TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 13

Trước đã nói về nhất tâm lý sự vô ngại, nay căn cứ vào chu biến hàm dung quán nói về sự sự vô ngại, như bài tựa trong Pháp Giới Quán nói: “Quán lý của toàn sự tùy theo sự mà nhất nhất có thể thấy; quán sự của toàn lý tùy theo lý mà nhất nhất có thể dung. Sau đó nhất đa vô ngại đại tiểu tương hàm thì có thể bày ra ẩn hiển, thân dụng khôn lường. Cho đến khiến cho người học ngầm biết cảnh này nơi tự tâm. Tâm huệ đã sáng liền tự thấy nghĩa vô tận”.

Quán chu biến hàm dung này cũng có mười môn:

1- Môn lý như sự: Nghĩa là sự pháp đã hư giả nên tướng đều mất hết; lý tính chân thật nên thể không gì chẳng hiện. Đây là sự không có sự nào khác, tức toàn lý là sự, thế nên Bồ-tát tuy quán sự chính là quán lý, song nói sự này là bất tức lý.

Giải thích:

Do vì chân lý này toàn bộ là sự, như sự hiển hiện, như sự sai biệt, đại tiểu nhất đa biến đổi vô cùng. Lại chân lý này cùng với tất cả sự thiên sai vạn biệt đồng thời hiển hiện rõ ràng, như cảnh hiện ra trước mắt, như vàng ròng lúc làm ra hình tượng của Phật, Bồ-tát và lục đạo chúng sinh cùng với các hình tượng khác thì thể vàng đồng thời hiển hiện, không ẩn mảy may mà không mất hình tượng. Nay lý tính cũng thế mảy may không ẩn mà chẳng mất sự không giống chân không chỉ quán trong môn lý đoạt sự chỉ là lý “không” hiển hiện. Cho nên Bồ-tát tuy quán sự tức là quán lý, song nói sự này bất tức lý, vì sự tướng hư giả không có thể tính mà chẳng hoại tướng, do đó quán chúng sinh thấy chư Phật, quán sinh tử thấy niết-bàn. Vì sự toàn lý hằng thường hiển hiện, cho nên sự đã toàn lý cho nên bất tức lý. Nếu tức lý thì sự chẳng toàn. Như vàng đúc hình tượng mười pháp giới, tất cả tượng đều là vàng, không cần nói là tức vàng.

2- Môn sự như lý: Nghĩa là vì sự với lý chẳng khác nên sự tùy theo lý mà trùm khắp khiến cho một trần bao trùm cả pháp giới. Lúc toàn thể pháp giới ở khắp các pháp, một vi trần này cũng như lý tính toàn bộ ở trong tất cả pháp. Như một vi trần, tất cả sự pháp cũng thế.

Giải thích:

Tất cả sự đều như lý bao trùm rộng lớn, như lý thấu suốt ba đời, như lý thường trụ bản nhiên. Như tất cả chư Phật, Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn và lục đạo chúng sinh đều như thế, cho đến một trần một niệm tính tướng tác dụng hạnh vị nhân quả không gì chẳng tròn đầy.

3- Môn sự hàm lý sự: Nghĩa là vì các sự pháp với lý chẳng phải một nên vốn một sự mà có thể dung chứa rộng lớn. Như một hạt bụi (vi trần) tướng nó nhỏ bé mà có thể chứa đựng vô biên pháp giới. Vì các pháp không lìa pháp giới nên đều hiển hiện trong một trần. Như một trần, tất cả pháp cũng thế. Lý sự này dung thông phi nhất phi dị, gồm có bốn câu: một là một trong một, hai là một trong tất cả, ba là tất cả trong một, bốn là tất cả trong tất cả, đều có nguyên do. Hãy suy xét đó !

Giải thích:

Một trong một, một ở trước là năng hàm, một ở sau là sở hàm; một ở sau là năng biến, một ở trước là sở biến. Ba câu con lại căn cứ theo thí dụ trên có thể biết.

4- Môn thông cục vô ngại: Nghĩa là vì sự với lý phi nhất tức phi dị, nên khiến cho sự pháp này chẳng lìa một chỗ tức trùm khắp tất cả trần trong mười phương, vì phi dị tức phi nhất nên trùm khắp mười phương mà chẳng động nhất vị, tức xa, tức gần, tức khắp, tức trụ, không chướng, không ngại.

5- Môn quảng hiệp vô ngại: Nghĩa là vì sự với lý phi nhất tức phi dị nên chẳng hoại một trần mà có thể dung chứa cõi nước mười phương. Do vì phi dị tức phi nhất nên dung chứa cả mười phương pháp giới mà vi trần chẳng lớn thêm. Đây là sự của một trần tức rộng tức hẹp, tức lớn tức nhỏ, không chướng không ngại.

6- Môn biến dung vô ngại: Nghĩa là một trần hướng về tất cả. Do vì phổ biến tức là quảng dung nên ở khắp trong tất cả, khi ấy liền trở lại nhiếp tất cả các pháp hoàn toàn trụ trong chính nó. Lại do vì quảng dung tức là phổ biến nên khiến cho một trần bao trùm khắp tất cả pháp sai biệt. Thế nên trần này khi chính nó bao trùm cái khác thì cái khác bao trùm nó, hay dung hay nhập đồng thời khắp nhiếp vô ngại. Hãy suy xét đó !

7- Môn nhiếp nhập vô ngại: Nghĩa là tất cả bỉ hướng về một pháp. Vì nhập tức là nhiếp cho nên khi tất cả toàn nhập trong một thì một ở trong tất cả đồng thời vô ngại. Lại do nhiếp tức là nhập cho nên khi một pháp toàn ở trong tất cả thì khiến cho tất cả hằng ở trong một đồng thời vô ngại.

