TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 12

Hỏi: Chỉ có một tâm pháp tại sao trong giáo lý lại lập nhiều tên gọi ?

Đáp: Danh hiệu Như Lai mười phương không giống nhau, một pháp bát-nhã được gọi nhiều tên, giải thoát cũng vậy. Thế nên kinh Đại Bát-nhã nói: “Như tên gọi của tất cả pháp chỉ thuộc về bên ngoài, trong mười phương ba đời không từ đâu đến, không đi về đâu, cũng không chỗ trụ; trong tất cả pháp không có tên gọi, trong tên gọi không có tất cả pháp, chẳng tụ họp, chẳng phân tán, chỉ là giả dối bày ra. Tại sao ? Vì tất cả pháp và tên gọi đều là tự tính không”. Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập nói: “Bấy giờ, Phật bảo Bồ-tát Đà-la-ni Tự Tại Vương: Thiện nam, đệ nhất nghĩa là không có các pháp. Nếu không có các pháp tại sao nói không, pháp không danh tự nói là danh tự, như thế danh tự cũng không có chỗ trụ. Pháp của tên gọi cũng như thế. Thế nên pháp từ tâm sinh, tên gọi do pháp mà lập, tâm sở sinh không xứ sở, pháp năng sinh cũng thế thì tâm cảnh rộng không đều không có xứ sở”. Luận nói: “Tâm có thể vì tất cả pháp mà tạo nên tên gọi, nếu không có tâm thì không có tên gọi”. Nên biết tên gọi thế gian, xuất thế gian đều từ tâm khởi, vì tâm theo duyên ứng vật mà lập tên gọi. Sơ lược có năm nghĩa mà lập giả danh: 1- Vì theo nghĩa, 2- Vì tùy duyên, 3- Vì y tục, 4- Vì nhân thời, 5- Vì ước dụng.

Thế nào là theo nghĩa ? Kinh Vô Lượng Nghĩa nói. “Vô lượng nghĩa là từ một pháp sinh, cho nên biết do nghĩa lập tên, do tên hiển nghĩa”.

Thế nào là tùy dụyên ? Kinh Niết-bàn nói: “Vị ấy thật sự ở lại núi Tuyết, tùy theo chỗ đi chuyển của nó mà có các thứ tên gọi”. Tùy theo chỗ đi chuyển, của nó tức là tùy theo duyên nhiễm tịnh, được danh hiệu phàm Thánh.

Thế nào là y tục ? Kinh nói: “Một pháp có nhiều tên. Trong thật pháp thì không, vì không mất pháp tính nên lưu bố trong thế gian”.

Thế nào là nhân thời ? Kinh Niết-bàn nói: Phật tính do thời tiết mà có sai khác, nói tịnh bất tịnh, vì sao ? Lúc ở nơi cấu nhiễm gọi là chúng sinh, khi ở nơi thanh tịnh gọi là chư Phật”.

Thế nào là ước dụng ? Như do tâm lập pháp, tùy pháp đặt tên. Nơi Thánh gọi là chân, nơi phàm gọi là tục như vàng làm ra đồ trang sức, tùy món đồ mà đặt tên, ở ngón tay gọi là nhẫn, đeo ở cổ tay gọi là xuyến. Nhất tâm bất động vì chấp biệt hiệu mà muôn pháp thành khác biệt.

Chân kim không thay đổi, do đặt nhiều tên gọi khác nhau mà vật có rất nhiều thứ. Nếu biết các pháp đều do tâm tạo tác các món trang sức toàn do vàng làm thành, tên gọi cũng như hình tướng không dính dáng gì, thị phi đâu thể mê hoặc. Lại như đồ vật tròn với đồ vật vuông tên gọi khác nhau, như vàng chưa luyện với vàng đã luyện có sai khác. Suy xét cội nguồn thì vạn pháp đều không, chỉ có ý ngôn danh nghĩa là sai biệt, động tức là tám thức, ngưng tức là nhất tâm, được chỉ thú quên duyên, chạm cảnh không dính mắc. Như kinh Đại Niết-bàn ghi: “Phật nói: Thiện nam, tất cả thiện hạnh của Như Lai đều nhằm điều phục chúng sinh. Ví như các phương thuốc của y vương dùng để trị liệu các bệnh khổ. Thiện nam, Như Lai Thế Tôn vì cõi nước, vì thời tiết, vì dạy người, vì người, vì các căn, ở trong một pháp có hai cách nói, trong một tên nói vô lượng tên, trong một nghĩa nói vô lượng tên, trong vô lượng nghĩa nói vô lượng tên.

Thế nào là trong một tên nói vô lượng tên ? Như nói niết-bàn, còn gọi là niết-bàn, vô sinh, vô xuất, vô tác, vô vi, quy y, hang động, giải thoát, quang minh, đăng minh, bỉ ngạn, vô úy, vô thoái, an xứ, tịch tĩnh, vô tướng, vô nhị, nhất hạnh, thanh lương, vô ám, vô ngại, vô tránh, vô trược, quảng đại, cam-lộ, kiết tường, đây gọi là một tên nói vô lượng tên.

Thế nào là một nghĩa nói vô lượng tên ? Giống như nói Đế Thích, cũng gọi là Đế Thích, Kiều-thi-ca, Bà-tha-bà, Phú-lan-đà, Ma-khư-bà, nhân-đà-la, thiên nhãn, xá-chỉ-phu, kim cương, bảo đảnh, bảo tràng, đây gọi là một nghĩa nói vô lượng tên.

Thế nào là trong vô lượng nghĩa nói vô lượng tên ? Như gọi Phật là Như Lai, nghĩa khác tên khác; còn gọi là A-la-ha, nghĩa khác tên khác; còn gọi là Tam-miệu tam-phật-đà, nghĩa khác tên khác; còn gọi là thiền sư, đạo sư, chính giác, minh hạnh túc, đại sư tử vương, sa-môn, bà-la-môn, tịch tĩnh, thí chủ, đáo bỉ ngạn, đại y vương, đại tượng, đại long vương, thí nhãn, đại lực sĩ, đại vô úy, bảo tụ, thương chủ, đắc thoát, đại trượng phu, thiên nhân sư, đại phân-đà-lợi, độc vô đẳng lữ, đại phước điền, đại trí tuệ hải, vô tướng, cụ túc bát trí. Tất cả nghĩa khác tên khác là như thế. Thiện nam, đây là trong vô lượng nghĩa nói vô lượng tên.

