Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy
(thư thứ nhất)
Lúc vọng tưởng dấy lên chỉ mặc kệ nó thì sẽ chẳng đến nỗi “trên vọng lại sanh thêm vọng”. Ví như đứa nhỏ làm mình làm mẩy, nếu người lớn không ngó ngàng tới, nó chẳng cậy vào đâu [để tiếp tục giở chứng] được. Nếu dùng biện pháp cứng rắn để trấn áp, nó cũng dùng cách cứng rắn để đối phó. Nếu dùng biện pháp mềm mỏng để vỗ về nó, ắt nó sẽ tưởng người lớn sợ nó, lại càng quyết liệt hơn. Cả hai đằng đều tổn nhiều ích ít, chỉ bỏ mặc [vờ như] không thấy, không nghe. Nó đã không có đà làm tới chỉ đành tần ngần bỏ đi.
Ông vẫn chưa có thể tự lợi, sao lại trù tính chuyện làm lợi cho người khác được! Quân tử chẳng nghĩ ra ngoài địa vị. Cần biết rằng: Tâm ấy tuy tốt nhưng cũng là chướng ngại cho việc học đạo. Cổ nhân nói: “Chỉ phạ bất thành Phật; vật sầu Phật bất hội thuyết pháp” (Chỉ sợ chẳng thành Phật, chẳng lo Phật không thể thuyết pháp). Ông chỉ nên tự hành có chứng đắc thì sẽ giống như thần long được một giọt nước bèn có thể mưa khắp toàn quốc. Nếu chẳng phải là thần long, dẫu được nước của cả con sông cũng không thể [tuôn mưa] trọn khắp được.
Làm ác có nhân duyên: Tự tâm là nhân, ngoại cảnh là duyên. Nếu tin sâu nhân quả, biết “do điều ác nhỏ, ắt chịu khổ lớn” thì tuy gặp duyên cực lớn cũng chẳng thể làm ác. Những kẻ làm ác xưa nay đều là do cái tâm tin nhân quả nhỏ nhoi, yếu kém mà ra! Nếu không, dẫu ngoại duyên mạnh mẽ, dữ dội đến đâu cũng chẳng làm gì được ta. Niệm Phật biết có vọng, đấy chính là chỗ hay của niệm Phật. Nếu không niệm Phật, bằng cách nào mà ông biết được [chính mình] có lắm vọng như thế?
Mật Tông quả thật là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, thật sự có chuyện “thành Phật trong thân hiện tại”, nhưng những người hoằng truyền Mật Tông đều chẳng phải là hạng người ấy. Có mấy ai thật sự là thượng căn? Đều toàn tự xưng là thượng căn! Giả dối mượn chuyện ấy để dụ dỗ những phường ham cao chuộng xa, ngạo nghễ, ngã mạn, tạo thành tự lầm, lầm người, gây hại há có thể nào cùng cực? Những điều khác chẳng cần phải nhắc tới!
Gã X… và gã Y… nọ quá sức to gan, tự xưng đã vượt trỗi các bậc thượng căn. Họ chửi bới Khổng – Mạnh còn hơn đứa trẻ đầu đường xó chợ chửi người khác; chẳng biết chửi Khổng Tử tức là chửi Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, chính là diệt chánh lý luân thường của thế gian. Tôi chẳng biết họ học Mật Tông kiểu nào, muốn ứng dụng Mật Tông như thế nào: Để làm kẻ tận lực truyền bá phế kinh điển, phế luân thường, vứt bỏ lòng hiếu, mặc kệ lòng thẹn, giết cha, giết mẹ? Hay là vẫn làm người truyền bá hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ vậy?
Nếu để làm kẻ truyền bá phế kinh điển, giết cha thì thuyết của bọn chúng còn có thể cưỡng lập được, chứ nếu để làm người truyền bá hiếu – đễ – trung – tín thì bọn chúng đã đả đảo phế diệt, cắt trừ đạo của nhị đế tam vương do Khổng Tử vâng giữ, kế thừa mất rồi! Nếu vẫn bảo Mật Tông của bọn chúng là dạy làm lành thì chính bọn chúng cũng chẳng thể tự hiểu được [cách ăn nói ngược ngạo ấy]! Những kẻ giống như gã X… và gã Y… thật có thể gọi là những tên đầu sỏ bại hoại Phật pháp! Hạng người ấy có thể thành Phật nơi thân hiện tại thì cũng chẳng ngại gì vào trong địa ngục A Tỳ để hưởng tự thụ dụng tam-muội của đức Tỳ Lô Giá Na nơi non đao, rừng kiếm, vạc dầu, lò than!
Hơn nữa, căn tánh của gã X… nếu luận theo con người hiện thời thì cũng có thể gọi là thượng căn: Tự mình phát tâm xuất gia, chưa đầy mấy năm mà yếu chỉ của Thai Giáo (giáo pháp của tông Thiên Thai) thảy đều hiểu rõ. Qua Đông Dương (Nhật Bản) học Mật Tông, người Đông Dương hết sức bội phục, tôn sùng, kính trọng; chết rồi còn được dựng tháp trên núi Cao Dã[1]. Nếu bảo là ông ta đã đắc chánh truyền của Mật Tông thì cũng chẳng thể nói là ông ta không thể thành Phật ngay trong thân hiện tại, nhưng đến lúc sắp chết, chẳng thể niệm Phật được mà cũng chẳng thể niệm chú được. So với ngu phu ngu phụ niệm Phật ngồi ngay ngắn qua đời đã kém cỏi hơn nhiều lắm! Đấy còn là kết quả của bậc thượng căn đắc chánh truyền nơi Mật Tông, những kẻ khác đâu đáng để bàn tới nữa!
Cách nói “hiện thân thành Phật” [của Mật tông] và “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” của Tông môn khá giống nhau. Vẫn phải đoạn Hoặc thì mới chứng Chân, mới có thể liễu sanh thoát tử được. Nếu nói “ngay trong đời hiện tại, Tam Hoặc đã đoạn sạch, Nhị Tử vĩnh viễn mất, an trụ Tịch Quang, trọn không sự gì”, sẽ thành tà thuyết, là lời lẽ của ma! Những ai chê “Tịnh Độ dành cho bọn thiên chấp, tiểu căn, chậm lụt, độn căn”, ta hãy nhường cho bọn họ tu pháp “viên, đại, thẳng, chóng, thành Phật trong thân hiện tại”. Chúng ta chỉ y theo ngôn giáo Tịnh Độ để tu trì, đôi bên chẳng gây trở ngại lẫn nhau; cần gì phải dẫn chứng Vãng Sanh Chú, A Di Đà Phật chính là Mật Tông của bọn họ!
