TÔN THẮNG PHẬT ĐẢNH TU DU GIÀ PHÁP NGHI QUỸ

KINH SỐ 973

Hán dịch: Tam Tạng THIỆN VÔ ÚY dịch
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ

 

QUYỂN THƯỢNG

Phẩm Tựa Thứ Nhất: TÔN THẮNG CHÂN NGÔN

Kính lạy hết thảy Bạt Già Phạm

Cùng Kim Cang Bộ (Vajra-kula) ở phương Đông

Hùng mạnh A Súc (Akṣobhya), Kim Cang Tạng (Vajra-garbha)

Bảo Sanh Như Lai (Ratna-saṃbhava), Hư Không Tạng (Ākāśa-garbha)

Đạt Ma Câu Ra (Dharma-kula: Pháp Bộ), Vô Lượng Thọ (Amitāyus)

Quán Tự Tại Vương (Avalokiteśvara-rāja) mắt hoa sen

Tỳ Thủ Yết Ma (Viśva-karma), Đại Mâu Ni (Mahā-muṇi)

Bất Không Thành Tựu (Amogha-siddhi), Tát Đỏa Tôn (Savtva-nātha)

Bốn Ba La Mật, bốn Cúng Dường

Tám Đại Phật Đảnh Chuyển Luân Vương

Vì muốn tất cả người tu hành

Mau thành Tôn Thắng Đại Tất Địa

Ham thích Không Tướng nói Du Già

Người cầu có tướng thì nói tướng

Có không một Thể là Đại Không

Do đó nay Ta nói tương ưng

Chữ nghĩa quán rõ thật tường trì

Ba loại Bát Nhã đồng một thể

Thân Khẩu Ý là ba Môn Mật

Ứng, Hóa, Pháp Thân là Tam mật

Năm Luân tức là năm Trí Luân

Ngũ Trí tức là năm phần thân

Năm Luân nhiếp hết năm Pháp Giới

Ba Mật tức chính là ba Thân

Do đó nay Ta lễ Du Già (Yoga)

Du Già tức là Đại Nhật Tôn (Vairocana-nātha)

Cho nên nay Ta tu Du Già

Vì lợi Pháp Giới các Hàm Thức.

_Nay Ta lược nói pháp Tôn Thắng Đà La Ni trừ tất cả chướng, diệt tất cả các Thân nơi Địa Ngục, Bàng sanh, nên nghĩa Tôn Thắng Phật Đảnh. Do đó, Như Lai vì Thiện Trụ Thiên Tử nói trừ bảy lần làm thân súc sanh, tức là Pháp Du Già không đồng sự Pháp. Ở trong một niệm chứng vô chủ chuyển Năm Trí thành năm phần Pháp Thân, ngộ ba Mật là ba Thân. Khi mới phát Tâm thời có trăm sáu mưoi thứ tâm, độ ba vô số kiếp tu hành, chứng Phổ Hiện Sắc Thân Tam Muội Da, tức là lúc mới phát tâm thời thành Chánh Giác.

Ta nay vì người cầu Tướng nên nói Tướng có, nếu muốn cầu Không Tướng thời lại nói Pháp niệm tụng Không Tướng, có nhiều thứ nhưng nay Ta chỉ nói hai thứ nhiếp hết thảy.

Một là vì người cầu Trừ Tai, Tăng Ích tại Thế gian, lược nói Pháp có Tướng.

Hai là vì người cầu Vô Thượng Bồ Đề Du Già, nói Pháp vô sanh, thuận nhập Phổ Hiện Sắc Thân. Trong Pháp Thế Gian niệm tụng có bốn thức là: Tức Tai, Tăng Ích, Hàng Phục, Nhiếp triệu tức là các Đàn Pháp vuông, tròn, tam giác, bán nguyệt và các Pháp Hộ ma lư.

Nếu lúc niệm tụng cầu Tăng Ích, mỗi Chơn ngôn trên dưới thêm hai chữ “Na mô” (NAMO).

Nếu niệm tụng cầu Tức Tai, cuối câu Chơn ngôn thêm hai chữ “sa ha” (SVĀHĀ) .

Nếu niệm tụng cầu Hàng Phục, thêm ba chữ “Hồng phấn tra” (HŪṂ PHAṬ) .

Nếu niệm tụng cầu Nhiếp Triệu, trước câu Chơn ngôn thêm ba chữ “ha lị ha” (HĀRI HAḤ) .

Tức Tai, Tăng Ích, Hàng Phục, Nhiếp Triệu thêm câu và xưng tên của người cầu và việc làm, các màu sắc là vàng, trắng, đỏ, xanh, hoặc trên mặt hoặc y phục nơi thân, các món cúng dường ăn uống hương vị đều tương ưng với màu sắc các Pháp Hộ Ma cũng riêng khác nhau, trăm thứ của thiêu đốt khác nhau. Nếu như muốn tu, cần phải theo Bổn Pháp mà làm cho tương ưng.

 

Phẩm Thứ Hai: TÔN THẮNG CHÂN NGÔN PHÁP TẮC TRÌ TỤNG

Lại nữa, muốn làm Pháp Trì Tụng, trước cần nhập Thanh Tịnh Pháp giới Tam Ma Địa nói trên, đảnh tưởng chữ “Lam” (劣_ RAṂ) hình lửa ba góc, màu như mặt trời vừa mọc, khắp thân là lửa Trí thiêu đốt bốn Đại, năm Uẩn chỉ còn không tịch.

Pháp Giới Chân Ngôn rằng:

“Nam mô tam mãn đà một đà nẫm. Lam”

 

Tâm niệm, miệng đọc tưởng đảnh và khắp thân thành lửa Trí ba góc. Hình như đây lại nhập vào Ngũ Luân Tam Ma Địa.

Nhập Kim Cang Luân Tam Ma Địa, tưởng từ rún trở xuống hình vuông, màu vàng tử kim là Kim Cang Luân.

Chân Ngôn rằng:

“Nam mô tam mãn đà một đà nẫm. A”

Mỗi khi tưởng, thời miệng đọc và quy mạng, Tâm tưởng bốn thể của chữ hình như bên chữ A là Kim Cang Luân màu vàng.

Lại quán chữ PHẠ (VA) nơi rún, là Đại Bi Thủy Luân màu như sữa, hình trăng tròn.

Chân Ngôn rằng:

“Nam mô tam mãn đà một đà nẫm. Vam”

Lại Hỏa Luân Chân Ngôn rằng:

“Nam mô tam mãn đà một đà nẫm. Lam”

Ở nơi tâm tưởng Hỏa Luân, ba góc màu như mặt trời mọc, ánh sáng chiếu như lửa mới cháy. Hình như tam giác Mạn Đà La (RAṂ).

Lại tưởng chữ HA như nửa mặt trăng ngửa (HA) màu đen, còn gọi là chữ Hàm (HAṂ) tức là Thiên Phong Luân, an trú nơi my (lông mày).

Lại tưởng trên đảnh có chữ Khiếm (KHAṂ) là Đại Không Luân. Hình gồm các màu sắc.

Đây là năm Trí Luân là: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không. Dùng Phổ Biến Ấn gia trì năm chỗ thành Chân Thật Trí.

Lại nói Phổ Biến Chân ngôn:

“Úm, tát bà tha khiếm, ốt na nghiệt đế, tát võng ra, hê hế, dà dà na kiếm, sa bà ha”

Hai tay mười ngón xoa nhau, để trên đầu và thân năm chỗ, tức thành Kim Cang Bất Hoại Thân, tức là nhập Tam Muội Da, đồng với tất cả Chư Phật Bồ Tát Tam Muội Thân, làm thân Tam Muội Da, làm Phật sự.

Nhập Tam Muội Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra nhạ lị, tam ma dã”

 

Mỗi chỗ đều tụng Chân Ngôn gia trì.

Hai tay xoa nhau, chắp lại, ngón Trí (ngón cái trái) đè ngón Thiền (ngón cái phải), đây là Nhất Thiết Phật Tam Muội Da Ấn, do một Ấn này sanh ra tất cả Ấn; nên kết Ấn này trước, dùng Ấn gia trì năm chỗ (Đảnh, vai phải, vai trái, trái tim, cổ họng ) gọi là Ngũ Chi.

Điểm Đại Không đủ mọi màu sắc gọi là chữ Khiếm (KHAṂ),

 

Chữ Hàm ( _ HAṂ) là Phong Đại,

chữ Lam ( _ RAṂ) là Hỏa Đại,

chữ Noan ( _ VAṂ) là Thủy Đại,

chữ A ( A) là Địa Đại.

Kim Cương Luân ở dưới rốn, Đại Không Luân ở trên đảnh, Phong Luân ở trên My (lông mày), Hỏa Luân trên trái tim, Thủy Luân ở trong rốn.

Năm Uẩn, bốn Đại thành Kim Cang Bất Hoại, năm Uẩn gọi là Vô Lậu Trí Thân, còn gọi Vô Vi Mạn Đà La Địa, do Mạn Đà La năm Luân gia trì. Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không năm Đại Hữu Vi thành năm Đại Vô Vi. Do đó, quán tướng Mạn

Đà La Địa, trước khởi Không lần lượt đến Phong. (Quán ngược đồ hình ở dưới)

Dùng Tâm Tịnh Pháp Giới lúc trước đốt các uế ác ở trong Địa Mạn Đà La sau đó y trước sau an lập năm đại Luân, tức dùng Kết Giới, Hộ Thân, Tịch Trừ Quang Hiển, Tịnh Trừ Ba Nghiệp, Kiên Cố Tâm Bồ Đề …v.v… sau đó lại nhập Kim Cang Tam Muội Da Chân Ngôn.

“Úm, phạ nhật ra mãn đà, đát ra tra”

Kết như Ấn Kim Cang ở trên, nắm lại thành quyền an để nơi tâm. Khi để nơi tâm, từ từ mở tay ra, đây là kết Kim Cang Giới Ấn ba lần. Để nơi tâm xong, do Chân Ngôn và Ấn lực hay tịnh ba nghiệp, vững chắc Tâm Bồ Đề.

Lại ở chỗ trì tụng trừ các uế ác và các chướng.

Phàm khi dâng hương hoa, mạt hương, đồ hương và các thứ cúng dường, trừ bỏ các uế ác, tăng trưởng sáng sủa. Tác Kim Cang Giới, kết các Phương Giới hộ thân và hộ chỗ ở như trên đã nói. Khi tu các việc đều nhất nhất tụng Chân Ngôn, tác Ấn gia trì mau được thành tựu không có các chướng nạn, nên dùng Hàng Tam Thế Chân Ngôn và Ấn gia trì hay thành biện các việc.

Hàng Tam Thế Chân Ngôn:

“Úm, nịnh tam bà phạ nhựt ra, hồng”

 

Hàng Tam Thế Chân Ngôn, Thủ Ấn hay thành biện các việc vậy.

Hai tay nắm thành quyền, thẳng ngón Phong, co hai ngón Không (2 ngón cái) nhập vào lòng bàn tay, dùng các ngón Địa (ngón út), Thủy (ngón vô danh), Hỏa (ngón giữa) mà đè lên, dùng Định Ấn để nơi tim, Trí Ấn chạm xúc các vật và kết Địa Giới, bốn phương trên dưới. Xoay bên phải ba vòng tức thành Kết Giới.

 

Phẩm Thứ Ba: TRIỆU THỈNH BỔN TÔN

Lại nữa, cần cảnh giác tất cả Chư Phật, tám Đại Bồ Tát, Phật Đảnh Luân Vương cùng Bổn Bộ Tôn từ trong Tam Muội nhìn ngó xem xét người tu Chân Ngôn, giáng đến Đạo Tràng.

Phát Sanh Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra, để sắc tra”

Định Huệ (2 bàn tay) hai tay ngón Địa (2 ngón út) móc như cái khóa, ngón Không (ngón cái) nhập vào lòng bàn tay, dùng Thủy luân (ngón vô danh) và Hỏa luân (ngón giữa) đè Không luân (ngón cái), Phong phan (ngón trỏ) hướng tới dựa nhau, đưa chưởng lên trên. Tụng Chân Ngôn, đem Ấn đưa từ dưới lên phát khởi Chư Tôn. Đây là Phát Sanh Ấn.