Thế nào là trong một nghĩa nói vô lượng tên, như nói ấm, cũng gọi là ấm, điên đảo, đế, tứ niệm xứ, tứ thực, tứ thức trụ xứ, hữu, đạo, thời, chúng sinh, thế, đệ nhất nghĩa, tam tu, thân giới tâm, nhân quả, phiền não, giải thoát, mười hai nhân duyên, Thanh văn, Bích-chi Phật, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, thiên, nhân, quá khứ, hiện tại, vị lai. Đây là một nghĩa mà nói vô lượng tên. Này thiện nam, Như Lai vì chúng sinh mà trong rộng nói lược, trong lược nói rộng, đệ nhất nghĩa đế nói là thế đế, thế đế nói là đệ nhất nghĩa đế.

Thế nào là ở trong rộng nói lược ? Như Phật bảo: Tì-kheo, nay ta nói về mười hai nhân duyên. Thế nào là mười hai nhân duyên ? Đó là nhân quả.

Thế nào là trong lược nói rộng ? Như Phật bảo tì-kheo: Nay ta nói về khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là vô lượng nỗi khổ, tập là vô lượng phiền não, diệt là vô lượng giải thoát, đạo là vô lượng phương tiện.

Thế nào đệ nhất nghĩa đế nói là thế đế ? Như Phật bảo các tì-kheo: Hiện nay thân của ta có già, bệnh, chết.

Thế nào thế đế nói là đệ nhất nghĩa đế ? Như Phật bảo Kiều Trần Như: Vì ông đắc pháp nên gọi là A-nhã Kiều Trần Như. Thế nên tùy theo người, tùy theo ý nên cho rằng Như Lai rõ biết các loại căn cơ, trình độ. Này thiện nam, nếu ta đối với các thứ nghĩa tuyên nói một cách cố định thì không thể gọi ta là Như Lai biết rõ đầy đủ căn lực. Thiện nam, người có trí hẳn biết sức chuyên chở của con voi chúa hơn con lừa nhiều. Vì hành nghiệp của tất cả chúng sinh vô lượng nên Như Lai vì họ thuyết vô lượng pháp. Vì sao ? Bởi vì chúng sinh phần nhiều đều có phiền não. Nếu Như Lai chỉ nói về một hạnh thì không gọi Như Lai cụ túc thành tựu. Vì biết rõ các căn lực nên biết pháp vốn vô danh, do tâm kiến lập. Do đó, bậc đại Thánh tùy thuận thế đế, uyển chuyển thích ứng hoàn cảnh, căn cơ, rộng, lược không đồng, một nhiều chẳng cố định, đem hữu thuyết đưa về vô thuyết, dùng hữu danh dẫn vào vô danh để rốt ráo đến chỗ bản tâm tịch diệt”.

Thế nên kinh dạy: “Phật bảo Xá-lợi-phất, ông nên cẩn thận chớ nói pháp dài dòng cho người lợi căn, nói pháp sơ lược cho người độn căn”.

Lại nữa, danh do thể lập, thể theo danh sinh, thể không thì danh không được lập bày, danh rỗng thì thể không có chỗ khởi. Danh, thể đều bặt muôn pháp không sinh, chỉ một chân tâm không có gì khác. Vĩnh Gia Tập nói: “Thế nên chỉ lấy thể chẳng có danh thì chẳng rõ được, danh chẳng có thể thì không lập bày được”. Nói thể tất phải mượn danh, nói đến danh ắt phải nhờ vào thể. Nếu ngoài thể lập bày danh thì đây chỉ là danh suông; cái vô thể ấy há có thể đúng với danh sao ? Ví như thỏ vốn không sừng mà đặt tên, đây hẳn gọi là thỏ không có sừng, đâu phải có sừng để đúng với tên gọi “sừng thỏ” sao ? Không có thể mà đặt ra danh thì danh ấy là danh không thật. Danh không thật danh thì cái được đặt tên không được gọi, cái sở danh đã không thì năng danh không có vậy. Bất cứ sự đặt ra danh vốn là nhằm gọi tên cái thể kia, không thể lấy gì thích đáng với danh kia. Nói rằng thể vốn dĩ phải đúng với danh, vô danh thì sao đúng với thể; thể vô thể mà chẳng phải thể, danh vô danh mà chẳng phải danh. Như thế, đâu chỉ riêng thể nguyên hư mà danh cũng là bản tịch vậy. Nhưng vô thể mang danh từ trước như vậy, danh có thì còn nói gì nữa. Thể không tự đặt tên, mượn cái tên khác để gọi ngã thể. Danh chẳng tự lập bày, phải mượn cái thể kia để lập bày ngã danh. Nếu thể chưa thành hình thì danh đâu được gọi, nếu danh chưa được lập bày thì sao được rõ ràng. Nhưng biết rõ thể tuy nhờ vào danh, chẳng vì không danh mà vô thể. Lập bày danh cần phải do thể, thể có trước danh, danh theo sau thể để biện biệt. Đây là lập bày danh để gọi tên thể vì thế nên biết thể là cội nguồn của danh. Như thế danh là duyên khởi từ thể, nguồn cội của thể lại nương vào đâu ? Thể không phải hình của ngã, mượn các duyên hội tụ mà thành thể, duyên hội tụ chẳng phải ngã, do hội thể mà thành duyên. Nếu thể chưa thành hình thì duyên sao hội được, nếu duyên chưa hội thì thể sao được hình thành. Thể hình hẳn là do duyên hội mà thành hình, duyên hội ắt thể hình được kết hợp, thể hình hòa hội không riêng hình thì hình vốn không. Do đó muôn pháp từ duyên sinh, không có tự thể. Tự thể đã không nên danh tính cũng không. Tính đã không, tuy duyên hội mà chẳng phải có, duyên đã hội tuy tính không mà chẳng phải không, vì do duyên hội mà có, hữu mà phi hữu, vô của tính không, vô mà bất vô, bất cứ cái gì thuộc hòa hợp thảy đều tính không cho nên nói phi hữu. Không thì phải do duyên hội nên nói phi vô. Nay nói bất hữu, bất vô nghĩa là chẳng phải là lìa hữu riêng có một cái vô, cũng chẳng phải lìa vô riêng có một cái hữu; như vậy thì biết rõ pháp chẳng phải hữu vô, vì tên gọi phi hữu phi vô, chẳng phải là phi hữu phi vô. Đã phi hữu vô mà còn phi phi hữu, phi phi vô, như thế thì không chỉ bặt đường ngôn ngữ mà chỗ tâm hành cũng diệt. Như vậy danh thể đều không, ngôn ngữ, tư duy đều tự dứt tuyệt, có thể nói rằng muôn cơ đều bặt dấu vết, chỉ một chân tâm sáng suốt.

