TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 10

Hỏi: Cảnh giới nhất tâm của phàm Thánh làm sao có sức tự tại ?

Đáp: Một là pháp nhĩ, hai là do hạnh nguyện của chư vị Bồ-tát, ba là chúng sinh tín giải tự nghiệp cảm hiện. Lại tổng cộng có mười lực: 1- Pháp như thị lực. 2- Không vô tính lực. 3- Chư Phật thần lực. 4- Bồ-tát thiện căn lực. 5- Phổ Hiền hạnh nguyện lực. 6- Chúng sinh tịnh nghiệp lực. 7- Thâm tín thắng giải lực. 8- Như huyễn pháp sinh lực. 9- Như mộng pháp sinh lực. 10- Vô tác chân tâm sở hiện lực. Còn Hoa Nghiêm Sớ Thích nói: Một và nhiều gìn giữ làm gốc ngọn cho nhau. Những gì do nhất tâm hiện ra gồm có mười nghĩa:

1- Riêng bày độc lập vì là duy nhất nên độc lập làm chủ.

2- Song hiện đồng thời, vì đều giúp nhau vô ngại.

3- Hai tướng đều mất, vì đoạt nhau cùng mất.

4- Tự tại vô ngại, vì ẩn hiển đồng thời nhất tế hiện.

5- Khứ lai bất động, vì đều trụ bản pháp chẳng phá hoại địa vị của mình.

6- Vô lực tương trì, vì hữu lực giữ gìn vô lực.

7- Kia đây vô tri, vì đều không có tự tính, pháp pháp không biết nhau.

8- Lực dụng giao triệt vì dị thể tương nhập, hữu lực tương trì.

9- Tự tính phi hữu, vì không thể tính mới có thể tức nhập vô ngại.

10- Rốt ráo ly ngôn, vì mê mờ tính đức chìm đắm quả hải.

Giải thích:

1- Riêng bày độc lập: Bài tụng trong kinh nói: Trong nhiều không có một tính, một cũng không có nhiều, vì hai pháp này đều không nên được độc lập cũng một tác nhiều mà chỉ có nhiều, nhiều tức một mà chỉ có một, bỏ chính nó để đồng với cái khác cho nên nói là độc lập.

2- Song hiện đồng thời: Bài tụng trong kinh nói: “Biết lấy một nên nhiều, biết lấy nhiều nên một, không một tức không nhiều, không nhiều tức không một. Cho nên cả hai cùng hiện mà không có trước sau như con trâu hai sừng.

3- Hai tướng đều mất: Tức là hai thứ trước đều bỏ.

4- Tự tại vô ngại: Muốn một liền một vì không phá hoại tướng, muốn nhiều liền nhiều vì một tức nhiều. Một đã như thế thì nhiều cũng phải vậy, thường một thường nhiều vì thường tức bất tức nên nói tự tại.

5- Khứ lai bất động: Một nhập vào nhiều mà một còn, nhiều nhập vào một mà nhiều còn, như hai chiếc gương lồng vào nhau mà không động đến bản tướng, tướng tức cũng thế.

6- Vô lực tương trì, nhân một mà có nhiều, nhiều vô lực mà gìn giữ một, nhân nhiều mà có một, một vô lực mà gìn giữ nhiều.

7- Kia đây vô tri, cả hai nương nhau đều không có thể dụng cho nên không biết nhau, như bài tụng trong kinh nói: Các pháp không tác dụng, cũng không có thể tính, mỗi mỗi chẳng biết nhau.

8- Lực dụng giao triệt: Tức bài tụng trong kinh nói: Trong một thấu hiểu vô lượng, trong vô lượng thấu hiểu một.

9- Tự tính phi hữu: Vì do nhân duyên khởi nên thể tính là không.

10- Cứu cánh ly ngôn; không thể nói một, cũng không thể nói chẳng phải một, không thể nói chẳng phải một chẳng phải chẳng một, không thể nói tương tức bởi vì tương nhập, không thể nói tương nhập bởi vì tương tức, không thể nói tức nhập vì không họại tướng; không thể nói chẳng tức nhập vì giao triệt lẫn nhau. Miệng muốn nói mà lời mất, tâm muốn duyên mà lự dứt, chỉ có chứng trí biết đồng quả hải; một nhiều đã thế thì các pháp nhiễm tịnh v.v… đều như thế.

Lại căn cứ vào lý viên biệt, sức vô ngại của nhất tâm, cái lý viên biệt phổ biến vi tế khó phân biệt thì phải có sai biệt mới có thể phổ biến. Nếu không có sai biệt không thể viên dung phổ biến thì chẳng cần sai biệt mà có thể phổ biến. Pháp năng biến mỗi mỗi viên dung nên không sai biệt mà nói viên dung thì một hiểu tức là tất cả hiểu, cũng chẳng phải đây hiểu nơi nơi đều hiểu. Tức đây tức kia, tức một tức nhiều, nên nói viên dung.

Lại căn cứ sở biến để bàn về tổng biệt, tên đông chẳng phải tên tây, đây là biệt sở biến; đây hội tức kia hội, đây là tổng sở biến.

Lại căn cứ năng biến để bàn về viên biệt, đem pháp sai biệt phổ biến đây gọi là biệt, đem pháp viên dung không sai biệt phổ biến đây gọi là viên. Cái biệt trước như tinh tú đầy trời, cái biệt này như ánh trăng trên trăm sông, cái tổng trước như đám mây đầy vũ trụ, cái viên này như mùi thơm khắp một nhà, cho nên nói tổng viên có sự khác biệt.

Luận Hoa Nghiêm nói: “Hoa Tạng giới ẩn hiện tự tại vì lợi ích chúng sinh hiển bày phước đức thù thắng, tức đầy đủ tướng khác nhau quang minh hiển chiếu. Nếu khiến cho chúng sinh tình không chấp trước như đám mây hư ảo tan biến, một vật đã không có thì còn tính toán gì nữa; vì đại nguyện trí lực như thế, pháp tính tự thể rỗng không, ẩn hiện tự tại. Nếu theo pháp tính thì mọi tướng đều không, nếu theo trí lực thì các tướng tùy hiện, ẩn hiện tùy duyên hoàn toàn không do tạo tác. Phàm phu chấp trước cái dụng làm vô minh; chấp chướng đã không, trí dụng tự tại, không lìa cảnh nhất chân mà cách thức giáo hóa rất phong phú đa dạng. Thế nên mũi tên xuyên qua con hổ đá chẳng phải công lực làm được, say xỉn quát ba quân chẳng phải do men rượu tạo ra, măng tre mọc trong hang lạnh chẳng phải ánh sáng mặt trời sinh ra, cá nhảy vọt qua băng hà chẳng phải tấm lưới gây nên; đây đều là do tâm cảm mà hiển bày sự linh thông này, cho nên biết sự vận hành của vạn pháp đều do sức của tự tâm. Nếu có người tin nhận đầy đủ năng lực này thì cửa chướng mở rộng, biển nghiệp cạn khô”.

