TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 18

Hỏi: Pháp thân chư Phật ở khắp nơi tâm chúng sinh đã đồng với nhất tâm tại sao có hiện với chẳng hiện ?

Đáp: Thường hiện không lúc nào chẳng hiện, hoặc ở nơi một trần hiện ngay không gì chẳng đầy đủ, hoặc ở nơi các trần hiện khắp không gì chẳng cùng khắp. Một chỗ hiện ngay như lông mi Như Lai, mũ báu Văn-thù, trong lâu đài Di-lặc, lỗ chân lông Phổ Hiền, trong thất Tịnh Danh, trong bụng Ma-da, đầu kim, hạt cải, hạt bụi gần, cõi nước xa đều hiện ngay. Như Kinh Văn-thù Bát Nê-hoàn nói: “Thân Văn-thù như núi vàng sáng chói, đầu đội mũ báu Tỳ-lăng-già có năm trăm nghìn màu, trong mỗi màu mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chư thiên, long cung, chúng sinh ở thế gian đều hiện trong đó”.

Kinh Duy-ma nói: “Khi ấy, trưởng giả Duy-ma-cật hiện sức thần thông, tức thời đức Phật biến hóa ba vạn hai nghìn tòa sư tử cao rộng sạch đẹp bay đến thất Duy-ma-cật, các vị Bồ-tát, đại đệ tử, Thích, Phạm, Tứ thiên vương v.v… xưa nay chưa từng thấy cảnh ấy. Thất của Duy-ma rộng lớn dung chứa ba vạn hai nghìn tòa sư tử mà không chướng ngại; đối với thành Tỳ-da-ly và bốn đại châu Diêm-phụ-đề cũng không bị hẹp lại, thảy đều hiện như cũ”. Phẩm Nhập Pháp Giới ghi: “Ma-da phu nhân bảo Thiện Tài: Thiện nam, bấy giờ Bồ-tát từ trời Đâu-suất sắp giáng thần có các vị Bồ-tát cùng quyến thuộc nhiều như số cực vi trần trong mười cõi Phật tụ hội, từ cung trời xuống nhập vào thân ta. Các vị Bồ-tát kia ở trong bụng ta hiện đại thần thông dạo chơi tự tại, hoặc có vị lấy tam thiên đại thiên thế giới làm một bước, hoặc có vị lấy bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số thế giới làm một bước. Trong mỗi niệm, mười phương bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số thế giới, nơi Như Lai, chúng hội Bồ-tát Tứ thiên vương, Tam thập tam thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, cho đến các Phạm Thiên vương đều đến để thấy Bồ-tát ở trong thai thần thông biến hóa, cung kính cúng dường, lắng nghe Chính pháp, đều vào trong thân ta. Tuy trong bụng ta mà có thể dung chứa chúng hội như thế nhưng thân chẳng rộng thêm cũng không hẹp lại. Các vị Bồ-tát ấy tự thấy mình đang ở trong đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm. Thiện nam, như vậy trong bốn đại châu Diêm-phù-đề Bồ-tát thọ sinh, ta là mẹ của Bồ-tát, trong tam thiên đại thiên thế giới trăm ức bốn đại châu Diêm-phù-đề đều cũng như thế. Nhưng thân ta xưa nay không hai cũng lại chẳng phải một, chẳng phải ở một chỗ, chẳng phải ở nhiều chỗ. Vì sao ? Vì tu pháp môn Bồ-tát đại nguyện trí huyễn trang nghiêm giải thoát”.

Như Tiên đức nói: Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, là ý nghĩa ở thai. Nếu như thế thì tất cả chúng sinh đều ở trong thai của phu nhân Ma-da, chẳng phải riêng đức Thích-ca. Vì sao ? Vì tâm chúng sinh chính là pháp giới. Nếu thấu rõ tâm không thì không có thai phần. Như kinh Bồ-Tát Xử Thai ghi: “Phật bảo Di-lặc: Bồ-tát Hành Không làm thế nào đi đến mười phương cõi nước giáo hóa chúng sinh ? Di-lặc bạch Phật: Bồ-tát Hành Không chẳng thấy cõi nước cũng không có Phật. Phật tự vô Phật, làm sao có Phật ? Địa, thủy, hỏa, phong, thức giới, ngã nhân, thọ mệnh thảy đều không tịch, vì thế mà không có thai phần”.

Các trần hiện khắp, ngang thì khắp không gian, dọc thì suốt thời gian, đi vào trùng trùng viên dung phổ biến. Cổ đức nói: “Tất cả những việc bất tư nghì đều hiện khắp mọi nơi, chỉ có một ứng dụng của pháp thân thanh tịnh”. Pháp thân này chính là tâm, cho nên nói nếu hay quán xét tâm không hai mới thấy pháp thân thanh tịnh; một niệm khởi tâm ác pháp thân cũng hiện theo, một niệm khởi tâm thiện pháp thân cũng hiện theo, đây gọi là nơi nơi đều hiện. Cho đến sắc xứ hiện không xứ, hiện tự tại vô ngại, chẳng cần suy tôn chư Phật mà chỉ cần nhất niệm không tâm mà thôi.

Lại như hải ấn ấn khắp tất cả. Phẩm Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử, đại Bồ-tát nên biết Như Lai thành Chính giác, đối với tất cả nghĩa không có chỗ quan sát, đối với pháp bình đẳng không có chỗ nghi hoặc, không hai không tướng, không đi không đứng, không hạn lượng không bờ mé, xa lìa nhị biên, trụ trung đạo, vượt lên trên tất cả văn tự ngôn thuyết,  biết tất cả tâm niệm, sở hành, căn tính, dục lạc, phiền não, nhiễm tập của chúng sinh. Nói tóm lại, ở trong một niệm đều biết tất cả các pháp trong ba đời. Phật tử, ví như biển cả có thể in bóng tất cả sắc thân hình tượng của chúng sinh trong bốn đại châu, thế nên nói chung gọi là biển cả, nên trong kinh có hải ấn tam-muội”.

Sớ thích: Hải ấn tam-muội có mười nghĩa. Căn khí là sở hiện, định tâm của Bồ-tát là năng hiện, không gì chẳng phải không tâm cho nên gọi là tam-muội.

1- Vô tâm năng hiện, kinh nói không có công dụng không phân biệt.

2- Hiện vô sở hiện, kinh nói vì như bóng nắng.

3- Năng hiện cùng sở hiện phi nhất.

4- Phi dị, kinh nói biển cả hay hiện, vì năng sở khác nhau nên phi nhất; vì ngoài biển cả ra tìm hình tượng không thể được nên phi dị, hiển bày định tâm cùng với pháp được hiện. Vì là tướng của tính nên năng sở rõ ràng, vì là tính của tướng nên vật ngã không hai.

5- Không đến đi mà hiện vạn pháp nơi tự tâm.

6- Rộng lớn, kinh nói khắp cả bao dung không chướng ngại, nói rằng tam-muội tâm ở khắp pháp giới thì sắc tâm chúng sinh đều là vật trong định tâm, dùng khắp pháp giới cũng không lìa tâm này.

7- Phổ hiện, kinh nói tất cả đều hay hiện. Lại nói Bồ-tát ấn khắp các tâm hành. Nghĩa này khác với nghĩa rộng lớn, vì đây căn cứ sở hiện không lựa chọn lớn nhỏ, còn kia căn cứ năng hiện, lượng của nó cùng khắp.

8- Đốn hiện, kinh nói vì một niệm hiện, nghĩa là không có trước sau như dấu ấn in xuống liền thành.

9- Thường hiện, chẳng phải như gương sáng lúc có hiện, lúc không hiện.

10- Phi hiện hiện, như gương sáng có đối trước gương mới hiện, hình tượng của Tứ thiên chẳng đối trước gương mà hiện, nên nói phi hiện hiện. Vì không đối đãi cho nên thường hiện bao trùm ba thời.

Nghĩa hải ấn hiện trên đây tùy theo lý sự năng sở mà chia làm mười môn, nhưng chỉ có một nghĩa chân tâm tịch chiếu phổ hiện. Nếu có cái chẳng hiện tức là khách trần tự che, thấy như có lưới ngăn cách, chẳng phải lỗi của pháp thân.

