TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 16

Hỏi: Tức tâm thành Phật, là tức chân tâm hay là tức vọng tâm ?

Đáp: Chỉ tức chân tâm, vì ngộ chân tâm mà thành nghĩa đại giác nên gọi là Phật.

Hỏi: Nếu tức chân tâm thì có thắng nghĩa gì ? Nếu tức vọng tâm thì có lỗi gì ?

Đáp: Môn tất cánh không lý không dấu vết, đạo phân biệt sự có triển khai và ngăn ngừa.

Vọng tâm là từ năng sở sinh, do phân biệt khởi, tạm thời từ phù trần căn phát ra thành đối cảnh mà vọng tri. Nếu lìa tiền trần, tâm này không có thể, do cảnh mà khởi chiếu soi, cảnh diệt thì chiếu soi mất. Tùy niệm sinh trần, niệm không trần hết. Nếu đem sự hư vọng này mà làm Phật thân, đã là cái nhân hư vọng chỉ thành cái quả đoạn diệt.

Chân tâm là trạm nhiên tịch chiếu, không phải từ cảnh sinh ra, rỗng rang tùy duyên chưa từng tác ý, sáng suốt rõ ràng, hằng biết tỏ tường, cuộn lại không dấu, duỗi ra không vết, như đầm lặng trống trải gương sáng treo cao vạn tượng sum la mênh mông soi thấy, không ra không vào, chẳng có chẳng không, nghìn Thánh thầm quy về, muôn loài thảy giao hội. Kẻ nào tin được thì thấu suốt gốc nguồn đại đạo, người nào thể hội thì thành tựu pháp thân thường trụ. Chư Phật chỉ do tâm này mà thành Phật, còn gọi là thiên chân Phật, pháp thân Phật, tính Phật, như như Phật. Cũng chẳng phải lìa vọng, vì vọng không có thể; cũng chẳng phải tức chân, vì chân chẳng phải tức. Danh từ chân vọng bặt, tình chấp tức ly tiêu, diệu viên giác tâm mới có thể hiển hiện. Lại vì vốn đầy đủ mới có thể khai thị cho nên nói tâm chính giác của Như Lai cùng với tâm phân biệt của chúng sinh khế hợp không hai, đó là phương tiện khai thị ngộ nhập. Thế nên nếu tâm chúng sinh khác với tâm chư Phật thì làm sao nói khai, chỉ vì khế hợp nên mới bày phương tiện. Như trong kho không có báu vật uổng công cạy mở chỉ vì có của báu chứ không bỏ công người tìm. Chỉ cần phát tín tâm trọn sẽ thấy tính cho nên nói ta vì ông bảo nhậm việc này trọn không hư dối. Do đó nói:

Hạt châu ma-ni người không biết
Trong kho Như Lai đích thân được
Sáu thứ thần thông không chẳng không
Một khối viên quang sắc phi sắc.

Như thế thì cần gì tìm cầu ? Cho nên Tâm Đan Quyết nói:

Thiên hạ mờ mịt luống tìm cầu,
Chưa chịu quay đầu tự giác tri
Theo thầy trở về quê vô vi
Mới biết trước nay uổng công sức.

Do đó Luận Hoa Nghiêm nói: “Vì vô minh trụ địa phiền não là bất động trí của tất cả chư Phật, tất cả chúng sinh đều tự có. Chỉ vì trí thể vô tính vô y, không thể tự rõ biết, gặp duyên mới rõ biết, cho nên biết tất cả chúng sinh đều là Phật trí, chẳng được liễu duyên, không do giác ngộ, liễu liền thành Phật”. Như kinh Đại Phẩm nói: “Có Bồ-tát mới phát tâm liền ngồi đạo tràng như Phật”. Do đó Bàng cư sĩ có kệ:

Tâm như thần tự hư
Không thuốc bệnh tự trừ
Hoa sen, châu như ý
Chớ rong ruỗi tìm cầu
Người trí xem tài sắc
Rõ ràng như huyễn hư
Y thực nuôi thân mạng
Khuyên nhau học như như
Thời đến dời am đi
Không còn vật nào dư.

Cổ nhân còn nói: “Một hoàn thuốc trị mọi bệnh, không cần nhiều phương thuốc”.

Hỏi: Nếu tức chân tâm thành Phật, vọng giác đọa phàm thì vọng niệm trái tông, chân tâm thuận giác. Đây là chân vọng có hai, thể dụng phân ly làm sao hội thông viên dung nhất chỉ ?

Đáp: Chân vọng vô tính, thường khế hợp nhất nguyên, nào có hai tâm mà tương tức! Vì tính tịnh vô nhiễm, vọng không có thật, như dao giả không thể chặt đá, sương mù không thể nhiễm hư không. Vì người không rõ nhất tâm cho nên nói tức.

Thiên Thai giáo hỏi: Vô minh tức pháp tính, không còn vô minh thì tương tức với cái gì ?

Đáp: Như vì người ta không biết băng nên cho nước là băng, cho băng là nước, chỉ có tên gọi thì đâu còn có hai vật tương tức ? Biết rằng thời tiết có sai biệt, dung kết tùy duyên, tính ướt thường còn chưa từng biến động, cho đến tức phàm tức Thánh. Cũng lại như thế, phàm Thánh chỉ là danh, nhất thể không sai khác. Cho nên tiên đức giải thích kinh Hoa Nghiêm: Một thế giới cả pháp giới cũng như thế, biết một con mắt như thì tất cả con mắt đều như. Như thân người có tay chân thì tất cả thân người đều có tay chân. Thế nên không rõ nhất tâm này thảy đều thành nhị kiến. Phàm phu chấp trước tâm này tạo nghiệp luân hồi; nhị thừa chán bỏ tâm này cầu quả thiêu đoạn. Lại phàm phu không có con mắt, đem bồ-đề trí chiếu làm thành phiền não lửa đốt, như đứa bé mù nhà giàu ngồi trong kho báu, rất ngại cử động vì sợ tổn hại đến châu báu. Nhị thừa đem kho tạng tứ đức của Như Lai làm năm ấm vô thường; cho đó là giặc, hổ, rồng, rắn, bèn sợ hãi bỏ chạy, ràng buộc và giải thoát tuy khác, thủ xả đều mất. Người thấu rõ thông đạt không khởi không diệt, vô đắc vô sinh, biết rõ vọng tâm này niệm niệm vô thể thì từ đâu khởi chấp niệm niệm tự lìa, không cần phải đoạn diệt, một còn chẳng được huống là hai ? Cho nên biết các pháp thuận chân như thì chứng viên thành tính mà tình không lý có; các pháp trái ý chỉ thì chấp biến kế tính mà tình có lý không. Thuận thường ở tại nghịch, nhất đạo đâu tòng mất thể! Tình chẳng trái lý, nghìn lối chưa từng chia chẻ! Thấu thì tình lý tuyệt tên gọi, rõ thì thuận nghịch không nơi chốn. Thế nên pháp pháp đều hiệp về đạo vô ngôn, niệm niệm đều quy về tông vô đắc, thiên chân tự nhiên chẳng phải do tạo tác.