Lại thỉnh Bổn Tôn Ấn Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhật ra, tam man nhạ, nhạ”

Hai tay xoa nhau làm thành Kim Cang quyền, không mở quyền, dùng Trí Phong Luân (ngón trỏ phải) phát Trí Đại Không (ngón cái phải). Tay Định (tay trái) cũng vậy, như vậy ba lần bật tức thành Phụng Thỉnh chư Tôn. Tâm tưởng Bổn Tôn ở tại Đàn trong lầu các. Tưởng trong lầu các có sen báu, trên quán vòng tròn có chính vòng (luân) Kim Cang giới đạo, ở trong mỗi vòng có các Bổn Tôn (mỗi số là mỗi luân). Trong vòng tròn lớn chia ra làm chín vòng tròn nhỏ, tám bình báu, mười hai chày Kim Cang, bốn bánh xe báu. Trên tám miệng bình đựng tám chày Kim Cang. Bốn bánh xe bốn mặt là bốn chày Kim Cang, cổ bình và chày đều có dây cột nơi cổ, bố trí quanh vòng lớn mỗi tọa của chín vị Thánh (ở giữa là Tỳ Lô Giá Na Như Lai đầu đội mão báu Ngũ Trí, ngồi trên tòa có bảy sư tử, kết già phu, kết Pháp Giới Ấn), còn các Chư Tôn nơi phẩm Mạn Đà La có chỉ đầy đủ.

Nghinh Thỉnh Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra cu xá, nhạ”

Dùng Hàng Tam Thế Ấn, hai ngón Phong (2 ngón trỏ) làm như Câu, động đậy tức thành Phụng Thỉnh. Cầu xin giáng lâm. Thỉnh nhập vào chỗ Đạo Tràng niệm tụng.

Thỉnh Nhập Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra bạt xá, hồng”

 

Kết Kim Cang Quyền, thẳng hai ngón Địa (2 ngón út), hai ngón Không (2 ngón cái) xoa nhau trong lòng bàn tay, phải đè trái. Phụng Thỉnh Nhập Tam Muội Da, y Thỉnh mà trụ.

Thỉnh Trụ Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra kiện tra, a”

Kết Kim Cang Quyền, thẳng hai ngón Địa 92 ngón út), hai ngón Không (2 ngón cái) xoa nhau trong lòng bàn tay, phải đè trái. Thỉnh triệu cho đến hoan hỷ khiến kiên cố.

Kiên Cố Chân Ngôn:

“Úm, tát ra phạ đát tha nghiệt đa, tì phổ địa, nại lặc mãn, phạ nhựt ra, để sắt tra”

 

Trí Định (2 tay) chắp lại thật chặt.

Lại tưởng quán tẩy Bổn Tôn và tự thân.

Quán Đảnh Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra nhược, ca tra”

 

Bàn tay Định, Thủy luân và Không luân dựa nhau, bốn ngón kia thẳng, bưng bình nước tưởng tắm gội Bổn Tôn, hoán tự thân nơi đảnh, dâng hiến Ứ Già tưởng quán Tôn Đảnh. Dùng Ấn này tụng Chân Ngôn 7 biến.

 

Phẩm Thứ Tư: TU DU GIÀ PHỤNG HIẾN HƯƠNG HOA

Lại hiến hương, hoa, ẩm thực, đèn sáng …v…v… dùng Bổn Chân Ngôn gia trì, dâng hiến.

Dâng Thiêu Hương Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra độ tệ”

 

Kết Kim Cang Quyền để trên lư hương, tụng Chân Ngôn 7 biến, tức thành Hương báu chân thực tràn đầy khắp mười phương hư không Pháp Giới.

Hiến Hoa Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhật ra phù sắc tệ”

 

Kim Cang Chưởng gia trì, tụng Chân Ngôn 7 biến, tức thành Hoa báu chân thật

Hiến Bảo Đăng Chân ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra địa tệ”

 

Kết Kim Cang Quyền, thẳng hai ngón Không (2 ngón cái), để nơi tâm tụng Chân Ngôn 7 biến, tức thành Đèn báu thành tràn khắp Pháp Giới.

Hiến Đồ Hương Chân Ngôn:

“Úm, phạ nhựt ra nga độ”

 

Hai tay úp lại, mở các ngón Không Trí (ngón cái Phải), đè ngón Không Định (ngón cái trái), tụng Chân Ngôn 7 biến.

Lại quy y Tam Bảo, phát lộ sám hối, tùy hỷ Công Đức, khuyến thỉnh, phát Tâm Bồ Đề, ngợi khen Phật Đức, phát nguyện cao cả.

*Quy mạng Tam Bảo: “Bắt đầu từ hôm nay cho đến khi ngồi nơi Bồ Đề Đạo Tràng, quy y ba thân Vô Thượng của Như Lai. Quy y Phương Quảng Đại Thừa Pháp Tạng. Quy y tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát Tăng không thối chuyển”. Nên cần quy mạng Tam Bảo như vậy.

Lại cần phát lộ sám hối. “Từ vô thỉ cho đến hôm nay phiền não ngăn che, trôi lăn trong sanh tử, ba nghiệp tao ra vô biên tội chướng. Ngày nay thành tâm sám hối tất cả”. Sám hối như vậy, khiến các tội tiêu diệt.

*Lại phát tâm Bồ Đề: “Bắt đầu từ hôm nay cho đến khi ngồi nơi Bồ Đề Đạo Tràng, nguyện phát Tâm Bồ Đề vô thượng. Thệ độ vô lượng các loài hữu tình, đều khiến xa lìa các khổ sanh tử. Hôm nay phát tâm xa lìa hai tướng ngã pháp, ngã pháp bình đẳng không có Tự Tánh”. Nên cần phát Tâm bồ Đề như vậy. Dùng Chân Ngôn gia trì khiến Tâm Bồ Đề bền chắc không lui sụt.

Chân Ngôn rằng:

“Úm, bồ địa chất đa mâu đát bạt đà, dạ nhị”

 

Kim Cang Hợp Chưởng, tụng phát Tâm Bồ Đề Chân Ngôn 7 biến.

Tùy hỷ Công Đức: “Ba đời Như Lai và chư Bồ Tát vì chúng sanh tu vô lượng Công Đức, có tất cả các Công Đức, con đều tùy hỷ”.

Khuyến thỉnh Thường trụ: “Duy nguyện Chư Phật ở lâu nơi đời, y Du Dà Lý Thú, không trụ Niết Bàn”.

Lại thỉnh Chuyển Đại Pháp Luân: “Biến khắp 10 phương giới, phát các nguyện cao cả. Nguyện cho chúng sanh được nhiều tiền tài, của báu, thường ban phát Trí Huệ đầy đủ, thọ hưởng vui, kham nhẫn, làm đại thiện duyên, thường được Túc Mạng, Trí Huệ, nhớ niệm hữu tình. Nguyện cho chúng sanh sanh ra nơi nào, thường được các điều thù thắng như trên”.

Lại vận tâm cúng dường: Dùng tâm vận tưởng hết thảy các hoa đều đầy đủ, biến khắp hư không 10 phương giới. Dùng các món thượng diệu nơi cõi Trời như đồ hương, Thiêu hương, đăng minh, tràng phan, bảo cái, kỹ nhạc, ca hát, trân châu, la võng, bảo linh, hoa man, bạch phất, như ý bảo thọ …v…v… tối thắng thượng diệu cung điện, lầu các, cột báu trang nghiêm ở cõi Trời, áo mão, anh lạc …v…v… Hành Giả vận tâm biến khắp Pháp Giới, dùng Tâm chí thành cúng dường. Đây là cúng dường trên hết. Do đó Hành giả phải có tTm quyết định hành Pháp này. Trì tụng Chân Ngôn và kết Thủ Ấn tưởng như trên, tức được thành tựu.

Vận Tâm Chân Ngôn:

“Úm, tát bà tha, khiếm, ôn đát nghiệt đế, tát võng ra, hê ma am, nga nga nẵng kiếm, sa bà ha”

 

Tụng Chân Ngôn 7 biến, tức thành cúng dường khắp hết.

Hai tay Kim Cang Hợp Chưởng để trên đảnh, tụng Chân Ngôn 7 biến tức thành các món cúng dường đầy đủ.

Lại tụng Chân Ngôn và ấn thân 5 chỗ hộ thân. “Úm, chất đa, bát ra để phệ năng, ca lộ nhị”

 

Tụng Chân Ngôn khiến trụ trong Tam Muội Da của tất cả Như Lai mau thành biện, tất cả Phật sự mau được thành tựu.

 

Phẩm Thứ Năm: TU DU GIÀ NGŨ TRÍ

Lại nữa, người tu Du Già trụ trong Tâm Bồ Đề mau vào quán Tâm Bồ Đề Trí.

Quán Bồ Đề Chân Ngôn:

“Úm, Bồ địa chất đa mâu đát bá na, dạ nhị”

Đây là Bồ Đề Tâm Chân Ngôn, còn gọi là Đại Viên Cảnh Trí, mau khiến phát Tâm Bồ Đề, vừa mới phát Tâm thời thành Chánh Giác, tức là nghĩa của Pháp Thân.

Lại nói Bình Đẳng Tánh Trí Chân Ngôn:

“Úm, để sắc tra, phạt chiết la”

 

Tụng Chân Ngôn này mau khiến Tâm Tánh không tán loạn tức là nghĩa của Ứng Thân.

Lại nói Thành Sở Tác Trí Chân Ngôn:

“Úm, duệ tha, tát ra phạ đát tha nghiệt đa, sa đa tha ngân”

Lại nói Diệu Quan Sát Trí Chân Ngôn:

“Úm, sa phạ bà phạ, truật độ ngân”

Đây là Diệu Quan Sát Trí, nghĩa là Ứng Thân, cũng là nghĩa của Hậu Đắc Trí Pháp Thân.

Lại nói Phương Tiện Cứu Cánh Trí Chân Ngôn:

“Úm, tát ra phạ mộ ngân”

Đây là Phương Tiện Cứu Cánh Trí, nghĩa của Hóa Thân, ở trong môn tu học dùng phương tiện làm cứu cánh, tức là nghĩa của Hậu Đắc Trí Pháp Thân. Trong Thai Tạng, an ở năm phương.

Ngũ Trí Chân Ngôn Ấn: Định Huệ hai tay xoa nhau bên ngoài, nắm lại thành quyền, thẳng hai ngón Hỏa (2 ngón giữa), hai ngón Địa (2 ngón út) hợp nhau, hai ngón Phong (2 ngón trỏ) co lại vịn lưng tiết trên hai ngón hỏa (2 ngón giữa) cách hai ba phân. Hai ngón Không (2 ngón cái) thẳng hình như chày Kim Cang năm chia, Ấn này dùng cho Ngũ Trí. Sau lại dùng Đại Nhật Pháp Giới Ấn gia trì năm chỗ, tức thành đầy đủ 5 phần Pháp Thân, Vạn Đức Thân.

Pháp Giới Ấn: Hai tay kết Kim Cang quyền, tay Trí (tay phải) nắm ngón Phong (ngón trỏ) của tay Định, gia trì 5 chỗ, sau để nơi tâm. Thân ta tức là thân Tỳ Lô Giá Na, trên đầu có mão Ngũ Phật, tức là năm Đảnh Luân vương, đủ nghĩa Năm Trí.

Lại dùng Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Vương Tâm Ấn gia trì năm chỗ.

Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Vương Tâm Chân Ngôn:

“Úm, độ rô hồng, hồng phấn tra”

 

Hai tay xoa nhau bên trong, nắm lại thành quyền, thẳng hai ngón giữa. Chân Ngôn Ấn này thông dụng cho tất cả việc, triệu thỉnh, phụng tống, kết giới, hộ thân.

Lại nói Căn Bản Ấn: Hai tay xoa nhau, bên ngoài chắp tay thành quyền, ngón Phong bên phải (ngón trỏ phải) co như câu, gia trì năm chỗ, tu Tăng Ích thì dùng ngón Phong bên trái (ngón trỏ trái) co như câu, làm Pháp Nhiếp triệu.

Lại trong Kinh nói: Hai tay chắp lại, ngón cái phải đè móng ngón cái trái, tu Tức Tai thì dùng.

Khi làm Pháp Hàng phục, dùng ngón cái trái đè móng ngón cái phải.

Cầm xâu chuỗi trong lòng bàn tay để trên đảnh, để nơi tâm niệm tụng nhất nhất theo Bổn Pháp tương ưng, niệm tụng mau được thành tựu tất cả nguyện, trừ không chí tâm và làm các việc ác, khiến tự hại.

 

Phẩm Thứ Sáu: TU DU GIÀ BỔN TÔN CHÂN NGÔN

Lại nữa, Ta nay lược nói Pháp tu Bổn Tôn Chân Ngôn. Mỗi tháng ngày rằm tự tụng hoặc nhờ tụng mãn một ngàn biến, hay trừ tất cả tai ương, tăng trưởng thọ mạng, Phước Đức; hoặc mỗi ngày ba thời quán Bổn Tôn nơi nguyệt luân, hoặc tưởng tự thân là Bổn Tôn nơi tâm nguyệt luân. Xoay vòng an bố Tôn Thắng Chân Ngôn như Tự Luân hình (chữ chạy theo vòng tròn). Khi trì tụng, tưởng màu sắc đều tương ưng, đều biến thành Mạn Đà La Thánh Chúng, tức tự thân là Tôn Thắng Phật Đảnh Pháp Giới Mạn Đà La.