Vì vậy kinh Nhân Vương nói: “Người hay khởi một niệm tin thanh tịnh thì có thể vượt qua tất cả khổ nạn trăm kiếp, nghìn kiếp, vô lượng vô biên Hằng hà sa kiếp, chẳng sinh vào đường ác, không bao lâu sẽ được quả bồ-đề vô thượng. Thế nên biết rõ tâm vô tác tức là ngộ nghiệp không. Lúc quán nghiệp không gọi là đắc đạo. Đạo ấy hiện ra thì trí nào chẳng sáng; lúc tâm trí sáng suốt thì trong bốn oai nghi pháp nhĩ hay hiện sức tự lợi, lợi tha”.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tì-kheo Thiện Kỳ đi kinh hành trong rừng bảo Thiện Tài: Thiện nam, khi tôi kinh hành trong một niệm tất cả phương đều hiện tiền vì trí tuệ thanh tịnh; trong một niệm tất cả thế giới đều hiện tiền vì trải qua bất khả thuyết, bất khả thuyết thế giới; trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát đều nghiêm tịnh vì thành tựu đại nguyện lực, trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết các hạnh sai biệt đều hiện tiền vì đầy đủ Thập lực trí; trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết thân thanh tịnh của chư Phật đều thành tựu hạnh nguyện lực của Phổ Hiền; trong một niệm cung kính cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai vì thành tựu tâm nhu nhuyến nguyện lực cúng dường Như Lai; trong một niệm lãnh thọ bất khả thuyết bất khả thuyết pháp Như Lai vì được chứng pháp a-tăng-kỳ sai biệt, trụ trì Đà-la-ni pháp luân lực; trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết hạnh hải đều hiện tiền vì được nguyện lực có thể làm trong sạch tất cả hạnh như nhân-đà-la võng; trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết các biển tam-muội đều hiện tiền vì được nguyện lực đối với một môn tam-muội vào tất cả môn tam-muội đều khiến cho thanh tịnh; trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết các căn đều hiện tiền vì được nguyện lực biết rõ chư căn tế ở trong một căn thấy tất cả căn; trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thời vì được nguyện lực ở mọi thời chuyển pháp luân, chúng sinh giới tận nhưng pháp luân vô tận; trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết biển ba đời đều hiện tiền vì được nguyện lực biết rõ trong tất cả thế giới tất cả trí phần vị ba đời rực rỡ. Kinh hành đã thế, ngồi đứng cũng vậy”. Cho nên kinh Pháp Hoa có kệ:

Phật tử trụ chỗ này,
Chính là Phật thụ dụng,
Thường ở tại trong ấy
Kinh hành và ngồi nằm.

Hỏi: Trong Tông Cảnh Lục, về nhân của đức dụng là nhờ vào cái gì mà các pháp hỗn dung vô ngại ?

Đáp: Theo Tông Hoa Nghiêm có mười nghĩa:

1- Duy tâm hiện: Tất cả pháp đều do chân tâm hiện, như nước trong biển lớn toàn thể thành sóng, vì tất cả pháp không gì chẳng phải nhất tâm. Lớn nhỏ tùy tâm xoay chuyển tức nhập vô ngại.

2- Vô định tính: Đã là duy tâm hiện, theo duyên mà sinh nên không có tính nhất định, tính tướng đều lìa. Nhỏ không nhất định là nhỏ nên có thể chứa cả thái hư mà còn dư, vì đồng với lớn không gì ngoài. Lớn không nhất định là lớn vì có thể vào trong hạt bụi mà vẫn không gián đoạn vì đồng với nhỏ không có gì trong. Đây là vi trần đồng thái hư, cõi nước như vi trần, có gì khó đâu! Thế nên một không nhất định là một nên có thể là tất cả; nhiều không nhất định là nhiều nên có thể là một. Biên (hai bên) không nhất định là biên nên có thể là trung (chính giữa), trung không nhất định là trung nên có thể là biên. Dài, ngắn, tĩnh, loạn v.v… mỗi mỗi đều như thế.

3- Duyên khởi tương do: Trong đại pháp giới, pháp duyên khởi nghĩa môn vô lượng, lược có mười môn trong phần pháp tính duyên khởi cuối sách có nói đầy đủ.

4- Pháp tính dung thông môn: Nếu chỉ căn cứ vào sự thì trở ngại lẫn nhau không thể tức nhập. Nếu chỉ căn cứ vào lý thì chỉ có một vị không thể tức nhập. Nay thì lý sự viên thông đầy đủ vô ngại nghĩa là một sự không khác lý lúc nhiếp đủ lý tính khiến cho kia nhiều sự chẳng khác lý, tùy theo lý sở y mà hiện trong một. Nếu trong một nhiếp lý vô tận thì chân lý có phần mất đi; nếu trong một nhiếp lý tận nhiều sự không tùy theo hiện thì sự mất đi ở ngoài lý. Nay đã trong một sự hoàn toàn nhiếp lý tận, nhiều sự đâu chẳng nương theo mà hiện ra. Phẩm Hoa Tạng có bài tụng:

Thế giới Hoa Tạng có lắm trần
Trong mỗi trần thấy cả pháp giới.

Pháp giới tức là sự pháp giới, đây là nghĩa tổng quát, còn nghĩa sai biệt cũng có mười huyền môn:

1- Chân lý và tất cả pháp cùng tương ưng nhiếp lý không sót, chính là môn các môn pháp đồng thời cụ túc.

2- Sự đã như lý có thể bao trùm, cũng như lý rộng khắp chẳng phá hoại tướng hẹp cho nên có môn quảng hiếp thuần tạp vô ngại. Tính luôn bình đẳng gọi là thuần, bao gồm các pháp gọi là tạp.

3- Lý đã phổ biến nơi tất cả nhiều sự cho nên có thể khiến một sự tùy theo lý phổ biến trong tất cả. Lý hoàn toàn phổ biến nơi một sự thì tất cả tùy theo lý ở trong một sự cho nên có môn nhất đa tương dung.

Lại như trần tự tướng là một, do từ một bất động mới có thể ứng khắp thành nhiều. Nếu động từ một thì mất đi ứng khắp thành nhiều, cũng không thành một, hai ba cũng đều như thế.

Lại một nhiều nương tựa nhau thành lập, như một hoàn toàn là nhiều mới gọi là một, còn nhiều hoàn toàn là một mới gọi là nhiều. Ngoài nhiều không riêng có một thì biết rằng một trong nhiều. Ngoài một không riêng có nhiều thì biết rằng nhiều trong một. Chính vì chẳng phải nhiều mà có thể là một, nhiều chẳng phải một mà có thể nhiều một. Do vì không mất vô tính mới có trí nhất đa. Bài tụng trong kinh nói:

Ví như phép toán số
Từ một đến vô lượng,
Đó là số căn bản
Nên trí có sai biệt.

4- Chân lý đã không lìa các pháp thì một sự tức là chân lý, vì chân lý tức là tất cả sự, thế nên một sự này tức là tất cả sự kia, tất cả là một, một là tất cả nên có môn tương tức tự tại.

5- Do vì chân lý tại sự hoàn toàn chẳng giới hạn, chính tại lúc này nó liền ẩn cho nên có môn ẩn hiển.

6- Chân lý đã nhiếp khắp các pháp đem sự năng y kia dừng lại trong một cho nên có môn vi tế.

7- Vì đây hoàn toàn nhiếp lý nên có thể hiện ra tất cả. Kia hoàn toàn nhiếp lý giống như đây liền hiện. Lúc đây hiện kia thì năng hiện sở hiện của kia đều hiện trong đây. Lúc kia hiện đây thì năng hiện sở hiện của đây đều hiện trong kia, trùng trùng vô tận như vậy nên có môn đế võng, do đó chân như rốt ráo vô tận.