Như kinh Vô Ngôn Bồ-tát ghi: “Khi ấy, Xá-lợi-phất nói với Bồ-tát Vô Ngôn: Tên họ của ông còn không thể nói được, tại sao muốn hỏi nghĩa Như Lai ? Vô Ngôn nói: Tất cả các pháp đều không văn tự, cũng không ngôn từ. Tại sao như thế ? Tất cả chúng sinh thảy đều tự nhiên, không có những ngôn giáo và những tưởng niệm, vì vậy nếu đứng về sự đầy đủ thì phàm Thánh không khác mà khác; nếu đứng về lý dung tức thì chúng sinh và Phật khác mà không khác. Thế nên khác cùng không khác đều chẳng lìa thể chân như”.

Như Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa nói: “Khác mà không khác là hàng bố trên viên dung, không khác mà khác là viên dung trên hàng bố. Như tóm biệt thành tổng chẳng phải lìa ngoài biệt mà có tổng. Dung nhiếp như thế không pháp nào chẳng quy về thì ba thừa chẳng phải ba, năm tính chẳng phải năm”. Diệu giải như thế mới trùm phủ ánh sáng của Tông Cảnh, lìa kiến giải này thì trái với ý chỉ bất nhị.

Hỏi: Nếu tất cả chúng sinh tức tâm là Phật thì chư Phật cần gì phải tích lũy công đức ba a-tăng-kỳ kiếp mới thành Phật ?

Đáp: Vì còn học thật pháp nhất thừa, vì còn hướng đến quyền cơ ngũ tính. Đây luận về pháp môn tự chứng, chẳng phải nói về phương tiện hóa nghi.

Lại kinh Lăng Già nói: “Có bốn loại Phật: một là hóa Phật, hai là báo sinh Phật, ba là như như Phật, bốn là trí tuệ Phật. Tùy cơ cảm ứng gọi là hóa, báo đáp cái nhân đã qua gọi là báo, bản giác hiển chiếu gọi là trí tuệ, lý thể bất nhị gọi là như như”.

Kinh Hoa Nghiêm thuyết minh mười thứ Phật: “An trụ thế gian thành chính giác Phật vô trước kiến, nguyện Phật xuất sinh kiến, nghiệp báo Phật thâm tín kiến, trụ trì Phật tùy thuận kiến, niết-bàn Phật thâm nhập kiến, pháp giới Phật phổ chí kiến, tâm Phật an trụ kiến, tam-muội Phật vô lượng vô y kiến, bản tính Phật minh liễu kiến, tùy nhạo Phật phổ thụ kiến”.

Lại Phật gồm có mười thân: 1- Chúng sinh thân, 2- Quốc độ thân, 3- Nghiệp báo thân, 4- Thanh Văn thân 5- Duyên Giác thân, 6- Bồ-tát thân, 7- Như Lai thân, 8- Trí thân, 9- Pháp thân, 10- Hư không thân.

* Nếu y cứ năm giáo thì tùy theo giáo không nhất định:

1- Tiểu thừa giáo có hai thân Phật: Một là sinh thân, hai là pháp thân.

2- Đại thừa sơ giáo có ba thân Phật: Một là pháp thân, hai là ứng thân, ba là hóa thân.

3- Chung giáo có bốn thân Phật: Một là lý tính thân, hai là pháp thân, ba là báo thân, bốn là ứng hóa thân.

4- Đốn giáo chỉ có một Phật thân, nhất thật tính Phật.

5- Nhất thừa viên giáo có mười thân Phật.

* Nếu y cứ tính thành Phật thì năm giáo sai biệt chẳng đồng:

1- Tiểu thừa chỉ có một người tên Tất-đạt là Phật.

2- Sơ giáo nửa thành nửa chẳng thành, vì có tính không tính phân chia nên là Phật.

3- Chung giáo thì hễ ai có tâm sẽ được làm Phật, trừ cỏ cây v.v…

4- Đốn giáo thì không Phật không tính, lìa tướng ngôn thuyết là Phật.

5- Viên giáo thì không chỗ nào chẳng có Phật tính, vì ba thứ thế gian đều là Phật. Nếu ba thứ thế gian đều là Phật thì tâm cảnh trong ngoài không gì chẳng phải

* Nếu y cứ tâm thành Phật:

1- Tiểu thừa lấy thiện tâm tu sở đắc là Phật.

2- Sơ giáo cho tâm tính là Phật.

3- Chung giáo cho tướng tính của tâm dứt hết là Phật.

4- Đốn giáo cho tâm vốn bất sinh là Phật.

5- Viên giáo cho tâm vô ngại vô tận là Phật.

* Lại Thiên Thai nói về bốn giáo Phật:

1- Tạng giáo Phật, 2- Thông giáo Phật, 3- Biệt giáo Phật, 4- Viên giáo Phật. Nếu căn cứ như như Phật, tâm Phật, bản tính Phật thì ai mà chẳng có; nếu căn cứ quốc độ thân, hư không thân thì pháp nào không đủ, thì nơi nơi đều là cõi báu, gò nổng ai lập; niệm niệm đều thành chính giác, vọng tưởng ai khởi. Như kẻ mù không thấy ánh sáng, chẳng phải lỗi của vầng thái dương, giống như hàng Tiểu thừa không chịu nghe viên đốn, đâu phải Phật tâm diệu chỉ có thân sơ. Chỉ vì pháp yếu là do căn cơ nhỏ bé, còn đạo rộng lớn là tại căn cơ to lớn. Căn cơ cạn cợt tự cảm lấy khiến diệu hữu trở thành vô thường, phước đức mỏng manh thích nghi khiến trân bảo biến thành gạch ngói. Chợt mê mờ đôi mắt của mình lầm nhận thân khác, phân biệt cái chân thật thành đủ thứ sai khác đến nỗi phải có đến trăm cách hóa nghi.