Cần biết rằng: Phật tùy theo căn cơ của chúng sanh mà nói ra các giáo, lời lẽ tuy khác nhau, nhưng tinh thần đều là dung thông. Ví như đại địa chia ra cho hết thảy nhân dân, tuy có cương vực này, biên giới kia, nhưng đây – kia chẳng thể cắt đứt, chặt rời ra được, trọn chẳng chấp nhận ai đến trong cõi tôi! Bởi lẽ, nếu chặt rời thì họ cũng không có sanh lộ để đi nữa! Bọn họ đã bảo Vãng Sanh Chú v.v… chính là Mật, sao lại bảo niệm Phật chẳng bằng tu Mật? Nay nói đơn giản, thẳng thừng: Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ v.v… đều là bậc thượng căn, đều có thể chân thật thành Phật trong thân hiện tại. Nếu [tự xét] thấy ta chẳng bằng được các vị ấy thì đừng có dùng [danh xưng] thượng căn để tự lầm, lầm người, noi theo tà kiến của gã X… và kết quả là bị chết hồ đồ của ông Y… khiến cho ngu phu ngu phụ chê cười!
Tôi quên mất chuyện bà nội kế của ông là Sài lão thái phu nhân. Nếu ông thật sự phát tâm hiếu, dẫu cho Sài lão thái phu nhân đọa trong ác đạo, do ông có thể dùng tâm chí thành niệm Phật cho cụ, cụ vẫn có thể cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương, huống hồ chưa chắc cụ đã đọa trong ác đạo ư? [Điều cốt yếu] là do ông có chí thành hay chăng! Chớ nên đem cảnh tượng lúc mất của Sài lão thái phu nhân để phán đoán!
Đặt pháp danh cho [người đã mất] cũng là chuyện bày vẽ! Người thế tục do thuyết U Minh Giới cho người đã khuất bèn đặt pháp danh; nhưng ắt phải cạn lòng thành, kiệt lòng kính niệm Phật cho người ấy thì mới là kế sách tối thượng. Đừng nên chỉ lấy chuyện bày vẽ bề ngoài của thế tục để trọn lòng hiếu thì ông sẽ được hưởng lợi ích lớn lao, chứ không phải do niệm Phật cho Sài lão thái phu nhân mà ông chẳng được lợi ích. Nên biết rằng: Ông do tấm lòng hiếu thảo báo ân, niệm Phật cho Sài lão thái phu nhân, so với chuyên niệm cho chính mình công đức càng lớn hơn! Do vậy, [nhà Phật] mong cho con người vì khắp tứ ân tam hữu pháp giới chúng sanh mà hồi hướng. Huống hồ lão thái phu nhân là người mà ta đã nhận đại ân ư? Ông cứ theo đó mà suy thì cũng có thể tùy theo cơ duyên để hướng dẫn vậy!
(thư thứ hai)
Nhận được thư ông đầy đủ. Ông vọng tưởng đến cùng cực, làm chuyện rất rạng rỡ, lớn lao, rộng lớn, nhưng chẳng biết đấy đều là những chuyện đi xuống, chứ không phải là hướng thượng! Đang trong thời thế này, ông có thần thông, đạo lực gì mà muốn làm chuyện kinh thiên động địa? Dẫu để làm việc trong chánh trường đi nữa, có ai không phải vận động bẩn thỉu để lọt vào. Đã do vận động bẩn thỉu mà đạt được địa vị ấy thì còn có thể hiên ngang, thẳng thắn, chẳng phải bợ đỡ cấp trên hay chăng? Quan văn chẳng mê tiền, nếu chẳng bóc lột mỡ màng của dân chúng thì tiền vốn vận động còn chưa thể có được, huống là [có tiền để] dâng cúng cấp trên ư? Dâng cúng thượng cấp vẫn chưa phải là chánh yếu; đối với những thuộc hạ của thượng cấp đều phải dựa theo thời, theo dịp để tặng quà, để mong họ nói tốt trước mặt thượng cấp, chẳng buông lời gièm xiểm. Nếu là người thật sự vì trăm họ, chẳng những không có tiền mà sợ còn khó giữ được tánh mạng!
Ông mơ giấc mộng to quá, đúng là chí lớn, ăn nói lớn lối, chẳng biết tài năng của chính mình ra sao cũng như đang ở trong thời nào. Hãy nên nói với họ về lợi – hại của chuyện tiết dục và buông lung lòng dục thì về lý lẫn về tình đều được ổn thỏa. Ông chỉ biết ăn nói đao to búa lớn, chẳng biết lời lẽ lớn lao phải phát xuất từ thật hành thì mới có ích. Học vấn cần phải phát xuất từ thực tiễn thì mới có thể tự lợi, lợi người. Nếu không, học vấn càng cao, càng dễ làm hỏng việc! Vì thế nói: “Hữu đức giả tất hữu ngôn; hữu ngôn giả bất tất hữu đức” (Người có đức ắt thốt lời, kẻ thốt lời chưa chắc đã có đức).
Nếu chính mình chánh kiến chưa mở mang, lầm lạc học theo cái học ma quỷ của ngoại đạo, hiếm có ai chẳng bị biến đổi theo chúng. Ông còn chưa biết đến sự xấu xa của gã X…. Gã X… xấu xa không phải vì thiếu học vấn mà vì chẳng biết tự lượng, dối xưng là đại thông gia! Phận sự chánh yếu ông còn lo chưa rồi, há nên phát ra cái tâm ấy? Muốn vào hang hùm thì sẽ táng thân trong bụng hùm là điều đoán chắc!
Trước kia, khi ông chưa có tiền tài, thế lực, bèn hâm mộ sự vinh hiển, giàu có của những kẻ có thế lực, toan dùng đó để khoe khoang trong làng xóm, cho là đã làm rạng mày nở mặt tổ tiên. Nếu tổ tiên có thiêng, ắt sẽ khóc cạn nước mắt! Sợ ông hễ được đắc ý sẽ hoàn toàn chôn vùi cái chí ban đầu, chắc sẽ đến nỗi càng tệ hại hơn bọn họ! Vì sao vậy? Do nhiệt thành hâm mộ sự phú quý bất nghĩa, nên hễ được phú quý sẽ bị phú quý xoay chuyển. Chẳng đáng buồn ư?
Ông hoàn toàn là một kẻ không có chánh tri kiến, đã niệm Phật lâu ngày lại ngờ niệm Phật sẽ lôi kéo quỷ tới rồi sanh lòng sợ hãi. Có tri kiến như vậy há có thể nào chẳng ngả theo thế lực quan quyền phú quý, chẳng tạo nghiệp ác ư? Anh chàng X… và ông Y… đều là kẻ hiểu Duy Thức, nếu dùng Duy Thức để kiếm tiền, sao dám bảo “noi theo dấu ngài Huyền Trang?” (Do trước đó ông đã nói đến việc dõi theo dấu chân của Huyền Trang Tam Tạng).