8- Tức sự đồng lý, tùy tiện nêu lên pháp môn nhất sự tức chân cho nên có môn thác sự.

9- Vì chân như tồn tại khắp cả ngày đêm, ngày tháng, năm kiếp; thời ở nơi một ngày không khác thời ở nơi một kiếp cho nên có môn thập thế dị thành, huống hồ thời do pháp mà có pháp dung mà thời không dung sao ?

10- Lúc sự tức lý vô ngại cùng với tất cả cái khác luôn tương ưng cho nên có môn chủ bạn. Lại cho rằng trần là pháp giới thế không phân cách, bao trùm tất cả, đây là chủ; tất cả đều riêng biệt đây là bạn. Bạn cũng không khác chủ ắt toàn chủ trở thành bạn; chủ không khác bạn ắt toàn bạn trở thành chủ, chủ với bạn tương nhiếp. Nếu tương nhiếp thì kia đây đều không, không thể riêng nói tất cả. Nếu giúp nhau thì kia đây đều có, không thể đồng nói tất cả, đều do tức chủ tức bạn. Thế nên cũng đồng cũng dị, phải biết trong chủ cũng có chủ có bạn, trong bạn cũng có bạn có chủ cho nên một lý dung thông đầy đủ mười môn. Vì vậy biết rằng lý này trần trần đầy đủ, niệm niệm viên dung, không một pháp nào mà chẳng được bao trùm.

Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Khi ấy, Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức Dạ Thần vì Thiện Tài đồng tử thị hiện thần lực của Bồ-tát điều phục chúng sinh giải thoát, dùng các tướng đẹp trang nghiêm thân mình, giữa chặng mày phóng đại quang minh gọi là Trí đăng phổ chiếu thanh tịnh tràng, lấy vô lượng quang minh làm quyến thuộc. Quang minh ấy chiếu soi tất cả thế gian, chiếu khắp thế gian xong lại chiếu vào đảnh và trùm khắp thân Thiện Tài. Bấy giờ, Thiện Tài liền được Cứu cánh thanh tịnh luân tam-muội, được tam-muội này rồi ngài thấy chính giữa hai vị thần có các món trang nghiêm như địa trần, thủy trần, hỏa trần, kim cương, ma-ni, hoa hương, anh lạc. Như thế tất cả chỗ có vi trần, trong mỗi trần đều có vô số cõi Phật thế giới thành hoại, thấy tất cả các đại địa, thủy, hỏa, phong tích tụ, cũng thấy tất cả thế giới liên tiếp đều trụ trên địa luân, núi non, biển cả, sông hồ, rừng rậm, cung điện trời, cung điện rồng, cung điện dạ-xoa, cho đến cung điện ma-hầu-la-già, nhân, phi nhân v.v… tất cả trụ xứ của địa ngục, súc sinh, Diêm-la-vương giới, các loài luân chuyển sinh tử qua lại, theo nghiệp thụ báo đều có sai biệt. Còn thấy tất cả thế giới sai khác như có thế giới tạp uế, có thế giới thanh tịnh, có thế giới thú tạp uế, có thế giới thú thanh tịnh, có thế giới tạp uế thanh tịnh, có thế giới thanh tịnh tạp uế, có thế giới hoàn toàn thanh tịnh, có thế giới đất đai bằng phẳng, có thế giới đất đai gồ ghề, có thế giới đất đai nghiêng lệch. Trong tất cả thế giới tất cả loài như thế đều thấy Phổ Cứu Chúng Sinh Dạ Thần ở mọi lúc và mọi nơi tùy theo tướng mạo, lời nói, tâm lý, sự hiểu biết khác biệt mà vận dụng sức phương tiện hiện ra trước mặt để tùy nghi hóa độ”.

5- Như huyễn mộng: Như nhà ảo thuật có thể biến một vật ra làm nhiều vật, nhiều vật biến thành một vật. Kinh nói: “Hoặc hiện chốc lát thành trăm năm v.v…”. Các pháp do nghiệp huyễn tạo ra nên đồng dị vô ngại.

6- Như ảnh tượng: Kinh nói: “Vật xa vật gần đều là bóng hiện, bóng không theo vật mà có xa gần v.v…”.

7- Nhân vô hạn: Nghĩa là chư Phật Bồ-tát xưa kia tại nhân địa thường tu duyên khởi vô tính, đại nguyện hồi hướng đều xứng pháp giới, tu đến cái nhân thù thắng vô lượng cho nên ngày nay được quả vô ngại.

8- Vì Phật chứng cùng tận: Do sáng tỏ chân tính đạt được tác dụng như tính, nên kinh nói: Vì công đức không gì sánh bằng nên mới có thể như thế.

9- Vì định dụng thâm sâu: Nghĩa là hải ấn (tam-muội) đồng với các tam-muội lực, cho nên phẩm Hiền Thủ ghi: “Vào các tam-muội nhiều như vi trần, mỗi mỗi sinh ra trần đẳng định, mà vi trần kia cũng không tăng…”.

10- Vì thần thông giải thoát: Nghĩa là do mười thần thông và bất tư nghì giải thoát. Trong Thập chủng giải thoát của phẩm Bất Tư Nghì Pháp nói: “Ở trong một trần kiến lập tất cả ba đời Phật pháp”.

Hỏi: Cho rằng tâm là chiếc gương có kinh văn gì làm chứng cứ ?

Đáp: Thể tướng của giác có bốn nghĩa lớn như đồng với hư không, như gương sáng:

Một là như thật không cảnh, xa lìa tất cả tâm, tướng cảnh không thể nào hiện được vì chẳng phải nghĩa giác chiếu.

Hai là nhân huân tập cảnh nghĩa là như thật bất không, tất cả cảnh giới thế gian đều hiện trong đó, chẳng ra chẳng vào chẳng mất chẳng hoại, thường trụ nhất tâm, vì tất cả pháp chính chân thật tính. Lại tất cả pháp nhiễm ô không thể nhiễm, trí thể bất động vì đầy đủ các pháp giải thoát xông ướp chúng sinh.

Ba là pháp xuất ly cảnh nghĩa là bất không, vì ra khỏi những chướng ngại phiền não, lìa hẳn tướng hòa hợp, chân thật, thanh tịnh, quang minh.

Bốn là duyên huân tập cảnh nghĩa là vì nương theo pháp xuất ly, soi sáng khắp tâm chúng sinh khiến họ tu thiện căn, tùy niệm thị hiện.

Vì thế nên luận Thích Ma-ha Diễn nói: “Tính tịnh bản giác”. Trung Luận nói: “Thể tướng của giác có bốn nghĩa lớn đồng với hư không, như gương sáng. Trong bốn nghĩa lớn này đều riêng có hai nghĩa, cùng với nghĩa lớn không rời nhau. Một là nghĩa đồng hư không, hai là nghĩa giống như gương”.

Vậy thế nào là như thật không cảnh và có hai nghĩa tướng nó như thế nào? Tụng rằng:

Tính tịnh trong bản giác,
Cái biết lìa suy nghĩ.