Như kinh Đại Phương Đẳng Vô Tưởng nói: “Khi ấy đức Phật bảo Bồ-tát Đại Vân Mật Tạng: Thiện nam, ông nên thắp đèn đại trí tuệ xua tan sự tối tăm ngu si của chúng sinh. Nếu nói Như Lai thật sự sinh ra trong nhà Thâu-đầu-đàn, xuất gia, học đạo, tu tập khổ hạnh, dẹp bọn ma, ngồi nơi đạo tràng thành Chính giác, phải biết người này đang hủy báng Phật. Thà chịu chặt đầu cắt lưỡi chứ không bao giờ nói những lời dối trá như thế. Vì sao ? Vì chẳng hiểu lời bí mật của Như Lai”.

Lại kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu nói đức Phật Thích-ca từ cung Đâu Suất giáng thần vào thai mẹ cho đến có tám tướng thành đạo, đây là cái thấy hẹp hòi của Thanh văn, cho nên nói chúng sinh hiểu biết kém thì thai mẹ xuất hiện”. Thế nên vào Tông Cảnh này thì mở miệng không có lỗi, khởi niệm đều chân. Nếu chưa đến cửa này thì nói thị thành phi, nhiếp tâm vẫn còn sai lầm. Như kinh Viên Giác nói: “Động niệm cùng với dứt niệm đều quy về mê muộn”. Tín Tâm Minh nói: “Chẳng biết huyền chỉ, uổng công niệm tịnh”. Dung Đại Sư nói: “Người ngộ tông này cũng không đắc Phật đạo”. Nếu người chưa tin, dù niệm Phật cũng thành vọng ngữ, nên biết họ chưa đạt Tông Cảnh. Dù có kiến giải đều là hủy báng Phật Pháp Tăng, mặc cho suy tư thế nào cũng chưa có ngày tương ưng, vừa thấu rõ ý chỉ này tự nhiên một niệm không sai. Do đó Hoa Nghiêm Luận nói: “Từ mới phát tâm đầu tiên của thập trụ dùng sức tam-muội ấn ngay ba cõi, ba đời một thuở, các pháp một vị, giải thoát niết-bàn thường tịch diệt, vị không có trước sau. Nhân quả một thuở, các tính một tính, các trí một trí, các tướng một tướng, các hạnh một hạnh, ba đời một niệm, một niệm ba đời, cho đến mười đời, các pháp như thế tự tại vô ngại”. Pháp môn của kinh này không trước không sau gọi là thường chuyển pháp luân, thế nên pháp môn này y theo bản mà an lập để tiếp độ đại căn. Y theo bản chỉ là một chẳng lập trước sau, vì chẳng phải cái thấy hư vọng.

Nhập một gom lại là dư vì chỉ có một pháp giới, vì không giống pháp môn phương tiện, sự thấy biết chưa cùng tận. Gom phần dư vào được một, vì pháp giới thể vô ngại, như viên ngọc tròn, chiếc gương sáng, hư không bao la, tiếng vang, bóng dáng, người biến hóa. Pháp môn này bao gồm trước sau là một viên mãn vô ngại không thành không hoại, không ẩn không hiện thường chuyển pháp luân. Nếu ai thấu rõ được pháp môn này thì Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí liền hiện tiền, vì pháp này không ẩn hiện nên trở lại lấy trí tự nhiên không ẩn hiện mà tự hay được, chẳng phải do tư lường mà được. Tất cả pháp môn quyền giáo đều ở trong đó, vì tạm thời mà nói các quyền giáo không ra ngoài pháp giới không có ba đời, nên đều y theo tự thấy vô lượng sai khác. Nhất thừa giáo là nói lúc mới thành Chính giác, nếu theo tình là nói lúc ban đầu thành Phật, nếu theo trí là nói không có trước sau, cho nên biết thành Phật thuyết pháp không lìa một niệm. Như trong kinh Hoa Nghiêm, tiên nhân Tỳ Mục nắm lấy Thiện Tài, tức thời Thiện Tài tự thấy mình đi qua mười phương cõi Phật ở trong thế giới nhiều như vi trần, đến chỗ của chư Phật nhiều như vi trần trong mười cõi Phật, thấy cõi Phật kia và tướng đẹp trang nghiêm của chư Phật, cho đến trải qua trăm nghìn ức bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp. Cho đến khi tiên nhân buông tay Thiện Tài ra, Thiện Tài đồng tử liền thấy mình trở lại chỗ cũ. Đây là không động đến bản vị mà thân đi khắp mười phương; chưa lìa một niệm mà trải qua ức kiếp. Bản vị không động mà cõi nước xa gần đều rõ ràng; một niệm không dời mà thời gian dài ngắn rành rẽ. Nếu không y theo Tông Cảnh thì làm sao giải thích, vạn pháp thầm quy về, trọn không có ý chỉ riêng.

Hỏi: Vô tính lý đồng, nhất thời thành Phật, tại sao hàng tam thừa thấy Phật có sai khác ?