Ông muốn thấy người khác liền nói nhân quả để hết thảy mọi người đều tin nhận vâng làm, mà lại còn kiếm tiền được, bất luận vị đại lão quan hay gã trai khổ não nào, trai trai, gái gái, đều cùng họ bàn luận kỹ càng, khiến họ đều sanh lòng vui thích thì chỉ có cách xem tướng là hữu ích nhất. Nếu nghề nghiệp thật sự tinh thông thì bất luận kẻ ương ngạnh khó giáo hóa đến đâu, hễ được ông chỉ bày tiền nhân hậu quả ắt sẽ nghe theo. Đấy là chuyện dễ làm nhất trong chốn giang hồ.
Nếu lại còn biết xem Bát Tự thì càng thu hút rộng rãi. Trong thời Hàm Phong – Đồng Trị nhà Thanh, có một người học xem tướng nhưng học không thành, xin học thuật Đạt Ma tướng pháp[2] cũng không hiểu được lẽ ảo diệu của nó. Sau đấy bèn dốc hết lòng Thành lễ bái, lâu ngày liền sáng suốt, những chuyện trong nhà và đời trước của người ta đều biết rõ hết. Một buổi sáng gặp mấy tên lính, cầm lệnh phù sang kho đạn lãnh thuốc súng, bèn hỏi họ sẽ lãnh mấy thùng. Họ đáp sáu thùng; ông ta nói: “Sáu thùng không đủ đâu, nên lãnh bảy thùng!” Bọn họ nói: “Quân lệnh nào dám trái!” Ông ta chỉ nói: “Tôi bảo các anh cứ lấy, sáng mai sẽ biết. Nếu không, tôi sẽ chịu phạt”. Họ liền lấy bảy thùng. Đêm ấy khéo sao bọn giặc tới cướp doanh trại, dùng hết sáu thùng thuốc súng, giặc vẫn không lui, bèn khui thùng thứ bảy thì bọn giặc liền rút lui. Vị thầy xem tướng ấy do nhất tâm cầu Tam Bảo gia bị chuyển hóa mà biết được chuyện đời trước, đời sau.
Ông nên lưu tâm học xem tướng, lại còn chuyên chí lễ bái đức Đại Bi Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. Tuy chưa thể cao minh như người ấy, nhưng đã có thể vượt trỗi những thầy tướng hiện thời, lại còn dùng sự lý nhân quả tội phước để bình luận thì tiền tài, danh dự, công đức đều có thể đạt được. Đấy là chuyện ổn thỏa nhất trong hiện tại, mượn thuật ấy để hành thì không đâu chẳng thông. Những câu giải đáp được liệt kê như sau:
1) [Vương] Dương Minh là nhà Nho. Dựa theo nghĩa lý của nhà Nho để giảng giải thì khá gần với đạo lý Phật pháp; nhưng nếu như lời ông nói thì có thể khiến cho nhà Nho đều hành theo hay chăng? Cổ nhân nêu tỏ đạo mầu phần nhiều mượn thí dụ “tấm lòng của con đỏ, hồn nhiên không phân biệt”; do [tấm lòng của con đỏ] gần giống như sự không phân biệt bởi đã hết sạch nhân dục, thiên lý lưu hành. Ông bèn chấp trước, đem so sánh “cái tâm của con đỏ” với Chân Như bổn tánh, há có đáng gọi là “kẻ khéo dạy người khác nhập đạo” ư?
[Người ta] nêu cái quạt để ví mặt trăng, mượn sự lay động của cây cối để giải thích về gió, ông liền tìm ánh sáng nơi quạt, tìm sự phất phơ nơi cây, tức là hoàn toàn chẳng biết pháp phương tiện để dạy người! Dẫu nói cho thật hữu lý thì vẫn chẳng phải là pháp để làm lợi kẻ sơ tâm. Huống chi nhà Nho trọn chẳng biết đến Chân Như Phật tánh! Chẳng nêu bày ở chỗ ấy thì chẳng có cách nào nhập đạo được đâu!
2) Nhà Nho ăn nói phải dựa theo những điều vốn được [Nho giáo] đề cao. Nếu nói đến Phật tâm chính là xiển dương Phật pháp. Cố nhiên những kẻ ấy do học Phật mà có sở đắc, nhưng lời lẽ vẫn y theo khuôn mẫu của Nho gia. Chẳng qua là ý nghĩa gần gũi với nhà Phật, ông có biết hay chăng?
3) Sách của Vương Dương Minh, thoạt đầu tôi chưa xem qua. Bốn năm trước, do thỉnh một bộ Dương Minh Toàn Tập, giở xem đại lược, rảnh đâu để học theo ông ta! Năm trước, do tôi muốn ẩn dật tại Hương Cảng nên bèn gởi [bộ sách ấy] về [tặng] thư viện huyện Cáp Dương.
4) Trong thời buổi này, ông luôn niệm niệm mong thành danh để lập từ đường, coi đó là chuyện để rạng mặt nở mày cha mẹ. Chí ấy ô trược, hèn tệ, đã gây nhục cho bà nội kế là Sài lão thái quân nơi chín suối. Huống chi nếu thật sự có thể thỏa mãn mục đích của Sài lão thái phu nhân thì sợ rằng sẽ khiến cho ông bà nội và cha mẹ ông đều cùng đọa xuống tầng chót trong địa ngục A Tỳ! Buồn thay!
5) Viên Tử Tài là gã cuồng! Thoạt đầu chẳng hề tin Phật, nếu tin Phật sao lại báng Phật? Đến tuổi già do từng trải sâu hơn, biết Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên các chuyện cảm ứng đều ghi chép lại, nhưng trọn chưa từng thân cận tri thức và đọc nhiều kinh luận Đại Thừa nên những gì ông ta nói phần nhiều đều chẳng đúng pháp. [Chẳng hạn như ông ta biện bác] “giới luật chẳng cho tổn thương đến một cọng cỏ nên chẳng thể ăn chay, bởi lẽ ăn rau là sát sanh”. Lời lẽ ấy đều là những lời lẽ cong vạy, hư vọng, nhằm ngăn cản người khác ăn chay, khuyên người ta ăn thịt! Sao không nói: “Ta cũng có thịt, xin hãy ăn thịt ta trước”. Dẫu có giết ông ta, ông ta cũng chẳng chịu thốt lời ấy! Coi ăn rau là sát sanh cũng là tà thuyết giống như “khuyên ăn thịt” vậy, chẳng cần công kích mà tự bị phá!
