là từ nhỏ đến to, từ cạn đến sâu, thứ lớp giúp nhau để đến bờ kia.

2- Viên dung thông nhiếp môn: Nghĩa là một vị đầy đủ tất cả vị. Như kinh Hoa Nghiêm đã nói, cũng như trong Đại Phẩm nói một hạnh đầy đủ tất cả hạnh. Trong đó có hai môn: Một là duyên khởi tương do môn hai là pháp giới dung nhiếp môn. Phần truớc bao gồm các vị trước sau vô biên hạnh hải đồng một duyên khởi là hạnh đức Phổ Hiền.

Các duyên hướng về nhau lược có hai nghĩa:

1- Căn cứ theo dụng do tương đãi nên có nghĩa hữu lực vô lực, cho nên được tương thu và tương nhập.

2- Căn cứ theo thể do tương tác nên có nghĩa hữu thể vô thể, cho nên được tương tức và tương thị.

Lại có hai bồ-đề: Một là tính tịnh, hai là viên tịnh.

Từ duyên khởi là viên tịnh. Viên tịnh lại có hai: Một nói về duyên khởi, vì vạn hạnh làm duyên; hai nói về tính khởi, hoàn toàn là công đức tính tịnh chân như hiển bày.

Lại duyên khởi vô tính là tính tịnh.

Như kinh Pháp Hoa có kệ:

Chư Phật lưỡng túc tôn
Biết pháp thường vô tính
Giống Phật từ duyên khởi
Thế nên nói nhất thừa.

Lại có hai nghĩa: Một là căn cứ nghĩa hành bố uyển chuyển, hai là căn cứ nghĩa viên dung hoãn gấp vô ngại. Như Thiện Tài thấy tiên nhân chắp tay, trải qua mỗi mỗi đức Phật vô lượng kiếp nên biết thời gian dài ngắn không thể nghĩ nghì, đây là chỗ kì đặc.

Như Bồ-tát Hiền Thủ nói: “Tin Đại thừa còn dễ, hay tin pháp này khó hơn nhiều, vì tâm ban đầu mà đầy đủ tất cả đức nên khó tin. Giả sử ở trong giấc mơ vì lo sợ mà phát tâm bồ-đề, còn được gọi là đại Bồ-tát, huống là phát chính tín, đây là phát của khai phát”. Phẩm Như Lai Tính trong kinh Đại Niết-bàn ghi: “Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: Bạch Thế Tôn, vì sao chưa phát tâm bồ-đề mà được nhân bồ-đề ? Phật bảo Ca-diếp: Nếu có người nghe kinh Đại Niết-bàn rồi nói tôi không cần phát tâm bồ-đề là phỉ báng Chính pháp. Người này nằm mơ gặp la-sát trong lòng kinh sợ. La-sát nói: Ôi thiện nam, nếu hôm nay ông không phát tâm bồ-đề ta sẽ giết ông. Người này sợ hãi, thức dậy liền phát tâm bồ-đề. Người này chết đi nếu đọa vào ba đường ác hoặc ở tại trời người, tiếp tục nghĩ đến tâm bồ-đề, phải biết người này là đại Bồ-tát”.

Hỏi: Kinh nói: Phật dạy người học giáo pháp của ta chỉ có chứng mới biết. Nay nói bồ-đề không thể dùng thân tâm mà được, không tu không chứng thì kẻ mới phát tâm bồ-đề làm sao thú hướng ?

Đáp: Nếu có thể tin ngộ bồ-đề vô tướng không thể thủ, vô tính không thể tu. Thông đạt rõ ràng như thế tức là chân chứng. Như kinh Đại Thụ Khẩn-na-la Vương Sở Vấn ghi: “Bồ-tát nên tư duy: trong đây cái gì là ngã, cái gì là ngã sở, ai hay được bồ-đề ? Là thân được hay là tâm được ? Cho đến khi quán như thế, thấy rõ ràng thân không được bồ-đề, cùng biết là tâm không được bồ-đề. Vì sao ? Vì các pháp không thể đem sắc chứng sắc, đem tâm chứng tâm. Nhưng người ấy ở trong ngôn thuyết biết tất cả pháp tuy vô hình vô sắc, vô tướng vô lậu, không thể nhìn thấy, không chứng cũng chẳng phải không chứng. Vì sao ? Vì tất cả thân Như Lai vô lậu. Lại vì thân chư Như Lai vô lậu nên tâm cũng vô lậu. Lại vì tâm Như Lai vô lậu nên sắc cũng vô lậu. Nếu hay biết như thế thì không có tâm sở phát, năng phát. Nếu vào trong Tông Cảnh gọi là chân phát. Đã hay phát tâm lại còn khai thị cho người khác thì các vị Thánh cùng khen ngợi công đức vô biên. Như kinh có kệ:

Phát tâm, cuối cùng không sai khác;
Hai tâm như thế, sơ tâm khó,
Dù chưa tự độ, độ người trước,
Nên ta kính lễ sơ phát tâm.