Giải thích: Vô ngại trên đây giống như đèn với gương tức mười gương hỗ nhập, như khi chín chiếc gương nhập trong một chiếc gương tức là nhiếp một chiếc gương nhập trong chín chiếc gương, đồng thời xen suốt nên nói là vô ngại.

8- Môn giao thiệp vô ngại: Nghĩa là một hướng về tất cả có nhiếp có nhập, gồm có bốn câu: Nghĩa là một nhiếp tất cả, một nhập tất cả; tất cả nhiếp một, tất cả nhập một; một nhiếp một, một nhập một; tất cả nhiếp tất cả, tất cả nhập tất cả, đồng thời xen suốt vô ngại.

Giải thích: Một nhiếp một, một nhập một: như gương đông nhiếp gương tây, nhập vào trong gương đông của mình tức là gương đông của mình nhập vào trong gương tây của người.

Tất cả nhiếp tất cả, tất cả nhập tất cả: viên mãn thường như, câu này dùng lời nói không thể rõ ngay phải nhờ đến ba câu ở trước mà viên mãn.

9- Môn tương tại vô ngại: Nghĩa là tất cả hướng về một cũng có nhiếp có nhập, cũng có bốn câu, nghĩa là nhiếp một nhập một, nhiếp tất cả nhập một, nhiếp một nhập tất cả, nhiếp tất cả nhập tất cả, đồng thời xen suốt vô ngại.

Giải thích:

Bốn câu này khác với bốn câu trước, vì bốn câu trước đây kia đồng thời nhiếp nhập. Còn ở đây lúc muốn nhập kia ắt riêng phải nhiếp pháp còn lại; đem nó nhập vào trong kia, phát khởi các thế trùng trùng vô tận.

Nhiếp một vào một: Như gương đông có thể nhiếp gương nam, đem nó nhập vào trong gương tây thì gương đông là năng nhiếp năng nhập, gương nam là sở nhiếp, gương tây là sở nhập. Đây tức là đức Phật Thích-ca nhiếp Bồ-tát Văn-thù vào trong Phổ Hiền.

Nhiếp tất cả vào một: Như gương đông nhiếp tám gương còn lại, đem nó vào trong gương nam thì gương đông là năng nhiếp năng nhập, tám gương kia là sở nhiếp, gương nam là sở nhập, đây tức là một đức Phật nhiếp tất cả chúng sinh, đem họ vào trong một chúng sinh.

Nhiếp một vào tất cả: Như gương đông hay nhiếp gương nam, đem nó nhập vào trong tám gương còn lại.

Nhiếp tất cả vào tất cả: Như gương đông nhiếp chín gương, đem nó nhập vào trong chín gương. Một gương đông là năng nhiếp năng nhập, chín gương là sở nhiếp, cũng chính là sở nhập. Câu này nói rõ về các pháp xen nhập lẫn nhau, nhất thời viên mãn trùng trùng vô tận. Nay hiện thấy đèn và gương, chỉ cần đem một chiếc đèn vào trong thì trong mỗi gương đều có nhiều đèn không trước sau. Đây tức là biết chư Phật Bồ-tát lục đạo chúng sinh chưa có thì đã có rồi, tức là trong một sát-na liền thấu suốt tất cả phàm Thánh mười phương ba đời.

10- Môn phổ dung vô ngại: Nghĩa là tất cả và một đều khắp đồng thời lại còn hướng về nhau. Nhất nhất đầy đủ hai lớp bốn câu trước phổ dung vô ngại. Căn cứ theo trước mà suy xét đó khiến cho viên minh hiển hiện cảnh giới xứng hạnh không chướng không ngại.

Chín môn trước lời văn không hiển bày ngay, môn này nhiếp khiến đồng một sát-na, tổng biệt đồng thời thì trùng trùng vô tận.

Lại, Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa nói: “Năng sở tương nhập, tâm cảnh bao hàm, gồm có bốn nghĩa trở thành vô ngại. Một là nghĩa xứng tính, hai là nghĩa chẳng hoại tướng, ba là nghĩa bất tức, bốn là nghĩa bất ly. Do xứng tính nên bất ly, do bất hoại nên bất tức. Lại như các cõi nước vào trong lỗ chân lông đều có nghĩa xứng tính và tướng bất hoại. Nay trên sợi lông chấp lấy nghĩa xứng tính cho nên không ngoài pháp tính, nếu trên cõi nước chấp lấy nghĩa bất hoại tướng thì sợi lông không trùm xứng tính. Vì một sợi lông xứng tính nên có thể chứa cả cõi nước rộng lớn. Vì cõi nước rộng lớn bất hoại tướng nên có thể vào trong một sợi lông”.

Lại, nội ngoại duyên khởi phi tức phi ly cũng có hai nghĩa: Một là căn cứ vào nội ngoại chung làm duyên khởi, do bất tức nên có năng nhập sở nhập, do bất ly nên được tương nhập. Hai là căn cứ vào nội ngoại duyên khởi cùng chân pháp tính bất tức bất ly. Ở đây lại có hai nghĩa:

1- Do nội ngoại bất tức pháp tính nên có năng nhập sở nhập, vì chẳng lìa pháp tính nên sợi lông có thể bao trùm, cõi nước có thể vào khắp.

2- Sợi lông căn cứ vào sự bất ly pháp tính đúng như lý mà bao trùm. Cõi nước căn cứ vào sự bất tức pháp tính chẳng khắp lỗ chân lông. Hãy suy xét đó !