Con người sống trong thế gian ai có thể chẳng hít thở? Coi hít thở gây tổn hại cho những loài trùng tí xíu là ăn thịt, sát sanh, nhưng lại khuyên người ta hằng ngày giết những con vật lớn để ăn thịt! Loại tà thuyết ấy giống như kẻ ngu thấy người khác dùng phân để bón cho đất màu mỡ thì các loại hạt ngũ cốc mập chắc, rau cỏ tươi non, mập mạp, sởn sơ, thơm ngon, bèn bảo: “Phân là vật tốt nhất. Hãy nên chuyên ăn thứ này thì càng được tốt đẹp chẳng khác gì!” Người đời phần nhiều cậy vào thứ tà thuyết chẳng dựa theo đạo lý ấy để cản người khác ăn chay, khen ngợi kẻ sát sanh. Năm xưa có người đem chuyện này hỏi, tôi liền dùng một thí dụ để đáp lời. Chúng ta sống trong vòng trời đất, ai có thể không hít thở? Do hít thở gây tổn thương những sanh vật nhỏ bé liền nói “ăn chay không hợp lý”, ấy chính là cái tâm xấu hèn của gã tiểu nhân ngăn trở người khác làm lành vậy!
Ví như có kẻ sanh trưởng trong nhà xí, thường nghĩ thức ăn trong nhà xí quả thật là cao sang nhất, ngon lành nhất. Nhưng ở chỗ ấy có vị trưởng giả giàu có lớn; hắn ta sợ vị trưởng giả đó chưa từng được hưởng qua những vị ngon lành ấy; do vậy, đưa thư mời trưởng giả vào nhà xí dự tiệc. Vị trưởng giả kinh ngạc, mắng: “Ngươi đúng là kẻ chẳng biết hổ thẹn! Toàn thân ngươi nằm trong hầm phân, hằng ngày lấy phân làm cơm áo, sao dám mời ta đến chỗ ngươi ở?” Kẻ ở trong hầm phân nghe vậy, nổi giận đùng đùng, chửi bới: “Đồ hầm cầu nhà ngươi sao dám chửi ta hằng ngày ăn phân nhơ? Trong bụng ngươi đầy ắp phân tiểu. Kè kè cái thùng đựng phân ấy mà còn muốn nói thanh tịnh! Muỗi, ve, chấy, rận xả phân vãi tiểu trên đầu ngươi, thân ngươi. Ngươi hoàn toàn là một cái hầm phân, sao dám chửi người khác? Hơn nữa, gạo nước ngươi ăn vào đó đều đã có trùng thải phân vãi tiểu lẫn trong ấy, chẳng phải ngươi đã ăn phân, uống nước tiểu ư? Sao dám chửi ta là ăn phân, uống nước tiểu?”
Vị trưởng giả ấy tuy khiết tịnh, nhưng những lời trách mắng của kẻ trong hầm phân đều chẳng tránh khỏi, vậy thì cứ theo đúng những gì mình có thể làm được mà nói đến chuyện khiết tịnh, hay là sẽ vâng theo lời kẻ sống trong hầm phân đến chỗ hắn dự tiệc ư? Đã chỉ nên dựa theo những gì mình có thể làm được để làm, sao lại đem chuyện không làm được để trách móc người khác ư? Cứ muốn buộc người khác ăn thịt, sao chẳng mời người khác ăn thịt mình? Lời nói này cũng có thể làm tấm gương sáng cho những kẻ tà kiến vậy! Ông đã soạn cuốn sách Khuyến Tu Hành Giới Sát Ngật Tố Văn (văn khuyên tu hành kiêng giết ăn chay); trong tương lai khi tái bản sách ấy, hãy nên đem ý này thêm vào để chỉ bày cho kẻ thiếu tri kiến trong thiên hạ đời sau.
6) Ông lập ra thuyết ấy khá hữu lý, nhưng ông đả phá Dương Minh, mà ở chỗ ấy ý ông và Dương Minh đâu có khác gì? “Nhân tâm duy nguy, đạo tâm duy vi” (Lòng người nguy hiểm khó lường, đạo tâm nhỏ nhiệm[3]), nói xuông thì dễ, thực hành khó lắm! Ông Ôn Quang Hy đừng mơ phát tài làm quan. Nếu Ôn Quang Hy phát tài làm quan, quyết chẳng thể vượt trỗi hạng tầm thường, lập công nghiệp lớn lao được! Do ông còn chưa được phú quý, ở đậu tạm thời trong nhà họ Kê, mà trước hết đã không giữ được nổi [cái tâm không ham muốn sự giàu sang của người ta] thì sau này làm sao giữ được?
7) Coi lời thành thật từ kim khẩu của đức Phật là ngụ ngôn, đấy chính là tà kiến, báng Phật, báng Pháp; làm sao nói nhân quả để cảm hóa người khác cho được? Phụ nữ nhà giàu có ở Trùng Khánh muốn làm gái làng chơi, cũng là do đã coi mối quan hệ vợ chồng do thánh nhân chế định như sự đặt bày trống rỗng. Trong ý họ há cũng có lý “vợ chồng nhất định chẳng được hỗn tạp” ư?
8) Các nhà khoa học nói như thế cũng phải là không có lý do, nhưng họ chẳng biết tới nghĩa “duy tâm sở cảm, duy tâm sở hiện”. Vì thế trở thành tà thuyết dối dân, hủy báng Phật pháp, ngăn trở người khác tấn tu.
9) Ông nói như vậy thì tâm can của ông đã hoàn toàn lộ rõ hết ra, như vậy thì ông nói học đạo nhưng đâu phải là học đạo, mà chính là học nghề đấy chứ!
10) Cảm Ứng Thiên vốn xuất phát từ sách Bão Phác Tử, nhưng lời lẽ trong sách ấy (tức Cảm Ứng Thiên) có ích cho cõi đời, nên được tôn là “Thái Thượng quân tử” (bậc quân tử cao quý nhất), chứ không coi là lời lẽ vớ vẩn của con người. Có mấy ai biết được năm ngàn chữ? Người tầm thường hiểu biết năm ngàn chữ ấy sẽ không bằng một người tầm thường biết tới Cảm Ứng Thiên, do đã đạt được lợi ích thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia rất nhiều. Ông bàn luận “có nên đưa [Cảm Ứng Thiên] vào chánh sử hay không nên đưa vào”, còn tôi chỉ quan tâm ở chỗ sách ấy có ích cho thân ta lẫn nước ta mà thôi!
11) Hai pháp Định – Huệ được bao quát trong việc học Phật đạo. Nếu chỉ hiểu là một chữ Tĩnh sẽ nhỏ nhoi lắm! Trần Bạch Sa, Châu Hối Am[4] cho là “rớt vào chỗ trống rỗng, mờ mịt” là vì họ tưởng “ngoan không” (trống không rỗng tuếch) chính là Tĩnh của nhà Phật. Nếu không phải là ma mãnh cố ý hủy báng thì họ chẳng biết gì về ý nghĩa Chân Tĩnh trong nhà Phật cả! Chuyện “kính” chính là cửa ngõ để nhập đạo. Nếu lý luận một cách trái lẽ sẽ thành trái nghịch đạo trời, là đại bất kính. Những vị tiên sinh bên Lý Học chú trọng vào “tiểu kính” (sự cung kính nhỏ nhặt, vụn vặt) nhưng đều phạm đại bất kính! Do những lời lẽ họ bàn luận về lý tột cùng của tâm tánh đều là trái trời nghịch lý, cho nên gọi họ là “họ phạm đại bất kính”. Ông nên biết như vậy.