 

BỔN TÔN TÔN THẮNG PHẬT ĐẢNH CHÂN NGÔN:

 

Nam mô bạc già bà đế

 

Đát-lê lộ ca gia

Bát-la để vĩ thủy sắt-tra gia

Bột đà gia

 

Bạc già bà đê

 

Đát điệt tha

Úm

 

Vi thú đà gia, vi thú đà gia

Sa ma, sa ma, tam mãn đa

 

Phộc bá sa

 

Tát-phả la na, nghiệt để, già ha na

 

Tát phộc bà phộc, vĩ truật đề

 

A tỳ tru giả đổ ma-ám

 

Tô nghiệt đa, phộc la, phộc giả na

 

A mệ-lật đa, tỵ sái kế

 

A ha la, a ha la

 

A dụ, tán đà la ni

 

Du đà gia, du đà gia

 

Già già na, vĩ truật đề

 

Ô sắt-ni sa, vĩ xã gia, vĩ truật đề

 

Sa ha sa-la, la thấp-di , tán chú địa đế

 

Tát bà đát tha nghiệt đa, phộc lô yết nễ

 

Sa tra-ba la mật đa, ba lị bố la ni

 

Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt-lị đà gia

 

Địa sắt-tra na, địa sắt-xỉ đa

 

Ma ha mẫu điệt-lê

 

Phộc chiết-la, ca gia

 

Tăng ha đát na, vi truật đệ

 

Tát bà phộc la noa, bà gia, đột lật-yết để, ba lị truật đề

 

Bát-la để nễ, phộc lị-đa gia

 

A dụ, truật đề

 

Tam ma gia, địa sắt-xỉ đế

Ma nễ, ma nễ, ma ha ma nễ

Đát đạt đa, bộ đa

 

Cú tri, bả lị truật đệ, vi tát-phổ tra, bột địa. Truật đề

Nhạ gia, nhạ gia

 

Vi nhạ gia, vi nhạ gia

Tát-ma la, tát-ma la

 

Tát bà bột đà

 

Địa sắt-xỉ đa, truật đề

 

Phộc chiết-lê, phộc chiết-la nghiệt tỳ

 

Phộc chiết lam, bà phộc đổ, ma ma ( Tự xưng tên mình. Nếu vì người khác thì xưng tên họ của người ấy, nghĩa là tùy tương ứng trong bốn việc mà làm)

Tả

 

Xả lị lam, tát phộc tát đỏa nẫm giả

 

Ca gia, ba lợi tỳ truật đề

 

Tát bà nghiệt để, ba lị truật đề

 

Tát bà đát tha nghiệt đa thất-giả, mê tam ma, thấp-phộc sa, diễm đổ. Tát phộc đát tha nghiệt đa

 

Tam ma, thấp-phộc sa, địa sắt-xỉ đế

Bột điệt gia, bột điệt gia

Vi bộ đà gia, vi bộ đà gia

 

Tam mạn đa, ba lị truật đề

Tát phộc đát tha nghiệt đa, hiệt-lị đà gia

 

Địa sắt-tra na, địa sắt-xỉ đa

 

Ma ha mẫu điệt-lê

 

Sa-phộc ha

(Bổn Đà La Ni này Trung Thiên Trúc THIỆN VÔ ÚY đem qua Trung Quốc, sau lại có Ngài PHẬT ĐÀ BA LỢI lưu truyền, các bản đều thiếu. Đây là bản lưu truyền đầy đủ)

Niệm tụng tùy ý theo hơi thở hoặc tưởng an Bổn tôn nơi tâm nguyệt luân (vành trăng ở trái tim), nơi tự thân từ từ rộng lớn biến khắp Pháp giới. Dùng các chữ Chân Ngôn bố trí xung quanh nguyệt luân, tức phát nguyện rộng rãi hồi hướng cho tất cả Hữu tình, đem các thiện nghiệp ban cho chúng sanh khiến xa lìa các khổ Địa Ngục …v…v… tùy hỷ các việc, nhất y như trên, sau đó tụng Chân Ngôn cầu các Thắng Nguyện đều được đầy đủ. Nguyện Hồi Hướng Chân Ngôn rằng:

“Úm, tát ra phạ cu xá ra, mộ ra ninh, bát ra ninh độ dạ nhị, tát ra phạ cu xá ra, mộ la, tam ma đa, bát ra bán dá, đạt ra mãn đa, sa phạ bà phạ, tất địa dạ, ra nga nẵng đa duệ”

Trì tụng Chân Ngôn xong, lại tưởng tiễn đưa Bôn Tôn, giải Kim Cang Giới. Lại dùng Chơn Ngôn giải Giới:

“Úm, phạt chiết ra, mộ khất sa, mộ”

 

Hai tay xoa nhau thành Kim Cang Quyền, để lên đảnh đây là giải tất cả các kết giới, cũng hay tiễn đưa Bổn Tôn.

Từ đây về sau là các việc họa tượng, Hộ Ma, các Pháp sự.

  • Pháp thứ nhất: Nếu người muốn được sống lâu không bị đọa vào Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc sanh, A Tu La …v…v… và tiêu trừ các tội nghiệp, mỗi thời chí tâm tụng Đà La Ni 21 biến, khởi tâm Từ Bi thương xót hết thảy chúng sanh, tức được tiệu trừ các tội chướng trong các đường ác.
  • Pháp thứ hai: Nếu có các loại La Sát, quỷ thần vào trong nước làm não hại chúng sanh, xưng “Nam mô Phật”, chí tâm tụng Đà La Ni này 108 biến, các tai nạn trên đều được tiêu trừ.
  • Pháp thứ ba: Nếu có người không tin, chế tâm một chỗ, chuyên tâm làm Pháp này, tức được đại nghiệm khiến kẻ kia khởi lòng tin. Nếu làm Pháp có hiệu nghiệm, tức có gió lớn thổi vào thân, trên thân có các ác nạn và đen xấu được gió kia thổi đến, thảy đều tiêu diệt.
  • Pháp thứ tư: Nếu muốn làm Đại Tự Tại, trong 7 ngày đối bốn phương, mỗi phương tụng 108 biến, dùng 7 thứ hoa đắp thành hình người để ở 4 phương, tức được thành tựu các nguyện.
  • Pháp thứ năm: Nếu muốn tiêu trừ các tội chướng nơi thân, tức ở 4 chân cửa thành làm Pháp như trên.
  • Pháp thứ sáu: Nếu người muốn tiêu diệt các tội nặng trong đời trước, ở nơi ngã tư đường tụng chú.
  • Pháp thứ bảy: Nếu người muốn tiêu các tội lỗi của chúng sanh, ở trước tháp Phật làm Pháp trên.
  • Pháp thứ tám: Nếu người muốn cứu các tội khổ chúng sanh nơi Địa Ngục, mỗi ngày kết Phật Đảnh Ấn, tụng 21 biến, hướng bốn phương xả Ấn tức được.
  • Pháp thứ chín: Nếu người muốn cho Ngạ quỷ được uống nước, lấy nước sạch gia trì 21 biến, tán rải bốn phương, trong tâm tưởng các loài Ngạ quỷ đều được uống nước đầy đủ.
  • Pháp thứ mười: Nếu người muốn cứu các tội khổ của loài súc sanh, lấy đất vàng sạch gia trì 21 biến, rải trên thân súc sanh, và rải 4 phương, các tội khổ tức được tiêu trừ.
  • Pháp thứ mười một: Nếu người muốn cứu tội khổ của loài người, Trời, đọa lạc vào các chỗ khủng bố, lấy các thứ hoa đủ màu gia trì 21 biến vào 5 thứ nước nóng thơm, tắm rửa Phật và rải trên đảnh Phật, các nạn tức tiêu trừ.
  • Pháp thứ mười ba: Nếu Sa môn, Bà La Môn, Tỳ xá, Thủ Đà 4 chúng muốn được phước báo đầy đủ, mỗi ngày phàt nguyện, sám hối, tụng chú 7 biến, đem công đức hồi thí cho tất cả chúng sanh, làm Pháp này tức được như nguyện.
  • Pháp thứ mười bốn: Nếu người muốn tiêu trừ nghiệp chướng cho tất cả chúng sanh, dùng lụa 5 màu làm các phất, gia trì chú nơi phất để phất tượng và kinh, thường làm Pháp này khiến tội nghiệp chúng sanh được tiêu trừ.
  • Pháp thứ mười lăm: Nếu bị khẩu thiệt, lấy mật đựng trong đồ sạch, dùng châu sa hòa mật, gia trì 21 biến, đem bôi nơi miệng Phật tượng, khẩu thiệt tức tiêu trừ.
  • Pháp thứ mười sáu: Nếu người bị bệnh nằm liệt giường, hoặc muốn được chúng sanh ái trọng, hoặc muốn cứu các việc Thế gian, Xuất Thế gian, tâm chưa quyết định, bị Quỷ thần làm não loạn sanh ra vọng tưởng điên đảo, dùng trăm tám miếng vàng lá, gia trì Chân Ngôn 21 biến, đem dán nơi đảnh tượng Phật, làm hình châu Ma ni các việc, tức được tiêu trừ, cầu gì đều được.
  • Pháp thứ mười bảy: Nếu ở trong nước bị Quỷ làm bệnh, các bệnh thời khí tất dịch, nơi trên bốn cửa thành dùng vải xanh viết Chân Ngôn, dùng gỗ Bạch Đàn hương làm một cái tráp đựng, dùng sáp gắn lại đem treo 4 cửa thành, dùng lọng năm màu che trên, tất cả Quỷ Thần, tật bệnh đều tiêu trừ.
  • Pháp thứ mười tám: Nếu trong nước năm thứ lúa bị mất mùa, mưa gió không đều, dùng lụa trắng làm cái phướng viết Chân Ngôn trên đó và vẽ Phật Đảnh Ấn treo cao trăm tám thước ở hướng chánh Nam, tức được mưa hòa gió thuận, lúa thóc được mùa, nhân dân an lạc, Rồng ác chuyển tâm, vua A Tu La không làm chướng ngại.
  • Pháp thứ mười chín: Nếu mưa lớn không dứt dùng lụa vẽ Chân Ngôn 21 tấm, treo hướng chánh Nam của đất nước, mưa tức dừng.
  • Pháp thứ hai mươi: Nếu trong nước có giặc giã, dùng vải xanh viết Chân Ngôn 21 bức, ở giữa vẽ Càn Thát Bà Nhi Thiện Trụ, hao tay cầm cung tên, đem treo ở hướng chánh Đông, ác giặc tự nhiên tan rã.
  • Pháp thứ hai mươi mốt: Nếu quốc vương sắp bị các tai nạn, nên dùng các vật tạo trăm tám cái tháp Phật, dùng lá vàng bạc dán và viết Chân Ngôn trong tướng luân (tháp), đem để trong tháp, tức được tiêu trừ các tai họa, tăng các phước đức.
  • Pháp thứ hai mươi hai: Nếu kẻ giàu người nghèo muốn hộ mình, hộ người, cầu tài bảo xứng ý, nên khởi lòng lành, không tán loạn, mỗi ngày mỗi thời trước Phật kết ấn tụng chú 7 biến, nhìn ngắm mặt tượng, mắt không nháy, làm Pháp này tức được phước đức tăng trường, sống lâu không đọa ác đạo.
  • Pháp thứ hai mươi ba: Nếu có người nữ muốn cầu con trai, con gái, trong trăm ngày đem các đồ ăn uống ngon ngọt thí cho kẻ nghèo, kẻ bệnh, lúc cho miệng tụng Chân Ngôn không ngớt, làm Pháp như vậy tức được sanh con trai, con gái phước đức.
  • Pháp thứ hai bốn: Nếu vợ chồng không hòa thuận, lấy vải gia trì Chân Ngôn 21 biến, đem may áo cho vợ chồng mặc, tức được hòa thuận.
  • Pháp thứ hai lăm: Nếu người nữa không có chồng, lấy muối sạch không kể nhiều ít gia trì 21 biến, đem cúng Hiền Tăng, tức được.
  • Pháp thứ hai sáu: Nếu có ngoại đạo, quốc vương, vương tử, đại thần, trăm quan không tin Phật Pháp, lấy sữa ba con bò vàng không tật bệnh, tụng Chân Ngôn gia trì nước 21 biến, cho bò uống. Mặt trời vừa mọc đem sữa đựng trong đồ bằng bạc gia trì 21 biến, đem tán rải nơi đất sạch bốn phương. Người cầm sữa này phải mặc đồ trắng, miệng nói: “Càn Thát Bà Nhi Thiện Trụ và Thiên Đế Thích nay có việc cần phải làm đó”. Sau đó vào thành, quốc vương, vương tử, bá quan, ngoại đạo không tin Phật Pháp, thấy Hành Giả đều vô cùng hoanh hỷ, nói gì đều tin theo, đựơc lòng tin không thay đổi.
  • Pháp thứ hai bảy: Nếu nơi chỗ ở có các ác quỷ thần, ác độc long …v…v… Hành giả muốn hàng phục, dùng sữa bò gia trì 21 biến, đem rải trong ao có rồng, rồng tức hiện lại, Hành giả bảo rằng: “Ngươi không được làm tổn hại chúng sanh trong giới này”, tức an trí rồng ở một chỗ. Nếu không lại và không ngừng việc ác, tức tụng Chân Ngôn gia trì cát 21 biến rải nơi ao, ao tức cạn khô. Hành Giả đem Rồng đi an trí nơi khác. Nếu là Quỷ Thần ác, Hành Giả gia trì đồ ăn uống 21 biến, thí cho họ và bảo rằng: “Nếu các người không làm tổn hại chúng sanh thì được ở, nếu trái lại tức phải đi nơi khác”. Nếu Quỷ Thần không chịu liền dùng cây sắt dài 12 chỉ, gia trì 21 biến, đóng nơi đất, Quỷ Thần ác liền bỏ chạy, Hành Giả an trí Quỷ Thần ở một chỗ, không cho đi đâu.
  • Pháp thứ hai tám: Hành Giả mỗi khi muốn đi đâu, làm một cái phất trắng gia trì trăm tám biến, cầm nơi tay mà đi. Nếu gặp các loài Súc sanh, dùng phất phủi một cái, các loài đó được xa lìa các khổ, ác nghiệp được giải thoát.
  • Pháp thứ hai chín: Nếu muốn cho tiên vong xa lìa khổ được giải thoát, Hành Giả ngồi nơi rừng Thi Đà 7 ngày, ngày ba thời tụng Chân Ngôn nhiều ít. Mãn 7 ngày xong, lấy đất nơi chỗ ngồi mà rải, các vong tức xa lìa các khổ, được giải thoát, sanh lên cõi Trời, vĩnh viễn xa lìa ác đạo.
  • Pháp thứ ba mươi: Nếu có người làm ăn buốn bán ế ẩm, cầu gì không được. Hành giả kết Ấn tụng Chú 21 biến, an trí hình tượng Thiện Trụ nơi bí mật cúng dường, tức được thành tựu việc cầu.
  • Pháp thứ ba mốt: Nếu có người đi vào trong rừng núi muốn phòng hổ lang, sư tử, độc xà thú, trước khi vào ở nơi cửa núi tụng chú 21 biến, gia trì nơi đất vàng 7 biến, ngậm nơi miệng thổi ào trong núi rừng, bảo rằng: “Tất cả các loài, độc dữ trong núi đều tiêu, đất này là của ta, nếu y theo ta thì được ở, nếu không vâng lệnh ta thì mau đi chỗ khác, nếu không đi miệng bị cấm bế mở ra không được”. Hành Giả thấy hổ lang, sư tử, các cầm thú không hả miệng được tức bảo đi. Nếu không đi, Hành Giả thấy chúng mở miệng ra tức hội chúng lại một chỗ, dùng tay phải xoa nơi đầu chúng gia trì 21 biến bảo rằng: “Ta khiến các người được mở miệng, đi ra và giữ gìn vùng đất này, không được làm tổn hại chúng sanh trong giới này”. Hành Giả đuổi chúng xong. Hành giả ở trong núi chừng hai tháng, không được đi nơi đây đó và ở lâu, khiến các cầm thù không được an ổn.
  • Pháp thứ ba hai: Nếu trong núi có các Quỷ Thần, Rồng không muốn cho Hành Giả ở ẩn trong núi, Hành Giả biết vậy tức y theo Pháp phân chia bảo rằng: “Ta muốn ở chỗ này, cần các ngươi đồng ý, nếu như không bằng lòng cho ta cùng ở, các người phải đi ra khỏi ba trăm do tuần. Nếu không chịu nghe theo, ta sẽ cấm các người không biết Đông Tây ở mãi một chỗ”. Liền dùng cây sắt dài 12 chỉ, gia trì trăm tám biến, thì các loại kia liền đi khỏi trăm do tuần an ở.
  • Pháp thứ ba ba: Nếu có các Rồng bị Ngoại Đạo cấm chế, cột trói khiến trong nước không mưa, Hành Giả ở nơi có Rồng, làm một tiểu đàn dùng cây dâu làm tám cái then để giữa đàn, để ba chén sữa, lạc để trên đàn. Gia trì sữa lạc và then trăm tám biến, đem theo đóng bốn phương tám hướng của ao Rồng, dùng bơ lạc rải xuống ao, lại lấy vàng lá gia trì dán lên lá sen trong ao bảo rằng: “Thiện Tri Thức bị ách nạn, Ngoại Đạo cột trói, nay ta làm Pháp này dùng Đà La Ni giúp người được thoát, khiến cho Pháp và Chân Ngôn trôi theo nước”. Hành Giả thổi ba hơi thì Cấm Pháp của Ngoại Đạo tức bị tiêu, Rồng được giải thoát các nạn, hiện lại cúng dường Hành Giả thưa rằng: “Ngài cần bảo việc gì?”. Hành Giả đáp: “Ông nên theo thời tiết làm mưa, đem Đà La Ni an trí nơi đảnh, từ đây về sau ông không còn bị nạn nữa”.
  • Pháp thứ ba bốn: Nếu như có mưa lụt lớn làm tổn hại người, tụng Chân ngôn gia trì trong nước 21 biến, đem đổ nơi nước lụt, tức không hại người.