Như xa lìa vọng cảnh, thật sự hiển bày nghĩa xa lìa. Chiếc gương ma-xa-phu-sa nêu lên một bày ra một. Do đó luận nói: Tính tịnh ở trong thể tính của ban giác, xa lìa tất cả phan duyên, suy nghĩ phân biệt, các hí luận, thành tựu nghĩa một vị bình đẳng nên gọi là Như. Xa lìa tất cả cảnh giới hư vọng các thứ tướng phần, thành tựu tướng quyết định chân thật, nên gọi là Thật. Vì muốn hiện bày nghĩa xa lìa nên gọi là Không. Gương là thí dụ, biết rõ gương trong đây là dụ cho chiếc gương hạt châu ma-xa-phu-sa, không phải các gương du-ma v.v… Vì sao ? Vì đặt chiếc gương hạt châu ma-xa-phu-sa một chỗ, trong chiếc gương hạt châu hoặc chứa các thứ đá, hoặc chứa các thức ăn, hoặc chứa các món trang sức, hoặc chứa gương hạt châu cùng loại, còn các hình tượng khác không hiện trong ấy, chỉ có những hạt châu cùng loại là phân minh hiện bày. Như thật không cảnh này cũng lại như thế, ở trong gương chỉ có những công đức cùng loại thanh tịnh mới an lập tập thành, còn những pháp tai họa dị loại đều xa lìa. Như luận nói: Một là như thật không cảnh, vì xa lìa tất cả tâm thì tướng cảnh giới không thể nào hiện ra. Đều riêng có hai nghĩa, nhưng chỉ trình bày cái nghĩa như chiếc gương, không hiện bày nghĩa đồng hư không sao ? Vì khi nêu lên một nghĩa này là đã bày luôn nghĩa kia. Nếu như thế tại sao gọi là nghĩa đồng hư không ? Nghĩa là như hư không thanh tịnh vô nhiễm, bốn chướng không thể che, rộng lớn vô biên, không gian thời gian không giới hạn. Như thật không cảnh này cũng thế, nên chẳng phải là nghĩa giác chiếu, tức là hiện bày nhân duyên xa lìa. Trong gương hạt châu ma-xa-phu-sa các vật tượng như đá v.v… không có mặt, vì các pháp ấy đều thô xấu, ô uế. Trong gương hạt châu bản giác này các thứ pháp hư vọng không có mặt, vì các pháp nhiễm ô đều là tướng vô minh bất giác, không có nghĩa chiếu đạt.

Thế nào là nhân huân tập cảnh và có hai nghĩa, tướng của nó như thế nào ? Tụng rằng:

Tính tịnh bản giác trí, 
Ba thứ pháp thế gian,
Thảy đều không lìa bỏ,
Là nhất giác huân tập,
Trang nghiêm quả pháp thân
Gọi là nhân huân tập.

Gương hoa luân-đa-lê như hư không chứa đựng khắp hết. Tính tịnh, bản giác, ba thứ thế gian không xa lìa, huân tập ba thứ ấy mà làm nhất giác huân tập, trang nghiêm một quả đại pháp thân, nên gọi là nhân huân tập cảnh.

Ba thứ thế gian là gì  ? Một là chúng sinh thế gian, hai là khí thế gian, ba là trí chính giác thế gian. Chúng sinh thế gian là những loài có sinh mạng khác nhau. Khí thế gian là đất đai nương tựa. Trí chính giác thế gian là Phật, Bồ-tát. Chiếc gương trong đây là gương hoa luân-đa-lê. Như đặt hoa luân-đa-lê ở một chỗ tụ họp các vật lại, do hoa này xông ướp khiến mọi vật đều trong sạch. Các vật trong hoa đều hiện tiền không sót, hoa kia có mặt trong mọi vật cũng không sót. Nhân huân tập cảnh cũng như thế, huân tất cả pháp thành thanh tịnh giác, huân tập khiến cho bình đẳng.

Lại nữa, hư không có hai nghĩa: Một là nghĩa dung thụ, hai là nghĩa biến nhất. Nghĩa dung thụ là vì tiếp nhận các sắc không chướng ngại; nghĩa biến nhất là vì các sắc chỉ là đồng với hư không bao la, như luận nói: Hai là nhân huân tập cảnh, nghĩa là như thật bất không, vì tất cả cảnh giới thế gian đều hiện ra trong đó.

Như thế bản giác từ vô thỉ đến nay xa lìa bốn lỗi, tự tính thanh tịnh, thường trụ nhất tâm. Một là lỗi xa lìa chẳng khắp, vì ba thứ thế gian chẳng ở ngoài chiếc gương bản giác thanh tịnh, như luận nói: Vì chẳng xuất. Hai là lỗi xa lìa tạp loạn, vì tất cả pháp chẳng vào gương bản giác thanh tịnh, thảy thảy đều là công đức thanh tịnh của bản giác, như luận nói: Vì chẳng nhập. Ba là lỗi xa lìa tai họa, vì các pháp hiện tiền trong gương bản giác, không gì chẳng phải là bản giác tịnh công đức, như luận nói: Vì chẳng mất. Bốn là lỗi xa lìa vô thường, vì các pháp hiện tiền trong gương bản giác, thảy thảy đều là trí thường trụ vô vi, như luận nói: Vì chẳng hoại. Xa lìa các lỗi, đầy đủ trung thực cho nên nói là thường trụ nhất tâm.

Từ đây trở xuống là hiển bày nhân duyên. Vì sao các pháp trong bản giác trí như bản giác kia xa lìa các lỗi ? Vì tất cả các pháp đều là thể chân thật, như luận nói: Vì tất cả pháp đều là tính chân thật. Cho nên từ đây về sau là tạo duyên để quyết nghi. Nghĩa là có chúng sinh nào có điều nghi: Chúng sinh trong ba đời đầy đủ pháp nhiễm vô minh, khi lưu chuyển không ngừng, thế gian hiện bản giác như thế thì không thể nói rằng bản giác thanh tịnh xa lìa các lỗi.

Lại nữa, tất cả nhiễm pháp không thể làm ô nhiễm bát-nhã thật trí vì thể nó bất động, tự tính thanh tịnh, giải thoát hoàn toàn, thường hằng huân tập sự thanh tịnh cho chúng sinh, như luận nói: Tất cả nhiễm pháp không thể làm ô nhiễm, vì trí thể bất động đầy đủ vô lậu huân tập chúng sinh.

Thế nào gọi là pháp xuất ly cảnh và có hai nghĩa, tướng nó như thế nào ? Tụng rằng:

Pháp như thật bất không,
Lìa khỏi ba lỗi lầm,
Đầy đủ ba thứ đức
Gọi là pháp xuất ly.
Như gương luyện pha lê,
Không xa lìa nghĩa sắc.