Luận Ma-ha-diễn nói: “Pháp thân Như Lai bình đẳng tự nhiên ở khắp mọi nơi không có tác ý, chỉ nương theo tâm chúng sinh mà hiện. Tâm chúng sinh như gương, nếu gương bẩn thì sắc tướng không hiện; cũng như thế tâm chúng sinh nhơ nhớp thì pháp thân không hiện, như mặt trời chiếu giữa hư không mà người mù không thấy, sấm nổ vang rền mà kẻ điếc không nghe. Đạo khế hội thì gần vì chẳng ở bên thân. Người có phước lớn ra đời thì vàng ngọc hiện, kẻ bạc phước ra đời thì gai góc sinh, đây là do tự tâm hiện hoặc chẳng hiện. Nếu người thấu rõ tâm tính thì đều bình đẳng hiển hiện. Như Thần Kiếm Ca của hòa thượng Lạc Phố ghi:

Quân tử được nó quên kia đây
Tiểu nhân được nó lại xem thường
Nhà người không dùng kiếm nhà ta,
Cao thấp trên đời sớm tối bình.

Thế nên chúng sinh không rõ được sự hiển hiện rõ ràng, đều trệ hữu mê chân, trệ chân mê trung, trệ trung mê tính, tạo thành ba thứ duyên tập, do đó thành chướng ngại. Như Thiên Thai Tịnh Danh Sớ nói: “Căn khí chúng sinh vô lượng vô biên, song chính yếu không ra ngoài ba thứ loại duyên tập: Một hữu vi duyên tập, là cõi nước nhiễm tịnh trong tam giới, thảy đều mê chân trệ hữu mà khởi kết nghiệp, chịu phần đoạn sinh tử. Hai vô vi duyên tập là cõi nước hữu dư ngoài tam giới và quả báo độ, cho đến hạ phẩm trung phẩm thường tịch quang độ. Chúng sinh ở ba cõi này mê trung đạo Phật tính, trệ vào chân không vô vi, nương vô vi mà khởi kết nghiệp, chịu biến dịch sinh tử. Ba tự thể pháp giới duyên tập, là Bồ-tát mê tự thể khởi”. Như trong Tông môn nói: “Thấy rồi không quên”, nay ngoài thất chiết phục chúng sinh hữu vi duyên tập trong tam giới, kế đến đệ tử nhất phẩm chiết phục chúng sinh vô vi duyên tập, sau cùng Bồ-tát nhất phẩm chiết phục chúng sinh tự thể pháp giới duyên tập.

Hỏi: Vô vi duyên tập với tự thể duyên tập là đồng hay là khác ?

Đáp: Tên tuy có khác nhưng thể của nó không khác. Nhị thừa mê tự thể khởi vô vi sinh kế chấp, chấp vô vi nên phải nhận tên vô vi duyên tập. Bồ-tát cũng mê tự thể khởi vô vi duyên tập, nhưng Bồ-tát quán phá cái chấp vô vi, vô vi duyên tập chưa hết. Hoặc duyên tập phụ theo thể này phải nhận tên tự thể duyên tập. Như phàm phu mê chân khởi hữu vi duyên tập, học nhân thấy chân lý, dứt hết kiến tư hoặc. Tư duy không dừng, vẫn ở nơi chân lý có tên gọi tham sân sắc nhiễm vô sắc.

Hỏi: Học nhân hữu vi duyên tập chưa hết mà thấy chân, vẫn còn có lậu hoặc nên không được gọi là tự thể duyên tập. Bồ-tát vô vi duyên tập chưa hết mà thấy chân, tại sao được gọi là tự thể duyên tập ?

Đáp: Nhị thừa thấy chân chỉ là lý không, lý không chẳng phải pháp thân, không được gọi là tự thể. Bồ-tát thấy chân đúng là pháp thân, pháp thân thường tại cho nên được gọi là tự thể duyên tập. Bồ-tát chưa biết, vì chưa biết nên cần phải chiết phục. Thế nên không dứt ba thứ duyên tập thì pháp thân chẳng hiện. Lại Viễn đại sư nói: “Nghĩa duyên tập, thống nhất chỉ một loại, nếu căn cứ chân vọng thì chia làm hai: một là vọng duyên tập tam giới hư vọng chỉ do nhất tâm tạo tác như những gì xảy ra trong mộng chỉ là vọng tâm sinh ra; hai là chân duyên tập, tất cả các pháp đều do chân tâm sinh khởi như những gì xảy ra trong mộng đều do báo tâm tạo ra.

Nếu căn cứ tâm thức thì có ba loại: 1- Sự duyên tập, từ sự thức khởi các pháp. 2- Vọng duyên tập, từ vọng duyên khởi các pháp. 3- Chân duyên tập, từ chân thức khởi các pháp.

Cho nên kinh nói nếu không có Như Lai tạng thức thì bảy thức không trụ, không biết chán ghét sự đau khổ thích cầu niết-bàn, từ Như Lai tạng khởi sinh các pháp.

Lại căn cứ vào hữu vi vô vi mà có ba loại: 1- Hữu vi duyên tập, 2- Vô vi duyên tập, 3- Hữu vi vô vi duyên tập”.

Hỏi: Thấu rõ tâm này là Phật có cần đến tám tướng thành đạo chăng ?

Đáp: Nếu rõ tâm này chính là thiên chân Phật thì chẳng nói thành Phật với không thành Phật! Nếu nói thành Phật là lời nói thừa. Kinh Viên Giác ghi: “Diệu viên giác tâm của tất cả Như Lai vốn không có bồ-đề và niết-bàn, cũng không có thành Phật và chẳng thành Phật, không có luân hồi với phi luân hồi v.v…”. Giải thích: Vốn không có bồ-đề và niết-bàn, đây là hai chỗ chuyển y, cũng là trụ quán ngữ, chuyển phiền não nên được bồ-đề chuyển sinh tử nên được niết-bàn. Nếu rõ phiền não tính không, sinh tử vốn tịch, đã không có tướng bị chuyển cũng không có tên hay chuyển. Không có chuyện chẳng thành Phật là không có luân hồi. Cũng không có chuyện thành Phật là không gì chẳng phải luân hồi. Chỉ có diệu viên giác tâm không còn có gì khác. Nay chỉ sợ chẳng được ánh sáng của Tông Cảnh, nếu được ánh sáng ấy thì tự nhiên vào cửa viên giác, soi khắp pháp giới. Do đó Tiên đức nói: Nếu tích trượng trở về cố quốc, chớ lo thiên hạ chẳng nghe danh. Bàng cư sĩ có bài tụng:

Mười phương đến dự hội,
Mỗi người học vô vi,
Đây là trường tuyển Phật,
Tâm không thi đỗ về.

Như người xưa có bài ca:

Chẳng ngồi thiền, chẳng giữ luật
Tâm châu diệu giác như mặt nhật
Đương thể hư huyền không một vật
Ai người kế thừa Đăng Nhiên Phật.

Hỏi: Chủng tử hiện hành nghiệp quả chúng sinh nhiều kiếp huân tập như keo sơn, vì sao chỉ rõ nhất tâm lập tức thành Phật ?

Đáp: Nếu chấp tâm cảnh là thật, nhân pháp chẳng phải không thì uổng công muôn kiếp tu hành mà không chứng đạo quả. Nếu thấu rõ vô ngã, thông đạt vật hư thì năng sở đều dứt có cái gì không chứng ? Chỉ sợ không tin nhất tâm tự sinh trở ngại. Nếu vào Tông Cảnh thì đến đâu mà chẳng đi theo ? Chẳng hạn như Bồ-tát Dũng Thí nhân phạm dâm dục mà ngộ vô sinh, Tính Tì-kheo-ni không có tâm tu hành cũng chứng đạo quả, huống là tin hiểu pháp Nhất thừa, thật rõ tự tâm mà không khắc chứng ? Có người nghi không dứt phiền não sao ? Giải thích: Chỉ cần xét kỹ sát đạo dâm vọng từ nhất tâm khởi thì nó liền mất, cần gì phải dứt ? Thế nên chỉ cần thấu rõ nhất tâm thì tự nhiên muôn cảnh như huyễn. Tại sao tất cả các pháp đều từ tâm huyễn sinh. Tâm đã không hình thì pháp nào có tướng ? Cho nên Hòa Thượng Cao Thành ca:

