Thư trả lời cư sĩ Quách Hán Nho

Tam tôn Phật: đức Thích Ca kết Thí Vô Úy Ấn, [tức là] bàn tay phải ngửa lên đặt trong lòng, tay trái úp xuống đặt trên gối trái. Dược Sư Phật và Di Đà Phật tay kết ấn tương tự nhau, nhưng Dược Sư Phật kết Đại Tam Muội Ấn, [tức là] bàn tay phải đặt trên bàn tay trái; còn Di Đà Phật kết Di Đà Ấn, bàn tay trái đặt trên bàn tay phải.

Tượng Phật [vẽ trên vải hay giấy] bị nhăn rút (xếp nếp) thì nên dùng bàn ủi [để ủi cho thẳng lại], phía dưới [bàn ủi] lót khăn trải bàn, còn tượng Phật thì đặt trên bàn [dưới tấm khăn trải bàn]. Một người dùng hai tay căng cho tượng thẳng thớm, người kia cầm bàn ủi để ủi. Vàn muôn phần chớ nên dùng khăn trải giường để lót! [Nếu không dùng khăn trải bàn thì] dùng những tờ giấy dài, trải mấy lớp cũng được. Hãy đốt bàn ủi bằng than sạch bỏ thêm hương. Nên chùi mặt bàn ủi cho sạch sẽ, đừng để bàn ủi quá nóng. Nóng quá sẽ làm tượng Phật bị hư hại, chỉ ủi cho thẳng mà thôi!

Hiện thời, các nước Tây Dương đang đánh nhau dữ dội, nếu chẳng mau kết thúc, chắc sẽ lan sang nước ta. Các nước trong ngoài mạnh – yếu khác nhau, nhưng đều bị tổn hại giống hệt như nhau; chứ chẳng phải là nước thua trận bị thiệt hại, còn nước thắng được lợi. Xét theo sự thực để luận thì người bị kẻ khác giết cố nhiên đáng thương, nhưng kẻ chuyên giết người càng đáng thương hơn! Đối với kẻ chỉ biết chuyện trước mắt thì kẻ thắng dường như được lợi, chứ nếu nhìn vào đời kế tiếp hay đời sau nữa thì kẻ giết người càng khổ sâu xa hơn người bị hắn giết gấp vạn lần! Tiếc rằng người đời đều chẳng biết [như vậy]!

Thanh Lương Sơn Chí có chép: Vào đời Tùy, ở Đại Châu, Triệu Lương Tướng giàu nứt đố đổ vách, sanh được hai đứa con, trưởng là Doanh, thứ là Mạnh. Doanh mạnh mẽ, còn Mạnh yếu đuối. Ông bố sắp chết, chia gia sản làm hai phần, Mạnh được phần hơn. Cha chết rồi, Doanh cướp sạch gia nghiệp của Mạnh, chỉ để lại cho Mạnh mảnh vườn và căn nhà. Mạnh phải làm thuê để kiếm sống. Không lâu sau Doanh chết đi, đầu thai làm con của Mạnh, có tên là Hoàn. Lại chẳng bao lâu sau, Mạnh chết, đầu thai vào nhà Doanh làm cháu nội của Doanh, tên là Tiên. Hoàn làm đầy tớ trong nhà Doanh. Tiên muốn triều bái Ngũ Đài, sai Hoàn theo hầu. Hoàn biết bác mình cướp sạch tài sản, tính muốn giết Tiên, nay may mắn được dịp thuận tiện; đến chỗ vắng vẻ ở Ngũ Đài, rút con dao đã ngầm giấu, bảo Tiên: “Ông nội mày cướp gia nghiệp của tao khiến cho đời tao khốn cùng. Nay tao giết mày để vơi hận!” Tiên chạy lẹ, Hoàn đuổi theo, chạy vào một am tranh. Một vị lão tăng ngăn lại bảo: “Không được hành hung ở chỗ này!” Hoàn nói: “Tôi giết kẻ oán mà thôi!” Vị lão tăng mời ngồi, đưa cho mỗi người một chén trà để uống, [uống xong] liền biết chuyện đời trước, đều cùng khóc òa lên, bèn xuất gia trong núi ấy. Nếu các nước đều thấy chuyện đời trước, đời sau, há vẫn cứ chuyên coi giết người là chánh sách trọng yếu để làm cho đất nước hùng mạnh nữa ư?