Luận nói: Tính đức vô lậu, lìa khỏi ba lỗi, đầy đủ ba đức, gọi là pháp xuất ly. Ba lỗi là gì ? Một là vô minh nhiễm phẩm gọi là phiền não ngại; hai là căn bản vô minh gọi là trí ngại; ba là câu hợp chuyển tướng gọi là hí luận thức; vì xa lìa rốt ráo ba lỗi này nên gọi là xuất ly, như luận nói: Ba là pháp xuất ly cảnh, nghĩa là pháp bất không lìa phiền não ngại, trí ngại, các tướng hòa hợp. Ba thứ công đức là gì ? Một là thuần thành tựu công đức, hai là tịnh thành tựu công đức, ba là minh thành tựu công đức, như luận nói: Vì thuần tịnh minh cho nên xuất ly những lỗi gì, viên mãn những đức gì ? Nghĩa là xuất ly phiền não ngại viên mãn tịnh thành tựu công đức; xuất ly trí ngại viên mãn minh thành tựu công đức, xuất ly hòa hợp chuyển tướng viên mãn thuần thành tựu công đức. Vì sao ? Vì pháp nhĩ tương đối. Chiếc gương trong đây chính là hạt châu pha lê. Ví như hạt châu pha lê chìm sâu trong bùn liền nhảy vọt khỏi bùn một trượng. Nó chỉ an trụ trong nước sạch còn đặt trong nước nhơ thì nó trộn với vẩn đục cho nên bị nhơ bẩn.

Nếu đặt hạt châu này trong rừng phúc-đa-già tỏa ra hương thơm, vì ngại sự ô uế mà mùi thơm bay đi chỗ khác, pháp xuất ly cảnh cũng lại như thế. Dụ trong đây là dụ cho nghĩa tự thể tịnh. Nghĩa đồng với hư không, xuất ly nghĩa sắc, nghĩa là như hư không xa lìa đại chủng một bề thanh tịnh, pháp xuất ly cảnh cũng như thế.

Thế nào duyên huân tập cảnh và có hai nghĩa, tướng nó như thế nào ?

Tụng rằng:

Nơi vô lượng vô biên
Trong các chúng sinh duyên
Hiện vô lượng vô biên
Ứng hóa thân thù thắng
Huân tập tâm chúng sinh
Sinh ra các căn lành
Tăng trưởng hoa phước trí
Trang nghiêm quả pháp thân
Gọi là duyên huân tập.
Pha lê rỗng trong gương
Tùy thuận nghĩa thành tựu,
Nên quán đúng như pháp.

Luận nói: Ví như đem hạt châu pha lê đặt ở một chỗ, xung quanh tụ họp nhiều hạt châu màu. Hạt châu pha lê tùy theo màu sắc hạt châu mà biến đổi; duyên huân tập cảnh cũng như thế. Ví như hư không vì có sức tự tại nên nó đều tùy thuận thành lập mọi việc; duyên huân tập cảnh cũng như thế, nó cũng tùy thuận kiến lập tất cả việc tu hành của chúng sinh, như luận nói: Bốn là duyên huân tập cảnh, nghĩa là vì y theo pháp xuất ly, chiếu khắp tâm chúng sinh khiến họ tu căn lành tùy niệm thị hiện. Thế nên thứ nghĩa lớn của bản giác bao trùm tất cả chúng sinh giới, tất cả Nhị thừa giới, tất cả Bồ-tát giới, tất cả Như Lai giới, nơi nơi đều trụ, nơi nơi đều soi chiếu, nơi nơi đều thông, không chỗ nào chẳng đến, đầy đủ viên mãn.

Khởi Tín Sớ Thích nói: Tính tịnh bản giác lấy hư không và gương làm ví dụ để riêng giải thích bốn nghĩa. Luận nói: Một là như thật không cảnh, xa lìa tất cả tâm tướng cảnh giới không cách nào hiện ra vì chẳng phải nghĩa giác chiếu. Ban đầu trong chân như những pháp hư vọng vốn không, chẳng phải trước có rồi sau mới không, nên nói như thật không. Dưới đây giải thích nghĩa không, tâm điên đảo cùng cảnh hư vọng vốn chẳng tương ưng nên nói viễn ly. Chẳng phải cho là có mà không hiện, chỉ vì pháp hư vọng lý không nên không thể hiện cảnh, chứ chẳng phải không thể hiện như vì sừng thỏ không có nên không thể hiện.

Chẳng phải giác chiếu có hai nghĩa: Một là vọng niệm đối với chân trí, không có sức giác chiếu vì tình chấp trái lý, như gương chẳng phải là ngoại vật, vì ngoại vật không có nghĩa chiếu dụng tức là hiển bày trong gương không có ngoại vật. Hai là bản giác đối với vọng pháp cũng không có công năng giác chiếu, vì vọng vốn không, như mắt sáng nhìn hoa đốm trong hư không không có công năng giác chiếu, cũng như gương đối với sừng thỏ.

Hỏi: Nếu như thế tại sao trong nhân huân tập cảnh hiện ra tất cả pháp thế gian ?

Đáp: Căn cứ theo y tha tợ pháp, đây là chân tâm tùy theo huân tập mà tạo tác không có tự thể, chẳng khác chân như, cho nên luận nói: Vì tất cả pháp đều là chân thật tính; nay căn cứ theo biến kế sở chấp tính nên nó không thể hiện.

Hỏi: Những gì hiện ra giống như pháp đâu chẳng phải do người ta chấp thật có sao ?

Đáp: Tuy do chấp thật có nhưng dường như chẳng phải thật, như bóng do hình chất nhưng bóng không phải hình chất. Trong gương hiện bóng không hiện chất, vì không hiện chất nên nói là không cảnh. Vì hay hiện bóng đây gọi là nhân huân.

Luận nói: Hai là nhân huân tập cảnh, nghĩa là như thật bất không, tất cả cảnh giới thế gian đều hiện trong đó, chẳng xuất, chẳng nhập, chẳng mất, chẳng hoại, thường trụ nhất tâm. Vì tất cả pháp chính là tính chân thật, lại tất cả pháp nhiễm không thể làm cho nhiễm, trí thể bất động giải thoát đầy đủ xông ướp chúng sinh.

Giải thích bên trong nhân có hai nghĩa: Một là nhân hay làm hiện pháp, hai là nhân hay làm nội huân cũng có thể ban đầu là nghĩa nhân, sau đó là nghĩa huân tập nên nói là: nhân huân tập.

Nói như thật bất không, đây là nói tổng quát về cái thể nhân huân nghĩa là có tự thể và công năng. Trong hai nhân tất cả cảnh giới thế gian đều hiện ra, nói về tất cả pháp lìa tâm này ra không có thể tính riêng như trong gương hay hiện bóng. Chẳng xuất là nói về tâm chờ huân tập mới hiện các pháp, chẳng phải không huân mà tự xuất hiện. Chẳng nhập là lìa tâm thì không thể huân nên không thể từ ngoài vào. Chẳng mất, tuy chẳng từ trong ra từ ngoài vào, nhưng khi duyên khởi thì hiển hiện tất cả. Chẳng hoại là các pháp duyên khởi không chỗ bắt đầu, vì không khác chân như nên không thể hoại, như bóng trong gương, vì do gương nên không thể hoại. Thường trụ nhất tâm, biết rõ thể nó giống nhau. Pháp nhiễm chẳng thể nhiễm vì tính tịnh. Trí thể bất động vì vốn không nhiễm chứ không phải ngày nay mới bắt đầu tịnh, thế nên trí bản giác chưa từng lay động; lại tuy hiện các pháp nhiễm mà không bị nhiễm, nên nói bất động, như hình tượng trong gương tùy theo vật chuyển biến, nhưng thể của gương chưa từng động.