12) Châu Tử (Châu Hy) dạy người khác đừng tụng kinh tức là báng Phật pháp, còn tôi dạy người khác đừng tụng kinh là vì thận trọng nơi chuyện ấy. Do ân cha mẹ sâu nặng, hãy nên nghiêm túc thỉnh tăng sĩ có đạo tâm niệm Phật; chớ nên thỉnh những ông tăng chuyên làm kinh sám đến tụng kinh, bái sám, làm đàn Thủy Lục chỉ nhằm phô trương, hoa mỹ trống rỗng. Sao ông chẳng đọc những đoạn văn trên và dưới câu ấy, lại cắt lấy một câu ở chính giữa rồi luận đúng – sai xằng bậy! Do vậy tôi biết ông tâm bộp chộp, tánh tình hời hợt, mọi chuyện đều cẩu thả. Từ nay ông đừng gởi thư đến nữa, gởi đến sẽ không trả lời. Nếu trả lời thì không có tinh thần ấy, ông có biết hay chăng? Nguyện vợ chồng con cái ông siêng năng niệm Phật, xin hãy sáng suốt soi xét.
(thư thứ ba)
Lá thư ông tự thố lộ mình đã khởi dâm niệm ở Trùng Khánh Điện Ảnh Viện tôi đã nhận được rồi. Tình niệm của con người như nước, lễ pháp như đê. “Nam nữ thọ thọ bất thân”[5], chính là thánh nhân đã ngừa trước chuyện “do trao – nhận đồ vật mà đụng chạm, chắc sẽ khởi lên ý niệm không trong sạch”. Muốn nắm tay thì khi chưa nắm đã có chín phần dâm niệm rồi. Những nữ nhân khiêu vũ ấy mặc áo mỏng như the, như lượt, nam nữ ôm nhau mười mấy phút, tới lần thứ ba thì đèn vặn mờ đi gần như chẳng thấy được ai. Tình hình ấy hoàn toàn là hành vi cầm thú, nhưng khắp các ấp lớn đều ồ ạt dựng cờ gióng trống mở trường dạy khiêu vũ. Chánh phủ và các nhà giáo dục đều chẳng hỏi tới. Thế đạo nhân tâm còn mong chi tốt lành được nữa? Hãy nên nỗ lực đoạn trừ những thứ tình niệm chẳng đúng pháp ấy, như [người xưa] đã nói: “Khử một phần tập khí nhơ bẩn, được một phần lợi ích”.
Niệm Phật mà thấy các cảnh tượng thì đối với cảnh ác chớ nên sợ hãi, chỉ nhiếp tâm chánh niệm, cảnh ấy liền tiêu. Với thiện cảnh chớ nên hoan hỷ, chỉ nhiếp tâm chánh niệm, ắt sẽ có sở đắc, tức là nghiệp tiêu, trí rạng. Nhưng [sở đắc] có cạn, có sâu, chớ nên sanh ý tưởng thỏa mãn, cho là đã đầy đủ rồi, [không tu tập nữa]. Nhiếp tâm chánh niệm thì thiện cảnh càng rõ rệt hơn hoặc liền biến mất, đừng quan tâm đến nó. Chỉ cốt sao niệm chẳng lìa Phật, Phật chẳng lìa niệm là được rồi. Thấy thiện cảnh tâm địa thanh lương, trọn chẳng có tâm vọng động, bộp chộp, chấp trước, cũng chẳng đoan chắc là đã nhập định. Biết rõ đấy chỉ là duy tâm sở hiện, chẳng phải là đối cảnh vô tâm.
“Chẳng nhờ đến phương tiện mà tâm tự được mở mang” nghĩa là niệm như con nhớ mẹ, đấy chính là phương tiện tối thượng, chẳng phải nhờ cậy vào các phương tiện khác! Ông hiểu lầm “không chấp trước” là “quét sạch” nên mới có [nhận định] tương phản với pháp được tạo lập ấy. “Như con nhớ mẹ” sao lại bảo là “quét sạch”? Nếu thánh cảnh hiện, biết cảnh ấy chỉ là duy tâm; hễ chấp trước thì không phải là duy tâm. Do kẻ sơ tâm hễ thấy thánh cảnh, phần nhiều chẳng biết là duy tâm, nên sanh lòng chấp trước. Hễ chấp trước thì nếu không phải là hạng “được chút ít đã cho là đủ” thì cũng là “bị ma dựa phát cuồng!” Do đó, kinh dạy: “Nếu tâm chẳng cho đó là thánh cảnh, bảo là mình đã chứng thì gọi là cảnh giới tốt lành. Nếu tưởng là thánh cảnh, liền bị vướng trong lũ ma, bị ma dựa phát cuồng”.
Ông là một gã si dại chẳng hiểu chuyện, há nên đem chuyện dụng công lúc thường ngày để sánh ví với sự đau xót, khẩn thiết dốc sức khi lâm chung lúc tướng địa ngục hiện! Như đứa con hiếu lúc bình thường nghĩ đến cha mẹ, tuy cực khẩn thiết, trọn chẳng thể buồn rầu, đau đớn bằng khi cha mẹ đã chết, chẳng màng đến thân mạng [của chính mình] nữa! Ông hãy nên dựa theo sự tướng, chí thành khẩn thiết để tu. Nếu nói lý mà tâm thật sự chẳng thông thì đã vừa vô ích mà còn tự bị tổn hại! Hễ cảnh hiện, bèn khám nghiệm, ông bảo đấy là phân biệt; nhưng ông đã thấy được cảnh thì khám nghiệm nó đâu có trở ngại gì? Người khám nghiệm chẳng khởi lên một phương pháp nào khác, vẫn là nhiếp tâm nơi Phật, chẳng cho niệm thứ hai khởi lên.
Do ông chẳng biết cách khám nghiệm, tưởng rằng có cách khám nghiệm khác, nên ngược ngạo biến thành phân biệt. Người niệm Phật trọn chẳng phải là kẻ lơ mơ, không phân biệt, hiểu biết! Như gương soi vật, vật đến liền hiện bóng; vật đi sẽ không còn [hình bóng] nữa! Lời ông nói đều là chưa bị ma dựa lại muốn bị ma dựa, chứ đâu phải là nói về cách ngăn ngừa cho khỏi bị ma dựa! Do ông dùng cái tâm bộp chộp, vọng động gấp gáp muốn đạt được cảnh ấy nên đâm ra trở thành chướng ngại. Đang trong đại kiếp này, há nên chẳng chí tâm niệm Phật mà cứ vọng tưởng tơi bời, luận nói những lời xuông rỗng ư? Sự nguy hiểm trong Mật tông quả thật chẳng có bút mực nào có thể diễn tả được! Xin hãy giữ chết cứng Tịnh Độ để tu trì, nhường cho kẻ khác [tu các pháp khác] đều thành Phật. Xin hãy sáng suốt suy xét!