 

Phẩm Thứ Sáu: TU DU HỌA TƯỢNG

Nay Ta lại nói tu Du Già, Hữu Tướng Vô Tướng mau thành Tất Địa, chỉ có khác trong ngoài thôi. Tướng Pháp bên ngoài là trước cần vẽ tượng, chọn lựa ngày tháng tốt, buổi sáng bắt đầu vẽ, tháng tốt là tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, mười hai, đây là các tháng tốt. Ngày tốt là: ngày nhật nguyệt thực, ngày động đất, ngày Quỷ Tú, đây là những ngày tốt nhất; hoặc ngày rằm, ngày hai ba. Chọn ngày tháng xong, kêu thợ vẽ tắm gội, thọ Tam Muội Da giới, hoặc thọ Pháp Quán Đảnh, mỗi khi ra vào cần tắm rửa thay quần áo, ăn ba món Bạch thực, không ăn các món uế ác, không trả giá cả, dùng vải lụa trắng mà vẽ như trong Pháp họa tượng, y theo đồ tượng, lớn nhỏ tuỳ ý.

Nơi trung tâm vẽ vòng tròn lớn màu trắng, vòng tròn lớn chia ra làm chín vòng nhỏ, một vòng ở giữa, tám vòng tám hướng, tám hướng có tám bình báu, trong miệng bình để các hoa thơm, trên để chày Kim Cang ba chia, bốn góc nơi vòng tròn ở giữa để bốn Bảo luân (bánh xe báu), nơi trên để chày Kim Cang đứng. Cổ bình và chày đều cột các dây lụa để thòng xuống.

Nơi vòng tròn ở giữa vẽ Phật Tỳ Lô Giá Na, đầu đội mão Ngũ Phật, có các hoa báu, ngồi kết già phu trên toà, có bảy sư tử, tay kết Pháp Giới Ấn.

Trong vòng tròn bên trái vẽ Bạch Tán Cái Phật Đảnh Luân Vương, đầu đội mão báu ngũ Phật, tay trái cầm hoa sen, trên hoa để bạch tán cái (cái lọng trắng), tay phải đưa lên, ngồi bán già, quanh thân có hào quang năm màu.

Vòng tròn bên phải vẽ Tối Thắng Phật Đảnh Luân Vương đầu đội mão Ngũ Trí, các món trang nghiêm, quanh thân hào quang đủ màu bao bọc, tay phải cầm hoa sen, trên hoa sen có bánh xe báu tám căm, tay trái dơ lên, ngồi kết già phu trên toà sen.

Chỗ vòng tròn phía trước, vẽ Tôn Thắng Phật Đảnh còn gọi là Trừ Chướng Phật Đảnh Luân Vương ngồi kết già phu trên đài sen, thân màu da thịt (bạch nhục) trắng, hai tay để dưới rún như đang nhập định, tay bưng hoa sen có Kim Cang Câu như luân vương, Ở trên đầu đội mão Ngũ Trí, các món trang nghiêm đều như vậy, thảy đều ngồi trên hoa sen trắng.

Vòng tròn phía sau Đức Tỳ Lô vẽ Phóng Quang Phật Đảnh, còn gọi là

Quang Tụ Phật Đảnh Luân Vương, tay trái cầm hoa sen, trên hoa sen hình Phật Đảnh ấn, trên đảnh phóng quang, đầu đội mão năm trí báu quang minh, trang nghiêm như trên, tay phải dơ bàn tay lên.

Bên trái của Tôn Thắng Phật Đảnh, trong vòng tròn vẽ Tối Thắng Phật Đảnh Luân Vương, tay trái cầm đao, tay phải giơ bàn tay lên, áo mão, trang sức như các vị trên.

Trong vòng tròn bên phải Tôn Thắng Phật Đảnh vẽ Quảng Sanh Phật Đảnh Luân Vương, tay trái cầm chày Kim Cang, tay phải đưa bàn tay lên, áo mão trang sức …v…v… đều như trên.

Vòng tròn bên phải Quang Tụ Phật Đảnh vẽ Vô Biên Thanh Phật Đảnh Vương, tay phải cầm hoa sen, trên hoa có Thương khư (ốc tù và) tay trái đưa bàn tay lên mão, trang nghiêm …v…v… như trên.

Vòng bên trái Quang Tụ Phật Đảnh vẽ Phát Sanh Phật Đảnh Luân Vương, tay trái cầm hoa sen nở, tay phải để nơi gối phải, hào quang áo mão trang nghiêm y trên, các Vị đều có mặt mày từ bi.

Phía dưới, bên trái vẽ Hàng Tam Thế trong nửa vòng tròn, đứng một chân như đang chạy, thân màu xanh có nanh nhe ra nơi miệng, có bốn tay, hai tay kết Tam Muội Da ấn, một tay kết Tâm ấn, một tay cầm chày Kim Cang.

Bên phải trong hình tam giác màu lửa cháy, vẽ Bất Động ngồi bán già trên cục đá, trợn một mắt, một mắt liếc về phía trái, tóc màu đỏ thòng một búi ở bên trái, thân như đồng tử, một tay cầm kiếm, một tay cầm quyển sách.

Ở giữa hai Minh Vương vẽ Hành Giả, trước mặt để lư hương, trên tượng vẽ lọng báu, hai bên vẽ 6 vị Trời Thủ Đà Hội cỡi mây hiện ra nửa thân, bưng hương, hoa, nhất nhất y như trên.

Hoặc như quán tưởng ở ngoài Hành Giả, tưởng thân mình là Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na biến khắp Pháp giới đồng một thể tướng không khác.

Nay Ta lược nói Pháp quán tưởng và hoạ tượng xong.

_Phàm người muốn làm Pháp thọ trì Thần chú Phật Đành Tôn Thắng Đà La Ni, trước cần họa tượng.

Pháp họa tượng: Dùng lụa tốt màu trắng cao một trượng, màu sắc vẽ không được dùng keo da mà dùng các chất keo thơm sách, hoạ sĩ phải thanh tịnh không ăn mặn, ngũ tân (thịt cá, các thứ cay hôi). Ngày mồng một bắt đầu, trong 7 ngày phải vẽ xong. Trước vẽ núi Cam Lộ, trong núi có cây cối, hoa quả, chim thú, sông suối, trong có hang Thiền định, trong hang vẽ Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi kết già phu, bên phải vẽ Thiên Đế Thích và các quyến thuộc vây quanh, bên trái vẽ Càn Thát Bà Nhi Thiện Trụ, dung mạo trang sức như hình Bồ Tát, đầu tóc áo mão các thứ trang nghiêm cũng như vậy. Tay trái cầm quạt, tay phải cầm gậy và vẽ các quyến thuộc Càn Thát Bà vây quanh Thiện Trụ ca hát …v…v… Bên phải Phật vẽ bốn Thiên Vương và quyến thuộc, phía trái Phật vẽ Phạm Thiên Vương và các Ma Vương cùng các quyến thuộc, vẽ xong lập Đàn thọ Pháp.