Thuyết giáo tột cùng không thấu lý,
Đọc rộng thì ra chẳng biết tâm,
Biết rõ tâm thấu suốt cảnh,
Biết tâm rõ cảnh dòng thiền tĩnh
Nếu hay rõ cảnh liền biết tâm,
Muôn pháp đều như bóng Thát-bà.
Tính tì-kheo-ni chính là Ma-đăng-già.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Phật bảo A-nan: Ma-đăng-già là dâm nữ không có tâm tu hành, nhờ thần lực ngầm giúp mau chứng vô học, còn Thanh văn như các ông thì thế nào ? Các ông cầu tối thượng thừa quyết định thành Phật giống như rắc bụi theo chiều gió có gì khó ?” kinh Tịnh Nghiệp Chướng nói: “Khi ấy, tì-kheo Vô Cấu Quang đi vào thành Tỳ-xá-ly lần lượt khất thực do không biết nên đi vào nhà dâm nữ. Dâm nữ khởi tâm nhiễm ô, suy nghĩ: Ta phải cùng hành dục với tì-kheo, nếu ông ta không chịu thì ta sẽ tự vận. Nghĩ xong, nàng liền đóng cửa lại và bảo tì-kheo: Xin Tôn giả cùng hành dục với tôi, nếu không thuận theo tôi, tôi sẽ chết mất. Khi ấy Vô Cấu Quang bảo dâm nữ: Hãy thôi đi bà chị! Tôi không thể phạm tội. Vì sao ? Đức Phật chế giới tôi phải vâng theo, thà bỏ thân mạng chứ không thể hủy giới cấm. Bấy giờ dâm nữ lại nghĩ: Nay ta phải dùng chú thuật dược thảo khiến cho tì-kheo này cùng ta hành lạc, nàng bèn nói: Tôi không thể khiến ông thoái chuyển hủy phạm giới cấm, chỉ cần ông nhận lấy thức ăn tôi dâng thôi! Dâm nữ liền vào trong nhà chú nguyện vào thức ăn rồi trút vô bát của tì-kheo. Do sức chú thuật, tì-kheo mất chính niệm, tâm ham muốn khởi dậy càng lúc càng mạnh. Khi ấy dâm nữ thấy tì-kheo sắc mặt biến đổi liền tiến đến trước kéo tay cùng hành lạc. Hành lạc xong, tì-kheo đi khất thực rồi trở về tinh xá. Về đến tinh xá, tì-kheo buồn rầu hối hận, toàn thân bức rức phiền não, tự nghĩ: tại sao ta lại phá đại giới ? Ta không đáng thụ nhận của tín thí. Nay ta là kẻ phá giới, sẽ bị đọa địa ngục. Khi ấy Vô Cấu Quang nói với các tì-kheo đồng phạm hạnh: Nay tôi phá giới, không phải là sa-môn, ắt đọa địa ngục. Bấy giờ các tì-kheo hỏi Vô Cấu Quang : Do nhân duyên gì mà phá giới ? Vô Cấu Quang thuật lại sự việc trên. Lúc ấy các vị đồng học bảo: Nhân giả nên biết ở đây có đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi được vô sinh pháp nhẫn khéo hay trừ diệt tội phá giới cũng làm cho chúng sinh thoát khỏi sự trói buộc. Ta với ông hãy đến chỗ ngài Văn-thù-sư-lợi nhờ giải trừ nỗi buồn rầu hối hận của ông.

Khi ấy, Vô Cấu Quang chưa ăn uống gì cả, liền cùng các tì-kheo đi đến ngài Văn-thù-sư-lợi, đến nơi chào hỏi cúng dường cung kính, đem việc ở trên thuật lại với Văn-thù-sư-lợi. Ngài Văn-thù bảo Vô Cấu Quang: Bây giờ ông hãy ăn no đi rồi cùng ta đi đến Như Lai thưa hỏi Như Lai việc này rồi sẽ hành trì theo lời Phật dạy. Ăn xong, Vô Cấu Quang cùng Văn-thù đi đến đảnh lễ chân Phật rồi ngồi một bên. Lúc ấy tì-kheo Vô Cấu Quang trong lòng lo sợ không dám hỏi Phật, Văn-thù-sư-lợi liền đứng lên, sửa lại y phục bày vai phải, gối phải chạm đất, chắp tay hướng Phật rồi đem sự việc ở trên bạch với Thế Tôn. Thế Tôn bảo Vô Cấu Quang: Ngươi thực sự có làm như thế chăng ? Đáp: Thực sự có làm. Phật bảo tì-kheo: Ngươi có ý muốn phạm dâm dục chăng ? Đáp: Không. Phật bảo tì-kheo: Ngươi vốn không có ý tại sao lại phạm ? Tì-kheo đáp: Sau đó con mới sinh lòng dâm dục. Phật nói: Như vậy tâm tì-kheo phạm dâm dục chăng ? Đáp: Đúng vậy. Phật bảo: Ta thường chẳng phải nói tâm cấu nên chúng sinh cấu, tâm tịnh nên chúng sinh tịnh ? Đáp: Đúng vậy. Phật bảo: Ý ngươi thế nào ? Trong chiêm bao khi thọ dục tâm ngươi có biết chăng ? Đáp : Có biết. Phật bảo: Khi ngươi phạm dâm dục há chẳng phải do tâm mà hay biết ? Đáp: Đúng vậy. Phật dạy: Nếu như thế thì tì-kheo khi thức và mộng phạm dâm dục có gì sai khác ? Tì-kheo đáp: Tỉnh mộng phạm dục không sai khác. Phật dạy: Ý ngươi thế nào ? Trước kia ta chẳng thường nói tất cả các pháp đều như mộng ư ? Đáp: Đúng vậy. Phật dạy: Ý ngươi thế nào ? Các pháp trong mộng là chân thật chăng ? Đáp: Không. Phật bảo: Ý ông thế nào ? Thức và mộng hai tâm đều là chân thật chăng ? Đáp: Không. Phật bảo: Nếu chẳng phải chân thật là có pháp chăng ? Đáp: Không. Phật bảo: Ý ngươi thế nào ? Không chỗ có pháp là có sinh chăng ? Đáp: Không. Phật bảo: Nếu pháp không sinh thì có diệt có trói buộc cởi mở không ? Đáp: Không. Phật bảo: Ý ngươi thế nào ? Pháp vô sinh còn không có thì có việc đọa vào ba đường ác chăng ? Phật bảo: Tất cả các pháp bản tính thanh tịnh, song phàm phu ngu si vô trí, đối với chỗ không có pháp mà vọng sinh phân biệt, vì phân biệt nên đọa vào ba đường ác. Phật lại dạy tì-kheo: Các pháp không có thật mà hiện các sự việc nên làm, vì phàm phu chấp trước tham sân si; phân biệt các pháp vì không biết “như” nên chẳng phải là chân thật. Phật dạy: Các pháp hư dối vì như sóng nắng; các pháp như mộng huyễn bản tính tự tại vì đạt đến thanh tịnh; các pháp cứu cánh như trăng trong nước, tợ bọt nước v.v…; các pháp vắng lặng vì không có già, bệnh, chết; các pháp không nắm lấy vì chẳng phải là sắc pháp nên không thể thấy; các pháp không tụ hội vì như hư không; các pháp không tính vì vượt qua các tính; các pháp thậm thâm vì vượt lên hư vọng; các pháp rộng lớn vì không nơi chỗ; pháp không chỗ tạo tác vì rốt ráo lặng yên; pháp không chỗ nương tựa vì cảnh giới không; pháp không căn bản vì tất cánh không; pháp lìa triền cái vì phiền não kết sử không có thật, pháp lìa sự bộc phát vì tính chẳng sinh. Nghe Phật dạy, Vô Cấu Quang trong lòng hoan hỉ, buồn vui lẫn lộn rơi lệ chắp tay nhất tâm chiêm ngưỡng Phật và nói kệ:

Vui thay đức Thế Tôn đại công đức
Là chỗ quy ngưỡng của trời người
Khéo biết tất cả pháp thắng diệu,
Cúi đầu dứt sạch mọi khổ đau.

