thương na hoà tu

Phật Quang Đại Từ Điển

(商那和修) Phạm:Zàịa-vàsin. Pàli:Sàịa-vasì. Cũng gọi Xà na bà số, Xá na ba tư, Xá na hòa tu, Xá na bà tư, Du thế kì, Xa nặc ca (Phạm:Zàịaka), Thương nặc ca phụ sa (Phạm:Zàịaka-vàsa). Hán dịch: Thai y, Tự nhiên y, Ma y. Đệ tử ngài Anan,Tổ thứ 3 được phó pháp tạng. Cứ theo Cảnh đức truyền đăng lục quyển 1 và Phó pháp tạng nhân duyên truyện quyển 2, ngài Thương na hòa tu là người nước Ma đột la, họ Tì xá đa, ở trong thai mẹ đến 6 năm mới sinh ra. Sư được ngài A nan truyền cho 84.000 pháp tạng, đều nhớ giữ hết; sư đi du hóa các nơi, đến núi Mạn đà ở nước Ma đột la hóa độ 2 con rồng, rồi xây cất trụ xứ tăng ở chỗ này. Sau đó, sư đến nước Kế tân hiện 500 tam muội như định Phấn tấn… hóa độ ngài Ưu ba cúc đa và đệ tử, rồi bay lên hư không hiện Thập bát biến mà nhập Niết bàn.Do nguyện lực đời trước, trong thời gian từ khi còn ở trong thai mẹ đến khi vào Niết bàn, ngài Thương na hòa tu thường mặc áo thương na(áo thai, áo tự nhiên), không hề cởi ra, do đó mà đặt tên là Thương na hòa tu. Đó là căn cứ vào tiếng Phạm Zàịa, Hán âm là Thương na, Xa na, Thiết nhã ca, Xa nặc ca, Hán dịch là Đại ma (vải gai thô to);Vàsin, Hán âm là Hòa tu, Hán dịch là Y(áo). Theo Đại sử (Pàli:Mahàvaôsa, IV) thì ngài Thương na hòa tu vốn có tên là Tam phù đà (Pàli:Sambhùta), Tam bồ già, Tham phục đa, dịch ý là đã sinh ra. Sư cùng với ngài Ưu bà đa đến thành Tì xá li ngăn cản việc đề xướng và áp dụng 10 điều phi pháp (Thập sự phi pháp) của các tỉ khưu Bạt Kì (Pàli: Vajji). [X. phẩm Ưu ba cúc đa trong kinh Hiền ngu Q.13; kinh Xálợiphất vấn; kinh Đạt ma đa la thiền Q. thượng; luật Ngũ phần Q.30; Đại đường tây vực kí Q.7]. (xt. Thập Sự Phi Pháp).