Đáp: Tùy tâm cảm hiện, ảnh tượng chẳng đồng. Tự nghiệp sai khác, chẳng phải Phật có khác. Chung một bát chứa mà màu cơm khác nhau, chẳng phải nghiệp kẻ khác biến hóa thì toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tức chân như tâm là pháp thân Phật. Vả lại pháp thân vô tướng, chân tính vô hình, hình tướng còn không thì làm sao sai biệt ? Đây đều là từ thức chiếu soi mà ảnh tượng chẳng đồng. Như năm trăm Bà-la-môn thấy thân thiêu đốt mà khởi lòng tin, trưởng giả Cù-sư-la thấy thân ba thước mà phát tâm, thân Bồ-tát vô biên vượt cả thượng giới, phàm phu trụ tiểu Thánh xem thân một trượng sáu cho là vô tận. Như kinh Quán Phật Tam-muội nói: “Đức Phật thưa với phụ vương và dạy A-nan: Nay ta vì ông hiện đầy đủ thân tướng. Nói xong, đức Phật từ chỗ ngồi đứng lên, đại chúng đều đứng lên nhìn Như Lai từ đầu xuống chân, rồi nhìn từ chân trở lên đầu, mỗi phần thân thể đều thấy rõ ràng phân minh như người cầm gương tự thấy mặt mũi. Nếu kẻ sinh lòng nhơ xấu bất thiện, hoặc có kẻ phá hoại cấm giới của Phật thì thấy hình tượng Phật toàn màu đen giống như kẻ bị thiêu cháy, năm trăm Thích tử chỉ thấy thân thiêu đốt, có một nghìn tì-kheo thấy màu đất đỏ, mười sáu người ưu-bà-tắc thấy tượng màu đen, hai mươi bốn nghìn ưu-bà-di thấy đống đen thui, tì-kheo-ni thấy như màu trắng bạc, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di có kẻ thấy như màu xanh lam, bốn chúng buồn rầu khóc lóc, Thích tử giựt tóc đánh đập thân thể mà tự thuật lại chỗ thấy của mình. Vì thế nên đức Phật đều vì họ nói túc nhân quá khứ khiến họ thấy màu sắc”. Cho nên Thức luận nói: “Cảnh tùy nghiệp thức chuyển nên nói duy tâm”. Lại kinh Mật Tích nói: “Tất cả trời người thấy sắc lượng của Phật hoặc như vàng ròng, bạc trắng v.v… cho đến hoặc thấy một trượng sáu, hoặc thấy một dặm, hoặc thấy mười dặm, cho đến trăm ức vô lượng vô biên khắp hư không, đây gọi là Như Lai thân mật”. Vì vậy biết rằng tùy chỗ thấy chẳng đồng mà dấu vết chia nhiều thứ, không chỉ thấy Phật mà quán pháp cũng thế, tùy theo trí sâu cạn mà pháp thành cao thấp. Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Mười hai nhân duyên kẻ hạ trí quán thì được bồ-đề, Thanh văn; trung trí quán thì được bồ-đề Duyên giác; thượng trí quán thì được bồ-đề Bồ-tát; thượng thượng trí quán thì được bồ-đề Phật”. Cho đến tám tướng thành đạo chẳng ra ngoài khoảng sát-na tam-muội môn, tùy theo chúng sinh thấy nghe tự chia thời phân. Tiên đức nói: “Thế nên Như Lai trong một niệm tám tướng thành đạo không ngoài khoảng sát-na, vì lúc giáng sinh tức là lúc thành đạo, tức là lúc độ người, tức là lúc nhập diệt. Vì sao ? Vì tất cả pháp đồng thời đều thành nên một thành tất cả thành”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Chẳng lìa cội bồ-đề mà lên cung trời Đế-thích. Sớ Thích nói: “Phật đắc bồ-đề, trí không gì chẳng khắp, thể không gì chẳng trụ, vô y vô trụ, vô khứ vô lai. Nhưng vì tự tại ứng theo thể mà trùm khắp, duyên cảm trước sau có trụ có thăng; Diêm-phù có cảm thì thấy ở nơi cội bồ-đề, thiên cung có cảm thì thấy lên thiên thượng, chẳng phải đức Phật dời khỏi cội bồ-đề mà lên thiên cung, cho nên nói không lìa cội bồ-đề mà lên cung trời Đế-thích”.

Pháp Huệ có kệ:

Phật tử ông nên quán
Như Lai sức tự tại
Tất cả Diêm-phù-đề
Đều nói Phật ở trong.

Đây là chẳng lìa cội bồ-đề. Nay chúng ta thấy đức Phật ở nơi đảnh Tu-di, đây là lên cõi trời Đế-thích.

Cổ đức giải thích có mười nghĩa:

1- Theo xứ tướng nhập môn, vì trong một chỗ có tất cả chỗ nên thiên cung vốn ở tại cội bồ-đề mà không cần đứng lên, nhưng vì chúng sinh nên nói lên trời.

2- Cũng theo tướng nhập môn, vì một chỗ vào tất cả chỗ nên cội bồ-đề khắp cả thiên cung cũng không cần đứng lên, mượn thiên cung bày tỏ pháp thăng tiến nên nói lên trời.

3- Do vì tất cả tức một nên cõi trời ở dưới cội bồ-đề.

4- Do vì một tức tất cả nên cội bồ-đề ở trên cõi trời.

5- Căn cứ vào Phật thân, nghĩa là thân ở dưới cội bồ-đề, tức là đầy khắp pháp giới thì xưa nay ở nơi ấy không chờ đứng lên, đúng lúc liền thấy nên nói lên trời. Thế nên Như Lai dùng pháp giới thân, thường ở nơi đây chính là ở nơi kia.

6- Căn cứ vào Phật tự tại bất tư nghì giải thoát, nghĩa là ngồi tức là đi đứng v.v… Ở đây tức là ở kia, người địa vị thấp không thể hiểu.

7- Căn cứ vào duyên khởi tương do môn.

8- Căn cứ pháp tính dung thông môn.

9- Theo biểu thị hiển pháp môn.

10- Theo thành pháp giới đại hội môn.

Kinh Bất Tư Nghì nói: “Vì tất cả Phật tất cả pháp bình đẳng đều cùng một lý, tất cả chúng sinh, tất cả Như Lai, tất cả cõi Phật đều không lìa tưởng. Cho đến nếu ta phân biệt Phật liền hiện tiền, nếu không phân biệt thì đều không thấy. Tưởng có thể làm Phật, lìa tưởng không có ba cõi như thế. Tất cả các pháp đều không lìa tâm”.

Kinh Phổ Hiền Quán nói: “Khi ấy hành giả nghe Phổ Hiền nói về nghĩa lý sâu xa, nhớ mãi không quên. Ngày ngày đều như thế, tâm hành giả dần dần bén nhạy. Bồ-tát Phổ Hiền dạy hành giả niệm chư Phật mười phương, theo lời dạy Phổ Hiền mà chính tâm chính ý dần dần dùng tâm nhãn thấy đức Phật phương đông, thân màu vàng kim đoan nghiêm vi diệu. Thấy đức Phật này đến đức Phật khác, như thế dần dần thấy cả tất cả chư Phật ở phương đông. Tâm tưởng bén nhạy nên thấy cả tất cả chư Phật mười phương”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Chư Phật Như Lai là pháp giới thân vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh, cho nên khi các ông tâm nghĩ đến Phật, tâm này liền đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Biển chính biến tri của chư Phật từ tâm tưởng sinh ra”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ vì hạng trung hạ mà lập ra mười sáu phép quán tưởng khiến cho Vi-đề phu nhân v.v… tạm thấy Phật thân.