Sự sự vô ngại này như quần thần đối với vua mỗi người đều có quyền lực; như các con đối với cha mỗi người đều được làm cha; như chư tăng cùng ở chung một ngôi chùa mỗi vị tăng đều được thụ dụng mà ngôi chùa chẳng phân chia; như đóa hoa tỏa hương khắp cả hư không mà đóa hoa chẳng hoại. Vậy thì mười phương các loại chúng sinh toàn là Phật thể mà chẳng chia cắt, do vì không biết nên cam chịu cho mình chột xấu, bẩm thừa trí đức Như Lai mà trở lại đọa vào ngu muội, sẵn đủ oai thần rộng lớn mà nép mình làm kẻ hèn mọn. Cho nên Chí Công nói:

Pháp tính lớn đồng thái hư,
Chúng sinh phát tâm nhỏ bé.

Vô ngại trên đây chỉ là nhất tâm, như biển cả nổi lên nghìn lượn sóng, gương chứa muôn tượng, phi nhất phi dị chu biến viên dung, đoạt nhau, thành nhau, chẳng còn chẳng mất liền được hạt bụi hàm chứa pháp giới, không sót lớn nhỏ; niệm bao trùm chín đời, hoãn gấp đồng thời, mọi việc hiện tiền. Đây là pháp môn pháp giới duyên khởi tự tại của Hoa Nghiêm như thấy rõ ràng trong bàn tay. Lại chẳng phải riêng kinh điển Hoa Nghiêm, cho đến giáo lý một thời đại, là diệu chỉ khó nghĩ bàn, là thần thông vô tác của mười phương chư Phật, là bí môn bí mật của Quán Âm, là trí hải pháp giới của Văn-thù nhất thời hiển hiện thấu suốt không còn nghi. Nếu chẳng phải trí chiếu thấu đạt tự tâm thì đâu thể tỏ ngộ sự việc hi hữu kì lạ này ? Như Tiên đức nói: Chứng Phật địa là chân không vô ngã vô tính vậy. Cho đến xứng lý mà nói thì chẳng phải trí có thể biết, như đường chim bay trong hư không làm sao tìm được dấu vết. Tuy đường bay của chim không có thể tướng nhưng dấu vết chẳng phải không có. Muốn tìm dấu vết rộng lớn này thì phải căn cứ vào đường chim bay. Cũng như thế, muốn biết Phật địa phải do nơi tâm tướng mà được chứng Phật địa sâu rộng. Song khi chứng nhập Phật địa này không được trụ nơi tịch diệt. Tất cả chư Phật không làm như thế, các ngài chỉ dạy cho chúng sinh phương tiện học Phật, học trí tuệ Phật.

Trí tuệ Phật chính là nhất thiết chủng trí, do đó trong kinh Bát-nhã lấy chủng trí làm Phật thì không gì chẳng biết, không gì chẳng thấy. Đây là sự vô tri mà biết tất cả tri, lấy sự vô kiến mà thấy tất cả kiến. Như trong phẩm Ly Thế Gian (kinh Hoa Nghiêm) đoạn nói về mười thứ tâm không hạ liệt ghi: “Đại Bồ-tát lại nghĩ: Tất cả chư Phật, tất cả Phật pháp, tất cả chúng sinh, tất cả quốc độ, tất cả thế gian, tất cả hư không giới, tất cả pháp giới, tất cả ngữ ngôn thi thiết giới, tất cả tịch diệt niết-bàn giới, tất cả các pháp trong ba đời tôi sẽ dùng một niệm tương ưng tuệ đều biết, đều hay, đều thấy, đều chứng, đều tu, đều đoạn. Song ở trong đó không phân biệt, lìa phân biệt, không các thứ, không sai biệt, không công đức, không cảnh giới, phi hữu phi vô, phi nhất phi nhị. Bởi trí bất nhị biết tất cả nhị, trí vô tướng biết tất cả tướng, trí vô phân biệt biết tất cả phân biệt, trí vô dị biết tất cả dị, trí vô sai biệt biết tất cả sai biệt, trí vô thế gian biết tất cả thế gian, trí vô thế biết tất cả thế, trí vô chúng sinh biết tất cả chúng sinh, trí không chấp trước biết tất cả chấp trước, trí vô trụ xứ biết tất cả trụ xứ, trí không tạp nhiễm biết tất cả tạp nhiễm, trí vô tận biết tất cả tận, trí cứu cánh pháp giới thị hiện thân ở nơi tất cả thế giới, trí lìa ngôn âm không thể nói ngôn âm, trí nhất tự tính vào nơi vô tự tính, trí nhất cảnh giới hiện các thứ cảnh giới, biết tất cả pháp không thể nói mà hiện ngôn thuyết đại tự tại, chứng tất cả trí địa; vì giáo hóa điều phục tất cả chúng sinh mà ở nơi tất cả thế gian thị hiện đại thần thông biến hóa đây là tâm không hạ liệt thứ mười”.