Hỏi: Diệu chỉ duy tâm tất cả vô danh. Nếu cái tên chúng sinh là giả lập thì danh hiệu chư Phật cũng là hư dối kiến lập sao ? Do phàm lập Thánh, Thánh vốn không tên gọi: tự tục hiển chân, chân vốn chẳng lập; đều dựa vào văn tự thế tục đối đãi mà sinh ra, văn tự lại không, không cũng chẳng nương gá. Bậc Đại sĩ thượng căn dù mượn danh tướng để phát dương, đối cảnh mà niệm niệm đều biết rõ tông, chạm duyên mà tâm tâm đều khế hợp đạo. Như Luận Đại Trí Độ ghi: “Kinh nói: Ở cõi nước Phật Sư Tử Lôi Âm có cây báu trang nghiêm, cây này thường phát ra vô lượng pháp âm, bảo rằng tất cả pháp tất cánh không, vô sinh vô diệt. Người dân sinh ở nơi ấy liền nghe pháp âm này vì không khởi ác tâm nên đắc vô sinh nhẫn, ngay lúc ấy nơi nào có tên gọi Tam bảo, chỉ rõ suốt ý chỉ vô sinh tự nhiên được nhất thể. Tam bảo luôn luôn có mặt ở thế gian. Nếu nắm lấy cái tên gọi sai khác, tức là đánh mất lý chân thường. Chỉ thấu rõ tất cả pháp vô tự tính thì tất cả chỗ đều có Phật xuất thế, chẳng có một pháp nào mà chẳng phải là tông”.

Tiên đức nói: Phật xuất thế tức là hiện nay Như Lai xuất hiện hoàn toàn lấy trần vô tính, pháp giới duyên khởi bồ-đề, niết-bàn, lấy đó làm thân Như Lai. Thân này thông cả ba cõi thế nên nơi tất cả cõi nước, tất cả chúng sinh, tất cả sự vật, tất cả duyên khởi, tất cả nghiệp báo, tất cả hạt bụi mảy lông v.v… mỗi mỗi đều hiển hiện bồ-đề niết-bàn, đó là Phật xuất thế vậy. Nếu có một chỗ không thấu rõ liền không thành Phật, cũng không có Phật xuất thế. Vì sao ? Vì chỗ không thấu rõ đó chính là vô minh, thế nên không thành Phật, không có Phật xuất thế. Vì vậy chư Phật xuất thế biết rõ căn cơ, biết rõ thời điểm thị hiện sinh vào thời kiếp giảm nhằm trợ giúp cho người hạ căn, dùng nắm tay không để dẫn dụ, đem lá vàng để nhắc nhở. Đối với bậc thượng thượng căn thì chư Phật chẳng sinh cũng chẳng diệt.

Do đó kinh nói: Có Phật không Phật tính tướng thường trụ.

Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Như tâm chư Phật ấy
Phật chúng sinh cũng thế
Tâm, Phật và chúng sinh
Ba thứ không sai biệt.

Chỉ là một pháp thôi, tên gọi khác mà lý đồng, người nào giác ngộ cái tâm bất tư nghì tuyệt đãi vô y vô trụ, được bất động thì thể nhập vào giai vị đầu tiên của bậc Thập Tín, gọi là Bất động trí Phật. Còn lúc không giác ngộ chân tâm tuyệt đãi, chẳng giữ gìn tự tính, theo duyên sai biệt, thì đây là pháp thân đang lưu chuyển trong năm đường, gọi đó là chúng sinh. Chỉ có tên mê ngộ, chẳng rời cái thể nhất tâm, lại còn có pháp gì làm thành tên gọi phàm Thánh khác biệt sao!

Như kinh Văn-thù Bát-nhã ghi: “Phật bảo: Phật pháp là vô thượng chăng ? Văn-thù đáp: Không có một pháp dù rất nhỏ như hạt bụi được gọi là vô thượng”.

Kinh lại nói: “Như lúc Thế Tôn thuyết pháp này không có Bồ-tát chứng đắc các môn tam-muội đà-la-ni, cũng chẳng có chư Phật tuyên nói các cú nghĩa, cho đến chẳng thốt ra một lời, không có người nghe, không có người hiểu, không có người thành Phật”. Các pháp như thế là lời chân thật. Đời mạt pháp năm trăm năm sau, pháp môn của kinh này được truvền bá rộng rãi ở thế gian thịnh hành không dứt, vì đây là chân thật ngữ.

Hỏi: Muôn cơ bặt hết dấu vết, chỉ có một chân tâm sáng tỏ, tại sao trong kinh giáo nói đây là pháp phàm phu, đây là pháp Thánh nhân ?