Lại một là “không cảnh” nghĩa là lìa tất cả ngoại vật, hai là “bất không cảnh” nghĩa là thể của nó chẳng phải không, hay hiện bày muôn tượng, ba là “tịnh cảnh” nghĩa là đã diệt trừ hết trần cấu, bốn là “thụ dụng cảnh” nghĩa là đặt gương này ở lâu đài kẻ nào cần đến thì thụ dụng. Hai cái trước là tự tính tịnh, hai cái sau là ly cấu tịnh. Lại nữa, hai cái trước là nhằm về lúc nhân ẩn mà nói, hai cái sau là nhằm lúc hiển quả mà nói. Lại hai cái trước căn cứ vào không bất không, hai cái sau căn cứ vào thể dụng.

Kinh Phật Địa nói: “Lại nữa, này Diệu Sinh, đại viên cảnh trí như nhờ gương tròn sáng mà các ảnh tượng hiện ra. Cũng thế, do nhờ nương vào Như Lai trí cảnh mà các ảnh tượng của xứ, cảnh, thức đều hiển hiện. Chỉ lấy gương tròn sáng làm thí dụ, nên biết viên cảnh và Như Lai trí cảnh y như nhau cho nên trí cảnh gọi là viên cảnh trí. Như Lai đại viên cảnh được người có phúc lạc thể nhận rồi mới treo lên chỗ cao quí không bị lay động, vô lượng chúng sinh qua lại nơi đây tự quan sát sự hay dở của chính mình vì muốn giữ lại điều hay, bỏ đi điều dở. Như vậy Như Lai treo đại viên cảnh trí vì muốn làm thanh tịnh pháp giới không gián đoạn nên không bị lay động; muốn cho vô lượng chúng sinh quán sát nhiễm tịnh là muốn lấy tịnh bỏ nhiễm.

Lại như gương tròn được mài sáng rất khéo, trong sạch không nhơ, ánh sáng chiếu khắp; đại viên cảnh trí của Như Lai cũng như vậy, ở trên Phật trí vĩnh viễn xa lìa tất cả phiền não, sở tri chướng nên nói khéo mài giũa; vì nương tựa chỗ nhiếp trì nên nói trong sạch không nhơ; vì làm những việc lợi ích cho chúng sinh nên nói ánh sáng chiếu khắp.

Lại như gương tròn y theo bản chất mà các thứ tướng mạo ảnh tượng sinh khởi, Như Lai đại viên cảnh trí cũng như vậy vì y theo các duyên ở mọi lúc mà các thứ tướng mạo trí ảnh sinh khởi. Như trên gương tròn sáng chẳng phải sinh khởi một hay nhiều ảnh tượng mà thực ra trên mặt gương không có bóng ảnh nào cả, nên gương này không lay động, không tạo tác; trên Như Lai đại viên cảnh trí cũng vậy chẳng phải sinh khởi một hay nhiều trí ảnh mà thật ra trên ấy không có trí ảnh nào cả nên trí cảnh này không lay động, không tạo tác.

Lại như gương tròn đối với các ảnh tượng chẳng phải hợp, chẳng phải ly vì không tụ tập, vì hiện ra theo duyên, Như Lai đại viên cảnh trí cũng vậy cùng với các trí ảnh chẳng phải hợp, chẳng phải ly, vì không tụ tập, vì không tan rã”.

Kinh Đại Niết-bàn nói: “Nếu ai có thể nghe tin kinh Đại Niết-bàn này thì có thể biết hết ý nghĩa sâu xa tất cả kinh điển phương đẳng Đại thừa, như nam nữ ở trước chiếc gương sáng thấy rõ hình tướng đẹp xấu của mình. Gương Đại Niết-bàn cũng thế, Bồ-tát cầm gương này đều thấy rõ ý nghĩa sâu xa của các kinh điển đại thừa”.

Lại nói: Cái gọi là Kinh Y-đế-mục-đa-già, cho đến thời Phật Câu-na Mâu-ni gọi đó là pháp cảnh (gương pháp), là biết cổ Phật đều xem đây là gương, vì muôn nghĩa giáo pháp, muôn duyên chân tục đều hiển hiện trong đó. Niết-bàn Sớ của tôn giả Thiên Thai Đỉnh nói: “Bát nhã tức là nhất thiết chủng trí của bậc Vô thượng điều ngự, gọi là gương sáng sạch đại niết-bàn. Gương này một chiếu tất cả chiếu, chiếu trung nên là gương, chiếu chân nên là sạch, chiếu tục nên là sáng. Minh nên hình tượng rõ ràng giả hiện, tịnh nên tì vết hết sạch chân thật hiển hiện gương nên thể tròn sáng bên trong lộ bày. Ba trí có được trong nhất tâm nên nói gương sáng sạch. Thu nhiếp tất cả pháp nên gọi là điều ngự. Phật trí tạng nên gọi là Bát-nhã đức, thế mới biết chư Phật đều xem tâm là gương, sự kỳ diệu đều ở trong đó”.

Kinh Đại Thừa Thiên Bát nói: “Quán kỹ tâm cảnh, soi thấy tâm tính, chỉ có chiếu mới có sáng, chỉ có chiếu mới có sạch, xem khắp mười phương, bao trùm pháp giới, sáng sủa vắng lặng không có chướng ngại”. Do đó Tiên đức nói: “Tính chân như này như gương sáng mọi hình tượng đều hiện ra trong đó”. Lại tất cả các pháp có hai thứ: Một là như gương sáng hàm chứa tính minh liễu, vì do nhất tâm tạo thành; hai là do phân biệt hiện ra như ảnh tượng. Do nghĩa trước nên là năng hiện, do nghĩa sau nên là sở hiện. Cho nên tất cả pháp xen lẫn nhau làm cảnh tượng như gương soi chiếu lẫn nhau mà không phá hoại bản tướng. Kinh nói: Vật xa gần tuy là ảnh hiện, bóng ảnh không theo vật mà có xa gần. Như trong dòng sông con suối thấy mặt trời mặt trăng, đây là năng hiện. Nếu dòng sông con suối là sở hiện thì dòng sông con suối vào trong gương, xuất hiện tướng sở hiện. Cầm chiếc gương lên lầu thì một dãy Hoàng Hà đều vào trong gương, ngọn thác nghìn trượng chỉ còn thấy chừng vài thước. Vương Hữu Thừa có thơ:

Ngoài song mây mù quyện trên áo
Cuốn màn sông núi vào trong gương.

Xuất hiện tướng sở hiện như treo cao tâm cảnh (tâm gương) không pháp nào chẳng vào, như mở rộng tính không không môn nào chẳng có. Cho nên Thái Tông hoàng đế đời Đường nói: “Trẫm nghe nói lấy đồng làm gương để sửa mũ áo cho ngay ngắn, lấy xưa làm gương để biết sự thịnh suy, lấy người làm gương để biết được mất, nay lấy tâm làm gương để soi pháp giới”. Lại gương sáng chỉ chiếu hình mà không chiếu tâm, chỉ chiếu sinh diệt mà không chiếu vô sinh, chỉ chiếu thế gian không chiếu xuất thế, có hình mới chiếu không hình chẳng chiếu. Vả lại tâm cảnh này thấy rõ tính địa, soi suốt tâm nguyên, rõ thấu vô sinh, biết rành chân tục, hữu vô đều rõ, ẩn hiển đều thông, ưu liệt khác biệt rất xa đại khái nêu vài thí dụ.

Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền nói: “Khi ấy bà-la-môn vì Thiện Tài đồng tử mà ngợi khen Cam Lộ đại vương:

Chúa tôi rất đoan nghiêm,
Trừng trị răn các dục,
Tâm như gương sáng sạch,
Soi vật thật vô tư,
Gương sáng chỉ chiếu hình,
Không soi nơi tâm tưởng.
Vua tôi tâm gương sạch,
Thấy suốt cả nguồn tâm”.

Cổ Đức nói: Như gương báu ma-ni chiếu sáng cả hư không, mười phương sắc tướng đều hiện ra trong ấy; song tính gương sáng sạch không có ảnh tượng. Pháp thân chư Phật cũng như thế, vắng lặng thanh tịnh, không có ảnh tượng, do xưa kia vì lòng đại bi không mệt mỏi, tùy theo nghiệp duyên chúng sinh cảm ứng sai khác mà hiện ra sắc thân tam-muội, chúng sinh nghe thấy đều được lợi ích. Chư Phật với kim cương tâm làm thân, hiện khắp tất cả chúng sinh giới, chỉ vì tập khí phiền não che lấp chứ thật ra không gì chẳng hiện, như trong cái bình sạch thì ánh sáng đèn không mất, gọi là Như Lai tạng, cũng gọi là công đức tạng. Các vị Tổ cùng truyền tự giác Thánh trí thanh tịnh, chân như diệu tâm, không như văn tự ở thế gian có được. Vì sao ? Vì vô ngại giải thoát là nhất chân pháp tính không ở chung với thế gian và xuất thế gian. Kinh nói vô tỷ là bồ-đề vì không thể ví dụ. Nếu ai tỏ ngộ pháp tính chân thật này thì có thể biết rõ tam thế chư Phật cùng tất cả chúng sinh đồng một pháp giới bản lai bình đẳng thường hằng bất biến, vì trong mọi lúc chư Phật lìa tướng quán.

Bài kệ trong kinh nói: Tâm tịnh trải qua các thiền định. Vì tâm tịnh nên một khi ánh sáng nội tâm chiếu soi thì mọi điều lo nghĩ dứt sạch, như nhà tối treo đèn, vén mây thấy mặt trời.

Cổ đức có kệ:

Đâu biết một niệm che ánh sáng,
Ức kiếp ngu mê dứt tức thì.

Do đó nói pháp có công năng ứng chiếu nên dụ nó với gương, giáo có ý nghĩa truyền trao nên dụ nó với đèn. Có thể gọi là tuệ nhật ở trong lòng, linh châu nắm trong tay, pháp giới thấu suốt không gì chẳng soi.

Luận Tài Mệnh nói: “Tâm triệt bảo cảnh” (tâm rỗng suốt như gương báu). Chú giải: Tâm dùng để soi xét các vật, thứ phẩm không sót, thấu triệt sáng tối như gương báu. Trang Tử nói : “Tâm bậc chí nhân như gương”. Như gương ở thế gian còn có thể soi thấy tim gan con người, hà huống đài gương tâm linh lại không soi thấu được sao? Ngày xưa vua Tần dùng ngọc để thử lòng dạ của quần thân. Thế nên người xưa nói: “Không đi dạo trên biển cả thì chưa thấy sự kì diệu của mặt trời rực rỡ, chẳng ngắm Thái Sơn thì chưa thấy hiện tượng sương mù tan”. Như chưa đến với Tông Cảnh thì làm sao biết được tự tâm, rộng lớn mà thể chứa thái hư, lắng trong mà ảnh gồm vạn tượng, vì người không tin sâu thì không lường được sự cao thâm.

Đại sư Chân Giác ca:

Gương tâm soi sáng vô ngại
Rộng lớn sáng chói khắp sa giới
Bóng ảnh vạn tượng muôn màu hiện
Một tính viên quang chẳng trong ngoài.

Thế nên căn cứ theo bốn nghĩa “không cảnh” trong luận Khởi Tín liền ghi chép lời dạy chư Tổ, hiển hiện nhất tâm, chứng thành Tông Cảnh. Do đó luận nói: Có pháp hay khởi ma-ha-diễn, kẻ tín căn là có pháp. Nghĩa là pháp nhất tâm. Nếu người nào có thể hiểu pháp này ắt hẳn sẽ khởi tín tâm rộng lớn. Tín căn đã lập, tức là đã vào Phật đạo. Vì thành Phật đạo nên lìa hai thứ hiện hành. Hiện hành là gì ? Một là phàm phu hiện hành, sinh tử thành việc tạp nhiễm, hai là Nhị thừa hiện hành, niết-bàn mất sự lợi lạc. Trói buộc, cởi mở tuy khác nhưng đều là mê Tông Cảnh, khi thành Phật đạo không có hai thứ hiện hành, viên chứng nhất tâm đầy đủ ma-ha-diễn. Vì đại trí nên chẳng trụ nơi sinh tử; vì đại bi nên chẳng trụ niết-bàn, tạo nên nguồn ánh sáng, làm bến lành cho muôn người.

Hỏi: Tông Cảnh chiếu khắp, muôn pháp cùng qui về là nghĩa của gương này chăng ?

Đáp: Hoặc phàm hoặc Thánh, nói dị nói đồng đều là ảnh tượng trong gương, chỉ một gương này đầy đủ mười phương, ngoài gương không pháp, ngã nhân đều dứt.

Cổ đức nói: Nếu nói tâm tính chúng sinh đồng với tâm tính chư Phật là biệt giáo nói. Riêng Viên giáo nói tâm tính là một tịch quang không kia không đây, cho đến mười phương chư Phật ba đời và chúng sinh đều trở thành đại viên cảnh. Nhưng gương này không có đồng dị, Phật và chúng sinh đều là ảnh tượng trên gương mà thôi.

Hỏi: Nay Tông Cảnh Lục lấy gương làm nghĩa là căn cứ theo pháp tướng tông hay căn cứ theo pháp tính tông ?

Đáp: Nếu căn cứ môn nhân duyên đối đãi theo pháp tướng tông tức là bản thức làm gương, như kinh Lăng Già nói: “Ví như gương sáng hiện các sắc tượng, chỗ hiện thức hiện ra cũng như thế”. Hiện thức là đệ bát thức; theo pháp tính tông thì Như Lai tạng là gương, như luận Khởi Tín nói: “Lại nói thể tính của giác có bốn nghĩa lớn đồng với hư không, giống như gương sạch”.

Kinh Chiêm Sát Thiện Ác lập ra hai thứ quán môn, vì kẻ độn căn lập ra duy thức quán, vì người lợi căn lập ra chân như thật quán.

Lại luận Khởi Tín nói: “Nếu tâm rong ruổi tán loạn thì phải thu nhiếp lại làm cho tâm trụ nơi chính niệm”. Chính niệm là biết chỉ có tâm, chớ không có cảnh giới bên ngoài, lại tâm này cũng không có tự tướng vì niệm niệm bất khả đắc. Nếu duy tâm thức quán và chính niệm thì duy tâm tức là pháp tướng tông. Nếu chân như thật quán cùng với tâm kia niệm niệm bất khả đắc, đó là pháp tính tông. Nếu căn cứ trên pháp tính dung thông môn tất cả đều qui về một nghĩa không còn phân biệt. Nay nói về chính tông, theo chỗ thù thắng mà nói, căn cứ pháp tính tông nội thì tổng quát bao hàm như biển cả chứa trăm sông, lấy gốc nhiếp ngọn đâu chỉ có tính tướng mà nó chiếu soi không sót một pháp.