Phân tích tỉ mỉ lý sự căn nguyên như trên mới thấy chúng sinh là Phật tỉnh sáng không mê muội, Phật là chúng sinh rõ ràng không nghi. Ngộ bản tính như trở về quê nhà, được thụ dụng thân thiết như tay chân thì làm sao mê chân theo huyễn, bỏ thật cầu hư, cô phụ kỷ linh, chôn vùi gia bảo, suy tôn thượng Thánh, khinh bỉ hạ phàm, đây là chỉ tụng kinh văn suông chưa thông thật nghĩa, chỉ ghi nhớ lời tức tâm là Phật thì chừng nào mới tỉnh ngộ ? Chỉ học những lời vạn pháp duy thức thì ai sẽ hiện chứng ? Đã trái giáo quán còn thiếu minh sư, dù xưng là tiếp nối dòng Thánh mà thật ra tự lừa dối. Tông Cảnh chính vì hạng người này mà phân tích dài dòng tỉ mĩ khiến cho họ hiểu nghĩa biết tâm, xem văn thấy pháp, cảm kích trước lời dạy khẩn thiết của chư Thánh, xấu hổ với sự dụng tâm miên mật của bậc tiên hiền, đọc sách mới biết cổ đức không hề dối gạt như vén mây mù thấy trời xanh, tợ lặn xuống long cung gặp được của báu, mới biết từ xưa đến nay sức học kém cỏi, tự xét tu hành không đắc lực; chưa đi đến chỗ chân thật thì chớ nói đến sự thậm thâm của đạo, chưa nhọc nhằn chớ than khổ, chỉ cần thấy tính mới có thể dứt hết sự nói năng. Do đó chư Phật chỉ dạy là vì hạng phàm phu đui mù khiến cho họ không mắc kẹt sinh tử, khiến cho hàng Nhị thừa mắt chột chẳng trụ niết-bàn, khiến cho bậc tiểu Bồ-tát xa lìa quyền thừa, khiến cho bậc đại Bồ-tát không còn chấp giáo đạo. Đây là vì những người chưa biết tự tâm sẵn đủ thần đức rộng lớn, diệu dụng vô biên như thế, khai thị rõ ràng khiến cho họ tự biết, mười phương chư Phật không ai chẳng nương vào uy quang của mình, tất cả dị sinh không ai chẳng nhờ vào ân lực của mình, khuyên chúng sinh vui thích ngưỡng mộ tiến đạo hoằng tu, phá hạt bụi lấy ra quyển kinh lớn bằng đại thiên. Sau đó dùng sức định huệ trang nghiêm trong ngoài, phát khởi tướng dụng của chân như bản diệu giác tâm tợ mài gương xưa, như lau hạt ngọc, ánh sáng thấu mười phương, ảnh hiện khắp pháp giới, không một hàm thức bé nhỏ nào chẳng nhờ ánh sáng này. Như Thiện Tài một đời biện luận, như Long Nữ đích thân hiến hạt châu, Như Lai ở Linh Sơn ấn khả, cho nên nói ta dâng hiến bảo châu, Thế Tôn nhận lãnh, việc ấy có nhanh không ? Đáp: Rất nhanh. Long nữ nói: Với thần lực ông xem tôi thành Phật còn nhanh hơn việc này! Là biết vừa ngộ pháp này nhân quả đồng thời, thành Phật độ sinh chẳng qua một sát-na. Như phẩm Tín Giải trong kinh Pháp Hoa nói: “Hãy đuổi theo bắt lại”. Như phẩm Thí Dụ lại nói: “Việc ấy nhanh như gió”, đâu mắc kẹt nơi nhiều đời uổng tu công hạnh. Có sức niệm niệm tương ưng mau chóng như thế mà chẳng chịu đảm nhận, cho nên chư Phật than thở xót thương chỉ dạy tám giáo, bày đủ ba thừa, đại tiểu đều thâu, quyền thật đều chở, dẫn dắt tất cả cơ nghi, hoặc thấy hoặc nghe, hoặc trước hoặc sau đều khiến cho vào trong bảo tạng kim cương nhất thừa lấy làm cứu cánh.

Như trong phẩm Phương Tiện nói: “Chư Phật mười phương ba đời đều dùng vô lượng vô số phương tiện các thứ nhân duyên thí dụ ngôn từ, diễn nói các pháp cho chúng sinh. Pháp này là nhất Phật thừa, cho nên các chúng sinh từ Phật nghe pháp rốt ráo đều được nhất thiết chúng trí” thì không thể mê môn phương tiện của chư Phật, chấp tri giải thụ lĩnh những lời Phật dạy rồi khởi tâm ngã pháp. Như trong kinh Bát-nhã, Đức Phật dạy: “Vì ta không chấp trước tất cả pháp nên được thân kim sắc tỏa sáng một tầm”. Thế nên chỉ cần dứt sạch hai chấp nhân pháp thì ánh sáng này tự hiện, trở lại đồng với Thích-ca chứng thân tướng kim sắc. Do đó giáo môn chư Phật đều hiển bày phá chấp; y như trước kia mà trụ trước thì càng mê tâm khiến cho Thánh giáo cam-lộ là duyên lành thoát khổ lại như cầm thỏi vàng nóng thì bỏng tay. Nếu gặp hạng người này thì có tổn hại chứ không có ích.

Phẩm Phương Tiện có kệ:

Xá-lợi-phất nên biết,
Phật pháp đều như thế.
Dùng muôn ức phương tiện
Tùy nghi mà nói pháp.
Nếu người không tu học
Không thể hiểu việc này.
Các ông đã biết rõ
Phật là thầy thế gian
Tùy nghi dùng phương tiện.
Không còn các nghi hoặc
Tâm vô cùng hoan hỉ
Tự biết sẽ thành Phật.

Cho nên biết nếu không tập định học huệ thì không biết tùy nghi nói pháp, vọng cho là chân, không thể chạy theo văn mà cho là ngộ đạo như Thiện Tài lên gác, Long Nữ hiến châu. Đang lúc ấy tự nhiên đích thân thấy cần phải dụng công tu hành, ngày đêm quên cả mệt mỏi. Như hỏi lộ trình mà chẳng chịu đi thì quê nhà còn xa lắc; tợ thấy của báu mà chẳng chịu lấy thì trở lại chịu bần cùng. Do đó Cổ đức có bài tụng:

Học đạo phải cặn kẽ biết tâm,
Tế trong tế, tế thật khó tìm,
Không chỗ tìm có thể tìm đến
Mới tin phàm tâm là Phật tâm.

Cho nên biết ở trong một niệm sinh tử mà có thể tin có việc bất tư nghì của chư Phật rất là khó.

Kinh Đại Niết-bàn nói: “Phật dạy: Nếu có người có thể lấy cọng sen treo núi Tu di, đây là việc có thể tư nghì chăng ? Bạch Thế Tôn, không. Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở nơi một niệm có thể lường được tất cả sinh tử cho nên còn gọi là bất khả tư nghì”.