Đáp: Vì tất cả pháp duyên sinh nên vô tự tính, thật không có pháp phàm phu, cũng chẳng có pháp Thánh nhân, do vì vô tính duyên sinh. Do đó, hoặc chân, hoặc tục không lẫn lộn nhau; như nói tất cả là một thì đồng vô tính, một là tất cả thì nhân quả rõ ràng. Tuy rõ ràng mà không đánh mất lý vô tính, tuy là vô tính mà không làm hoại đạo duyên sinh. Lại nữa tuy chỉ tỏ rõ nhất tâm song đối với các pháp mỗi mỗi đều hiểu biết phân minh không mê lầm.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Đại Bồ-tát biết tất cả pháp đều đồng một tính, đó là vô tính, vô chủng chủng tính, vô vô lượng tính, vô khả toán số tính, vô khả xưng lượng tính, vô sắc vô tướng. Quyết định biết rõ hoặc một, hoặc nhiều đều không thể được. Đây là pháp chư Phật, pháp Bồ-tát, pháp Độc giác, pháp Thanh văn; pháp phàm phu, thiện pháp, bất thiện pháp, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp lỗi lầm, pháp không lỗi lầm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi, đệ thất như thật trụ”.

Hỏi: Pháp nhất tâm làm sao có thể chu biến hàm dung sinh ra đầy đủ tất cả pháp ?

Đáp: Tâm nhiệm mầu, sâu xa, vượt cả thời gian không gian, chân đế tục đế suy tìm đâu biết được, không hình tượng, không tên, không thể lường sự sâu rộng của tâm, không nương tựa, không trụ, không thể theo dõi dấu vết của tâm, càng đi sâu vào một cách miên mật không thể nói sự lớn nhỏ của tâm; bên ngoài bao trùm vạn tượng trong vũ trụ, không thể nói đến sự sâu thẳm của tâm. Chí đạo hư huyền, ai có thể khiến cho có, u linh chẳng đọa, ai có thể làm cho không. Dấu tích phân khắp pháp giới mà chẳng phải nhiều, tính hợp chân không mà chẳng phải một. Thể ngưng nhất đạo mà chẳng phải tĩnh lặng, dụng khắp muôn vật mà chẳng lao nhọc. Như hạt châu như ý là trân bảo trên cõi trời, nhỏ như hạt cải hạt thóc mà có công năng lớn, thất bảo Lâm Lang đầy đủ ngũ dục tịnh diệu chẳng chứa bên trong cũng chẳng từ bên ngoài vào, chẳng tính trước sau, chẳng chọn nhiều ít, đem đến sự phong phú vừa ý, mưa xuống tươi tốt chẳng thêm chẳng hết, lợi ích vô cùng, sắc pháp còn như thế huống chi tâm thần linh diệu há chẳng đầy đủ tất cả pháp sao ?

Cho nên kinh ghi: “Phật dạy tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát đều cùng chung một đạo thanh tịnh vi diệu này, đều cùng có một cứu cánh thanh tịnh này, không có cái thứ hai. Ta y theo đây nên mật ý nói rằng chỉ có nhất thừa như hư không ở khắp mọi nơi, đều cùng một vị không chướng ngại tất cả sự nghiệp tạo tác. Đúng vậy Thế Tôn, y theo các pháp này đều không có tự tính, đều đồng một vị, chẳng chướng ngại tất cả sự nghiệp tu tập của Thanh văn, Duyên giác và các bậc Đại sĩ”.

Hàn Sơn có bài thơ:

Nhà ta ở đấy hiệu Hàn Sơn,
Ấn náu non cao lìa náo nhiệt.
Khi lặng vạn vật không dấu vết,
Lúc buông cùng khắp cả đại thiên.
Hào quang rực rỡ soi tâm địa,
Chẳng có một pháp được hiện tiền.
Mới biết ma-ni viên ngọc báu,
Diệu dụng vô cùng mọi chỗ viên.

Hoàn Nguyên Quán nói: “Định quang hiển hiện vô niệm quán, nghĩa là bảo châu bạch tịnh bảo võng vạn tự luân vương trong nhất thừa giáo. Hạt châu này bản tính trong suốt chiếu rọi khắp mười phương. Vô tư thành sự niệm nghĩa là tuy hiện công đức lớn nhưng tâm không niệm lự. Ai vào trong môn đại diệu chỉ quán này thì không có suy tư niệm lự mà nhiệm vận thành sự như hạt bảo châu kia xa gần đều chiếu hiển hiện phân minh thấu suốt hư không, chẳng bị bụi mù khói mây của nhị thừa ngoại đạo che chướng”.

Thanh Lương Sớ nói: “Như mặt trời nghìn ánh sáng chiếu soi, tùy nêu ra một pháp mà có vô lượng môn. Nhưng có hai nghĩa: Một là đứng về nghĩa một loại như nhau, như một môn vô thường có sinh già bệnh chết, tụ tán họp ly, đắc thất thành hoại, tam tai tứ tướng, ngoại khí nội thân; trong sát-na sinh diệt chuyển biến, tịnh nhiễm ẩn hiển đều là môn vô thường, những thứ khác cũng thế. Hai là đứng trên nghĩa tính dung chứa không thể hết, nghĩa là pháp tính vắng lặng, tuy vô tướng mà tướng của vô tướng chẳng ngại phồn hưng, cho nên y thể hiện bày khắp nơi như ánh trăng hiện trên muôn dòng sông nhưng chỉ có một thể mặt trăng. Đây là dụng của thể, dụng ở khắp pháp giới, thể dụng xen suốt vì thể không thể nghĩ bàn”.

Phụ Hành Ký hỏi: “Nhất tâm đã sẵn đủ nhân quả mười pháp giới thì chỉ cần quán nơi tâm, cần gì quán đủ ? Đáp: Quán môn này khác với các thuyết, nó bao gồm ba đời mười phương hoặc phàm hoặc Thánh tất cả nhân quả, đều là do quán đủ. Đủ tức là giả, giả tức không trung (giả quán tức không quán, trung quán). Lý tính tuy đầy đủ, nhưng nếu không tu quán, chỉ nói quán tâm thì chẳng xứng lý. Tiểu thừa đâu từng chẳng quán tâm, ngặt vì chỉ không biết nhất tâm sẵn đủ các pháp thôi!”.