Pháp làm Đàn: “Trước cần chọn đất sạch không có gạch đá, dùng năm thứ nước thơm hòa đất sạch làm bùn, dùng đất vuông một trượng nơi giữa đàn vuông vức một khuỷu. Ở giữa làm Phật Đảnh màu xanh, nơi bốn mặt Đàn an để đồ ăn uống, chia làm bảy phần. Bốn bên để bốn lư hương, đốt các thứ hương thơm cửa phía Nam dể một bình bằng đồng đựng đầy nước thơm. Phía Đông để tòa Đế Thích. Phía Bắc để tòa Càn Thát Bà Thiện Trụ, phía Tây tòa của Hành Giả, mặt xoay về Đông. Tượng Phật ở hướng Đông, mặt xây về Tây. Lại dùng vải năm màu làm phướng treo. Bốn bên ngoài Đàn, an để năm chén đàn, một chén ở giữa cao, bốn chén để bốn góc dưới như hình cái tháp. Trong Đạo tràng, tán rải các thứ hoa, và các vật cúng dường an trí ngoài Đàn. Ở trong Đàn bảy ngày tụng chú mãn vạn biến, Phật Đảnh phóng hào quang. Chú Sư trong 7 ngày cần phải phát lồ sám hối, khởi lòng Đại Bi, phát nguyện rộng lớn, cầu không thối chuyển. Được như vậy tức biết thành tựu, không còn nghi ngờ.

TÔN THẮNG PHẬT ĐẢNH CHƠN NGÔN DU GIÀ PHÁP

_QUYỂN THƯỢNG (Hết)_

 

Đây là bản Phạn Văn của chùa Linh Vân. So với Bản trước thì có vài sự sai khác nên chúng tôi xin dịch âm để cùng tham khảo

 

NAMO BHAGAVATE TRAILOKYA PRATIVIŚIṢṬAYA BUDDHĀYA

BHAGAVATE

TADYATHĀ: OṂ

VIŚUDDHAYA VIŚUDDHAYA

SAMA SAMA SAMANTA VAHĀSA

SPHARAṆA GATI GAHANA

ABHIṢIṂCA TUMAṂ

SUGATA VARA VACANA

AMṚTA ABHIṢAIKAI MAHĀ- VANTRA-PADAI

AHARA AHARA

ĀYU SANDHĀRAṆI

ŚODDHAYA ŚODDHAYA

GAGANA VIŚUDDHE

UṢṆĪṢA-VIJAYA VIŚUDDHE

SAHASRA RAŚMI SAṂSUDITE

SARVA TATHĀGATĀVARUKAṆI

ṢAṬ-PĀRAMITA PARIPŪRAṆI

SARVA TATHĀGATA-HṚDAYA ADHIṢṬINA ADHIṢṬITA MAHĀ-MUDRA

VAJRA-KĀYA SAṂHĀTANA VIŚUDDHE

SARVA AVARAṆA BHAYA DRARGATI PARIVIŚUDDHE

PRATINI VARTTAYA

AYUḤ ŚUDDHE

SAMĀYA ADHIṢṬITE

MAṆI MAṆI MAHĀ-MAṆI

TATHĀTA-BHŪTA KOṬI PARIŚUDDHE

VISPHOṬA BODHI ŚUDDHE

JAYA JAYA_ VIJAYA VIJAYA

SMARA SMARA

SARVA BUDDHA ADHIṢṬITA ŚUDDHE

VAJRĪ BHAVATU MAMA

ŚARARAṂ SARVA-SATVĀNĀṂCA-KĀYA PARIVIŚUDDHE

SARVA GATI PARIVIŚUDDHE

SARVA TATHĀGATA-ŚCA ME-SAMĀ ŚAVASA YAṂTU

SARVA TATHĀGATA-SAMĀ ŚVASA ADHIṢṬITE

BUDDHYA BUDDHYA _ VIBUDDHYA VIBUDDHYA

BODHAYA BODHAYA _ VIBODHAYA VIBODHAYA

SAMANTA PARA’SUDDHE

SARVA TATHĀGATA-HṚDAYA ADHIṢṬANA ADHIṢṬITA

MAHĀ-MUDRE SVĀHĀ


QUYỂN HẠ

Phẩm Thứ Tám: ĐẠI QUÁN ĐẢNH MẠN ĐÀ LA

Nay Ta lại nói Quán Mạn Đà La và các Thánh Chúng, tịnh cùng không tịnh, cần phát Tâm Bồ Đề, làm tịnh trong ngoài như nhau, không cần chọn lựa ngày giờ. Nếu chọn lựa thanh tịnh nhất nhất phải y theo trong ngoài như đã nói ở trên. ngày, tháng, thời tiết, đất đai sạch sẽ, Phật đường, chùa chiền, chốn Lan Nhã Già Lam, núi rừng, cây cối phải y theo bốn loại Mạn Đà La: vuông, tròn, ba góc, bán nguyệt và các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Mỗi mỗi đều y theo phương hướng mà làm Mạn Đà La.

Nay lược từ trong Kim Cang Đảnh Đại Tỳ Lô Giá Na Kinh và mười quyển giải thích: Tô Bà Hô, Tô Tất Địa, Như Ý Luân, Thất Cu Chi, Ma Hê Thủ La, Bất Không Quyến Sách, các Kinh theo nghi thức làm Đàn chọn Pháp có 3 loại, chỉ có màu sắc là khác như sau

Trước tưởng năm luân (vòng tròn) như đã nói và tịnh Pháp xong. Sau đó, nếu vẽ Mạn Đà La và tượng, kiết giới, phụng thỉnh, cúng dường …v…v… đều dùng Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Vương Tâm Chân Ngôn và Ấn Khế, Nan Thắng Phẫn Nộ Minh Vương Chân Ngôn và Khế. Tịch trừ hộ thân, sau đó bắt đầu làm các Pháp sự, hòa các màu sắc đều dùng hai Chú Ấn trên.

Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Vương Chân Ngôn:

“Úm, độ rô hồng, hồng, phấn tra”

Ấn: Hai tay xoa nhau bên trong, chắp tay lại, thẳng hai ngón giữa đều dựa nhau, gia trì năm chỗ để hộ thân, gia trì các vật dùng, màu sắc, đất quang hiển, thanh tịnh các vật.

Nếu khi Triệu thỉnh, hai ngón giữa đưa qua lại ra vào ba lần, nếu Phụng tống Bổn Tôn hướng ra ngoài bật ba lần, nếu kết Giới Hộ Thân, Tịch Trừ …v…v… dùng Nan Thắng Phẫn Nộ Minh Vương và Thủ Ấn khiến mọi sự đều thành, tất cả chỗ đều dùng.

Nan Thắng Phẫn Nộ Minh Vương Chân ngôn:

“Úm, vi chỉ ra na, độ na độ na, hồng”

Nếu không có hai Minh Vương và Ấn này, làm các Pháp của Phật Đảnh không thành tựu. Cần phải làm các Pháp Chân Ngôn Ấn Khế xong, sau mới thêm hai Ấn Chân Ngôn này. Nếu không như vậy, không được vậy thì không nói Chân Ngôn Ấn Khế này cho.

Dùng tất cả Phật Đảnh Chân Ngôn Ấn, Nan Thắng Phẫn Nộ Vương Chân Ngôn tức tất cả mọi sự nghiệp đều được thành biện. Mọi việc, thỉnh triệu, kết giới, quang hiển, tịch trừ, hộ thân, hộ mình, hộ người, hộ giới Đạo Tràng, phụng tống Chư Tôn đều dùng hai Chân Ngôn Ấn Khế. Công Đức của Ấn Khế Chân Ngôn này chỉ có Phật mới nói hết được. Tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, đều không hiểu hết được, vì sao? Vì tất cả Phật Đảnh, Tâm là tối thượng. Trong tất cả Phật Đảnh, Tôn Thắng Phật Đảnh hay trừ tất cả phiền não nghiệp chướng, nên gọi là Tôn Thắng Phật Đảnh Tâm, còn gọi là Trừ Chướng Phật Đảnh.

Vô Năng Thắng Phẫn Nộ Vương Ấn như Phật Đảnh Tâm Ấn đổi lại, lóng trên ngón giữa phải co dựa vào tiết trên ngón giữa trái, tức thành.

Pháp tắc hoạ Mạn Đà La: Vuông tám khuỷu, mười hai khuỷu, hoặc ba tám khuỷu, nếu vì chúng sanh mà làm thì bảy khuỷu hoặc tám khuỷu cũng được. Nếu làm lớn hoặc quan phủ trong nước tạo một trăm tám khuỷu, ít là ba tám khuỷu.

Tám khuỷu, bốn khuỷu làm chính giữa, trong vòng tròn lớn chia làm năm vòng tròn nhỏ. Bốn góc hình bán nguyệt, mỗi vòng vẽ chín Tôn vị, trong vòng bán nguyệt vẽ Lục Túc Tôn, bốn mặt vòng tròn lớn vẽ tám cái bình bốn bánh xe, mười sáu chày Kim Cang dựng đứng, thảy đều cột các dây lụa, bốn khuỷu chia làm hai viện, lại mỗi viện chia ra làm ba đạo.

Ở viện thứ hai: phía ngoài vẽ ba lối đi trắng, vàng, đỏ y theo Nghi của ba Phật Đảnh và nghĩa của Giới, Định, Huệ. Phía ngoài viện thứ ba vẽ năm lối đi trắng, vàng, đỏ, xanh, đen là nghĩa năm Phật Đảnh, năm Trí.

Trong hai viện, chia ra làm ba lối đi, ở trong viện thứ nhất là chư Thánh Chúng ngồi xây về phía trong. Lối đi thứ hai để bảo bình, lư hương, đèn sáng, Ứ già, các món ăn uống, hoa quả. Lối đi thứ ba là biện sự thị giả, chỗ cho các người lui tới dâng các món cúng dường. Ở viện thứ hai cũng như vậy.

Nơi trung đài vẽ tám vòng tròn lớn, chia ra làm chín vòng, trong mỗi vòng tròn lại chia làm chín vòng, ở trong vẽ chín vị Thánh. Vòng tròn ở giữa vẽ Phật Tỳ Lô Giá Na, bốn mặt vẽ Tôn Thắng Phật và bốn Đảnh Luân Vương. Bốn góc vẽ bốn Ba La Mật Bồ Tát. Ở giữa hình bán nguyệt, bốn góc vẽ bốn Đại Đảnh Luân Vương, bốn cúng dường Ba La Mật, đều y theo Pháp tắc.

Viện thứ hai: hướng Đông, vẽ Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi kết già phu, tướng đang nói Pháp. Ở dưới tòa hai bên, vẽ Đế Thích và Thiện Trụ, hai gối sát đất, chắp tay cung kính nhìn ngắm Như Lai, thưa thỉnh làm sao trừ tai nạn, làm sao được sống lâu, tại sao 7 lần sanh làm súc sanh …v…v… Như vậy thưa thỉnh xong. Khi ấy Thế Tôn từ bi thương xót liền vào Trừ Chướng Tam Ma Địa, từ trên đảnh Như Lai phát ra Nhạ Da Tam Ma Địa, tướng như Luân Vương màu trắng đầu đội mão báu Ngũ Phật, tay cầm Kim Tỏa Câu, nơi ót chiếu hào quang quanh thân tròn như bánh xe. Khi hiện Tam Ma Địa này, 10 phương Thế Giới 6 lần chấn động, 10 phương Thế giới tất cả Địa Ngục, sáu đường chúng sanh đọa nơi ác đạo, thảy đều trừ diệt các nghiệp ác, không còn thọ lại nữa, đều được sanh về cõi Trời và 10 Tịnh độ, do Thiện Trụ Thiên Tử tiêu trừ 7 lần phải sanh vào ác đạo nên gọi là Trừ Chướng Phật Đảnh Luân Vương, tức là thứ nhất trong năm Phật Đảnh Luân Vương, và ba Phật Đảnh tám Đại Luân Vương vậy.

Hai bên trái, phải của Phật, vẽ Bồ Tát Di Lặc tay cầm Pháp Giới Ấn, Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi tay cầm hoa sen xanh. Các Vị đều kết Bổn Ấn, một tay cầm phất và đều hướng về phía Phật.

Lại hai bên phải trái của Phật vẽ Như Lai Hào Tướng, Như Lai Tâm, Như Lai Thiệt Tướng, Như Lai Nhãn, Như Lai Tỵ, Như Lai Nha, Như Lai Nhĩ, Như Lai Thần, Như Lai Yêu, Như Lai Sóc, Như Lai Vô Uý, Như Lai Mã Âm Tàng, Như Lai My, Như Lai Khẩu, Như Lai Vô Năng Thắng Minh Vương, Như Lai Vô Năng Thắng Minh Phi. Bốn góc viện có: Hương Ba La Mật Tam Muội Da, Bảo Ba La Mật Tam Muội Da, Hoa Ba La Mật Tam Muội Da, Đồ Hương Ba La Mật Tam Muội Da, đối nhau ở trong vòng tròn, ngoài ra Như Lai Hào Tướng …v…v… thảy đều cầm Bổn Ấn Khế, các thứ trang nghiêm, ngồi kiết già.