Hỏi: Lý chỉ có một đạo, sự lại muôn sai, tại sao chỉ cần thấu rõ nhất tâm thì vô biên Phật sự thảy đều viên mãn ?

Đáp: Đạo lý xuất thế do tâm làm thành, môn sự thế gian do tâm tạo ra. Nếu theo sự duy tâm thì một pháp tức là tất cả pháp, duỗi ra không bờ mé. Nếu theo lý duy tâm thì tất cả pháp tức là một pháp, cuộn lại không dấu vết. Nhân duỗi ra mà nói một (nhất), pháp này chưa từng một. Nhân cuộn lại mà nói nhiều (đa), pháp này chưa từng nhiều. Phi nhất phi đa có mà chẳng có. Vừa nhiều vừa một không mà chẳng không. Nhất đa nương lẫn nhau làm bản mạt, gồm có bốn nghĩa:

1- Nghĩa tương thành: Nhất đa cùng lập, vì tương trì lẫn nhau mà cùng tồn tại.

2- Nghĩa tương hại: Hình đoạt đều mất vì tương y nên đều vô tính.

3- Nghĩa cùng còn: Vì đây gìn giữ kia chẳng hoại kia mà còn đây; kia giữ gìn đây cũng như thế. Kinh có bài tụng: Trong một biết vô lượng, trong vô lượng biết một.

4- Nghĩa cùng mất: Vì đây giữ gìn kia tướng kia hết chỉ có đây; vì kia giữ gìn đây tướng đây hết chỉ có kia. Kinh nói: Biết một tức nhiều, nhiều tức một.

Lại do kia đây tương thành thâu nhiếp vô ngại, cho nên được đại tiểu tức nhập, nhất đa tương dung, viễn cận hỗ trì, chủ bạn dung nhiếp khiến cho trần trần hiện vô tận như lưới báu trời Đế Thích, cho nên được sự sự hiển hiện vô cùng như định quang khi ẩn khi hiện. Còn nghĩa nhất đa vô ngại, Cổ đức dùng thí dụ để hiển bày, như cách đếm mười đồng tiền. Việc này có hai thể: một là dị thể, hai là đồng thể. Trong dị thể cũng có hai: một là tương tức, hai là tương nhập. Lại vì các pháp duyên khởi có hai nghĩa: một là nghĩa không hữu, đây chính là tự thể; hai là nghĩa hữu lực vô lực, đây hướng vào lực dụng. Do nghĩa đầu tiên nên được tương tức, do nghĩa sau cùng nên được tương nhập. Trong nghĩa không hữu đầu tiên, do tự hữu thì tha ắt không cho nên tha tức tự, vì sao ? Do vì tha vô tính nên tự tác. Hai do tự không thì tha ắt hữu cho nên tự tức tha, vì sao ? Do vì tự vô tính nên tha tác, vì không hữu không có hai thể cho nên thường tương tức. Nếu không như thế thì duyên khởi chẳng thành, có lỗi cùng tự tính.

Trong hai lực dụng, tự có toàn lực cho nên năng nhiếp tha, tha toàn vô lực cho nên năng nhập tự, chẳng căn cứ tự thể cho nên chẳng phải tương tức; lực dụng xen suốt nên thành tương nhập.

Mười số làm dụ, lại có hai môn: một là môn dị thể, hai là môn đồng thể. Căn cứ vào môn dị thể lại có hai:

1- Đa trong nhất, nhất trong đa, như kinh có bài tụng:

Trong một biết vô lượng,
Trong vô lượng biết một,
Rõ kia sinh khởi nhau,
Sẽ thành vô sở uý.

Đây là căn cứ vào tướng mà nói.

2- Nhất tức đa, đa tức nhất, như kinh có bài tụng:

Biết một tức là nhiều
Nhiều là một nghĩa vị
Tịch diệt thảy bình đẳng
Xa lìa tướng nhất dị
Bồ-tát trụ bất thối.

Đây là căn cứ vào lý mà nói.

Hỏi: Mỗi thứ đều vô tính thì làm sao được thành nhất đa ?

Đáp: Đây do thật tướng pháp giới, lực dụng duyên khởi tương ưng với cảnh giới Phổ Hiền, cho nên nhất đa thường thành không thêm không bớt. Kế nói đến nhất tức đa, đa tức nhất tợ như một tức là mười vì duyên thành. Nếu mười chẳng phải một vì một chẳng thành nên mười cũng chẳng thành. Như cây cột chẳng phải nhà, khi ấy không có nhà. Nếu có nhà thì cũng có cột tức là cho cột là nhà nên có nhà lại có cột. Một tức mười, mười tức một nên thành một lại thành mười.

Hỏi: Nếu một tức mười đây là không có một; nếu mười tức là một đây là không có mười tại sao nói một cùng với mười, lại nói vì tức nên được thành ?

Đáp: Một tức chẳng phải một, theo tình chấp cho là một, nay cho rằng duyên thành một. Duyên thành một là chẳng phải tình chấp cho là một. Cho nên kinh có bài tụng:

Một chẳng phải là một
Là vì phá các số.
Trí cạn chấp các pháp
Thấy một cho là một.

Hỏi: Trước nói về đa trong nhất, nhất trong đa tức là trong một có mười trong mười có một. Còn đây nói về một tức mười có gì khác biệt không ?

Đáp: Trước nói về mười trong một là lìa một không có mười mà mười chẳng phải một. Đây nói về một tức là mười là lìa một không có mười mà mười tức là một thì duyên thành vậy.

2- Môn đồng thể: Cũng giống như môn trước nói về mười trong một. Môn này nói mười trong một tức là trong một có chín nên nói mười trong một.