Hỏi: Nếu chẳng quán đủ là thuộc về giáo gì ?

Đáp: Biệt giáo dạy từ sơ tâm trở đi, chỉ nói rằng lần lượt sinh về mười cõi, đoạn cũng lần lượt vì vậy chẳng quán đủ. Hoặc theo thông giáo tức lý suông; hoặc theo tam tạng giáo tịch diệt chân không, những người như thế đâu cần quán đủ. Vì sao Tạng, Thông chỉ nói tâm sinh sáu cõi, quán có khéo léo, vụng về, tức ly bất đồng, cho nên hai giáo này chẳng cần quán đủ. Còn chưa biết đủ, huống hồ biết không quán, trung quán. Nếu không phải như thế thì làm sao gọi là phát tâm rốt ráo không sai biệt, thành Chính giác rồi làm sao có thể hiện thân hóa độ mười cõi. Lại nữa, người học đạo cho dù biết trong tâm đầy đủ ba nghìn pháp nhưng không biết mình ở khắp ba nghìn pháp kia. Ba nghìn pháp kia ở khắp nơi cũng vậy. Nếu thuận theo phàm tình sinh ra kiến chấp trong ngoài, cần phải chiếu theo lý, thể vốn không có bản tính, ba thứ tâm, Phật, chúng sinh không sai khác biết được điều này nhưng không rõ thức tâm.

Luận Hoa Nghiêm nói: “Lấy ấn đại trí nhất tâm ấn lên vô thỉ ba đời, nhất thời dồn lại trí ấn bao trùm vô biên các pháp, vì trí đồng với chư Phật, vì trí đồng với tâm chúng sinh, vì trí đồng với các pháp, vì trí không có ba đời ở giữa, bên trong, bên ngoài, dài, ngắn, xa, gần, vì trí vượt qua hư không lượng như hư không chẳng thể phân biệt. Nhất niệm có thể phân biệt các pháp môn vượt quá hư không”. Cho nên trong kinh có bài tụng:

Tất cả hư không có thể lường,
Chư Phật nói pháp bất khả thuyết.

Lại tụng:

Phổ quang minh trí đồng hư không,
Hư không đãn không trí tự tại.

Do đó kinh Vô Lượng Nghĩa nói: “Vô lượng nghĩa là từ một pháp sinh ra, tức là biết một pháp có thể sinh ra vô lượng nghĩa. Cái gọi là nhất tâm, mỗi mỗi pháp đều sinh ra vô lượng nghĩa, vì tâm ở khắp các pháp nên mỗi mỗi pháp không gì chẳng phải tâm”. Dùng lược thay cho tổng, cho nên biết lược tâm có thể chứa muôn pháp trải qua mọi giáo, hoặc cảnh hoặc trí, hoặc nhân hoặc pháp. Tùy theo các sự việc mà giải thích nhất nhất đều lấy tâm làm chỗ quán. Quán huệ trọn thành như biển nuốt sông, tợ củi thêm lửa. Vì chẳng thể thấu đạt sâu xa nên là khắp, là nhỏ; vì không thể quán sát kỹ càng nên trụ hữu, trụ không. Cho nên hàng Thanh văn thấy việc lớn này tự cho mình không kham nổi, có người kêu khóc chấn động đại thiên, có người cho rằng cùng ở trong một pháp mà không được việc này. Bậc Bồ-tát nghe được diệu chỉ này mà sám hối những tội lỗi trước kia, có người cho rằng từ vô lượng kiếp đến nay là chỗ phiêu lưu của vô ngã, có người cho rằng những kẻ mà mình quy hướng trước kia đều là người tà kiến. Những lỗi trên đây đều là do chẳng thấu đạt tự tâm rộng lớn viên dung hay trùm khắp. Vì sao hay trùm khắp ? Vì nó vô tướng như thái hư vô tướng mà chẳng chống lại các tướng phát huy, có thể chứa đựng cõi nước tịnh uế mười phương. Do đó người xưa nói: Vạn vật chẳng phải không có chủ, chủ ấy là vô tướng. Tướng hư không chẳng phải là không khế hợp, khế hợp đó là vô tâm, trong ngoài đều lặng, duyên trí cùng mất. Thế nên nếu có thể lãnh hội thì tất cả đều tương ưng, có thể gọi là đệ tử Phật chân chính trong chính pháp. Nếu trái với ý chỉ này mà vọng khởi hữu tâm, ắt đọa tà tu, chẳng vào Tông Cảnh. Như Cổ đức ca rằng:

Chỉ là vô tâm học vô học
Cũng là chính tu nơi chẳng tu;
Nếu ai chẳng rõ được điều ấy
Không đáng được gọi là tì-kheo.

Hòa thượng Động Sơn nói:

Nhà ta vốn ở phương nào,
Con đường điểu đạo không người tới lui.
Nếu ông cạo tóc xuất gia,
Đi trên đường ấy đúng là Thánh nhân.

Do đó Sơ Tổ nói: Tất cả chỗ tạo tác tức là chỗ không tạo tác, pháp vô tác tức là thấy Phật. Lúc thấy tướng tức là thấy quỉ ở mọi nơi. Vì sao ? Nếu lúc tạo tác mà vô tác là pháp vô tác thì nhân pháp đều không, giác ngộ điều này thì thành Phật. Nếu mê muội pháp vô tác thì huyễn tướng hiện tiền, cho nên kinh nói phàm những gì có tướng đều là hư vọng như những gì thấy trong lúc nóng sốt há chẳng phải ma quỉ ư ?

Do đó Cổ đức nói: Vạn pháp mênh mang, nhất tâm vô tướng. Lại nói: Niệm khắp một muôn tám nghìn biến, mỗi biến vào trong vô tướng định, cũng gọi là vô tướng đạo tràng, vô tướng pháp môn v.v… Thế nên ở trong Tông Cảnh phát ra tâm lực thức tỉnh chân thật. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Dùng ít phương tiện mà chóng được bồ-đề”. Cổ đức nói: Tu học tuy không nhiều mà có thể ngang bằng bậc thượng hiền. Chính là ý nghĩa này.