Lại nữa, Phật bảo Văn-thù: Quá khứ có Phật hiệu Vô Cấu Quang, khi ấy có tì-kheo tên Dũng Thí đi vào thành Nan Thắng lần lượt khất thực đến nhà trưởng giả. Nhà ấy có cô con gái dung mạo đoan chính, thấy Dũng Thí liền sinh tâm ái nhiễm, đến đỗi ngã bệnh, phải thỉnh Dũng Thí đến thuyết pháp. Sau đó Dũng Thí lui tới nhà này nhiều lần trở nên thân mật khiến mất chính niệm sinh tâm ái luyến, liền cùng cô gái làm việc bất tịnh. Do đam mê nên Dũng Thí lui tới nhiều lần khiến chồng cô gái kia sinh nghi liền tìm cách giết Dũng Thí. Tì-kheo Dũng Thí biết được việc này liền lấy thuốc độc đưa cho cô gái nói nếu cô nghĩ đến tôi thì hãy dùng thuốc độc này giết chết ông chồng đi! Cô gái lấy thuốc độc trộn vào thức ăn rồi sai người hầu dâng lên chồng. Người chồng ăn phải liền mất mạng. Khi ấy Dũng Thí nghe người kia chết liền sinh lòng hối hận, nghĩ: Nay ta đã tạo tội ác tày trời, làm sao gọi là tì-kheo, đã phạm dâm dục lại còn giết người. Nếu ta chết đi ắt đọa ác đạo, ai có thể giúp ta khỏi tội ấy ? Dũng Thí bất an đi từ tinh xá này đến tinh xá khác, y phục rơi xuống đất, than thầm: Ôi! Nay ta chính là chúng sinh ở địa ngục. Khi ấy tại tinh xá Ê-vô có vị Bồ-tát Tỷ-cúc-đa-la, tì-kheo Dũng Thí liền vào phòng gieo thân xuống đất, Bồ-tát hỏi Dũng Thí: Vì sao ông gieo thân xuống đất? Tì-kheo đáp: Bạch đại đức! Nay tôi là chúng sinh trong địa ngục. Bồ-tát hỏi: Ai làm cho ông trở thành người địa ngục. Đáp rằng: Tôi phạm tội dâm dục và giết người. Bồ-tát bảo Dũng Thí: Tì-kheo đừng sợ hãi, nay tôi sẽ ban cho ông sức vô uý. Bấy giờ, Dũng Thí nghe Bồ-tát ban cho âm thinh vô uý, tức thời Bồ-tát nắm lấy tay phải Dũng Thí từ đất nhắc lên đem đến chỗ khác, ngồi ở trong rừng cây. Khi ấy, Bồ-tát Tỷ-cúc-đa-la tức thời nhập tam-muội chư Phật cảnh giới đại thừa diệu môn Như Lai bảo ấn, nhập tam-muội xong liền ở nơi thân Bồ-tát xuất hiện vô lượng thân Phật, đều có ba mươi hai tướng sắc vàng ròng khắp cả rừng cây. Lúc ấy chư Phật tức thời đồng thanh nói kệ:

Các pháp, bóng trong gương
Cũng như trăng trong nước
Phàm phu tâm ngu mê
Phân biệt tham sân si
Các pháp thường không tướng
Vắng lặng không cội rễ
Vô biên không nắm bắt
Tính dục cũng như thế.

Khi ấy, trong rừng có hai vạn thiên tử đi đến Bồ-tát Tỷ-cúc-đa-la nghe pháp, nghe bài kệ này liền được vô sinh pháp nhẫn”.

Hỏi: Diệu viên giác tâm đã không sở hữu, tại sao trong kinh giáo nói việc chư Phật thành đẳng chính giác xuất hiện ở thế gian ?

Đáp: Một là chúng sinh căn cơ thuần thục tự tâm cảm hiện, hai là bản nguyện nhân địa của Bồ-tát nhưng cảnh giới chư Phật rộng lớn vô biên, chẳng phải tình thức biết được, chỉ thấy tính mới thấu rõ. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử, Bồ-tát ma-ha-tát phải làm thế nào biết cảnh giới Như Lai chứng Chính giác ? Phật tử, Bồ-tát ma-ha-tát dùng trí tuệ vô chướng vô ngại để biết tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai; biết tất cả cảnh giới trong ba đời, tất cả cảnh giới trong sát-na, tất cả pháp cảnh giới, tất cả chúng sinh cảnh giới, chân như vô sai biệt cảnh giới, pháp giới vô chướng ngại cảnh giới, thật tế vô biên tế cảnh giới, hư không vô phân lượng cảnh giới, vô cảnh giới cảnh giới là cảnh giới Như Lai. Phật tử, như tất cả cảnh giới thế gian vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng, cho đến như cảnh giới vô cảnh giới vô lượng, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng. Như cảnh giới vô cảnh giới tất cả chỗ không có, cảnh giới Như Lai cũng như thế tất cả chỗ không có. Phật tử, Bồ-tát ma-ha-tát phải biết cảnh giới tâm là cảnh giới Như Lai. Như cảnh giới tâm vô lượng vô biên không trói không mở, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng vô biên không trói không mở. Vì sao ? Vì tư duy phân biệt như thế, vì hiển hiện vô lượng như thế, nên biết phàm Thánh không hai, tâm cảnh một gốc. Chân vô tính mà tức tướng phát minh, tướng vô thể mà do chân kiến lập, cho nên nói trí thân bát ngát gồm vạn tượng mà thành thể; vạn tượng vô hình dùng trí thân mà cùng thể. Nếu luận về môn hóa hiện, đây là sức bi nguyện ở nhân địa của chư Phật làm cho chúng sinh căn cơ thuần thục tự tâm cảm hiện. Trong tâm chúng sinh chư Phật ứng hiện vô cùng, trong tâm chư Phật cơ duyên chúng sinh bất tận, vì thế pháp thân không hình tượng do cảm mà thành hình; diệu ứng không nơi chỗ ứng theo niệm mà hóa hiện. Do thấu rõ bình đẳng mà đem đến những hi vọng, vì đạt vô tư mà tùy thuận các căn cơ. Cổ tụng:

Phật là Phật trong tâm chúng sinh
Theo mỗi căn cơ, không vật khác
Muốn biết cội nguồn tất cả Phật,
Ngộ từ vô minh vốn là Phật.

Như kinh Phật Địa nói: “Tùy sở thích của chúng sinh mà thị hiện, vì pháp tính bình đẳng viên mãn thành tựu”. Luận giải thích: Tùy các hữu tình ưa thấy sắc thân sai khác của Như Lai, Như Lai liền thị hiện sắc thân ấy. Như Lai tuy ở ngôi vị vô hí luận, do vì trí bình đẳng, sức tăng thượng nên đại viên cảnh trí tương ưng tịnh thức, hiện sắc thân vi diệu như lưu ly v.v… khiến cho các hữu tình căn lành thành thục, tự tâm biến hóa thân tướng như thế, nghĩa là ngoài tự tâm thấy thân Như Lai. Như khế kinh nói: “Do Như Lai có căn lực từ thiện mà có sự thị hiện, khiến cho trời người v.v… tự tâm biến đổi thấy thân Như Lai như sắc vàng ròng”. Lại như kinh nói: “Nếu chỗ ứng hóa vô lượng thì hữu tình phải thấy lưu ly ma-ni bảo sắc, Như lai liền không ngại thị hiện các thứ lưu ly ma-ni bảo sắc khiến cho tự tâm kia cũng biến hóa như thế, cho đến nói rộng ra, như thế thị hiện tất cả hình tướng bình đẳng của Như Lai. Bình đẳng tức là pháp tính, cho nên nói là pháp tính bình đẳng”. Nghĩa là chư Như Lai tùy theo chỗ hóa độ loài hữu tình ưa thấy hình tướng sắc thân liền thị hiện các hình tướng khác nhau cùng nơi cùng lúc khiến cho tự tâm kia biến hiện làm những việc lợi lạc. Cũng như sắc thân, các sự việc còn lại cũng thế, do đây thị hiện tu tập như trước viên mãn thành tựu.

Kinh Bình Đẳng Tính Trí Viên Mãn Thành Tựu Độ Nhất Thiết Chư Phật Cảnh Giới Trí Nghiêm ghi: “Văn-thù-sư-lợi hỏi: Tướng không sinh không diệt như thế nào ? Phật đáp: Chẳng sinh chẳng diệt tức là Như Lai. Văn-thù-sư-lợi, ví như cõi đất lưu ly tạo thành, cung điện của trời Đế-thích Tỳ-xà-diên hiện ở trong đó, người ở Diêm-phù-đề thấy bóng cung điện trong đất lưu ly, chắp tay cúng dường thắp hương rải hoa, cầu được sinh vào cung điện ấy và được dạo chơi như trời Đế-thích. Chúng sinh kia không biết đất này là bóng cung điện, bèn bố thí, trì giới, tu các công đức là được quả báo cung điện như thế. Văn-thù-sư-lợi, cung điện này thật ra không sinh diệt, vì cõi đất tịnh nên bóng hiện trong đó. Bóng cung điện kia cũng có cũng không, chẳng sinh chẳng diệt. Văn-thù-sư-lợi, chúng sinh thấy Phật cũng như thế, vì tâm kia tịnh nên thấy Phật thân. Phật thân chẳng sinh chẳng diệt không khởi không tận, chẳng phải sắc chẳng phải phi sắc, không thể thấy chẳng phải không thể thấy, chẳng phải thế gian, chẳng phải phi thế gian, chẳng phải tâm chẳng phải phi tâm, vì tâm chúng sinh tịnh nên thấy thân Như Lai, rải hoa thắp hương các thứ cúng dường, nguyện được sắc thân như thế, bố thí trì giới làm các công đức là được thân Như Lai vi diệu. Văn-thù-sư-lợi, thần lực Như Lai xuất hiện thế gian khiến các chúng sinh được lợi ích lớn, như bóng như hình theo chúng sinh thấy.