Xét theo ý nghĩa thì nên xây dựng sơn môn (cửa chùa) theo lối Tam Quan, [hàm nghĩa] Tam Giải Thoát Môn, một cửa mà đủ ba nghĩa:

1) Không Giải Thoát môn.

2) Vô Tướng Giải Thoát môn.

3) Vô Nguyện Giải Thoát môn.

Do ba môn giải thoát mà vào thẳng được điện báu Niết Bàn. Do Không nên Vô Tướng. Do Vô Tướng nên Vô Nguyện. Hiểu rõ bản thể của hết thảy các pháp chính là Không thì Không và Có đều chẳng thể gọi tên được, cho nên là Vô Tướng. Hễ Vô Tướng thì chẳng có tâm nguyện chấp Không lẫn chấp Có.

Đề xướng Phật học, hãy nên lấy “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành” làm gốc. Được như thế thì đối với pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều chẳng trái nghịch. Nếu không, còn là tội nhân nơi Danh Giáo, làm sao kham học Phật để mong liễu sanh thoát tử ư? “Đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành” chính là giới đại lược trong Giới Kinh nhà Phật; Văn Xương Âm Chất Văn trích dẫn hai câu này. [Người đời] chỉ biết Âm Chất Văn có lời ấy, chẳng biết xuất xứ của nó sâu xa đến thế.

Học Phật trong đời Mạt thì phải nên chú trọng nơi biết nhân quả và tu Tịnh Độ. Bởi lẽ, biết nhân quả thì chẳng dám dối mình, lừa người, làm chuyện thương thiên hại lý, tổn người lợi mình. Tu Tịnh Độ thì dẫu là phàm phu đầy dẫy triền phược vẫn có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Trong các pháp môn khác đều phải đoạn sạch phiền não rồi mới có thể liễu sanh thoát tử. Nếu không, dẫu cho đại triệt đại ngộ, có đại trí huệ, đại biện tài, biết được quá khứ, vị lai, muốn đi liền đi, muốn tới liền tới vẫn chẳng thể liễu được; huống là kẻ đầy dẫy phiền não ư?

Hôm qua nhận được thư của hội Phật giáo ở quý địa gởi đến bằng đường hàng không, biết đất Cam (Cam Túc) bị hạn hán chẳng khác gì Thiểm Tây, khôn ngăn cảm thương! Quý hội [cầu đảo] đã tròn hai mươi mốt ngày vẫn chưa đổ mưa. Ngụy Huệ Tư do thấy tăng chúng núi Linh Nham đều là hạng chân thật tu hành [liền gởi thư xin mở Phật thất cầu mưa] nhưng tình trạng tai nạn quá dữ dội chỉ đành tận tâm tận lực mà làm thôi, chứ được mưa trọn khắp hay không thì chẳng thể nào lo toan trái nghịch được! Thư của Huệ Tư gởi tới bằng đường hàng không cũng nhận được vào buổi chiều, tôi liền gởi thư cho Linh Nham. Trong hôm Mười Sáu thỉnh hai mươi vị Tăng niệm thánh hiệu Quán Âm suốt bảy ngày, để cầu các nơi bị hạn đều được mưa trút xuống. Theo lệ, để mời hai mươi vị thì phải tốn hai trăm đồng, Quang đã thay mặt quý hội bỏ tiền ra, chẳng cần phải gởi khoản tiền ấy đến nữa!

Quý hội hãy nên thông cáo khắp nhân dân trong vùng cùng niệm thánh hiệu “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát”, chứ không cần phải làm nhiều nghi thức [rườm rà], chỉ đem công đức niệm Bồ Tát để hồi hướng cho các vị linh hiển, thần thông trong chốn núi non được tăng trưởng oai phước, hồi hướng cho các cô hồn đều được vãng sanh Tây Phương, so ra sẽ hữu ích hơn! Ngay như tế lễ thần thánh cũng đừng dùng đồ huyết nhục. Chuyện gì cũng lấy thành kính làm gốc, chứ không phải là do nghi thức [trịnh trọng] cho đẹp mắt!