Lại nhất tâm này đều do lý sự vô ngại mà có được sự chu biến hàm dung như thế.

Như Lý sự vô ngại quán nói: Lý sự bao gồm tồn vong, thuận nghịch có mười môn:

1- Môn lý ở khắp sự:

Nghĩa là lý năng biến, tính cách không có phần hạn, sự sở biến có phần hạn sai biệt. Trong mỗi sự, lý đều là toàn biến, chẳng phải là phần biến. Vì sao? Vì chân lý ấy không thể phân ra, thế nên nhất nhất mảy lông hạt bụi đều bao hàm vô biên chân lý, không gì chẳng trọn vẹn đầy đủ.

2- Môn sự ở khắp lý:

Nghĩa là sự năng biến có phần hạn, lý sở biến không có phần hạn. Sự có phần hạn này đối với lý không phần hạn là toàn đồng chẳng phải là phần đồng. Vì sao ? Vì sự không có thể tính như lý, thế nên một trần chẳng hoại mà ở khắp pháp giới. Như một trần kia, tất cả pháp cũng thế. Hãy suy xét đó!

Lại, một là vì lý tính chẳng những không phân chia nên tuy ở mọi nơi mà toàn thể ở trong một; hai là vì chẳng những phân ra nên thường ở trong một mà toàn thể ở mọi nơi.

Lại, một là sự pháp vì chẳng những phân ra nên thường ở đây mà hằng ở chỗ kia; hai là vì chẳng những không phân ra nên ở khắp nơi mà chẳng xa rời bản vị.

Lại nữa, một là do vì lý tính chẳng những không phân ra nên chẳng ở ngoài một sự; hai là vì chẳng những phân ra nên chẳng ở trong một sự.

Một là vì sự pháp chẳng những phân ra nên thường ở chỗ này mà không ở; hai là vì chẳng những không phân ra nên thường ở chỗ kia mà không ở. Thế nên không ở mà không gì chẳng ở, ở tại đây ở nơi kia không ngăn ngại. Môn toàn biến này siêu tình ly kiến, ví dụ ở thế gian không thể sánh được. Như toàn biển cả ở trong một lượn sóng nhưng biển cả chẳng phải là nhỏ. Như một lượn sóng nhỏ có toàn biển cả mà lượn sóng chẳng phải là lớn; đồng thời ở khắp nơi những lượn sóng mà biển cả chẳng phải khác biệt (phi dị); đồng thời mỗi lượn sóng đều ở khắp biển cả mà lượn sóng chẳng phải đồng (phi nhất).

Lại lúc biển cả ở khắp một lượn sóng thì chẳng ngại toàn thể ở khắp các lượn sóng; khi một lượn sóng ở khắp biển cả, những lượn sóng khác cũng đều ở khắp chẳng ngăn ngại nhau. Hãy suy xét đó!

Giải thích: Lấy biển làm lý, lấy lượn sóng làm sự, huống hồ lý sự tương biến mà phi nhất dị thì biển ở trong lượn sóng mà chẳng phải nhỏ; cùng một tính ướt mà rộng hẹp không sai khác; lượn sóng bao trùm biển cả mà chẳng phải lớn, chẳng hoại tướng mà nhất đa toàn khắp.

Hỏi: Lý toàn biến nhất trần song tại sao chẳng phải nhỏ ? Đã chẳng cùng nhất trần lại nhỏ, vì sao nói toàn thể khắp nhất trần ? Nhất trần toàn biến lý tính tại sao chẳng phải lớn ? Nếu chẳng cùng lý mà rộng lớn, vì sao được toàn biến lý tính ? Như vậy đã trở thành nghĩa mâu thuẩn trái nghịch nhau.

Đáp: Lý sự hướng vào nhau đều phi nhất dị, cho nên toàn thâu mà chẳng hoại gốc. Trước tiên là lý hướng về sự có bốn câu:

1- Vì lý với sự phi dị nên toàn thể lý ở trong sự.

2- Vì lý vời sự phi nhất nên thể tính của lý không giới hạn.

3- Vì phi nhất tức phi dị nên vô biên lý tính hoàn toàn ở một trần.

4- Vì phi dị tức phi nhất nên lý tính một trần không có phần hạn.

Kế đến sự hướng về lý cũng có bốn câu:

1- Vì sự với lý phi dị nên trùm khắp lý tính.

2- Vì sự với lý phi nhất nên chẳng hoại một trần.

3- Vì phi nhất tức phi dị nên một trần trùm khắp vô biên lý tính.

4- Vì phi dị tức phi nhất nên một trần trùm khắp vô biên lý tính mà trần không lớn thêm. Hãy suy xét đi !

Hỏi: Vô biên lý tính lúc toàn biến một trần ở ngoài các sự là có lý tính hay không lý tính. Nếu ngoài trần có lý tính thì chẳng phải toàn thể khắp một trần. Nếu ngoài trần không có lý tính thì chẳng phải toàn bộ khắp mọi sự, nghĩa nó trái nhau vô cùng ?

Đáp: Vì một lý tính viên dung, vì nhiều sự vô ngại, cho nên được toàn bộ ở trong và toàn bộ ở ngoài không chướng ngại. Mỗi thứ đều có bốn câu. Trước tiên là lý có bốn câu:

1- Lúc toàn thể lý tính ở trong mọi sự, chẳng ngại toàn thể ở trong một trần, cho nên ở ngoài tức là ở trong.

2- Lúc toàn thể ở trong một trần, chẳng ngại toàn thể ở trong các sự kia, cho nên ở trong tức là ở ngoài.

3- Vì tính không hai đều hoàn toàn ở trong tất cả, cho nên cũng ở trong cũng ở ngoài.