Lại nói các ví dụ như ánh sáng mặt trời vô tâm chiếu soi khắp nơi, ma-ni vô tâm rưới mưa báu, tiếng vang trong hang v.v… Đất lưu ly dụ cho tâm chúng sinh, bóng dụ cho Phật thân.

Lại kinh Hoa Nghiêm có ví dụ ma-ni tùy ánh, ma-ni hiện sắc dụ cho tự thụ dụng thân có bản sắc, không có xanh, vàng v.v…, có xanh vàng khác nhau là tùy cơ ánh hiện. Lại lấy hư không dụ cho Phật thân, vì hư không không có tướng nên không tùy theo nơi chốn mà có thêm bớt; vì pháp thân không hình nên chẳng phải y theo báo thân hóa thân mà hiện tinh thô. Như phẩm Nhập Định trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử, ví như hư không ở trong lỗ hạt cải do trùng ăn cũng chẳng thu nhỏ lại; ở trong vô số thế giới cũng chẳng nới rộng ra. Phật thân cũng như thế, khi thấy lớn cũng không thêm, lúc thấy nhỏ cũng không bớt. Những trạng huống trên đây đều dụ cho thấy Phật, nhưng đối với ví dụ bóng trong gương rất gần gũi, như hình chất đối trước gương thì thấy hình tượng trong gương, hình tượng là hình tượng của hình chất; cơ cảm đối với cõi nước thì trong mỗi cõi nước thấy Phật, Phật là Phật tâm”. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: “Hóa Phật từ lòng thành kính khởi”. Đại ý các ví dụ đều lấy thể không sinh diệt chẳng ngại sinh diệt, như chẳng phải sắc căn cứ vào thể, chẳng phải phi sắc căn cứ vào dụng thì báo hóa là một, thể dụng không khác, đều hội vô sinh, cùng quy Tông Cảnh.

Lại nếu chấp lấy sắc thinh là hành tà đạo, nếu chấp lìa sắc thinh thì không tránh khỏi đoạn không. Người xưa giải thích: Như kinh Hoa Nghiêm có kệ:

Sắc thân chẳng phải là Phật,
Âm thinh cũng như thế,
Cũng không lìa sắc thanh,
Thấy sức thần thông Phật.

Nếu theo quyền giáo thì bốn câu trên phân ra thể dụng; nếu theo tông này thì bốn câu đều là dụng, vì biết tất cả pháp tức là tâm tự tính. Bản chất ảnh tượng cũng là tự tâm, vì tất cả các pháp không ở ngoài tâm tính. Như trong bát-nhã biết rõ sắc là bát-nhã thì thông đạt các pháp. Đầu tiên thông đạt năm uẩn: Sắc là bát-nhã, tất cả pháp hướng về (thú) sắc. Sắc còn bất khả đắc thì làm sao có hướng về hay chẳng hướng về ? Thông đạt các pháp cũng như thế. Sắc bất khả đắc, ngay pháp tính không đã không có sở thú, làm gì có năng thú ? Tất cả pháp hướng về sắc giả quán, sắc còn bất khả đắc, không quán làm sao có hướng về hay chẳng hướng về ? Tức là trung đạo quán. Nay chỉ cần câu đầu, vì lấy sắc tính làm chỗ nương của các pháp, vì tính gồm thâu khắp cả nên đều hướng về sắc thì trong một sắc đầy đủ tất cả pháp, do nghĩa vô ngại nên một pháp thâu nhiếp pháp giới. Nếu có thể hiểu như thể thì thấy nghe tất cả cảnh giới không gì chẳng phải là Phật xuất thế.

Như kinh Đại Tập nói: “Bấy giờ, trong chúng có Bồ-tát Huệ Tụ bạch Phật: Bạch Thế Tôn, sinh lão bệnh tử có mặt trên đời tức là Phật hiện diện, tất cả lưới nghi phiền não có mặt tức là Phật hiện diện, vô minh có mặt tức là Phật hiện diện, tham sân si có mặt tức là Phật hiện diện. Vì sao thế ? Nếu các pháp không có mặt trên đời thì do nhân duyên gì đức Phật xuất thế ? Phật đáp: Lành thay, lành thay! Thiện nam, đúng như ông nói. Bấy giờ, Bồ-tát Hải Huệ thưa: Bạch Thế Tôn, nếu có người chẳng thấy pháp thì Như Lai có xuất thế hay không ? Thiện nam, lúc Bồ-tát mới phát tâm bồ-đề thật sự không biết các pháp ấy, thế nên ta vì họ nói. Thiện nam, Bồ-tát có bốn hạng: Một là mới phát tâm bồ-đề, hai là tu hành đạo bồ-đề, ba là kiên cố bất thoái bồ-đề, bốn là nhất sinh bổ xứ, Bồ-tát phát tâm thấy sắc thân Phật, thấy rồi liền phát tâm bồ-đề; Bồ-tát tu hành thấy Phật đầy đủ tất cả thiện pháp, thấy rồi liền phát tâm bồ-đề; Bồ-tát bất thoái thấy thân Như Lai và tất cả pháp đều bình đẳng. Bồ-tát nhất sinh không thấy các công đức của Như Lai và tất cả pháp. Vì sao ? Vì huệ nhãn đã được hoàn toàn thanh tịnh, đoạn trừ hai kiến và tịnh trí tuệ. Nếu không thấy tịnh, không thấy bất tịnh, không thấy chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh thì có thể thấy Như Lai”.

Cổ đức giải thích: Thai Giáo Chỉ Quán nói: Chỉ cần đạt nhất niệm tự tâm là pháp giới, mười phương chư Phật cùng tất cả chúng sinh đồng nhất vô trụ, vốn một pháp giới làm thân làm độ, không kia không đây, không căn cội không nơi chốn, không tu và chẳng tu, không chứng và chẳng chứng, không phàm không Thánh. Chỉ vì chúng sinh tự cho rằng vọng tưởng trói buộc là phàm, là chẳng tu, là chẳng chứng. Nghĩa là Phật là Thánh, là tu, là chứng; tu chứng phàm Thánh là do chúng sinh tự miễn cưỡng lập nên; nơi địa vị Phật không có tên gọi này. Chư Phật thấy thân phàm Thánh của tất cả chúng sinh là Phật pháp thân, tất cả quốc độ là Phật quốc độ, tất cả pháp là Phật pháp, tất cả tâm là nhất tâm, tột mười phương ba đời tìm cầu không mảy may hoặc sắc hoặc tâm không phải là Phật lý trí cảnh, sáng soi cùng khắp pháp giới, rỗng rang điềm tĩnh thân tâm, không chỗ tạo tác, Phật tâm đã thế, ta học Phật trí, dụng tâm như Phật tức là chỉ quán lặng sáng. Phật hiện tức tâm ta hiện, hiện cùng chẳng hiện chỉ là bóng trên gương tự tâm.

Hỏi: Có thể bên ngoài không thấy được Phật sao ?

Đáp: Tự tha không hai, Như Lai có đồng thể đại bi, chúng sinh có sức huân tập, đánh động vào đồng thể trí cảnh, tùy theo tâm này mà cảm thấy tướng hảo như bóng trong gương, song chẳng lìa gương mà chẳng phải chính là gương, tùy theo chiếu soi đẹp xấu mà thiên sai vạn biệt, hoặc cơ địa thâm hậu, hoặc Phật thân cao nghìn vạn do tuần, thọ mạng vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, lấy Hằng hà sa thế giới vi trần Phật sát làm cõi nước tịnh diệu, nói vô lượng vô biên bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn; hoặc phúc báo khác nhau của trời người mà Phật thị hiện tám tướng, một thời gian lợi ích chẳng qua vài trăm năm, như mây trên hư không, trăng trong nước, thảy đều do cảm nhất tâm cho rằng sắc thân Phật đến ứng. Thực sự Phật không có công đến đi, không có nạn hữu hình, không có pháp để nói, không có người để độ. Chỉ vì chúng sinh tâm tưởng thiện duyên cho rằng Phật đến ứng vì mình nói pháp, thực ra chúng sinh ngay tự tâm hiện tướng này.

Hỏi: Thiện căn của chúng sinh chạm vào gương đại viên trí của Phật hiện ra ảnh tượng, ảnh tượng ấy thuộc về Phật chăng ?

Đáp: Gương sáng thuộc về Phật, ảnh tượng chẳng thuộc về Phật. Ảnh tượng nếu thuộc về Phật thì Phật sinh diệt lưu động. Ảnh tượng nếu thuộc về chúng sinh thì chúng sinh bị nghiệp trói buộc làm sao có tướng đẹp này ? Chỉ có cảm ứng đạo giao mới thấy được.

Hỏi: Đã là ảnh tượng trên gương Phật trí vì sao nói hiện trên tâm chúng sinh ?