Phẩm Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật tử, ví như biển cả chảy ngầm trong bốn cõi thiên hạ tám mươi ức tiểu châu; nếu ai khoan xuyên qua đều được có nước, song biển cả không có phân biệt. Ta xuất ra từ nước, nước biển Phật trí cũng lại như thế chảy vào trong tâm tất cả chúng sinh. Nếu chúng sinh quan sát cảnh giới, tu tập pháp môn thì được trí tuệ thanh tịnh sáng suốt và Như Lai trí bình đẳng không hai không có phân biệt. Chỉ vì tâm hành chúng sinh sai khác mà chỗ được trí tuệ chẳng đồng. Phật tử, đây là tâm tướng của Như Lai”.

Lại Phẩm Vấn Minh có bài tụng:

Như nước chỉ một vị
Do bình chứa có khác
Phước điền Phật cũng thế
Tâm chúng sinh sai khác.

Lại tụng:

Ví như gương sáng sạch
Tùy sắc mà hiện hình
Phước điền Phật cũng thế
Tùy tâm được các báo.

Luận Khởi Tín nói: “Lại nữa chân như dụng, nghĩa là khi chư Phật ở nhân địa, phát đại từ bi, tu tập các độ, thực hành tứ nhiếp, xem vật như mình nên đều cứu thoát, tận thuở vị lai không hạn cuộc kiếp số; liễu tri như thật tự tha bình đẳng mà cũng không chấp tướng chúng sinh, dùng đại phương tiện trí như thế diệt trừ vô thỉ vô minh chứng bản pháp thân, nhậm vận khởi lên nghiệp bất tư nghì. Các thứ tác dụng tự tại sai biệt bao trùm pháp giới chân như v.v… mà không có dụng tướng có thể được. Vì sao ? Tất cả Như Lai chỉ là pháp thân, đệ nhất nghĩa đế, không có thế đế. Tác dụng cảnh giới chỉ tùy theo sự thấy nghe của chúng sinh mà khác biệt. Tác dụng này có hai:

1- Y phân biệt sự thức, nghĩa là chỗ thấy của phàm phu nhị thừa là hóa thân. Những người này chẳng biết chuyển thức ảnh hiện, thấy từ ngoài đến giữ lấy sắc thân phần hạn, nhưng hóa thân Phật không có hạn lượng.

2- Y nghiệp thức, nghĩa là các vị Bồ-tát từ mới phát tâm cho đến Bồ-tát cứu cánh địa, chỗ thấy của họ là thụ dụng thân. Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Quả nương tựa cũng có vô lượng công đức trang nghiêm, tùy chỗ cảm ứng thấy vô lượng vô biên, vô tế vô đoạn, chẳng phải ở ngoài tâm mà thấy như thế. Những công đức này đều do hạnh vô lậu ba-la-mật huân và bất tư nghì huân thành tựu, vì đủ vô biên tướng công đức hỉ lạc, còn gọi là báo thân. Lại chỗ thấy của phàm phu là cái dụng thô sơ tùy theo sáu đường mà có nhiều thứ sai khác, không có vô biên tướng công đức hỉ lạc gọi là hóa thân”.

Bồ-tát sơ hạnh thấy cái dụng trung phẩm, vì tin sâu chân như nên được thấy ít phần, biết thân Như Lai không đến không đi, không có đoạn tuyệt, dung tâm ảnh hiện chẳng lìa chân như. Nhưng Bồ-tát này vẫn chưa thể lìa phân biệt vi tế, vì chưa vào địa vị pháp thân. Bồ-tát tịnh tâm thấy cái dụng vi tế, thù thắng hơn như thế, cho đến Bồ-tát cứu cánh địa thấy hết cái dụng vi tế này là thụ dụng thân, vì có nghiệp thức mới thấy thụ dụng thân. Nếu lìa nghiệp thức thì không thể thấy. Tất cả Như Lai đều là pháp thân, không có sắc tướng kia đây sai biệt để thấy lẫn nhau. Cho nên người xưa giải thích: Y theo phân biệt sự thức, nghĩa là chỗ thấy của phàm phu nhị thừa là hóa thân, phàm phu nhị thừa chưa biết duy thức, chấp có ngoại trần, tức là nghĩa phân biệt sự thức. Nay thấy Phật thân cũng cho rằng ngoài tâm, thuận theo sự thức kia phân biệt so lường, do quên việc duy tâm nên nói là từ ngoài đến, không thấu đạt tức sắc là tâm, không tách rời nhau.

Hỏi: Về Phật thân dường như có sai biệt, vì sao chỉ có chân tâm chúng sinh cùng với thể chư Phật bình đẳng không hai ?

Đáp: Chỉ vì chúng sinh mê nơi tự lý mà khởi vọng niệm, khi ấy chân như chỉ hiển bày tướng nhiễm, do vì bản giác nội huân vọng tâm nên có chán ghét và tìm cầu có yếm cầu nên chân dụng hiển lộ. Yếm cầu ít thì tướng dụng thô, yếm cầu nhiều thì tướng dụng càng vi tế. Như thế dần dần cho đến nguồn tâm, vô minh đã sạch, yếm cầu đều hết, thỉ giác đồng bản giác dụng trở về thể, bình đẳng không hai không khác. Chưa đến nguồn tâm đã trở lại sử dụng thức, tùy theo căn cơ mà hiển hiện, cho nên nói hiện trong thức.

Hỏi: Nếu y cứ nghĩa này dụng từ chân khởi, vì sao nói ngôn chuyển thức hiện ?

Đáp: Chuyển thức tức là chuyển tướng trong a-lại-da. Y theo chuyển tướng này khởi hiện thức, hiện các cảnh giới. Thức này chính là chân vọng hòa hợp.

Hỏi: Nếu y cứ nghĩa này là dụng của chân như trong tự tâm chúng sinh tại sao nói là báo hóa Phật ?

Đáp: Chân tâm chúng sinh cùng thể chư Phật không sai biệt; nếu trôi theo sinh tử thì vọng có công năng, vọng tuy có công năng nhưng lìa chân thì không lập; nếu trôi nghịch dòng sinh tử, ra khỏi triền phược thì chân có công năng, chân tuy có công năng nhưng lìa vọng thì không hiển, đứng về duyên khởi hòa hợp mà nói đến cái dụng vậy. Đã từ pháp thân khởi ra cái dụng báo hóa vì sao chẳng phải là chân tâm chúng sinh ? Vì phàm Thánh cùng chung một pháp thân. Kinh nói: “Tâm tạo các Như Lai, do đó tức tâm là Phật”.