4- Vì tính không hai chẳng phải là tất cả, cho nên chẳng phải trong cũng chẳng phải ngoài.

Ba câu trước nói cùng với tất cả pháp phi dị, câu sau cùng nói cùng với tất cả pháp phi nhất. Do vì phi nhất phi dị nên trong ngoài vô ngại.

Kế là sự có bốn câu:

1- Khi một trần trùm khắp lý tính, chẳng ngại mọi sự pháp cũng trùm khắp, cho nên ở trong tức là ở ngoài.

2- Lúc tất cả pháp đều trùm khắp lý tính, chẳng ngại một trần cũng trùm khắp, cho nên ở ngoài tức là ở trong.

3- Vì các pháp đồng thời đều khắp cho nên toàn ở trong cũng toàn ở ngoài không có chướng ngại.

4- Vì các sự pháp đều chẳng hoại nên kia đây hướng vào nhau chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Hãy suy xét đó !

Giải thích:

Vì lý ở nơi một (nhất) làm trong (nội), ở nơi nhiều (đa) làm ngoài (ngoại). Sự cũng lấy một làm trong, lấy nhiều làm ngoài. Vì sao như thế ? Nhất đa nội ngoại tương biến tương tại mà không chướng ngại. Chỉ vì nhất tâm viên dung, mượn lý sự để bày tỏ. Dùng thể tịch biên gọi đó là lý, dùng dụng động biên gọi đó là sự. Vì lý là tính của tâm, sự là tướng của tâm, tính tướng đều là tâm cho nên tất cả vô ngại. Vô biên sự việc phần hạn sai biệt như trên, chỉ dùng một lý tính viên dung, tự nhiên lớn nhỏ bao hàm nhau, nhất đa tương tức, tương nhập. Như dùng vàng đúc thành tượng của mười pháp giới; nếu nấu chảy thì không có tướng sai khác, chỉ là một thứ vàng. Dùng lý tính làm lò nấu, người thợ đúc các vật khiến tiêu dung muôn pháp đồng tụ hội nhất chân.

3- Môn y lý thành sự:

Nghĩa là sự không có thể tính khác, phải dựa vào lý mà thành lập. Vì các sự duyên khởi đều không có tự tính; do vô tính nên lý sự mới thành như sóng phải nhờ nước mới có thể thành lập. Y Như Lai tạng được có các pháp nên biết cũng thế. Hãy suy xét đó !

4- Môn sự năng hiển lý:

Nghĩa là do sự nắm lấy lý nên sự rỗng mà lý thật. Vì sự rỗng nên lý trong toàn sự hiển lộ rõ ràng, như tướng sóng hư dối khiến cho thể nước lộ hiện, nên biết đạo lý trong đây cũng thế. Hãy suy xét đó !

5- Môn dùng lý đoạt sự:

Nghĩa là sự đã nắm lấy mà lý thành khiến cho sự tướng đều hết, chỉ có chân lý bình đẳng hiển hiện, vì lìa ngoài chân lý không có sự tướng nào cả. Như nước đoạt sóng thì sóng không còn nữa, đây là nước còn mà sóng mất.

6- Môn sự năng ẩn lý:

Nghĩa là chân lý tùy duyên tạo thành các sự pháp. Nhưng sự pháp này đã bao trùm lý khiến sự hiển mà lý chẳng hiện. Như nước thành sóng, động thì hiện, tĩnh thì ẩn. Kinh nói: Pháp thân trôi nổi trong ngũ đạo gọi là chúng sinh nên khi chúng sinh hiện thì pháp thân chẳng hiện.

7- Môn chân lý tức sự:

Nghĩa là chân lý ắt chẳng ngoài sự, vì là lý pháp vô ngã nên sự ắt dựa vào lý. Do vì lý hư dối vô thể nên lý này cả thể đều là sự mới là chân lý. Như nước tức là sóng, động mà chẳng phải ướt.

8- Môn sự pháp tức lý:

Nghĩa là sự pháp duyên khởi ắt không tự tính, vì toàn thể tức chân nên nói chúng sinh tức là như, chẳng chờ diệt. Như tướng động của sóng, toàn thể tức là nước không khác biệt.

9- Môn chân lý phi sự:

Nghĩa là lý của sự chẳng phải là sự, vì chân vọng khác nhau, thật chẳng phải là hư, sở y chẳng phải năng y. Như nước của sóng chẳng phải là sóng, vì sự lay động với tính ướt khác nhau.

10- Môn sự pháp phi lý:

Nghĩa là sự của toàn lý, sự chẳng phải lý, vì tính tướng khác nhau, vì năng y chẳng phải sở y, cho nên toàn thể toàn lý mà sự tướng rõ ràng. Như sóng của toàn nước, sóng chẳng phải nước, vì nghĩa động chẳng phải ướt. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Như sắc với phi sắc chẳng phải là một”. Lại nói: “Sinh tử với niết-bàn rõ ràng khác biệt”.

Giải thích:

Lý sự nghịch thuận tự tại có nghĩa là lý sự hướng về nhau đều có bốn nghĩa. Trong bốn nghĩa đều có hai nghĩa nghịch, hai nghĩa thuận. Nghĩa là dựa vào lý thành sự, chân lý tức là sự thuận. Dùng lý cướp đoạt sự, chân lý chẳng phải sự nghịch. Sự hay hiển lý thì sự pháp tức là lý thuận. Sự hay ẩn lý thì sự pháp chẳng phải lý nghịch. Muốn thành liền thành, muốn hoại liền hoại, cho nên nói là tự tại. Thành chẳng ngại hoại, hoại chẳng ngại thành, hiển chẳng ngại ẩn, ẩn chẳng ngại hiển nên nói là vô ngại. Lúc đang thành liền cùng hoại nên nói là đồng thời. Năm pháp đối đãi đều không có trước sau nên nói là đốn khởi.