(thư thứ tư)
Hôm mồng Hai tôi gởi sang Trùng Khánh một lá thư, chắc ông đã nhận được rồi. Phàm là người tu hành chỉ nên lắng lòng tịnh niệm, chớ nên dấy lên những mong mỏi vượt phận. Ngay như chuyện nhắm mắt thấy ánh sáng trắng, tâm chẳng nghĩ là có sở đắc, cố nhiên sẽ là dấu hiệu tốt lành. Nếu cho là đã đắc, thì nhẹ là lui sụt, lười nhác, mà nặng là phát cuồng! Người bệnh nhất tâm niệm Phật đợi chết, nếu tuổi thọ chưa hết sẽ mau được lành bệnh. Nếu tuổi thọ đã hết, chắc chắn được vãng sanh. Nếu lúc đang bệnh tật, mong chóng được lành, trọn chẳng có ý niệm cầu vãng sanh thì nếu tuổi thọ chưa hết, do cầu gấp được lành bệnh, sẽ chẳng chịu nhất tâm niệm Phật. Tuy niệm Phật, nhưng vọng niệm “cầu được lành bệnh” quá nặng, đâm ra chẳng tương ứng với Phật, quyết khó thể mau chóng lành bệnh được! Nếu tuổi thọ đã hết, do tâm cầu lành bệnh thiết tha, chắc chắn chẳng có chuyện vãng sanh, sẽ trở thành cầu đọa trong tam đồ lục đạo, vĩnh viễn chẳng thoát lìa vậy!
Người đời nay đa số khởi vọng tưởng vượt phận, mong được thần thông bèn học Mật Tông (những người tu Mật Tông chân thật không thuộc trong số này), như gã ma Phó X…. chết ở Bắc Bình, các đệ tử của gã Y… có kẻ muốn phát tài lớn đâm ra bị hao hụt một hai trăm vạn. Có kẻ muốn được quyền lợi đâm ra mấy chục người bị nhốt trong lao ngục. Có kẻ muốn được thành Phật ngay tức khắc, đâm ra bị ma dựa phát cuồng. Gã A… nọ tôn lạt-ma B… làm thầy; vị thầy ấy có thần thông biết được quá khứ, vị lai. Gạn hỏi đến chuyện độc lập, thì liền mất mạng ngay trong hôm độc lập. Lạt ma B… và thần thông của ông C…. khiến cho nhiều đệ tử hết sức sùng phụng họ bị liên lụy, đủ biết thầy lẫn đệ tử đều chẳng giữ yên bổn phận. Không có thần thông, há nên mạo xưng thần thông! Học Phật pháp, há nên mù quáng quấy rối, mưu toan phát tài lớn lao, được quyền hành lớn lao ư? Nhân địa chẳng thật, sẽ chuốc lấy cái quả cong vẹo. Ông hãy nên giữ phận, mặc kệ cho người ta đều thành Phật! Dẫu cho ông chẳng đạt được điều gì lớn lao, nhưng đã có nhiều vị Phật như thế đấy thì họ sẽ chẳng thể nào không độ ông!
(thư thứ năm)
Nhận được cuốn sách Trúc Hư của lệnh nội[6] ở Thành Đô, biết rõ bà ta mang tâm lợi sanh sâu đậm, khôn ngăn cảm kích, khâm phục. Nhưng nói “Ấn Quang quả thật có thể lấy tri kiến của Phật làm tri kiến [của chính mình]” thì Quang là hạng người nào mà dám nhận sự khen ngợi quá lố như thế? Chẳng qua lòng dạ thẳng băng, ăn nói thẳng tuột, nói ra những điều tôi thấy được mà thôi! Dẫu thích đáng hay không thích đáng, cứ mặc cho người đọc phán đoán mà thôi, Quang quyết chẳng suy tính đến điều ấy.
Từ xưa, chư Tổ hoằng pháp đều dựa theo thời tiết, căn cơ để hướng dẫn cho hàng hậu học đạt được lợi ích, chớ nên bảo [các Ngài] thiên chấp! Phải thấu hiểu nỗi khổ tâm của các ngài trong thời buổi ấy. “Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, lời ấy vốn không có khuyết điểm gì! Khuyết điểm là do người học chẳng hiểu ý nghĩa trọn vẹn, cứ chấp chết cứng vào một bên, bèn giống như gã thấy biết hẹp hòi, lệch lạc, chấp trước. Kẻ chưa chứng đắc trong nhà Thiền chỉ chấp vào “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, nói Tịnh Độ lẫn Di Đà đều chẳng phải là thật có. Hạng người ấy vốn chẳng hiểu Thiền, huống hồ Tịnh Độ?
“Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà” như các vị cổ đức Tịnh Độ đã nói, chính là nói: “Tây Phương Tịnh Độ chẳng ra ngoài duy tâm, A Di Đà Phật chẳng rời ngoài tự tánh”. Tánh – tướng, lý – sự, nhân – quả đều được phô bày trọn vẹn trong ấy. Các hạ mắc bệnh thiên chấp, chẳng thể nhiếp trọn khắp được! Nếu bảo là người học do độn căn nên khó thể lãnh hội thì được, chứ nếu bảo lời ấy của cổ đức có khuyết điểm thì không được!
“Sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi” và “sanh thì thật sự chẳng sanh, đi thì quyết định đi”, đều là những lời khuôn phép nêu tỏ cả Sự lẫn Lý; cần gì phải suy lường quá lố? Chẳng qua là vì con người hiện thời phần nhiều đối với Sự lẫn Lý đều chưa hiểu trọn, chẳng thà cứ dựa theo Sự mà nói, chứ chẳng nên dựa theo Lý để nói, ngõ hầu họ khỏi bị hiểu lầm đến nỗi trở thành rộng rãi, khoáng đạt xuông! Quang hổ thẹn đến cùng cực, đối với Lý Tánh tôi cũng chưa hiểu rõ lắm. Nếu bắt chước con két học nói tiếng người thì cũng chẳng phải là hoàn toàn không thể nói được! Chỉ có điều chẳng dám nhận mình là bậc thông gia! Nếu ai chẳng chê Quang chưa thông suốt thì chẳng ngại gì đem sự không thông suốt [của mình] thưa với họ. Do vậy, tôi chẳng chủ trương nói tới Lý Tánh và những điều huyền diệu.