Hỏi: Chân tâm tức Phật vì sao nói sinh ra từ nhân duyên ba-la-mật ?

Đáp: Đây là căn cứ vào bản giác tùy nghĩa nhiễm mà nói nhưng thỉ giác kia giác đến nguồn tâm, bình đẳng nhất tế có gì sai biệt ?!

Lại lấy bi trí chư Phật làm tăng thượng, duyên theo chúng sinh cơ cảm, chủng tử làm nhân, gá trên bản chất Phật tự tâm biến ra ảnh tượng cho nên nói tự trong thức hiện ra. Trưởng giả Di-già trong Phẩm Pháp Giới thấy suốt mười phương Phật hải, hiển bày định quán duy tâm, nên biết cõi chúng sinh vô lượng vô biên đều do tâm hiện, hiểu rõ tùy theo tâm niệm Phật chư Phật liền hiện tiền, đó là từ duy tâm quán khắp vạn pháp.

Nay căn cứ căn cơ thượng trung hạ tùy theo tự tâm quán, thấy Phật chẳng đồng có bốn hạng:

1- Phàm phu, do mang ác nghiệp tập khí quá khứ của lục đạo bất tận mà thấy Phật khi là thụ thần, khi là thiên thần, khi là tượng chân đen ba thước v.v…

2- Tiểu thừa, do mang nghiệp sinh diệt mà thấy Phật là khóa vàng, lúa ngựa ăn, đánh đập thân thể ra máu đây là tướng khổ.

3- Đại thừa Bồ-tát sơ giáo, chung giáo, đốn giáo do duy thức quán, Phật là tướng hiện ra trong a-lại-da thức thấy Phật thân chỉ là tâm hiện, chẳng lìa chân như không tách rời, ở khắp mọi nơi tùy theo căn cơ chúng sinh tự nhiên hiển hiện, đây là tướng vui.

4- Nhất thừa viên giáo, Bồ-tát dùng trí pháp giới viên minh y chính gồm nhiếp lý sự nhân pháp, nhờ trí này mà cảm thấy mười thân lý sự vô ngại, ba đời dung thông tất cả cho nên Phật thân chẳng rời cội bồ-đề mà thường đến sáu cõi trời trí quán khắp tất cả, hằng không tác niệm. Thập Tứ Khoa Pháp Thân Nghĩa ghi: “Kinh nói về pháp thân, giáo tích nói về thân một trượng sáu đồng với thân người là nghĩa tự họp, mà không gì chẳng phải là pháp nên có tên gọi pháp thân”. Theo ý chỉ của kinh thì lấy Như Lai chiếu thể hư tồn làm thân, lấy việc dứt sạch phiền não làm pháp, đây là chân pháp thân. Nhưng vì khéo cảm ứng nên tùy theo loại thành sai khác, vì chỉ có kẻ thấy biết mới rõ Phật thường không có thân. Kinh nói: “Thân của Như Lai là thân huyễn hóa”.

Hỏi: Phật không có thân, tại sao thấy một trượng sáu ?

Đáp: Chúng sinh vì chưa đầy đủ việc thiện, luôn ngưỡng mộ đến chỗ đầy đủ của Như Lai; nếu đạo đầy đủ thì có thể ứng hóa vô phương, vì chưa đầy đủ nên chỉ thấy những pháp được phép thấy mà thôi, không thấu đạt tức thân là hư huyễn.

Hỏi: Đạo cảm ứng đều do tình chấp hết thầm khế hợp nên khiến cho hiệu quả tức thì, lý trong ngoài giống nhau. Như nỗi khổ mất chồng của nàng Mạnh Khương khiến cho tường thành phải đổ, như tấm lòng hiếu thảo của người con hiền làm cho đá tự vỡ tung. Những việc này đều là tùy tâm biển hiện. Tại sao do thiện cảm được thân một trượng sáu mà bảo rằng thân hư huyễn ?

Đáp: Thành trì sạt lở, đá vỡ tung là do tình cảm nơi vật, vật thật nên có sạt lở, chẳng phải kiến giải hư dối cảm đến pháp thân, pháp thân chẳng phải có. Chỉ vì tín giải bị mê hoặc ngăn che nên thấy một trượng sáu là thật, đâu chẳng phải người tự thấy sự cảm ứng kia ?

Hỏi: Một trượng sáu nếu là hư huyễn thì do đâu truyền từ thật lý ?

Đáp: Lý diệu chẳng phải thô chẳng truyền, giống như ảnh truyền từ hình.

Hỏi: Pháp thân vô hình là chính pháp thân là một trượng sáu, là ngoài pháp thân riêng có một trượng sáu ư ?

Đáp: Do cảm ứng mà pháp thân là một trượng sáu có gì khác biệt ? Như do âm thanh dội vào hang động mà phát ra tiếng vang, đâu ở ngoài hang động riêng có tiếng vang.

Hỏi: Chúng sinh là duyên theo pháp thân mà thấy hay là duyên theo một trượng sáu mà thấy Phật ?

Đáp: Chúng sinh chỉ thấy chỗ ứng hiện của pháp thân chứ đâu duyên thấy pháp thân như thấy bóng biết có cây mà chẳng thấy cây.

Hỏi: Pháp thân là thường, một trượng sáu cũng là thường chăng ?

Đáp: Theo lý thì một trượng sáu là thường, nhưng với người là vô thường. Cho nên kinh nói: “Như trong tối mắt thịt không thể thấy bóng cây”.

Người xưa giải thích: Phật thường không có thân là nói cảm ứng chẳng phải chân thật, pháp thân mới là thật. Cảm là năng cảm thuộc về chúng sinh, ứng là sở ứng thuộc về Phật. Có kẻ thấy đức Phật Thích-ca cao một trượng sáu, Di-lặc cao nghìn thước, hoặc có kẻ thấy tướng vô biên hoặc thấy thân ba thước, vì căn cơ chúng sinh có sâu cạn nên Ứng thân tinh thô sai khác, cho nên nói pháp thân Phật giống như hư không ứng vật hiện hình, tợ trăng đáy nước. Lại Phật thường không có thân là không có thân phần đoạn, biến dịch, vì pháp thân chí diệu không thể lấy hình chất cầu, cho nên nói không có thân.