Đáp: Gương sáng đồng thể không thiên về Phật và chúng sinh, vì đồng nhất thể. Chỉ vì chúng sinh lau chùi gương của mình chưa được sáng sạch nên tạm hiện tướng này biểu lộ sự tiến tu.

Hỏi: Nếu chúng sinh tự biết trên gương tâm hiện ảnh tượng nên không nói hình ảnh Phật hiện, Phật đối với chúng sinh vô lực, vậy thì cung kính ngưỡng mộ nào có ích gì ?

Đáp: Do lòng cung kính ngưỡng mộ mà cảm hình tượng hiện. Phật lực chân thật này làm sao chúng sinh có thể bày ra được ?

Hỏi: Đây cũng là Phật lực của mình, chẳng phải là Phật lực của người.

Đáp: Phật địa không có tự tha, các ông cố cho rằng tự Phật, tha Phật nhưng tâm chúng sinh bất tận.

Hỏi: Như thế tất cả chỉ là một Phật không thể mỗi người tự thành ?

Đáp: Không cùng làm một Phật, không riêng tự thành. Nghĩa này khó hiểu như chùa Quốc Thanh tượng trưng cho pháp giới, còn vị tăng ở chùa ấy là cổ Phật, lữ khách đến viếng chùa cảm mến Phật; lâu dần mến mộ rồi xuất gia ở chùa. Người ấy xem chùa Quốc Thanh là chùa của mình, và cảnh quang như đài điện phòng ốc… đều là của mình được quyền sử dụng; không phải mỗi người tạo riêng một chùa, cũng không phải chia cho mỗi người một chùa; bởi chia ra thì chùa sẽ theo người đi nhưng pháp giới thường trụ thì không thể phân chia. Trong kinh Niết-bàn có dụ như trên đường có một cây to tỏa bóng mát che chở người đến, chẳng giữ lại kẻ đi. Lời Phật đã xác quyết ta nên phụng trì.

Lại cơ ứng tương quan, cảm ứng duyên hội có thể thấy vô biên Phật sự, vì Phật là tăng thượng duyên, bi nguyện rộng lớn, căn lực từ thiện, vì chúng sinh là đẳng lưu quả, chí thành cảm được căn thành thục mà thấy nhưng đều không ngoài tự tâm. Như sư tử hiện từ ngón tay Phật, voi say lễ chân Phật, mẹ hiền gặp con, người mù được sáng mắt, thành trì biến thành lưu ly v.v… đều là căn lực từ thiện của Bổn sư nhiều kiếp huân tu, khiến cho tất cả chúng sinh tự tâm nhìn thấy. Cho nên kinh Đại Niết-bàn ghi: “Phật dạy: Thiện nam, Đề-bà-đạt-đa bảo vua A-xà-thế hại Như Lai. Khi ấy, ta vào thành Vương-xá lần lượt khất thực, vua A-xà-thế liền thả voi điên cuồng để hại ta và các đệ tử. Vì muốn hàng phục voi say ta liền nhập từ định duỗi tay ra trước mặt voi say, tức thì từ năm ngón tay xuất hiện năm con sư tử, voi say vừa thấy liền hoảng sợ toàn thân quỳ mọp dưới chân ta. Thiện nam, khi ấy thực sự ở năm ngón tay ta không có sư tử, do vì tu căn lực từ thiện nên khiến cho voi bị điều phục.

Lại nữa thiện nam, ta định nhập niết-bàn mới đi đến thành Câu-thi-na, có năm trăm lực sĩ muốn dời một khối đá ở giữa đường mà làm không nổi, khi ấy ta xót thương liền khởi từ tâm, các lực sĩ thay ta dùng ngón chân cái hất khối đá lên không rồi dùng tay phải bắt lấy, bóp nát thành bụi; sau đó bụi tụ lại thành khối đá như cũ, làm cho các lực sĩ dứt hết lòng cao ngạo, ta liền vì họ nói sơ lược các pháp yếu khiến họ phát tâm bồ-đề. Thiện nam thực ra khi ấy Như Lai không có làm những việc như trên, nên biết đây là do căn lực từ thiện khiến các lực sĩ thấy sự việc như thế.

Lại nữa thiện nam, tại thành lớn Thủ-ba-la ở Nam Thiên Trúc có trưởng giả Lô-chí, làm đạo chủ mọi người, trong quá khứ đã trồng các thiện căn nơi vô lượng đức Phật. Thiện nam, tất cả nhân dân trong thành ấy tin phục tà đạo phụng thờ Ni-kiền. Vì ta muốn độ trưởng giả ấy nên đi từ thành Vương-xá đến còn cách thành ấp ấy sáu mươi lăm do tuần. Bọn Ni-kiền nghe ta sắp đến thành Thủ-ba-la liền nghĩ: “Nếu sa-môn Cù-đàm đến đây nhân dân sẽ bỏ ta, không còn cung cấp cho ta, ta làm sao sinh sống”. Bọn Ni-kiền chia nhau đi tuyên truyền với dân chúng trong thành:

– Sa-môn Cù-đàm sắp đến đây, ông ta lìa bỏ cha mẹ đi khắp đông tây, ông ta đến đâu thì ngũ cốc không mọc, nhân dân đói khát, chết chóc, bệnh tật, gieo rắc không thể cứu giải. Cù-đàm vô lại, toàn dùng các la-sát quỉ thần làm người hầu hạ, bọn mồ côi nghèo hèn cô độc làm môn đồ, những lời dạy của ông ta toàn nói về hư vô, ông ta đến đâu chỗ ấy không còn an lạc.

Nhân dân nghe xong liền kinh sợ, đầu mặt kính lễ chân Ni-kiền-tử, thưa:

– Bạch đại sư, chúng con phải làm sao ?

Ni-kiền-tử đáp:

– Sa-môn Cù-đàm tính thích tùng lâm suối mát, bọn ngươi đi ra ngoài thành chặt đốn hết tất cả cây cối, lấy đồ nhơ uế bỏ xuống các dòng suối, giếng, ao, hồ, đóng chặt cửa thành, mỗi người sắm sửa gậy gộc để tự phòng hộ. Ông ta dù có đi đến thì chớ cho đến gần, nếu không đến gần thì bọn ngươi sẽ được an ổn. Còn bọn ta sẽ dùng các chú thuật khiến cho Cù-đàm bỏ đi nơi khác.

Nhân dân nghe xong cung kính thi hành, chặt phá cây cối, làm nhơ uế các dòng nước, trang bị gậy gộc, phòng hộ vững chắc. Thiện nam, khi ta đến thành ấy không thấy cây cối tùng lâm, chỉ thấy người ta trang bị gậy gộc đang tự phòng thù, thấy việc này ta rất xót thương liền khởi từ tâm, cây cối sống lại như cũ lại còn sinh trưởng, sông ngòi suối giếng ao hồ nước trong xanh như lưu ly xanh, biến thành quách thành lưu ly đỏ tím, nhân dân trong thành đều được thấy ta và đại chúng, cửa thành tự mở không thể ngăn cản, gậy gộc trang bị biến thành đủ thứ hoa. Trưởng già Lô-chí làm thượng thủ cùng với nhân dân đi đến chỗ Phật, ta vì họ nói các pháp yếu khiến cho mọi người đều phát tâm bồ-đề. Thiện nam, thật ra khi ấy ta không biến hóa những việc như thế, mà nên biết đây là do căn lực từ thiện nên có thể khiến cho bọn họ thấy những sự việc như trên.

Lại nữa thiện nam, trong thành Xá-vệ có phụ nữ bà-la-môn Bà-tư-tra, chỉ có một đứa con trai nên yêu thương vô cùng, đột nhiên đứa trẻ bị bệnh qua đời. Bấy giờ, phụ nữ ấy quá đau khổ nên phát điên, thân thể lõa lồ không biết xấu hổ chạy đi khắp thành, khóc lóc thảm thiết, kêu gào: “Con ơi! con đang ở đâu ?” Song phụ nữ này đã từng ở trước Phật trồng các công đức. Thiện nam, ta đối với phụ nữ này khởi lòng từ mẫn, khiến cho bà ấy thấy ta tưởng là con bà mà được trở lại bản tâm. Bà liền chạy đến ôm ta, ta tức thời bảo thị giả A-nan lấy quần áo cho bà ấy mặc rồi nói pháp yếu. Người ấy nghe pháp xong vô cùng hoan hỉ, phát tâm bồ-đề. Thiện nam, khi ấy ta thật ra chẳng phải là con bà, bà chẳng phải là mẹ ta, cũng không có ôm ấp. Thiện nam, nên biết đây đều là căn lực từ thiện khiến cho phụ nữ thấy sự việc như thế.