Hỏi: Nếu trong một có chín thì đây cùng với môn dị thể trước có gì sai biệt ?

Đáp: Trong đây nói có chín là có nơi tự thể chín mà một chẳng phải là chín. Như môn dị thể ở trước nói một tức là mười trong môn dị thể kia mà mười không lìa một.

Hỏi: Trong một đã tự có chín, lẽ ra chẳng phải nghĩa duyên thành.

Đáp: Nếu chẳng phải nghĩa duyên thành thì làm sao được có chín ?

Hỏi: Một thể tại sao có chín ?

Đáp: Nếu không có chín thì không có một.

Kế nói về một tức mười trong môn đồng thể, còn nói là một, do duyên thành nên một tức mười, vì sao ? Nếu mười chẳng phải một, vì một chẳng thành; một tức mười đã thế thì tức hai ba cũng vậy.

Hỏi: Trong đây nói tự thể một tức mười cùng với mười trong một nơi môn đồng thể trước có gì khác ?

Đáp: Trước nói trong tự thể có mười mà một chẳng phải là mười; còn ở đây nói một tức mười mà một tức là mười. Đây là chỗ khác nhau.

Hỏi: Đây nói một thể tức là mười là nhiếp tất cả pháp phải không ?

Đáp: Tùy theo trí sai biệt mà tận hoặc bất tận. Vì sao ? Như một nhiếp mười thì chẳng phải tận; nếu nói đầy đủ thì vô tận.

Hỏi: Là nhiếp một môn vô tận hay là nhiếp các môn vô tận ?

Đáp: Một môn vô tận thì những môn khác cũng vô tận. Nếu môn khác bất tận thì một môn cũng bất tận. Nếu một thành thì tất cả liền thành; nếu một bất thành thì tất cả liền bất thành. Cho nên nhiếp pháp này là vô tận lại vô tận thành một nghĩa, đối với ba nghĩa, bốn nghĩa cũng như hư không, đó là tận; lại không thâu nhiếp gì khác nữa nên vô tận cho nên biết rằng cũng nhiếp tận bất tận vậy.

Hỏi: Đã nói một là năng nhiếp nghĩa là chỉ nhiếp mười trong một, cũng có thể thâu nhiếp mười của nơi khác chăng ?

Đáp: Nhiếp mười pháp khác cũng có nghĩa tận bất tận, vì sao ? Vì lìa tha không có tự cho nên một nhiếp nơi khác là vô tận thành một. Mười nghĩa của nơi khác như hư không cho nên có tận. Kinh nói: “Bồ-tát nơi một địa thu nhiếp khắp cả các công đức các địa”. Tông Cảnh Lục là nhất thừa biệt giáo, là môn bất tư nghì, là tông viên dung vô tận, không như những gì nói trong giáo nghĩa thuộc Tam Thừa như nghĩa nhất đa vô ngại trên đây không thể dùng ý thức hiểu được, hoặc dùng tình chấp suy lường, chỉ có con mắt trí tuệ thanh tịnh đầy đủ sáu tướng mười huyền thấu suốt ý chỉ này thì mới biết nó dung nhiếp vô biên, bao hàm vô lượng. Như phẩm Thần Lực trong kinh Pháp Hoa nói: “Chư Phật ở nơi đây đắc Vô thượng chính đẳng chính giác, chư Phật ở nơi đây chuyển pháp luân, chư Phật ở nơi đây nhập niết-bàn”. Kinh lại nói: “Từ bi là mắt Phật, chính niệm là đầu Phật, diệu âm là tai Phật, rừng hương là mũi Phật, cam-lộ là miệng Phật, tứ biện là lưỡi Phật, lục độ là thân Phật, tứ nhiếp là cánh tay Phật, bình đẳng là ngón tay Phật, giới định là chân Phật, chủng trí là tâm Phật”.

Kim Quang Minh Sớ nói: “Pháp tính thân Phật, hàng phàm phu, nhị thừa, Bồ-tát dưới Thập địa đều không thể thấy được; chỉ do tùy theo cơ cảm hóa độ, Phật thị hiện khiến được thấy. Đây là thân vô thân, tướng vô tướng, nhất thiết trí là đầu, đệ nhất nghĩa đế là búi tóc, tám mươi bốn nghìn pháp môn là tóc, đại bi là mắt, trung đạo là bạch hào, vô lậu là mũi, mười tám không là lưỡi bốn mươi pháp bất cộng là răng, hoằng thệ là vai, ba tam-muội là lưng, Như Lai tạng là bụng, trí quyền thật là tay, định tuệ là chân, những tướng này trang nghiêm cho pháp thân Phật”.

Sơ Tổ Ngưu Đầu nói: “Chư Phật nơi đây đắc bồ-đề”. Nơi đây chính là tâm xứ đắc bồ-đề, sắc xứ chuyển pháp luân, nhãn xứ nhập niết-bàn. Nếu như thế thì ngay trong thân là pháp thân cứu cánh giải thoát luôn đủ nơi tịnh độ, lại đâu có thiếu chi mà còn tìm cầu gì nữa ?! Lúc vừa mới phát tâm liền thành Chính giác. Trong Tông Cảnh này có trí, hạnh, chủ bạn đều đồng một phần vị, vừa có lòng tin là chắc chắn vào dòng pháp, như trong chiếc gương tròn không phân chia riêng lẽ.