Bốn mặt vẽ 10 phương Chư Phật và Bồ Tát, bốn Đại A La hán, bốn Phật Bích Chi chia ở 4 góc mặt

Ở giữa mặt phía Bắc vẽ Bồ Tát Quán Tự Tại, hai bên vẽ Liên Hoa Bộ nội quyến thuộc, Bồ Tát Đắc Đại Thế …v…v… Bồ Tát Bạch Xứ Tôn Quán Tự Tại, Bồ Tát Thất Cu Chi Quán Tự Tại, Bồ Tát Bất Không Quyến Sách Quán Tự Tại, Bồ Tát Đa La Quán Tự Tại, Bồ Tát Như Ý Luân Quán Tự Tại, Bồ Tát Thương Ly Quán Tự Tại, Bồ Tát Cát Tường Quán Tự Tại, Bồ Tát Thủy Cát Tường Quán Tự Tại, Bồ Tát Mã Đầu Minh Vương Quán Tự Tại, Bồ Tát Liên Hoa Quân Trà Lợi Minh Vương Quán Tự Tại, Bồ Tát Nhất Kế Minh Vương Quán Tự Tại, các vị Thánh giả đều chấp bổn khế và trang nghiêm đầy đủ, ngồi bán già trên tòa sen.

Lại ở giữa mặt phía Nam , vẽ Bồ Tát Chấp Kim Cang Vương Bí Mật Chủ, tay cầm chày Kim Cang, ngồi Kiết Già Phu. Hai bên vẽ Kim Cang Bộ Nội Thánh Chúng, an trí thứ lớp: Bồ Tát Kim Cang Mẫu, Bồ Tát Kim Cang Quyền, Bồ Tát Kim Cang Tỏa, Bồ Tát Kim Cang Nhãn, Bồ Tát Kim cang Phẫn Nộ, Bồ Tát Kim Cang Sách, Bồ Tát Kim Cang Quân trà Lợi, Bồ Tát Kim Cang Tiếu, Bồ Tát Kim Cang Hỏa, Bồ Tát Kim Cang Đạt, Bồ Tát Kim Cang Hỉ, Bồ Tát Kim Cang Bổn, Bồ Tát Kim Cang Tâm, Bồ Tát Kim Cang Tô Bà Hô, Bồ Tát Kim Cang Đồng Tử, Bồ Tát Kim Cang Xích Thân, Bồ Tát Kim Cang Thanh Diện, các vị Kim Cang Bồ Tát đều cầm chày Kim Cang, Luân, quyến sách, gậy, lòi tói, bổn ấn khế ngồi bán già, quanh thân lửa cháy rực rỡ, anh lạc trang nghiêm nơi thân, thảy đều như Pháp hình (hình đã ghi rõ trong nghi quỹ).

Ở cửa phía Tây, hai bên an trí tám Đại Bồ Tát là: Bồ Tát Hư Không Tạng, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Trừ Cái Chướng, Bồ Tát Từ Thị, Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi Đồng tử, Bồ Tát Trì Địa, Bồ Tát Liên Hoa Thủ, Bồ Tát Bí Mật Chủ …v…v… mỗi mỗi đều chấp bổn khế ấn và trang nghiêm nơi thân đầy đủ. Ngoài viện an trí mười phương các thần Hộ Pháp cùng các quyến thuộc, hai bên vẽ bốn trụ giả. Góc Đông Bắc vẽ Y Xá Na tay cầm Đát Lợi Thư Na, hai bên có hai thị giả tay cầm Ấn khế.

Cửa Đông phía Đông Bắc, vẽ Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương, tay cầm đàn Tỳ bà có bốn thị giả.

Cửa Đông phía trên hướng Nam, vẽ Hộ Pháp Đế thích Thiên tay cầm chày Kim cang, có bốn thị giả. Bốn mặt ngoài viện, vẽ bốn Phật Bích Chi, bốn Thanh Văn.

Góc Đông Nam vẽ Hỏa Thiên Thần ngồi trong lửa, tay cầm xâu chuỗi, hai bên vẽ hai thị giả, phía Nam vẽ Diêm La Vương tay cầm Tử Vương ấn, Diêm La Phi và các loài quỷ quyến thuộc.

Hai bên góc Tây Nam, vẽ La Sát Vương tay cầm kiếm, có hai thị giả tay cầm đao, đều ngồi hai bên. Mặt cửa phía Tây hướng Tây Nam, vẽ Thủy Thiên Thần mặc giáp mũ, trên đầu có đầu rắn, tay cầm quyển sách, có bốn thị giả quỳ hai bên chắp tay.

Phương dưới cửa Bắc vẽ Địa Thần, A Tu La Vương tay cầm Bảo Bình, có bốn thị giả.

Cửa Nam mặt phía Tây, vẽ Nhật Thiên Tử và Phi cưỡi xe năm con ngựa, hai tay cầm hoa sen nở ngồi trong vòng tròn. Vẽ bảy sao y theo bổn sắc, tay cầm bổn ấn, vẽ hai bên Nhật Thiên Tử và quyến thuộc.

Mặt phía Đông vẽ Nguyệt Thiên Tử và Phi cưỡi xe năm con ngỗng, tay cầm phướng gió trên có có con thỏ ngồi trong vành trăng, có hai tám sao đều cầm bổn khế, tùy phương hướng, màu sắc, hình Chư Thiên ngồi quanh Nguyệt Thiên Tử.

Mặt Đông và Nam vẽ các Tất Địa chư Tiên, có ba bốn thị giả như trên

Các Thánh chúng y theo Pháp vẽ bổn hình dầy đủ, đây là Mạn Đà La bậc Thượng. Nếu như vẽ Ấn Khế, trên đài sen vẽ phóng ánh sáng rực rỡ, đây là Mạn Đà La bậc Trung. Nếu trên đài sen vẽ các chủng tử Phạm Tự (chữ Phạn) phóng ánh sáng chung quanh, đây là Mạn Đà La bậc Hạ.

Nếu quốc vương muốn trừ tai nạn, ở giữa viện thứ ba vẽ năm non bốn biển vua chúa, quan binh các Thần Kỳ trong nước, như Pháp mà vẽ. Nếu bị nghịch tặc nổi lên, ở viện thứ tư vẽ hình nghịch tặc và các hình trạng biến dị. Ở trong dưới nửa đàn mà trấn. Như vậy vẽ xong kết giới, tịch trừ, triệu thỉnh, dâng các Bảo Bình, lư hương, đèn sách, hoa quả, ứ già …v…v… đều an trí dưới tòa các Thánh vị, tùy theo lớn nhỏ sắp đặt. Nếu lớn một trăm tám khuỷu, Bảo Bình hai lăm cái; nếu tám khuỷu trở lại thì mười lần một cái, hoặc sáu cái, còn các món cúng dường khác tùy thời mà dâng cúng, trong chính vòng tròn ở giữa, hai viện ngoài cộng chung là 16, bốn góc bốn cửa đối nhau.

Nếu làm Mạn Đà La Tăng Ích, Tức Tai thì tròn; nếu Hàng Phục thì làm hình tam giác; nếu Nhiếp Triệu thì làm hình bán nguyệt. Các thứ khác giống nhau.

 

Phẩm Thứ Chín: CHỨNG DU GIÀ TẤT ĐỊA

Lại nữa, như vậy vẽ Mạn Đà La Thượng, Trung, Hạ, y Pháp cúng dường, niệm tụng mãn mười vạn biến, tức được Thượng Tất Địa; nếu một trăm, hai trăm, ba trăm cho đến bốn trăm vạn biến, dầu không tác Pháp, cũng được thành tựu, được thành tựu các việc mong cầu trong Thế Gian, trừ những người tạo tội ngũ nghịch, phản bội ân đức; nếu tụng đủ ngàn vạn biến, tức được Vô Sanh Tất Địa, thân đồng Bổn Tôn; nếu tụng mượi vạn cho đến trăm vạn biến, tức có hiện tướng không được thủ xả, một lòng chuyên chú không nghĩ khác, tự tâm là Phật, Như Thật Trí nơi tâm tức là Bồ Đề, do đó kẻ trì chỉ cầu Vô Thượng Bồ Đề. Có tướng hiện tự biết, không nên sanh tâm phân biệt, sẽ bị đọa vào trong cảnh giới Tỳ Na Dạ Ca; nếu đèn tự nhiên cháy cao lên hai trượng …v…v…, chưa đốt hương, lư hương tự nhêin phát lửa, hoặc phướng không có gió tự nhiên lay động, hoặc mưa các hoa …v…v… răng rụng lại mọc, tóc trắng thành đen, hoặc trước có bệnh tự nhiên khỏi, hoặc phước đức tăng tưởng, hoặc ngu si tự nhiên thông minh, hoặc tự nhiên làm thơ hay văn giỏi, thế xuất thế các việc tùy ý đều thành, hoặc chưa hiểu Chân Ngôn Ấn Khế, các Pháp bí mật tự nhiên hiểu rõ … các việc như vậy đều do tội chướng tiêu trừ, chưa phải tướng thành tựu Chân Ngôn. Hoặc thấy các cõi Phật, hoặc thấy tự thân là cõi Phật đầy khắp Pháp Giới, các việc như vậy không nói hết, là tướng gần thành tựu Chân Ngôn, cần nên cố gắng niệm tụng, tức được thành tựu, như Pháp tụng trì tức được Vô Sanh Tất Địa.

Tất Địa có ba loại: Hạ Tất Địa được trường sanh bất tử, làm chúa trong hàng Địa Tiên, hoặc các việc trong thế gian công diệu, hợp luyện xích bạch (các Pháp luyện đơn) Đa Văn, Trí Huệ, Phước Đức đầy đủ, sống lâu ngàn ngàn năm.

Trung Tất Địa là ẩn hình làm Chuyển Luân Thánh Vương, sống lâu một kiếp.

Thượng Tất Địa là gia trì vào thuốc hiện ra ba tướng, được chứng từ Ngũ Địa đến Bát Địa, thành thân Bồ Tát, chỉ trong khoảng khắc, vô lượng Chư Thiên, Đại Phạm, Thiên Vương Đế Thích, Tỳ Sa Môn thống lãnh vô lượng các Thiên chúng lại nghinh đón, trong một niệm đến mười cõi vi trần các thế giới của Chư Phật, trước mỗi Chư Phật thừa sự cúng dường, tùy loại chúng sanh mà hóa độ, như vậy gọi là Hữu

Tướng Tất Địa. Niệm tụng các thứ thuốc, khí trượng, quang minh, Sa Hùng Hoàng, Ngưu Hoàng, lớn nhỏ, Viễn chí, Long Não Hương, thủy tinh, Trân Châu …v…v… đều có số lượng; các khí trượng là: Phạt Chiết La, chày năm chia, chày một chia, bánh xe, câu, xâu chuỗi, mão báu …v…v… tất cả thảy đều y Pháp mà làm.

Vô Tướng Tất Địa là ba loại Tất Địa. Trên là Hạ Tất Địa, Trung Tất Địa là Vô Tướng Tất Địa. Hoặc thân thành Bổn Tôn, hoặc được Thân Ứng Hoá, cho đến mười Địa thành thân Bồ Tát, là Trung Tất Địa.

Thượng Tất Địa được ba nghiệp thành ba Mật, ba Mật là : ba Thân; ba Thân tức là Trí Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai, nếu được thân Tỳ Lô Giá Na, chứng Pháp Giới Phổ Hiện Sắc Thân, cùng Pháp Giới đồng một Thể Tánh, ngoài tâm ra không có vật gì là sở đắc. Chư Phật là tướng hư không. Hư Không cũng không có tướng; tâm đồng hư không nên người tu Du Già cũng đồng một Thể, trong một niệm vượt qua ba vọng chấp, vượt qua ba a tăng kỳ các Hạnh, vừa phát tâm liền thành Chánh Giác, tức là Thân Tất Địa là Vô Tướng Tất Địa, là Pháp Tất Địa Tối Thượng.

 

Phẩm Thứ Mười: DU GIÀ HỘ MA

Nay ta lại nói Pháp Hộ Ma (Homa). Hộ Ma có nhiều thứ, nay ta lược nói bốn thứ, nhiếp được hết thảy các Pháp Hộ Ma như Tức Tai: lư tròn, Tăng Ích: lư vuông, Nhiếp Triệu: lư bán nguyệt, Hàng Phục: lư tam giác. Như vậy bốn loại Hộ Ma lại có hai thứ: một là Ngoại Hộ Ma, hai là Nội Hộ Ma.