Lại nữa thiện nam, có ưu-bà-di Ma-ha Tư-na-đạt-đa ở thành Ba-la-nại, trong quá khứ đã từng ở trước Phật Vô Lượng Quang trồng các công đức. Trong ba tháng hạ, Ưu-bà-di này cúng dường thuốc thang cho chúng tăng; khi ấy trong chúng có một tì-kheo bị bệnh nặng, lương y chẩn bệnh nói cần phải dùng thuốc bằng thịt người mới hết bệnh. Nếu không có thịt người thì sẽ chết. Nghe nói thế, Ưu-bà-di thế liền cầm vàng đi khắp chợ rao lên: “Ai bán thịt của mình tôi sẽ mua”. Đi khắp thành thị không tìm được, Ưu-bà-di ấy tự cầm dao cắt thịt của mình đem nấu canh cho tì-kheo ăn. Tì-kheo ăn xong liền hết bệnh, còn ưu-bà-di bị vết thương làm cho đau đớn không chịu nổi cất tiếng niệm nam-mô Phật-đà, nam-mô Phật-đà. Lúc ấy, ta đang ở thành Xá-vệ nghe được âm thinh ấy liền khởi từ tâm, Ưu-bà-di thấy ta đem thuốc đến bôi lên vết thương, vết thương lành lặn như xưa. Ta liền vì nàng nói pháp, nghe pháp xong nàng hoan hỉ, phát tâm bồ-đề. Thiện nam, thật ra khi ấy ta chẳng đi đến thành Ba-la-nại đem thuốc bôi lên vết thương của Ưu-bà-di kia. Thiện nam, nên biết đây đều là căn lực từ thiện khiến cho ưu-bà-di thấy việc như thế.

Lại nữa thiện nam, kẻ ác tên Điều-đạt tham lam không biết đủ, uống nhiều tô-lạc nên đầu đau bụng đầy, đau đớn không chịu nổi liền cất tiếng niệm nam-mô Phật-đà, nam-mô Phật-đà. Khi ấy, ta đang ở thành Ưu-thiền-ni, nghe âm thinh ấy liền sinh từ tâm. Bấy giờ, Điều-đạt thấy ta đi đến chỗ ông ta xoa đầu xoa bụng trao cho nước muối bảo uống, Điều-đạt uống xong liền bình phục. Thiện nam, thật ra ta không làm những việc như thế. Thiện nam, nên biết đó đều là căn lực từ thiện khiến cho Điều-đạt thấy sự việc như thế.

Lại nữa thiện nam, nước Kiều-tát-la có bọn cướp năm trăm người, chuyên làm hại cướp bóc người, vua Ba-tư-nặc lo sợ sự hoành hành của bọn chúng, liền sai binh lính lùng bắt, tóm được họ rồi liền móc mắt, đuổi họ vào khu rừng rậm hắc ám. Nhưng bọn cướp này đã từng ở trước Phật trồng các công đức, nên dù đã bị móc mắt chịu nhiều khổ não mà vẫn niệm nam-mô Phật-đà, nam-mô Phật-đà, hiện giờ bọn tôi không có ai cứu hộ. Họ khóc lóc kêu gào, khi ấy ta đang ở tinh xá Kỳ Hoàn nghe âm thinh kia liền sinh từ tâm, bấy giờ có ngọn gió mát thổi từ trong núi hương các thứ hương dược vào trong tròng mẳt của bọn cướp, tức thời mắt họ được trở lại như xưa. Bọn cướp mở mắt liền thấy Như Lai đứng trước mặt vì họ nói pháp, nghe pháp xong họ phát tâm bồ-đề. Thiện nam, thật ra lúc ấy ta không có làm những việc như thế, nên biết đó đều là căn lực từ thiện khiến cho bọn cướp thấy sự việc như thế.

Lại nữa thiện nam, thái tử Lưu Ly do ngu si mà phế vua cha tự lên ngôi vua, lại còn nhớ đến hiềm thù cũ mà hãm hại dòng họ Thích, bắt một vạn hai nghìn cô gái dòng họ Thích-ca cắt tai xẻo mũi, chặt đứt tay chân rồi xô họ xuống hầm tối. Khi ấy, các thiếu nữ vô cùng thống khổ, kêu lên nam-mô Phật-đà, nam-mô Phật-đà, hiện tại chúng tôi không ai cứu hộ. Họ đau đớn kêu gào, khi ấy ta ở Trúc Lâm nghe âm thinh ấy liền khởi từ tâm. Bấy giờ, các thiếu nữ thấy ta đến thành Ca-tỳ-la dùng nước rửa vết thương rồi bôi thuốc cho họ, đau đớn liền dứt, tai mũi tay chân lành lặn như cũ, ta vì họ nói pháp khiến cho họ phát tâm bồ-đề, họ đến tì-kheo-ni Đại Ái Đạo xin xuất gia thụ giới cụ túc. Thiện nam, thật ra khi ấy Như Lai không có làm những việc như thế, nên biết đây đều là căn lực từ thiện khiến cho các thiếu nữ thấy sự việc như thế.

Tâm bi hỉ cũng như thế. Thiện nam, do nghĩa này mà Bồ-tát ma-ha-tát tu “từ tư duy” chính là chân thật chứ chẳng phải hư dối. Thiện nam, ý nghĩa vô lượng là bất khả tư nghì, Bồ-tát tu hành bất khả tư nghì, chư Phật tu hành bất khả tư nghì, kinh điển đại thừa như kinh Đại Niết-bàn cũng bất khả tư nghì. Do văn trên đây có thể minh chứng thì biết tất cả pháp nhiễm tịnh trong tam giứi, cửu hữu đều không ngoài tâm chúng sinh trong pháp giới, cũng như họa sĩ vẽ ra tất cả cảnh giới, tâm họa sĩ cũng như thế”.

Kinh Chính Pháp Niệm Xứ ghi: “Tì-kheo quán sát rằng tại sao chúng sinh có các thứ sắc, các thứ hình tướng, có các thứ đạo, các thứ y chỉ ? Lại sự quán sát kia có các thứ tâm, các thứ y chỉ, các thứ tín giải, các thứ nghiệp. Như vậy các thứ sắc, các thứ hình tướng, các thứ đạo, các thứ y chỉ giống như họa sĩ thông minh khéo léo cùng với học trò của mình quán sát trên mặt phẳng rồi dùng các màu sắc hoặc đẹp hoặc xấu tùy tâm vẽ ra các hình tướng. Tâm nghiệp họa sĩ cùng với đệ tử cũng như thế, tùy vào nghiệp báo tốt xấu trong cõi sinh tử và tùy theo nhận thức mà tạo ra các thứ hình tướng, các thứ đạo, các thứ y chỉ. Tâm nghiệp họa sĩ làm ra chúng sinh, các màu sắc chấp trắng thành trắng, chấp đỏ thành đỏ, chấp vàng thành vàng, chấp xám thành xám, chấp đen thành đen. Cũng thế, tâm nghiệp họa sĩ chấp lấy màu trắng, ở trong trời người hay vẽ màu trắng, vì sao màu trắng ? Vì ở trong dục lạc cấu uế mà không bị nhiễm ô. Cũng thế, tâm nghiệp họa sĩ chấp lấy màu đỏ, ở trong trời người hay vẽ màu đỏ, vì sao màu đỏ ? Vì ưa thích sắc thinh hương vị xúc. Cũng thế, tâm nghiệp họa sĩ chấp lấy màu vàng, ở nơi súc sinh hay vẽ màu vàng, vì sao màu vàng ? Vì tham sân si mà sát hại lẫn nhau, uống máu ăn thịt lẫn nhau. Cũng thế, tâm nghiệp họa sĩ chấp lấy màu xám ở nơi ngạ quỉ hay vẽ màu xám. Vì sao màu xám ? Vì thân họ như lửa thiêu cây cối, đói khát khổ sở, tâm nghiệp họa sĩ bị tâm tật đố, ngu si che khuất. Cũng thế, tâm nghiệp họa sĩ chấp lấy màu đen, ở nơi địa ngục vẽ thành màu đen. Vì sao màu đen ? Vì nghiệp đen tối nên sinh trong địa ngục, bị trói buộc, thiêu đốt, thân đen đúa, đói khát khổ thân, vô lượng khổ bức bách đều là do nghiệp của mình, chẳng phải do người khác làm ra.

Tì-kheo quán sát ba cõi, năm đường, năm màu sắc ấy mà trụ nơi tam giới, đó là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Tâm nghiệp họa sĩ tập gần dâm dục, phan duyên các thứ sắc họa của dục giới, duyên sắc y chỉ có mười hai thứ. Lìa tứ thiền của dục giới lấy làm cây cọ, nương nơi mười sáu chỗ làm chỗ để họa nên sắc giới. Lìa tam-ma-bạt-đề của sắc giới, duyên vô sắc giới họa nên bốn xứ. Tâm nghiệp họa sĩ họa chiếc áo lớn của tam giới như thế!