Luận Hoa Nghiêm nói: “Pháp môn của kinh này đại khái là mười phương Như Lai cùng thực hành, vì không có cái gì mới lạ, như con đường vua đi, vừa đặt chân là tức thì đến nơi liền đúng, không luận là đi như thế nào! Một niệm tùy theo thiện căn, thấy tính được chút ít phần thì trí huệ hiện tiền, đều là nhờ chẳng lìa căn bản trí của Phật chính giác nên không rời hạnh Phổ Hiền. Như trong một niệm của Phổ Hiền có một ít phần thiện tâm, đều hướng về pháp lưu”. Do đó kinh nói: “Nghe danh hiệu Như Lai và pháp môn được tuyên thuyết, nghe mà không tin vẫn có thể rốt ráo đến được bậc Kim Cang Trí, huống chi là người tin và tu tập”. Kinh lại nói: “Pháp môn giải hạnh trong kinh Hoa Nghiêm này tu học, ngộ nhập chắc chắn sẽ thành tựu pháp môn Thập trụ, trụ Phật chủng tính, sinh vào nhà Như Lai, thật sự làm con Phật, không như Bồ-tát Sơ Địa của quyền giáo, do thệ nguyện thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm bàn thẳng về địa vị thật chứng, không kể thệ nguyện, là giáo môn nhất thời, nhất tế, nhất pháp giới, không có niệm khác nhau, trước sau tình thức dứt sạch. Phàm Thánh cùng một tính, bất luận tình thức trói buộc, phải nhờ vô niệm vô tác pháp giới chiếu soi mới có thể thấy. Nếu còn tình chấp thì không thể tin được. Giả sử có tin, tin sâu xa lời Phật cho nên không phải tự thấy. Nếu tự thấy thì tình hết tưởng mất, tâm với lý khế, trí cùng cảnh hợp, mới biết muôn cảnh tính tướng thông suốt, bao gồm; nếu không như thế, tâm thường phân biệt này nọ, phải trái tranh nhau, sạch nhơ không dứt. Nếu được xứng hợp tâm tính thì tình thức sẽ tự thấu đạt huyền môn trùng trùng pháp giới nhất đa thuần tạp tự tại hàm dung, môn tổng biệt viên dung tự tại. Đối với sự lợi sinh, khéo hiểu rõ các loại căn tính để tùy theo đó đem đến sự lợi ích những kẻ cung kính, thân cận vâng theo đều có thể cứu giúp tất cả. Do xứng tính nên làm bất cứ việc gì cũng đều khắp cả pháp giới; còn nếu chỉ tùy sự mà làm ắt hẳn là hạn cuộc. Như kinh Ma-ha Bát-nhã nói: “Nếu muốn cúng dường một bữa ăn cho mười phương Hằng hà sa chư Phật và chư tăng thì nên học bát-nhã ba-la-mật, hoặc đem y phục, hương hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa, hương thơm, đèn thơm, tràng phan, lọng hoa cúng dường chư Phật và chư tăng nên học bát-nhã ba-la-mật”.

Luận hỏi: Bồ-tát cúng dường một bữa ăn cho một Đức Phật và tăng còn là việc khó huống chi là cúng dường mười phương Hằng hà sa chư Phật và tăng ?

Đáp: Công đức cúng dường là nơi tâm chứ không nơi sự việc. Nếu Bồ-tát cúng dường với tâm rộng lớn một bữa ăn cho mười phương chư Phật và tăng, không bị không gian làm trở ngại, thế nên chư Phật đều thấy và đều thụ nhận. Do đó biết rằng vận dụng nhất tâm rộng lớn không giới hạn thì công đức và trí tuệ đều được trang nghiêm, lục độ vạn hạnh tất cả đều viên mãn; một mảy may không tính pháp giới không sai biệt, trong một vi trần đầy đủ mười phương. Vì thế, trên hội Pháp Hoa các cõi Phật mười phương gom làm một cõi nước, phân thân cùng ngồi chung hoa sen đồng chứng nhất thừa, cũng như kinh Hoa Nghiêm có nói rõ ràng: Nơi quốc độ này thuyết pháp mười cõi Phật cũng như thế. Ngưỡng mong bậc tiên Thánh cùng quy tụ khiến cho hậu học thêm lòng tin kiên cố. Người gặp được giáo pháp này quả thật có phước duyên lớn, như cầm ngọn đuốc soi sáng ngõ tối tăm, tỏ rõ kiến tính như chiếc thuyền lướt nhanh qua sông, thoắt nhiên bước thẳng lên chỗ chân thật. Cho nên nói: Một câu thấm vào tâm thần chắc chắn sẽ thành Phật, một chữ lọt vào tai ắt hẳn bảy trời chẳng trầm luân, đó là điều lợi ích cho người, còn chính mình được trăm phước tướng thù thắng đồng vào vô sinh. Muôn điều lành tuy khác nhưng cùng hội tụ bình đẳng. Nay trong Tông Cảnh cũng như thế. Chính là bỏ ngay phương tiện chỉ nói đạo vô thượng, trong tất cả pháp chỉ dùng quán nhập bình đẳng. Nếu chấp phương tiện, bàn rộng về các thừa thì lại đánh mất bản hoài của chư Phật và trái với tông chỉ.

Kinh Pháp Vương nói: “Nếu định theo căn cơ là người tiểu thừa nói pháp tiểu thừa, người xiển-đề nói pháp xiển-đề; đó là đoạn Phật tính, là diệt Phật thân; người thuyết pháp như thế sẽ phải trải qua trăm nghìn muôn kiếp đọa các địa ngục. Vì sao ? Vì chúng sinh tính là pháp tính xưa nay không tăng giảm thế nào ở trong đó lại phân biệt cái gì là thuốc, cái gì là bệnh. Người hiểu được như thế thì tất cả pháp thảy đều là Phật pháp”

Hỏi: Thế nào là tất cả pháp đều là Phật pháp ?