Ngoại Hộ Ma là y theo Nghi Tắc độ lượng đối Mạn Đà La ở ngoài Trừ Địa, bùn đất bốn khuỷu, ở giữa đào sâu một khuỷu, vuông rộng …v…v… cao tám chỉ (8 ngón tay), vành rộng 4 chỉ, phía ngoài để các Duyên (đường viền quanh lò) cũng rộng 4 chỉ, hai khuỷu chia ra hai bên, có 4 mặt an trí Thánh chúng. Bốn phía trải cỏ Tranh, dùng thanh gỗ mới đè lên, dùng bùn sạch làm một bánh xe rộng một cánh tay, cao 1 chỉ, có 8 căm để dưới đáy lò, lấy cây Phong làm củi dài 1 khuỷu. Khi nhúm lửa, không được dùng miệng thổi, cần phải Tịnh Trừ lò lửa theo Pháp mà làm, dùng quạt mà quạt. Đốt lửa xong, rải nước thơm, thỉnh Hỏa Thiên ngồi vào trong lò, ném hoa vào trong lò, dâng hiến nước Ứ Già, lấy muỗng lớn múc bơ mỗi chút bỏ vào trong lửa, làm ba lần; sau đó lấy dầu sữa, lạc mật, mỗi thứ hộ ma ba biến; lại lấy cháo sữa, cơm nếp và cháo ngũ cốc Hộ Ma; lại lấy Trắc Trầm hương, Bạch Đàn hương, Tử Đàn hương, dài một tấc. Nhúng bơ ba lần bỏ vào trong lửa; lại lấy cây lá dài 12 chỉ, chặt hai đầu bằng, bôi bơ, quăng vào trong lửa; lại dùng Dương chi (nhành Dương) y trên, quăng vào lửa; lại lấy Trầm Hương quăng vào.

Lại lấy Trầm Hương, Bạch Đàn, Tử Đàn, Tiễn Hương, các thứ bôi bơ, mật mà đốt; An Tức Hương, Đinh Hương, Huân Lục Hương, Kiên Đát Sa Ra Hương, hòa bơ mà đốt; Cam Tùng, Linh Lăng hòa mật đốt; Như Đàn, An Tức, Sa Dà La, Long Não, Đinh Hương hoà Đậu Khấu, Bạch Giới Tử, Kiên Mộc, Chỉ Hương, trước sau mỗi thứ hộ ma ba lần. Sau đó phụng tống Hỏa Thiên trở về bổn vị.

Lại thỉnh triệu Bổn Tôn, dâng hoa hiến Ứ Già, thỉnh ngồi trong lò, khiến sanh hoan hỷ, liền lấy bơ, các vật …v…v… dùng muỗng lớn hộ ma ba lần, muỗng nhỏ múc hộ ma trăm tám lần hoặc ngàn lần, sau lại hộ ma mật, sữa, lạc, dầu, các thứ hương và ngũ cốc y như ở tên, dâng Ứ Già thỉnh Bổn Tôn về bổn vị.

Mỗi chỗ cúng dường hương và cây đều ba lần, để cháo ngũ cốc tại trong bình, chén, trước sau tại Mạn Đà La các Phật Đảnh Luân Vương và Chư Phật, Bồ Tát ở ngoại viện, cho đến các Hộ Thế Thiên Thần, tất cả đều Hộ Ma cúng dường. Theo các màu sắc, mỗi thứ Hộ Ma ba lần, các cây, bơ phải hộ ma cho hết, các thứ hương hoa cúng dường hòa với cháo ngũ cốc.

Trước hết vì quốc chủ, hoàng hậu, thái tử, vương công, tể tướng, bá quan, chúng sanh trong Pháp Giới, cho đến tự thân, mỗi loại phải ba lần Hộ Ma cúng dường. Sau cuối, ở bên phía lò cúng dường, cơm bánh, trái, tất cả đều gia trì Hộ Ma. Bốn góc Hỏa Đàn để bốn Bảo Bình, lư hương, đĩa trái cây …v…v… thảy đều y theo Đại Đàn Pháp: vuông tròn, ba góc, bán nguyệt lư lửa y như Đại Đàn Pháp mà dùng, nếu hay như vậy làm Pháp đều thành tựu.

Nếu có tướng ác: Khi đang làm Hộ Ma mà tự nhiên lửa tắt, hoặc có khói đen, hoặc có tiếng như lừa kêu là các tướng không thành. Nếu màu lửa cùng Bổn Pháp tương ưng tức là thành tựu. Hoặc có tiếng liên tục, cùng Bổn Pháp không tương ưng là tướng không thành.

Nếu làm Pháp Tức tai lửa màu trắng, làm Pháp Tăng Ích lửa màu vàng, làm Pháp Hàng phục lửa màu đỏ, làm Pháp Nhiếp Triệu lửa màu xanh. Tướng mạo như là cái lọng, bạt chiết la, liên hoa, đạc, ánh lửa phát ra âm thanh vi diệu đều là tướng cùng Bổn Pháp tương ưng, là tướng thành tựu.

Phàm lúc niệm tụng hộ ma tác Pháp, y thời mà làm, mau được Tất Địa như là đầu hôm, canh hai, canh ba làm Tức Tai, nửa đêm làm Nhiếp Triệu, sáng sớm làm Tăng Ích, giữa trưa làm Hàng Phục. Bốn thứ Hộ Ma, mỗi thứ cây, hương, hình lò đều khác nhau. Tô Tất Địa có nói đầy đủ, khi lấy củi làm Pháp, đã có nói trong nghi Hộ Ma.

Thứ hai Nội Hộ Ma: ba chỗ đồng một thể, ba chỗ đồng thể là Đại Mạn Đà La tức Hộ Ma Mạn Đà La. Hộ Ma Mạn Đà La tức tụ nơi thân, nơi thân tức là Hỏa Thiên, Hỏa Thiên tức là Như Lai Tỳ lô Giá Na. Như Lai Tỳ Lô Giá Na, Hỏa Thiên tự thân ba thứ không có hai, không có sai biệt. Đồng một Thể đầy đủ ba Thân. Đại Nhật biến chiếu cả Pháp Giới, không nơi nào không có, không sanh, không diệt, không gì không là Đại Nhật, gọi là Pháp Thân.

Hộ Ma là: phương này gọi là Hỏa Thiên. Lửa hay thiêu cây cỏ …v…v… không gì còn sót, Hỏa Thiên tức là Trí, Trí Hỏa hay thiêu đốt tất cả vô minh, không còn dư sót. Đại Nhật tức là Pháp Thân, Hỏa Thiên Trí Hỏa tức là Ứng Thân. Tự thân hay trụ phương tiện tức là Hóa Thân. Do đó, Kinh nói rằng: phương tiện là cứu cánh hay làm các việc Phật, cho nên tự thân là Hóa Thân. Ba thứ đều đồng một Thể Tánh, nhập vào Năm Trí Luân, trên đảnh quán Pháp Giới Chúng Sanh trí, Hỏa Thiên trừ tất cả nghiệp chướng hay mãn tất cả nguyện. Bốn loại Hộ Ma tùy bổn mà làm Pháp, nếu Tức Tai y theo Ngoại Hộ Ma hay chuyển tất cả chướng, sanh tất cả Phước đức, nhất nhất y theo Kinh Tỳ Lô Giá Na nói mười hai loại Hỏa Pháp, trước sau mà dùng.

 

Phẩm Thứ Mười Một: DU GIÀ CẦU VŨ PHÁP

Ta nay lại nói Pháp cầu mưa, do vì lợi quần sanh vậy. Thời tiết nóng nảy không có mưa, cây lúa không sanh, mọi vật hoang tàn, trong nước không an, hạn hán kéo dài, các loài chết khát. Hành Giả thấy chúng sanh bị thọ các khổ như vậy, khởi lòng Từ Bi tức tạo Mạn Đà La cầu mưa.

Mạn Đà La lớn nhỏ tùy theo mà tạo, đài cao một thước (1/3 m), dùng bùn sạch hòa phân bò xoa tô đất, thêm ở ngoài Đàn bốn năm thước dùng bùn đất sạch tô đắp, dùng các bột hương hòa nước mà đồ (đắp) dưới và phía ngoài ba thước. Mạn Đà La cao một thước, bốn cửa để bốn dường, ngoài đài một hai khuỷu họa vẽ tám Đại Long Vương, Phi và các quyến thuộc:

Đông phương, ba đầu, thân dài ba khuỷu

Nam phương, năm đầu, thân dài năm khuỷu

Tây phương, bảy đầu, thân dài bảy khuỷu

Bắc phương, tám đầu, thân dài tám khuỷu

Trung ương, chín đầu, thân dài chín khuỷu

Phi cũng y như trên; các tùy tùng một đầu, hai đầu, ba đầu, bốn đầu, sáu, bảy, tám đầu.

Đàn cầu mưa lớn nhỏ khác nhau, nếu cầu cho cả nước thì vuông ba tám khuỷu, nếu tỉnh, quận thì vuông 15 khuỷu, nếu thành ấp, làm xã thì vuông tám khuỷu.

Nếu không có Chủ thỉnh, tự mình làm thì vì Pháp Giới Chúng Sanh mà làm. Hoặc tại núi rừng nơi Lan Nhã, hoặc tại chùa, tịnh xá, Già Lam, tụ lạc, thành ấp niệm tụng. Rộng bốn khuỷu hoặc hai khuỷu, tùy ý lớn nhỏ. Mạn Đà La chia làm ba viện, ở giữa vòng lớn chia làm năm vòng, trong mỗi vòng lại chia ra năm vòng.

Ở giữa vẽ Phật Đảnh Tôn Thắng Luân Vương ngồi tòa, Kim Xí Điểu Vương giương cánh giận giữ như đang muốn bắt Rồng để ăn óc, đứng một chân, các Rồng đều chắp tay cúi đầu. Bổn Tôn cầm Kim cang Câu, giận dữ nhìn về phía trước.

Bốn vòng kia, các vòng ở trung tâm đều vẽ Bạch Tán Cái Phật Đảnh

Còn bốn vòng nọ vẽ bốn Ba La Mật Bồ Tát, đều ngồi tòa Kim Xí Điểu, hình trạng như ở trung viện, dơ chân thế như bắt Rồng. Dùng bốn Ấn đè nơi đuôi các rồng.

Ngoại viện bốn góc vẽ bốn cúng dường

Mặt Đông vẽ Phật và hai Bồ Tát, hai bên vẽ Vô Năng Thắng Vương, Nan Thắng Phẫn Nộ Vương.

Mặt Bắc nơi trung tâm, vẽ Bồ Tát Quán Tự Tại, hai bên Bộ Mẫu Tôn, Bộ Tâm Tôn Minh Vương, Tôn Bà Phạ Ha Na Yết Lợi Bà Trì Minh Vương.

Mặt phía Nam vẽ Bồ Tát Bí Mật Chủ Chấp Kim Cang Vương, hai bên vẽ Bộ Mẫu Tôn, Bộ Tâm Tôn, Quân Trà Lợi, Bồ Tát Kim Cang, Phẫn Nộ Đại Minh Vương …v…v…

Cửa Tây Nam Bắc, vẽ Hàng Tam Thế, Bất Động Minh Vương

Ngoại viện vẽ bốn phương, mười phương các Thần Hộ Giới Đàn và quyến thuộc, bộn vị thị giả.

Cửa Nam Đông Tây, vẽ Nhật Thiên Tử, Nguyệt Thiên Tử và Phi, bốn mặt trên không vẽ bảy sao, hai tám sao, các vị đều cầm bổn ấn.

Bốn mặt nhân xứ vẽ các Tất Địa Tiên, mỗi mỗi đều có Thị Giả, cùng các Đại Bồ Tát và các Thị Giả, y theo thứ lớp mà an để.

Đàn ba tám khuỷu là làm cho cả nước, mười lăm khuỷu, tám khuỷu y như trên họa vẽ, trong nước năm non bảy núi có các Rồng đều vẽ ngoài Mạn Đà La.

Tạo Mạn Đà La xong trong ngoài các viện, dâng các món ăn uống cơm canh, như Đại Đàn cúng dường, ẩm thực, hương hoa như nhau.

Nếu Đàn bốn khuỷu hoặc hai khuỷu, không cần như Pháp họa tượng, chỉ vẽ Ấn Khế, hoặc vẽ Chủng Tự hoặc viết tên.

Bên ngoài Mạn Đà La ấy, nơi trong sạch bẳng phẳng khoảng 2 thước dùng lá Khổ Luyện giã nhỏ hòa nước màu xanh. Bốn mặt vẽ các Đại Long Vương cùng quyến thuộc Thị Giả, cùng các Phi ba đầu, năm đầu, bảy, tám, chín đầu …v…v… y theo bổn phương mà vẽ nơi bốn cửa trong các giới đạo hiện ra nửa thân. Long Vương ở trung ương và Phi cùng quyến thộc hướng Chư Tôn cung kính cúng dường, hàng phục, mưa xuống đầy đủ.