Lại bốn pháp đối đãi trên vì sao căn cứ vào lý hướng về sự chỉ nói cùng thành mà không nói cùng hiển; căn cứ vào sự hướng về lý chỉ nói cùng hiển mà không nói cùng thành. Sự sâu xa này có nguyên do, bất luận sự nào từ lý sinh được gọi là thành, lý chẳng phải mới có nên nói là hiển; sự có thành ắt có diệt nên nói là hoại; chân lý thường trụ nên nói là ẩn; tức đó cho là nhất, ly đó cho là di. Ý nghĩa đại khái thì đồng, xét kỹ thì khác. Lý không có hình tượng, chỉ có tức sự mà sự lại có nhiều sai biệt cho nên nói một lý sâu kín dứt bặt các tướng. Ly sự sự có sai khác, cho nên nói khác lý. Ở trên căn cứ vào nghĩa sai khác mà có sự bất đồng này.

Nếu gom chung lại sẽ thành ý nghĩa năm pháp đối đãi vô ngại: 1- Đối đãi tương biến, 2- Đối đãi tương thành 3- Đối đãi tương hại, 4- Đối đãi tương tức, 5- Đối đãi bất tức. Bốn pháp đối đãi trước nói về sự lý bất ly, pháp đối đãi sau cùng nói về sự lý bất tức.

Lại, trong năm pháp đối đãi cùng có ba nghĩa: Một đôi thành hiển là nghĩa sự lý tương tác; hai đôi đoạt ẩn và bất tức là nghĩa sự lý tương vi; hai đôi tương biến và tương tức là nghĩa sự lý bất tương ngại.

Lại, do có tương tác thứ hai nên có tương tức thứ tư; do có tương tức nên có tương biến; do có tương vi thứ ba nên có bất tức thứ năm.

Lại, nếu không bất tức thì không thể tương biến nên nói chân không diệu hữu, mỗi thứ đều có bốn nghĩa.

Căn cứ vào lý hướng về sự tức chân không, có bốn nghĩa:

1- Nghĩa bỏ kỷ thành tha tức là môn y lý thành sự.

2- Nghĩa dẹp tha hiển kỷ tức là môn lý đoạt sự.

3- Nghĩa tự tha đều còn tức là môn chân lý phi sự

4- Nghĩa tự tha đều mất tức là môn chân lý tức sự. Do tương tức nên cùng mất.

Lại, nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ ba tức là môn lý khắp sự, vì lý tồn tại nên toàn lý thành sự cho nên lý trùm cả sự.

Căn cứ vào sự hướng về lý tức diệu hữu, có bốn nghĩa:

1- Nghĩa hiển tha tự tận tức là môn sự năng hiển lý.

2- Nghĩa tự hiển ẩn tha tức là môn sự năng ẩn lý.

3- Nghĩa tự tha đều còn tức là môn sự phi lý.

4- Nghĩa tự tha đều mất tức là môn sự tức lý.

Lại, nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ ba tức là môn sự khắp lý, vì lý tồn tại nên hay hiển sự, cho nên lý trùm khắp sự.

Thế nên nói căn cứ vào không hữu mà có tồn vong vô ngại, chân không ẩn hiển tự tại lý sự.

Dung dã nghĩa là nấu chảy, dung hòa nghĩa là trọn thành. Vì lý dung sự, sự cùng lý dung, quán sát nơi tâm tức là quán này. Quán sự thuộc về tục, quán lý thuộc về chân.

Nay quán lý sự vô ngại, trong đạo đệ nhất nghĩa quán, tự nhiên bi trí dẫn dắt nhau, thành tựu hạnh vô trụ.

Lại, mười môn lý sự chia ra làm năm đôi:

1- Lý sự tương biến, 2- Lý sự tương thành, 3- Lý sự tương hại, 4- Lý sự tương tức, 5- Lý sự tương phi.

Lý tức là tính không, chân lý nhất tướng vô tướng. Sự tức là nhiễm tịnh, tâm cảnh làm duyên khởi cho nhau. Khi khởi diệt chia ra tướng mạo đây kia, không thể trình bày đầy đủ.

Hai môn tương biến là toàn biến toàn đồng, vì lý không thể phân chia. Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Pháp tính bao trùm khắp mọi nơi,
Tất cả chúng sinh cùng cõi nước
Ba đời quá khứ, hiện, vị lai
Cũng không hình tướng có thể được.

Ba câu trước tức là toàn biến, câu cuối cùng tức là không thể phân. Hai môn tương thành y lý thành sự như nhờ nước có sóng, như dựa vào hư không lập sắc. Chân như không giữ lấy tự tính, hay theo muôn duyên. Sự năng hiển lý như ảnh tượng biểu lộ gương sáng, thức trí biểu lộ bản tính. Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Liễu tri tất cả pháp,
Tự tính không có gì.
Biết các pháp như thế,
Liền thấy Lô-xá-na.

Hai môn tương hại vì lý đoạt sự như nước đoạt sóng, sự năng ẩn lý tợ khói tích lửa.

Hai môn tương tức, chân lý tức sự, như nước không lìa băng. Nếu chỉ là rỗng không xuất hiện ở ngoài sự thì bất tức sự. Nay tức pháp là lý vô ngã, lìa sự thì làm sao có lý ? Sự pháp tức lý thì duyên khởi vô tính, tất cả chúng sinh cũng thế.

Hai môn tương phi, năng sở sai biệt, chân vọng bất đồng thì trên tri thức thường cho là một, trên chân đế thường cho là hai. Tương tức thì chẳng phải hai, tương phi thì chẳng phải một. Chẳng phải một cho nên chẳng hoại tục đế, chẳng phải hai nên chẳng ẩn chân đế. Chân đế này lý tính không, không mà chẳng không; tục đế này sự huyễn có, có mà chẳng có. Hữu mà bất hữu nên hữu này chẳng ngại không; không mà bất không nên không này chẳng tuyệt hữu, kia đây không nương gá mà tương thành lẫn nhau. Nếu trong tâm quyết định có một pháp tức là rơi vào thường kiến. Cả hai đều là kiến chấp, chẳng vào được viên tông. Viên dung như trên là căn cứ vào lý sự vô ngại.