Căn cứ thật lý chẳng phải không có diệu sắc, diệu tâm. Diệu sắc nên hay phân hình biến hóa thích nghi, diệu tâm nên rỗng rang soi chiếu. Thế Thân có bài tụng:

Báo hóa chẳng phải chân Phật
Cũng chẳng phải kẻ nói pháp.

Kinh Kim Quang Minh nói: “Ứng thân, hóa thân là giả danh có, pháp thân là chân thật có”.

Đạo đầy đủ thì có thể ứng hóa vô phương là vì pháp thân đạo đầy đủ nên có thể ứng hóa vô phương tức là không nơi nào chẳng ứng, không có thân nhất định. Chúng sinh ở ngôi tín giải chưa đủ thiện nên chỉ thấy thân một trượng sáu mà thôi và không thể liễu đạt thân trượng sáu, ba thước v.v…là hư huyễn, chỉ có pháp thân với tự thọ dụng thân là chân thật.

Lý diệu chẳng phải thô chẳng truyền giống như ảnh truyền từ hình là thuyết minh một trượng sáu tuy thô mà hay truyền diệu lý, nương sự biểu lý, mượn lời hiển đạo như ảnh truyền từ hình, như ngón tay chỉ mặt trăng.

Thanh Lương Sớ nói: “Phật xưa mới thành từng không hai thể, mới thành Phật xưa dường như có phân chia pháp thân báo thân. Không gì chẳng ứng thời nên tức chân mà ứng, ứng tùy tính khởi nên tức ứng mà chân ba Phật viên dung mười thân vô ngại, cho nên nói ứng hiện liền hiển chân thành”.

Lại, Phật thân không nương gá, ứng cơ mà hiện khẳp, nghĩa là sắc mà không định sắc như kim cương hợp với chu tử; hình không định hình như bóng ánh sáng; tướng không định tướng như chiếc gương sáng hiện đẹp xấu. Cho đến một thân nhiều thân là do chúng sinh khởi tâm phân biệt như đặt một nghìn chén nước thì sẽ có một nghìn ánh trăng khác nhau, mà thật ra chỉ có một ánh trăng chiếu soi trên dòng sông muôn dặm. Như có ba chiếc thuyền cùng hướng về mặt trăng, một chiếc dừng lại, hai chiếc ở hai hướng bắc nam. Chiếc ở hướng nam thấy mặt trăng đi về nam nghìn dặm, chiếc ở hướng bắc thấy mặt trăng đi về bắc nghìn dặm, chiếc dừng lại thì thấy mặt trăng không xê dịch. Đây là mặt trăng không lìa nơi chỗ mà đi đến bắc nam. Cho nên tình cách thì pháp thân trở thành sai khác, tâm thông thì huyền chỉ như nhau; vật ngã đầy dẫy thì đối với Phật có liên can gì ? Thế nên chân thân rỗng rang hợp cùng pháp giới, thể nó bao la, cùng một dụng với muôn loài, một thân nhiều thân kinh luận nói khác nhau. Nay nói theo kinh này, Phật là chân, là ứng, là một, là nhiều. Nếu nói là chân thì sao gọi là Thích-ca ở cõi Ta-bà trời người cùng thấy. Nếu nói là ứng thì sao gọi là Giá-na ở nơi Liên Hoa Tạng đại bồ-tát thấy Phật pháp thân. Nếu nói là một thì tại sao hiện ra nhiều nơi. Nếu nói là nhiều thì vì sao lại bảo chẳng phân thân. Cho nên phải biết Phật đây là pháp giới vô tận thân vân, chân ứng tương dung nhất đa vô ngại, tức là Tỳ-lô-giá-na là Thích-ca nên thường ở nơi này chính là chỗ kia, xa rời chỗ kia mà hằng ở nơi này, vì thân chẳng phân nhiều cũng chẳng phải một, cùng một lúc nhiều nơi khác nhau một thân viên mãn đều hiển hiện nên tất cả Bồ-tát không thể suy lường.

Trước nói về mười thân rồi sau mới nói đến vô ngại.

Nói về mười thân như đã trình bày ở trước, nếu căn cứ trên Phật, tự có mười thân: 1- Bồ-đề thân, 2- Nguyện thân, 3- Hóa thân, 4- Lực trì thân, 5- Tướng hảo trang nghiêm thân, 6- Uy thế thân, 7- Ý sinh thân, 8- Phước đức thân, 9- Pháp thân, 10- Trí thân.

Nói về vô ngại, có mười nghĩa:

1- Dụng đều khắp vô ngại: Nghĩa là nơi niệm, kiếp, sát trần, Phật Giá-na hiện pháp giới thân vân, vì nghiệp dụng vô biên ở khắp cả. Kinh tụng: “Như ở nơi đây thấy Phật ngồi, trong tất cả trần cũng như thế”.

2- Tướng đều khắp vô ngại: Ở trong mỗi mỗi dụng sai biệt đều thu nhiếp tất cả nghiệp dụng, như ở trong thai mà có các tướng xuất gia, thành đạo v.v…

3- Tịch dụng vô ngại: Tuy hiện vô biên tự tại nhưng không tác ý, không khởi niệm, thường ở trong tam-muội chẳng ngại khởi dụng. Phẩm Bất Tư Nghì nói: “Trong một niệm có thể thị hiện chư Phật ba đời, giáo hóa tất cả chúng sinh mà không xa lìa chư Phật tịch diệt vô nhị tam-muội, là cảnh giới bất khả thí dụ, bất khả tư nghì của chư Phật, như ma-ni tuôn mưa báu, trống trời trổi âm thanh đều là không dụng công, tự nhiên thành tựu”.

4- Y khởi vô ngại: Sự hiển hiện như thế tuy không dụng công, đều nương vào sức hải ấn tam-muội mà được hiển hiện. Kinh tụng: “Tất cả thị hiện không có dư, hải ấn tam-muội oai thần lực”.

5- Chân ứng vô ngại: Tức là ứng hiện vô tận thân vân, tức là không sinh diệt, tức là pháp thân bình đẳng nhất vị, vô ngại nghiệp dụng không có hạn lượng.