Tì-kheo quán sát tâm nghiệp họa sĩ, thân như hộp đựng màu, tham dục, sân si là sự bền chắc của cái hộp, tâm phan duyên như cái thang, các căn như cây cọ, các cảnh giới bên ngoài sắc thinh hương vị xúc như các màu sắc, sinh tử như đất, trí như ánh sáng, siêng năng tinh tiến như tay, chúng sinh như bức họa, thần thông như vô lượng hình phục, vô lượng nghiệp báo như vẽ thành tựu.

Tì-kheo lại y theo thiền mà quán sát tâm nghiệp họa sĩ có các pháp sai khác giống như họa sĩ khéo vẽ các hình sắc đẹp bằng cây cọ khéo léo, không biết mệt mỏi. Tâm nghiệp họa sĩ cũng như thế không biết mệt mỏi, nếu tu thiền định khéo nghiên cứu trạng thái của thiền, phan duyên sáng sạch như ánh sáng rực rỡ. Người tu đạo như cây cọ khéo léo, biết cấp bậc thiền cao thấp như khéo hay biết, có thủ có xả như không mệt mỏi. Tâm nghiệp họa sĩ thiền định như thế họa các cõi thiền như hình sắc đẹp đẽ kia. Lại tâm nghiệp họa sĩ nếu có mệt mỏi thì họa không khéo, các đường địa ngục, ngạ quỉ súc sinh đồng nghiệp nhân duyên, chày sắt làm cây cọ, màu sắc bất thiện họa thành phi nhân”.

Giải thích: Họa sĩ vận dụng ý nghĩ khéo léo hoặc vụng về, cầm cây cọ năm màu trên mặt phẳng vẽ thành những hình tượng tinh xảo hoặc thô vụng, giống như chúng sinh tùy theo tâm ngu trí vung cây bút ba nghiệp ở chỗ thiện ác họa ra các việc khổ vui. Lại như họa sĩ ở thế gian chỉ vẽ được sắc ấm, còn tâm họa sĩ có thể vẽ được năm ấm. Lại bức họa thế gian không bền chắc, màu sắc phai thì hình ảnh liền mất; còn bức họa tâm trải qua nhiều kiếp, thân mất nhưng nghiệp không mất. Lại bức họa thế gian rất dễ biết, đẹp xấu đều có thể thấy, còn bức họa tâm rất khó hiểu, quả báo không thể biết. Kinh Chính Pháp Niệm Xứ có bài tụng:

Các nghiệp được tạo ra
Vượt hơn họa sĩ khéo
Nghiệp họa sĩ nơi trời
Tạo tác các điều vui
Tất cả các màu sắc
Hiện xem có thể đếm
Tâm nghiệp bày các sắc,
Số nhiều không thể biết,
Vách hư bức họa mất;
Cả hai đồng thời diệt.
Lúc thân dù diệt mất,
Nghiệp họa cũng không mất.
Ví như người họa sĩ,
Tạo tác các văn sức,
Nhất tâm cũng như thế,
Tạo tác các thứ nghiệp,
Năm ánh sáng màu hiện,
Thấy rồi sinh ưa thích,
Năm căn họa cũng thế,
Như nghiệp có sinh tử,
Họa sĩ khéo thế gian,
Hiện tiền có thể thấy;
Tâm họa sĩ vi tế,
Hoàn toàn không thể thấy,
Vẽ vời hình đẹp xấu,
Hiện hình tượng trên vách.
Tâm nghiệp cũng như thế,
Hay tạo báo thiện ác,
Tâm này suốt ngày đêm,
Suy nghĩ mãi không dừng.
Như vậy nghiệp tùy tâm,
Triển chuyển thường không lìa,
Gió bụi khói mây nóng
Bức họa bị hủy diệt,
Bỏ thiện cùng bất thiện,
Các nghiệp liền tiêu tan.

Theo kinh Bát Chu, thấy Phật đại lược có bốn ví dụ: Một là dụ như chiêm bao, trong chiêm bao thấy mọi thứ đều từ phân biệt sinh, thấy tất cả Phật từ tâm khởi. Hai là dụ như trăng trong nước, nước dụ cho tâm tính, ánh trăng dụ cho vật ở trong chân tâm chúng sinh. Ba là dụ như huyễn, tự tâm dường như trò ảo thuật, tất cả Phật như huyễn được tạo ra, nghĩa là có pháp năng huyễn mới tạo thành huyễn sự, không có tâm năng niệm thì không thể thấy Phật. Bốn là dụ như tiếng vang, ví như hang rỗng tùy theo âm thanh mà phát ra tiếng vang, biết rõ tự tâm tùy niệm thấy Phật. Bốn ví dụ trên: Một là chính dụ duy tâm, hai là duy tâm nên không, ba là duy tâm nên giả, bốn là duy tâm nên trung. Lại mộng dụ không đến không đi, ảnh dụ không ra không vào, huyễn dụ chẳng phải có chẳng phải không, tiếng vang dụ chẳng phải hợp chẳng phải tan.

Như kinh tụng:

Tâm thì chẳng biết tâm
Tâm thì chẳng thấy tâm
Không tưởng là niết-bàn
Là pháp không bền chắc
Do niệm, do hiểu biết
Thấy không thì không tưởng.

Giải thích: Nếu tâm tự thấy tâm thì trước hết tâm là năng kiến, Phật là sở kiến, dao không tự cắt, tay chẳng tự chạm, làm sao tự tâm trở lại thấy tự tâm, năng sở không phân biệt, kiến tướng đều dứt. Cho nên kinh nói: “Tâm có tưởng thì ngu si, nếu không có tưởng thì tâm hợp tính, không còn nghĩ cầu đến Phật”. Như trên là tự tâm chúng sinh cảm hiện, kế đến là nguyện lực nhân địa của chư Phật Bồ-tát thị hiện hóa môn không dứt. Do đó kinh Duy-ma nói: “Tuy thị hiện thành chính giác mà không bỏ Bồ-tát đạo. Tuy ngộ tức tâm là Phật, liền thành bồ-đề, nhưng vì chúng sinh ngu muội mà rộng tu phước nghiệp, vì dẫn dắt kẻ chưa nghe khiến cho họ nghe hiểu rồi cùng trở về quê cũ”.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chư Phật tuy có thể nhất niệm liền thành bồ-đề, nhưng vì chúng sinh mà ở trong vô lượng kiếp tu hành Bồ-tát hạnh không ngơi nghỉ, đây là tâm tăng thượng như núi cao”.

Lại nói: “Phật tử, Bồ-tát ma-ha-tát tư duy Bồ-đề lấy tâm làm gốc, tâm nếu thanh tịnh thì có thể đầy đủ tất cả thiện căn, đối với Phật bồ-đề ắt được tự tại, muốn thành Chính giác thì tùy ý liền thành. Nếu muốn dứt trừ mọi thủ duyên, trụ nơi nhất đạo; ta cũng làm được mà ta chẳng đoạn, vì muốn rốt ráo Phật bồ-đề, cũng chẳng chứng vô thượng bồ-đề, vì sao ? Vì thỏa mãn bản nguyện khắp tất cả thế giới, thực hành Bồ-tát hạnh giáo hóa chúng sinh, đây là tâm thệ nguyện đại thừa thứ chín như kim cương.

Những ví dụ trên nếu chứng tín không nghi thì Phật đạo lập thành, chẳng phải do người khác chỉ dạy, chỉ tự mình thanh tịnh nơi nhất tâm, có thể nói rằng thuận theo bản hoài Phật thì nhận được ý nghĩa chân chính của giáo lý.

Hỏi: Phật độ chúng sinh, chúng sinh có độ Phật không ?

Đáp: Nếu căn cứ nội quán, do thấu rõ vọng niệm tạp thức chúng sinh vô thể, phát sinh giác huệ thành Phật tự tâm, đây chẳng phải nhờ chúng sinh mà được độ sao ? Nếu luận về ngoại hóa, đều do chúng sinh cảm mà xuất hiện. Nếu không có cơ duyên thì đã không sự hóa độ, cũng không có việc thành Phật! Như kinh Tịnh Danh nói: “Bồ-tát tùy chỗ hóa độ chúng sinh mà có được Phật độ”. Kinh Tịnh Độ Tam-muội nói: “Chúng sinh cũng độ Phật; nếu không cảm thì Phật không ra đời, cũng không thể thành bồ-đề, vì xuất thế thành bồ-đề đều do cơ duyên chúng sinh”.