Các hạ tuổi trẻ nhập đạo, học thức uyên bác, tâm lợi sanh tha thiết, nhưng do chưa thấu hiểu sâu xa đạo “tùy theo căn cơ mà ban bố giáo pháp, do thời mà chế định những điều nên làm” đến nỗi chê “cổ đức sai lầm”. Đấy cũng là dấu hiệu chỉ rõ ông hàm dưỡng chưa đến nơi đến chốn! Đối với hạnh nguyện của Phật, Bồ Tát thì “một nhiếp hết thảy”. Người đời sau khi nêu tỏ ai nấy đều tùy theo sự thấy biết của chính mình, lẽ đâu dựa vào đó để chê cổ đức kém cỏi! Nếu chấp vào nghĩa ấy để hành, dẫu cho đức Bổn Sư Thích Ca, Di Đà Thế Tôn cũng khó thoát nạn được!
Quang bế quan trước, quả thật là vì sợ gây lầm lẫn cho người khác, chứ chẳng phải là muốn tự lợi. Xin hãy tâm bình, khí hòa, chân thật thực hành thì sẽ có thể làm bậc đạo sư cho cõi đời lúc này. Nếu không, sợ rằng Ôn Quang Hy đúng hay sai tuy khác với Vương Canh Tâm, nhưng Ôn Quang Hy tự phụ chẳng khác gì Vương Canh Tâm vậy! Do các hạ là người tu đạo, Quang cũng là người tu đạo nên nói thẳng thừng chẳng úp mở gì!
(thư thứ sáu)
Đọc những gì ông nói, biết rõ ông tuy đọc Văn Sao, Gia Ngôn Lục mà vẫn y như cũ, chẳng chú ý tới chỗ khác biệt giữa Thiền và Tịnh. Nếu ông tin tưởng tới nơi tới chốn lời giải thích về giới hạn giữa Thiền và Tịnh, cần gì phải đi qua bảy tỉnh để cầu người quyết trạch[7] nữa ư? “Triệu Châu bát thập do hành cước” (Triệu Châu tám mươi tuổi vẫn hành cước[8]) là chuyện “quyết trạch kiến địa” trong nhà Thiền. Người niệm Phật chỉ nương theo ba kinh Tịnh Độ do đức Phật đã dạy, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương, cho nên chẳng cần phải lần lượt tìm người khai thị.
Cổ nhân lập ngôn, mỗi vị đều có hạnh riêng, do ứng với căn cơ bất đồng nên nói ra những lời bất đồng. Hãy nên tự lượng chính mình thuộc tư cách nào thì mới chẳng hiểu sai ý nghĩa thật sự của những lời cổ nhân đã nói ra nhằm tương ứng với từng căn cơ! Người đời nay trọn chẳng có duyên tu đạo như cổ nhân, thể lực của chính mình yếu đuối, tâm lượng hẹp hòi, nhỏ nhen, hoặc lại cuồng ngạo, trái nghịch; muốn kiếm được người hiểu biết, có đủ nhãn quan như cổ nhân thì trong ngàn vạn kẻ, khó kiếm được một, hai!
Có được pháp môn “cậy vào Phật lực để liễu sanh tử” này mà vẫn cứ coi rẻ, toan hướng đến bậc tri thức thuộc những pháp môn cậy vào tự lực để tìm tòi đường tắt liễu sanh tử thì đã là chẳng biết lợi – hại! Huống hồ lỡ gặp phải các bậc đại quyền thị hiện những hạnh chẳng hợp với đạo ư? Nếu ông chết được si tâm vọng tưởng, chắc chắn sẽ có thể vãng sanh Tây Phương ngay trong đời này. Nếu chưa tu mà đã muốn thấy được cảnh tốt đẹp ngay, chắc chắn mai sau sẽ có ngày bị ma dựa phát cuồng đấy! Ví như mài gương, chất dơ mất đi, ánh sáng còn lại; lúc bụi nhơ chưa trừ sạch hết, làm sao có tướng tốt lành hiện ra cho được?
Ông nói “hiện thời chưa thể nhất tâm, khi lâm chung sẽ khó thể đắc lực”, cũng là bàn luận theo kiểu chỉ biết nhặt nhạnh những lời cổ nhân đã nói, chứ chẳng tự lượng theo những gì chính mình làm được! Ông vừa mới phát tâm, chỉ mong không có hết thảy những tạp niệm vô vị đã là rất khó khăn rồi. Sao lại muốn ngay trong khi ấy sẽ thấy được những tướng tốt đẹp vậy? Ví như muốn cho trẻ gái mới vừa sanh ra liền đẻ được con, có lẽ ấy hay chăng? Nếu ông là hạng đại căn tánh túc căn đã chín muồi thì cố nhiên chẳng khó khăn cho lắm. Nếu không, do gấp gáp [mong cầu] sẽ phát cuồng, vĩnh viễn cắt đứt thiện căn.
Muốn báo ân bà nội là Sài lão thái phu nhân và ân cha mẹ, nhưng chẳng chú ý nơi một pháp Niệm Phật, há chẳng phải là bỏ đại lợi ích để cầu tiểu lợi ích ư? Pháp Niệm Phật trọng tại lòng Từ của đức Phật gia bị, dẫu là hạng phàm phu đầy dẫy Hoặc nghiệp vẫn có thể nương theo Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh; hết thảy những pháp khác trọn chẳng có nghĩa này!
Ông nói năm sáu năm qua, từ sau khi ra trường, mắc bệnh xương khớp rã rời, gần như đã chết một nửa người. Có phải vì [trong thuở còn đi học ấy] bạn bè đàn đúm tụ họp, cùng nhau đọc tiểu thuyết[9] đến nỗi chân tinh mất mát, thủ dâm liên tục, do vậy mới có hiện tượng ấy hay chăng? Đấy chính là căn bệnh chung của lũ học sinh trong hiện tại, trong mười đứa có đến tám chín đứa [vướng phải]. Do cha mẹ, thầy, bạn đều chẳng chịu nhắc đến, nên kẻ bị bệnh ngày thấy càng nhiều, chẳng thể ngăn dứt được! Do chuyện này, Quang liền cho in tám trăm cuốn Thọ Khang Bảo Giám. Hễ kẻ trẻ tuổi gặp Quang, Quang đều nói rõ lẽ lợi – hại với họ, bảo họ giữ gìn thân thể đừng phạm. Dù là thủ dâm hay tà dâm đều phải nghiêm túc kiêng dè, đừng phạm; ngay như vợ chồng ăn nằm với nhau cũng phải có chừng mực, cũng như biết kiêng kỵ để khỏi đến nỗi bị mất mạng oan uổng! Nếu không, người cực tốt cũng vẫn có thể chết vì chuyện này. Xúm nhau đổ thừa cho số mạng, chẳng biết tự mình đã nộp mạng!
Ông còn rất trẻ mà đã bị bệnh, hãy nên thường đọc sách ấy, cũng như bảo Đức Chánh thường đọc. Đôi bên răn nhắc lẫn nhau, ngõ hầu những đứa con đã sanh như Quân Tốn v.v… đều được mũm mĩm, trưởng thành, tánh tình hiền thiện, vợ chồng ông sống hạnh phúc đến già, cùng sanh Tây Phương.