Hỏi: Trong Tông Cảnh làm sao tín nhập ?

Đáp: Chỉ cần bất động nhất tâm, chẳng trụ các pháp, không có năng sở, không có tâm tri giải thì tín mà không tín, nhập mà không nhập, nhân pháp đều không, tâm cảnh đều tịch. Như trong kinh Đại Bát Nhã, Văn-thù-sư-lợi nói: “Hệ duyên pháp giới, nhất niệm pháp giới, bất động pháp giới, tri chân pháp giới không nên lay động”. Nghĩa là nếu nói ta vào pháp giới thì đã động pháp giới, năng sở đều mất, tướng nhập vắng lặng cho nên bất động pháp giới là nhập pháp giới.

Kinh Đại Thừa Thiên Bát Đại Giáo Vương nói: “Phương tiện thế nào mà được chứng nhập vô tính quán, Bồ-tát trước hết phải dùng tâm quán chiếu bản tính tịch tịnh, ngộ nhập diệt tận định, được tính tâm thức, chứng kiến thanh tịnh chỉ có thanh, chỉ có tịnh, chứng kiến Thánh tính tự tính như như, nhất đạo tịch tĩnh, ngộ đạt bản nguyên soi trở lại thấy tịnh, chỉ có chiếu, chỉ có minh, chỉ có tịnh, chỉ có tịch, chỉ có Thánh thì gọi là Bồ-tát được vào bất động niết-bàn vô tính quán, cho nên biết nếu có năng chứng thì có người; nếu có sở chứng thì là có pháp, vì chỉ có nhất chân pháp giới nên ngoài tâm không có pháp, không thể đem pháp giới lại chứng pháp giới”. Như Vô Sinh Nghĩa nói: “Như kinh nói Xá-lợi-phất khen ngợi các tì-kheo: Hôm nay các thầy đang ở nơi phước điền. Các tì-kheo thưa: Đại Sư Thế Tôn còn không thể tiêu hóa sự cúng dường, huống là chúng con. Thế Tôn giải thích: Đây là Phật không trụ Phật thì không có Phật cũng không có phước điền, có thể tiêu hóa sự cúng dường, đây là phước điền chân thật. Phật nếu trụ Phật tức là có Phật, cũng là có phước điền có thể tiêu hóa sự cúng dường, đây chẳng phải là phước điền chân thật. Đại loại nếu trụ thần thông trí tuệ, đây chẳng phải là trí tuệ chân thật; nếu không trụ thì mới là trí tuệ chân thật”.

Lại Tư Ích Kinh Luận nói: “Vì lìa nơi pháp giới không còn có người thụ cúng dường, vì pháp giới kia xưa nay thanh tịnh”. Thế nên bộ lục này lược bỏ chỗ phù phiếm, chỉ bàn về chỗ chân thật, chẳng theo văn tự, chỉ hiển bày tâm tông. Như kinh Phổ Hiền Quán nói: “Xưa tại Linh Sơn, Phật diễn nói một đạo chân thật”. Lại luận Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính có bài kệ:

Tuy không khéo mồm mép
Chỉ có nghĩa chân thật
Pháp ấy nên thụ trì
Như lấy vàng bỏ đá
Diệu nghĩa như vàng thật
Lời khéo như ngói đá
Theo danh chẳng theo nghĩa
Ấy là kẻ mù tối.

Nếu tự thân thấy tính vào trong Tông Cảnh ấy là tự tin pháp môn quyết định không còn nghi hoặc thì có thể khiến mặt trời có thể trờ thành lạnh, mặt trăng trở thành nóng, cho dù ai nói gì khác cũng không thay đổi được niềm tin ấy.

Kinh Đại Pháp Cự Đà-la-ni ghi: “Phật dạy: Này Kiều-thi-ca, đệ tử Như Lai thấy các thế gian như huyễn hóa, không có lưới nghi. Vì sao ? Vì nếu tin Như Lai tức là tự mình thấy pháp. Thế nên tin mình chẳng nên chỉ tin người. Vì sao ? Vì nếu mình đã tự thấy rồi chỉ chẳng nên nghe theo lời người khác. Này Kiều-thi-ca, như có người trần truồng đi ngoài đường; giả sử có kẻ bảo với mọi người rằng người ấy đang mặc áo quấn gấm lụa! Này Kiều-thi-ca, ý này thế nào ? Mọi người có tin lời người kia không ? Bạch Thế Tôn, không ạ! Vì sao ? Vì tận mắt họ thấy sự thật. Phật nói: Đúng thế Kiều-thi-ca! Đệ tử Như Lai tự thấy pháp nên không nghe theo lời người khác, nghĩa kia cũng vậy”.

Giải thích: Nếu thấy tự pháp, thì pháp gì chẳng phải “tự” (chính mình) hoặc phàm hoặc Thánh hoặc thị, hoặc phi v.v… Hễ có chỉ ra được thì không ra khỏi phạm vi của tự tâm. Tin được như thế mới có thể đạt đến cội nguồn của pháp.

Như kinh Nhập Pháp Giới Thể Tính ghi: “Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Ông biết sự thật chăng ? Văn-thù thưa: Thưa Thế Tôn! Con biết sự thật. Phật hỏi: Văn-thù-sư-lợi, cái gì là sự thật ? Văn-thù thưa: Bạch Thế Tôn! Có ngã sở đó là sự thật, có phàm phu đó là sự thật, có nghiệp, quả báo, tất cả các pháp đều là sự thật. Bạch Thế Tôn, nếu ai tin như thế tức là thật tin. Nếu tin ngược lại tức là chính tín. Nếu hạnh chẳng phải hạnh đó là chính hạnh. Vì sao ? Chính hay bất chính đều chỉ là ngôn ngữ không thật. Nếu tin thật nghĩa duy tâm thì chẳng bị ngôn ngữ xoay chuyển, nghe nhiều mà không sợ, nghe ít mà không nghi, nghe không nhiều không ít mà không si”.

Như Thanh Lương Diễn Nghĩa nói: “Nghe nhiều mà không sợ tức là nghĩa sâu xa, đó là không. Nghe nói không nghĩa là giống như đoạn diệt cho nên khiến cho người ta sợ”. Thế nên Đại Phẩm nói: “Trước đã chẳng phải trước có, sau cũng chẳng phải không, tự tính thường không, đừng sinh sợ hãi”. Nghe ít không nghi, ít (cạn cợt) nghĩa là lướt qua sự việc, phương tiện nhiều môn thì làm cho nghi hoặc, nay biết tùy nghi thì còn nghi gì nữa ? Nghe không nhiều không ít nghĩa là không có chỗ căn cứ, khiến thân tâm vắng lặng, biết không nhiều là diệu hữu, không ít là chân không. Lìa tưởng thân tâm, được dũng mãnh mới có thể tạo được cảnh này.

Lại nữa, ba câu trên cũng là ba pháp quán, câu đầu là không quán, câu kế là giả quán, câu sau cùng là trung quán. Ba câu cùng nghe nhất niệm đều sáng tỏ thì nhất tâm tam quán trừ sạch mọi điều nghi.