6- Phân viên vô ngại: Tức là thân Lô-xá-na khắp pháp giới, mỗi thân, mỗi chi phần, mỗi lỗ chân lông đều có toàn thân Xá-na, thế nên chỗ phân chia đều viên mãn. Kinh tụng: “Như Lai vô lượng công đức hải, mỗi lỗ chân lông đều được thấy”.

7- Nhân quả vô ngại: Nghĩa là ở nơi lỗ chân lông hiện Phật Lô-xá-na. Ngày xưa tiền thân Phật tu Bồ-tát hạnh, giữa chặng mày Phật xuất hiện Bồ-tát Thắng Âm nhiều như vi trần.

8- Y chính vô ngại: Nghĩa là thân vân này tạo ra tất cả khí thế gian. Kinh tụng: “Hoặc làm mặt trời, mặt trăng dạo khắp hư không, hoặc làm sông, hồ, giếng, suối v.v…”. Lại còn ẩn thân vào các cõi kia, mỗi chỗ vi tế như vi trần đều có Phật thân viên mãn khắp cả.

9- Tiềm nhập vô ngại: Nghĩa là vào cõi chúng sinh, như Như Lai tạng tuy làm chúng sinh mà không mất tự tính, cho nên Phẩm Xuất Hiện nói: “Phật trí âm thầm vào chúng sinh”. Lại nói: “Trong tâm chúng sinh có Phật thành chính giác v.v… lại cũng nhiếp tất cả chúng sinh tại một lỗ chân lông”. Thiện Hóa Thiên Vương tụng: “Ông nên quán một lỗ chân lông Phật, tất cả chúng sinh đều ở trong đó”.

10- Viên thông vô ngại: Nghĩa là Phật thân này tức lý tức sự, tức nhất tức đa, tức y tức chính, tức nhân tức pháp, tức thử tức bỉ, tức tình tức phi tình, tức sâu tức rộng, tức nhân tức quả, tức ba thân tức mười thân, đồng nhất vô ngại. Vô ngại như thế chỉ là nhất tâm, nếu có chút ngoại trần liền trở thành ngăn trệ. Như kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Phật thân chẳng quá khứ
Cũng chẳng phải vị lai
Hiện ra trong một niệm
Thành đạo và niết-bàn.

Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa giải thích thấy Phật sai biệt, như lấy ví dụ đi đến Thanh Lương Ngũ Đài mong thấy ngài Văn-thù để thấy pháp giới Phật sai biệt, gồm có mười nghĩa:

1- Hoặc nhiều căn cơ khác nơi đều thấy.

2- Hoặc cùng một nơi đều thấy.

3- Hoặc khác thời riêng thấy.

4- Hoặc cùng thời riêng thấy.

5- Hoặc cùng thời khác nơi thấy.

6- Hoặc cùng nơi khác thời thấy.

7- Hoặc khác thời khác nơi thấy.

8- Hoặc cùng thời cùng nơi thấy.

9- Hoặc một người ở không gian và thời gian đồng dị xen lẫn thấy nơi nhiều người thấy.

10- Hoặc một người ở không gian và thời gian cùng đồng dị thấy điều người khác thấy. Nghĩa là cùng thời cùng nơi, khác thời khác nơi gọi là đồng dị câu thời xứ. Đã là một thời gồm nhiều thời, ở khắp các nơi, thấy hết mọi cảnh, nên gọi là phổ nhãn cơ. Vì vậy biết chân thể Văn-thù chẳng phải một, người thấy tự có sai khác. Như nói một Văn-thù từ một nơi đến tức là Văn-thù ở tất cả nơi. Một, căn cứ vào nghĩa, lại nói đến thật đức của Văn-thù, như ánh trăng ở khe nước phía trước chính là mặt trăng của khe nước phía sau và nghìn sông, vì sao ? Vì mặt trăng ở mọi nơi đều chẳng lìa mặt trăng trên trời. Hai, căn cứ vào biểu, Văn-thù làm chủ môn bát- nhã; nếu theo quán chiếu bát-nhã thì trí biết rõ muôn cảnh không gì chẳng phải bát-nhã; nếu theo thật tướng bát-nhã thì không pháp nào không phải thật tướng đều là bát-nhã. Như nước ở khắp nơi sóng, không sóng nào chẳng phải nước. Kinh Đại Bát-nhã nói: “Vì bát-nhã ba-la-mật-đa thanh tịnh nên sắc thanh tịnh, sắc thanh tịnh nên nhất thiết trí thanh tịnh. Vì sao ? Vì không hai không phân, không biệt, không đoạn, thông cả quán chiếu và thật tướng”.

Hỏi: Trước đức Phật chỉ có một Phổ Hiền, vì sao trước mỗi vị Phật đều có nhiều Phổ Hiền ?

Đáp: Gồm có hai nghĩa:

1- Duyên khởi tương do: Căn cứ vào chủ bạn rõ ràng liền nhập, nghĩa là làm chủ cần một người, làm bạn phải nhiều người. Một này là một của nhiều, tất cả là một. Nhiều là nhiều của một, một là tất cả.

2- Lực dụng giao triệt: Một có tất cả thân Phổ Hiền bất khả tư nghì. Đại khái có ba loại: Một là tùy loại thân, là tùy theo trời người thấy không giống nhau; hai là tiệm thắng thân, là tướng trang nghiêm cưỡi voi sáu ngà; ba là cùng tận pháp giới thân, là lưới báu trùng trùng vô tận. Thân thứ ba bao gồm hai thân trước và vô tận thân.

Hỏi: Như trên nói thì không nơi nào không có Phổ Hiền, nay tại sao giải thích chẳng thấy ?

Đáp: Có ba ý: Một, theo căn cơ chẳng thấy là lỗi của kẻ đui mù. Hai, chẳng thấy là thấy, thấy thân hư không, vì hư không không thể thấy, nếu chẳng thấy là thật thấy hư không. Ba, vì khắp cả chỗ nên chẳng thấy, vì thấy rõ nên chẳng khắp, tại sao thấy và không thấy thân Phổ Hiền ? Muốn thấy được thân thì thân Phổ Hiền không ở khắp muôn loài, như trí không thể thấy, đâu chẳng phải trí thân ? Nên biết do có cái chỗ chẳng thấy mới biết khắp. Thân thứ ba này ai có thể thấy, chỉ người có huệ nhãn mới thấy, nhục nhãn không thể thấy, như thế huệ nhãn không thấy mà thấy tất cả.