Đáp: Tất cả pháp duy tâm, tâm tức là Phật, tâm tức là pháp. Học nhân hỏi quốc sư Huệ Trung: Kinh nói: Tất cả pháp đều là Phật pháp, sát hại cũng là Phật pháp sao ? Quốc sư đáp: Tất cả mọi hoạt động đều là tác dụng của Phật trí, như người dùng lửa chẳng ngại mùi thơm hôi, như nước sạch nhơ chẳng nhiễm. Những ví dụ này nhằm biểu hiện Phật trí, như lửa không phân biệt cây thơm hôi lửa đều đốt cháy, nước cũng chẳng phân biệt tùy bình chứa vuông tròn. Thế nên Văn-thù cầm kiếm nơi Cù-đàm, Ương-quật cầm đao bên Thích-ca, đâu chẳng phải là Phật sự sao ? Nếu ngoài tâm thấy pháp mà sinh phân biệt dù làm được nhiều việc tốt đẹp vi diệu cũng chẳng phải cứu cánh.

Hỏi: Tâm tính vốn thanh tịnh lặng lẽ chiếu soi không sót, sao phải nhờ đến ánh sáng trí tuệ (trí quang) thấu suốt ?

Đáp: Tâm là chính nhân, tuy soi chiếu tỏ rõ nhưng vì khách trần phiền não ngăn che, nếu không có trí tuệ liễu nhân thì không thể hiển bày. Cổ đức nói: Trí chiếu soi nguồn tâm, đó là liễu nhân, như hư không và mặt trời. Nói về sự khó nghĩ có mười nghĩa: Một là mặt trời và hư không chẳng phải là một, chẳng phải rời nhau. Hai là chẳng phải trụ chẳng phải chẳng trụ. Ba là như mặt trời phá tan bóng tối hiển bày sự cần thiết của hư không. Bốn là tuy dẹp bóng tối hiển bày hư không mà hư không chẳng có tăng giảm. Năm là lý thật không làm tổn sự, bóng tối được hoàn toàn dẹp trừ, tính cũng chẳng thêm, không giới bao hàm vạn tượng đều hiện rõ. Sáu là tính hư không tuy trong sáng, nếu không có ánh sáng mặt trời chắc hẳn phải tối tăm. Bảy là chẳng phải nhờ hư không, hư không đâu có thể tự trừ bỏ bóng tối; muốn trừ bóng tối phải nhờ đến ánh sáng mặt trời. Tám là mặt trời nếu không có hư không thì không có ánh sáng cũng không chiếu soi. Hư không nếu có mặt trời thì bóng tối không tự dẹp trừ. Chín là tính của bóng tối không đến không đi; thể tướng của mặt trời cũng chẳng sinh chẳng diệt. Mười là chỉ có mặt trời chiếu hư không thì cả trời đất đều sáng tỏ, mặt trời trí huệ soi chiếu tâm tính hư không cũng như thế.

Giải thích:

1- Trí và tâm phi tức phi ly. Thế nào là phi tức ? Trí là tâm năng chiếu, vì năng chiếu khác sở chiếu. Thế nào là phi ly ? Trí là dụng của tâm cho nên dụng không rời thể.

2- Phi trụ phi bất trụ. Thế nào là phi trụ ? Vì tính của trí lìa. Thế nào là phi bất trụ ? Vì tương ưng với tâm.

3- Trí hay phá khách trần hiển bày tâm tính.

4- Trí tuy dẹp bỏ trần hiện bày tính nhưng tâm vốn không ẩn hiện.

5- Tâm tuy vốn không nhưng phải sạch hết khách trần mới hiện khắp pháp giới.

6- Tâm tuy thanh tịnh nhưng nếu không có ánh sáng trí huệ, hẳn là bị khách trần che khuất.

7- Chẳng phải tâm tự không, chẳng nhiễm khách trần; muốn trừ bỏ khách trần phải nhờ đến ánh sáng trí huệ.

8- Trí không có tâm thì không chiếu soi; tâm không có trí thì không sáng suốt.

9- Khách trần tuy hết song vốn không khứ lai; trí tuy khởi chiếu song cũng không sinh diệt.

10- Được ánh sáng trí huệ thì tâm tính sáng suốt tịch chiếu, pháp giới rỗng suốt rốt ráo thanh tịnh.

Cho nên biết rằng muôn pháp vô tu, từ chỗ siêng tu mà đến chỗ vô tu. Bản tính tuy không song cũng do tu không mà hiển không. Nay Tông Cảnh ghi chép sâu xa là có nguyên do, chỉ vì chúng sinh không có trí tuệ chẳng tu hành mà phải rơi vào ngu tối, không sáng tỏ tâm tính, uổng bị luân hồi. Nếu không có ánh sáng trí tuệ của Tông Cảnh thì do đâu hiển hiện nơi tâm bảo. Trí tính giải thoát của chúng sinh vốn tự đầy đủ, vì khách trần che lấp, như gương bị bụi phủ. Nếu biết gương vốn sáng sạch, bụi liền hết; khách trần sạch hết chân tính sáng ngời.

Như kinh Đại Niết-bàn nói: “Ở ngoài thôn lớn có rừng sa-la, trong rừng có một cây sống một trăm năm khi ấy chúa rừng tưới nước tùy thời tiết mà cây sinh trưởng. Cây này đến lúc già cỗi, vỏ cây cành lá đều rơi rụng, chỉ còn lại lõi cây. Như Lai cũng thế, những gì xưa cũ đều đã trừ sạch, chỉ còn pháp chân thật”. Cho nên hòa thượng Nhất Bát ngâm:

Vương tử Kim Luân Thánh muôn đời
Chỉ có chân như là linh giác
Nơi cội bồ-đề độ chúng sinh
Độ hết chúng sinh khỏi sinh tử
Dứt dòng sinh tử ấy trượng phu
Vô hình vô tướng đại tỳ-lô
Trần lao diệt hết chân như hiện
Một hạt minh châu chiếu sáng ngời.