Nếu Đàn ba mươi tám khuỷu, mười lăm khuỷu trở lên để Bảo Bình hai lăm cái; tám khuỷu trở xuống để năm cái bình cũng được; mỗi ngày dùng nước sạch hòa ngũ cốc, ngũ bảo, bỏ trong bình, nơi miệng bình để cành lá trúc, lấy lụa xanh dài bảy, tám thước cột nơi cổ bình, trên đàn treo tán cái màu xanh, bốn mặt treo phan màu xanh, bốn bảy cái. Chánh Đông treo phan xanh bốn chín thước, các vật cúng dường hương hoa, ăn uống y như Đại Đàn. Bốn mặt phía ngoài, cách Đàn ba năm khuỷu, làm một lò Hộ Ma, đủ bốn loại. Trong lò, bốn phương vẽ chủng tử tự, chữ “A” (狣) hình vuông, màu vàng. Ở hướng Đông, chữ HA (成) màu xanh, hình bán nguyệt. Ở hướng Tây, chữ VAṂ (圳) màu trắng, hình tròn. Ở hướng Bắc, chữ LAṂ (劣_RAṂ) màu đỏ, hình tam giác. Ở hướng Nam, đáy lò vẽ các ấn khế, hướng Đông vẽ Bánh xe (luân), hướng Bắc vẽ hoa sen, hướng Nam vẽ chày Kim Cang, hướng tây vẽ móc câu, y theo các phương mà vẽ.

Triệu thỉnh Hỏa Thiên, Bổn Tôn và các Minh Vương, y như Pháp Hộ Ma không khác, chỉ có ngày đầu là Tiêu Tai, ngày thứ hai Tăng Ích, ngày thứ ba Nhiếp Triệu, ngày thứ tư và năm Hàng Phục, thứ sáu và bảy Cực Phẫn Nộ Hàng Phục. Nếu trong ngày có mưa, tức ngưng tác Pháp, phải cần Hộ Ma Tức Tai, Tăng Ích vì các Rồng vậy. Khi hàng phục, dùng cây gừng hai đầu nhọn dùng để chạm vào lửa, đem cây Khổ Luyện, Gai và Hắc Giới Tử Du bôi hai đầu hộ ma, hoặc đem sáp hòa Hắc Giới Tử, thuốc Độc làm hình rồng tác Hộ ma. Khi được mưa rồi, cầu xin hoan hỷ.

Lại Pháp nơi lụa trắng, vẽ chữ Phạn Chú Tôn Thắng Đà La Ni, bốn phía vẽ các Ấn Khế gia trì niệm tụng đem quăng xuống ao có Rồng, tức được mưa. Nếu trong nước mưa gió không đều, Âm Dương không thuận, hạn hán lâu ngày, cỏ cây không mọc, lúa thóc không lên …v…v… hoặc có nghịch tặc sát hại vô số chúng sanh. Thấy việc như thế, Hành Giả cần phát tâm Đại Từ, Đại Bi làm Pháp Hàng Phục. Do lòng Từ Bi, kẻ kia được sanh Thiên, không có các tội trước. Cần vì nước trừ các chướng, tụng Phật Đảnh Tôn Thắng Chân Ngôn một ngàn biến, sau đó nhất nhất y Pháp làm Pháp Hộ Ma Hàng Phục tức được như ý.

Lại Pháp mỗi ngày bốn thời Hộ Ma niệm tụng gia trì Bạch Giới Tử ném nơi tim Long Vương một ngàn tám biến, tức được tùy ý.

Hoặc tưởng thân mình là thân Trừ Cái Chướng phật Đảnh cỡi Kim Xí Điểu Vương hung dữ bay đi muốn bắt Rồng mà ăn, dùng Kim Cang Câu, móc Rồng tức được mưa.

Hoặc mỗi ngày tụng vào Bạch Giới Tử ném Rồng hoặc hòa Bạch Giới Tử, An Tức Hương, dầu Xích Giới Tử, Hộ Ma ngàn biến hoặc trăm tám biến hoặc ở trong Đàn, nơi các Minh Vương hộ ma thảy đều hàng phục như Pháp mà làm, tức mưa xuống, tai nạn đều tiêu, tức cần Quán Đảnh, các Long Vương rộng bày cúng dường, khiến sanh hoan hỷ, tăng thêm các món cúng dường. Các thứ ăn uống đem để trên lá sen đem bỏ xuống sông suối, hoặc trong ao Rồng, các lụa dây ở năm phương, đem chôn dưới đất, các thứ cúng Phật, Bồ Tát y theo Pháp xử trí. Khi làm Pháp mặc áo màu xanh. Trong Đàn Hộ Ma để năm bình các món ăn uống, y Đại Đàn Pháp không khác; nếu không đúng như vậy, làm Pháp không thành. Sau này có làm nữa, cần như trước đúng Pháp mà làm, mau được thành tựu.

 

Phẩm Thứ Mười Hai: NHẬP THÀNH TỰU CẢNH GIỚI

Nay ta lại nói Hành Giả muốn thành tựu tướng của Chân Ngôn. Nêu nói cho đầy đủ hết kiếp cũng không nói đặng, chỉ có Phật mới hay nói được thôi. Nếu Hành Giả tụng trăm ngàn vạn biến tức được thành tựu. Nếu khi sắp thành tựu, trước có bảy Cảnh Giới cát tường, phải biết Hành Giả mau được Tất Địa.

Thứ nhất: Mộng thấy vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Phật Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Đại Như Ý quảng Đại Tôn Thắng Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da, ta được tất cả Như Lai thọ ký hoán đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Ma Địa. Ta và Như Lai một lúc cùng phát thệ rằng: “Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Ông được được vào trong mười phương cõi Phật. Lui tới tự tại, trong mỗi cõi có chín mươi chín hằng sau cu chi na dữu đa trăm ngàn tất cả Như Lai nhớ nghĩ gia bị”. Được Cảnh Giới này, nên gia công tinh tấn, không nên thủ xả.

Thứ hai: Mộng thấy vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Chư Phật, Đại Liên Hoa Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Ma Ni Bảo Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da cung điện. Ta cùng Như Lai thọ Đại Liên Hoa Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Ma Ni Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm. Hiện tiền ta và Như Lai cùng nói lời rằng: “Lành thay! Thiện Nam Tử! Ông được Đại Liên Hoa Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm, được Chư Như Lai nhiếp thọ gia bị Đại Ma Ni Ấn Tam Muội Da”.

Thứ ba: Mộng thấy vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Chư Phật, Đại Kim

Cang Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại ma Ni Bảo Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da. Ta và Chư Như Lai thọ Kim Cang Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại ma Ni Bảo Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm và ta thọ tất cả Như Lai Kim Cang Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đà La Ni Tam Muội Da phẩm. Tất cả Kim Cang đồng khen rằng: “Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Ông được các Như Lai Kim Cang Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại ma Ni Bảo Đại Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm, được Chư Kim Cang nhiếp thọ gia bị Đại Ma Ni Bảo Kim Cang Ấn Tam Muội Da”.

Thứ tư: Mộng thấy vào mười phương quốc độ tất cả Như Lai Đại Ma Ni Bảo Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm, thấy ta và các Như Lai thọ Đại Ma Ni Bảo Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Bí Mật Thành Tựu Tam Muội Da, được các Như Lai khen rằng: “Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Ông nay được tất cả Như Lai Đại Ma Ni Bảo Chủng Tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Quán Đảnh Mạn Đà La Ấn Bí Mật Tâm Phẩm hiện tiền gia bị, Pháp Quán đảnh này là tất cả Như Lai Đại Như Ý Bảo Chủng Tộc Bí Mật Tâm Chân Ngôn Tam Muội Da Phẩm”.

Thứ năm: Mộng thấy vào mười phương quốc độ tất cả Như Lai Bất Thối Chuyển Tôn Thắng Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da, được các Như Lại thọ Bất Thối Chuyển Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm, được chư Như Lai đều khen rằng: “Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Ông nay được mười phương quốc độ ba đời Chư Phật, tất cả Như Lai Bất Thối Chuyển Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da phẩm”.

Thứ sáu: Mộng thấy ta với mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai ngồi cội Bồ Đề, nơi tòa Kim Cang thành Đẳng Chánh Giác, làm Đại Pháp Vương Quán Đảnh Địa Pháp. Thấy khắp mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai ngồi tòa sư tử thọ tất cả Như Lai Bất Thối Pháp Vương Quán Đảnh Đại Pháp. Chư Như Lai đều khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Ngươi thật bền chắc, nay được tất cả Như Lai Bất Thối Như Lai quán đảnh hộ niệm lâu dài không bỏ”.

Thứ bảy: Mộng thấy Như Lai Thích Ca Mâu Ni nơi cội Bồ Đề, ngồi tòa Kim Cang, phóng Đại quang minh, chuyển Đại Pháp luân, đốt Đại Pháp cự, tuôn mưa Đại Pháp võ, dựng Đại Pháp tràng, thổi Đại Pháp loa, đánh Đại Pháp nhạc, phá Đại Ma quân và thấy mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai ngồi cội Bồ Đề nơi tòa Kim Cang chuyển Đại Pháp Luân, dẹp Đại Ma quân, Tối Thắng Đại Bí Mật Mạn Đà La Ấn

Tam Muội Da phẩm. Thời Chư Như Lai đều khen rằng: “Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Ông được Chân Ngôn Bảo Kiên Cố Giải Thoát Chuyển Pháp Luân Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn Đà La Ấn tam Muội Da”.

Như vậy y Pháp cần phải cố gắng quán tưởng thọ trì đọc tụng không có gián đoạn, tức được bảy loại mộng tốt. Chứng Nhất Thiết Như Lai Ngũ Đảnh Luân Vương Chân Ngôn Thần Biến Pháp, nhập vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Phật Đảnh Luân Vương Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai Đại Mạn Đà La Ấn Tam Muội Da hội. Nhập tất cả Tam Muội Da xứ. Được thấy mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai Tôn Thắng Phật Đảnh Luân Vương Như Lai Đại Tỳ Lô Giá Na, bốn Ba La Mật …v…v…

Đông phương Như Lai A Súc, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ …v…v… Nam phương Như Lai Bảo Sanh, Hư Không Bảo …v…v… Tây phương Như Lai Vô Lượng Thọ, Liên Hoa Nhãn …v…v… Bắc phương Như Lai Bất Không Tất Địa, Tỳ Thủ Yết Ma …v…v… bốn Trí, bốn Tam Muội Da …v…v… vô lượng Thánh Chúng sắc thân vi diệu cung kính cúng dường, gìn giữ mười phương quốc độ ba đời tất cả Tôn Thắng Phật Đảnh Tỳ Lô Giá Na Như Lai, tất cả danh hiệu được mười phương quốc độ ba đời, tất cả Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai thọ cho Trừ Chướng Phật Đảnh Ấn Đà La Ni Tam Muội Da Thần Thông Pháp Phẩm trên hết. Nếu trong quá khứ đã tạo mười ác, năm nghịch, bốn trọng, các tội nặng nề thảy đều trừ sạch.

Nếu có chúng sanh ở nơi các đọa xứ được nghe Đại Quán Đảnh Quang Vương Tôn Thắng phật Đảnh Luân Vương Chân Ngôn qua tai một, hai, ba, bảy lần, tức được tiêu trừ tất cả tội chướng.

Nếu Hành giả Du già thương xót sáu nẻo Hữu tình ở nơi đảnh núi cao lễ mười phương, mỗi phương tụng Tôn Thắng Chân Ngôn một biến, mắt nhìn các loại chúng sanh đều được xa lìa tất cả tội khổ. Đời sau được sanh vào cõi Bất Động Phật

Hoặc viết trên phướng, treo trên đảnh núi cao, trên đầu ngọn cây, phướng bay hướng nào tất cả chúng sanh hướng ấy có các tội mười ác, năm nghịch, bốn trọng, thảy đều tiêu diệt.

Hoặc viết chữ Phạn, an trí trên phướng cũng được như trên đã nói. Bảy loại mộng tốt tương ưng, nên biết Hành giả Du già mau chứng Phổ Hiện Sắc Thân Đại Tam Ma Địa, nhập vào Vô Sanh Bình Đẳng Ngũ Trí, thành tựu Thân Như Lai Đại Tỳ lô Giá Na.

 

TÔN THẮNG PHẬT ĐẢNH CHÂN NGÔN DU GIÀ NGHI QUỸ

_QUYỂN HẠ (Hết)_

Hiệu chỉnh xong một Bộ gồm hai quyển vào ngày 15/05/2014