Nói tới chuyện làm quan lớn hay làm giáo viên có chức vụ cao, mà nếu có thể thay đổi phong tục, dẫn dắt dân hướng đến chỗ nhân từ, sống lâu theo đúng lẽ thánh hiền, cố nhiên là điều vinh hạnh. Chứ nếu chỉ có thể giúp cho những chuyện phế kinh điển, phế hiếu, phế luân thường v.v… thì địa vị càng lớn, tội nghiệp càng sâu, nhục nhã khôn cùng! Nếu ông vẫn coi chuyện bị [kẻ khác] đối xử lạnh nhạt là khổ thì ông sẽ trở thành một kẻ chẳng biết tốt – xấu!
Ông muốn mưu tính [có được địa vị quan lớn hay một chức vụ lớn trong ngành giáo dục] là để cầu danh hay là để hành đạo vậy? Nếu để hành đạo thì hãy nên mưu tính, chứ để cầu danh thì đừng nên mưu toan! Do ông còn có cơm ăn, tổ phụ (ông nội) của ông là Hưng Toàn Công âm đức chẳng ít; há có nên vì cái danh xuông ấy mà chịu quỵ lụy kẻ khác, dẫu chẳng muốn gây nghiệp, há có được chăng? Ông hãy nên bỏ cái tâm ấy đi để sau này khỏi phải hối hận “cắn rốn không kịp”[10]. May là Đức Chánh hiền huệ, hãy nên bảo cô ta đọc kỹ Gia Ngôn Lục, Khuê Phạm, Lịch Sử [Cảm Ứng] Thống Kỷ, để trở thành bậc thầy khuôn mẫu cho nữ giới, mà con cái sanh ra sẽ đều thành hiền nhân, thiện nhân, may mắn chi hơn?
Gia cảnh ông khá dư dả, hãy nên in Lịch Sử Thống Kỷ bao nhiêu đó bộ để tặng cho đất Xuyên (Tứ Xuyên), ngõ hầu những tay hào kiệt dấy lên sau này đều biết “nhân quả báo ứng, sanh tử luân hồi cũng là nhiệm vụ trọng yếu khiến cho đời yên dân lành”. Nếu muốn in, hãy tiếp xúc với ông X… Mấy chục năm qua, Quang gởi cho Tứ Xuyên các thứ sách thật nhiều. Một là vì đất Xuyên quá xa, cũng như do thầy tôi xuất gia tại núi Nga Mi.
“Tinh tinh” nghĩa là “tỉnh ngộ, hiểu rõ”, ông dùng chữ ấy sao được? Ăn nói vẫn là lời lẽ hồ đồ, lại tự xưng là “chừng mực, tinh tinh đến cùng cực!” Dùng chữ hãy nên lưu tâm! Nói chung, ông đã quy y Phật pháp, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Lại còn phải thật vì sanh tử, phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, quyết định cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dùng những điều ấy để tự hành, lại còn dạy người, sẽ là đệ tử thật sự của đức Phật, đáng gọi “chẳng khiến đấng sanh ra ta phải hổ thẹn!” Nguyện ông và Đức Chánh đều cùng cố gắng thì may mắn lắm thay!
(thư thứ bảy)
Tánh tình ông đúng là hệt như trẻ nít. Lần trước tôi đã gởi cho ông một bức thư dài vì sợ ông ham danh sẽ gia nhập quân đội hay tham dự chánh trường. [Trong lá thư ấy] đã cực lực bày tỏ lẽ lợi – hại, sao không lấy những lời bàn luận ấy để định hướng cho tương lai? Ông lại hận vì [tôi] bế quan nên chẳng thể chỉ dạy trọn khắp, lại than “mờ mịt không chỗ nương theo!” Nếu ông nghe lời tôi, sao lại “mờ mịt không chỗ nương theo” cho được? Ông không nghe lời tôi thì sẽ mờ mịt không chỗ nương theo cho đến tận sau khi đã nhắm mắt.
Gia cảnh ông may mắn không thiếu hụt, lẽ ra hãy nên trong lúc này càng thêm gắng sức tu trì nhằm mong khỏi bị mắc họa, lại cứ muốn đâm đầu vào hang họa để được cái hư danh chẳng đáng một tiếng than ư? Chẳng tính tới cái họa cùng cực là “đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn đọa trong ác đạo”; bệnh cuồng của ông có thể nói là cực cuồng!
Gia Ngôn Lục, Văn Sao chẳng phải là khai thị ư? Những sách trước kia và những cuốn sách rút gọn v.v… chẳng phải là khai thị ư? Nếu như ý ông, dẫu có bao nhiêu sách vở đến nỗi phải dùng lừa, lạc đà để chở tới chắc cũng chẳng vừa ý ông. Ông thật đúng là kẻ đáng thương! Xin hãy nhất tâm trì chú Đại Bi và danh hiệu Quán Âm để khỏi mắc phải các họa hoạn.
Gần đây, ở đất Tô có mấy vị thiện nhân dạy người khác niệm Ma Lợi Chi Thiên Chú để bảo vệ chính mình lẫn gia đình, cầu thái bình. Họ đã in mười vạn tờ, tặng cho mỗi gia đình ở nơi đây một tờ, tặng cho mỗi cơ quan từ thiện các nơi khác mỗi nơi chừng đó tờ, mong [những nơi ấy] sẽ phân phát giùm, lại còn in thêm nữa. Lời Bạt [trong tờ chú ấy] do Quang sửa chữa giùm cho họ. Họ muốn Quang ký tên cho người khác trông thấy sẽ tin tưởng; vì thế, tôi thuận theo ý họ mà ký vào.
Họ lại mời hai mươi người lành nhưng nghèo khổ thiếu cơm ăn đến hội từ thiện của họ để niệm chú ấy trong một trăm ngày, mỗi ngày cung cấp thức ăn và trả tiền tụng chú để họ có cái nuôi nấng gia đình. [Việc này] đáng gọi là một hành động trọn đủ nhiều điều tốt đẹp. Đang trong cơn đại kiếp mênh mông này, chẳng phát tâm lợi người lợi vật một phen thì khi ngọc lẫn đá đều cháy, há chẳng đành than xuông khi xưa đã lỡ làng ư? Nay gởi cho ông ba tờ, xin hãy niệm kèm thêm, ắt sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn!
Trong thư, ông thường than bận rộn, bận rộn vì lẽ gì vậy? Thật sự là bận rộn bởi những chuyện vô vị! Từ xa mấy ngàn dặm đến đây gặp Quang chỉ vì nghe danh, để rồi gặp xong một bữa bèn chẳng chịu ở lại nữa. Những điều cực chánh yếu trong suốt một đời Quang và đời ông, Quang đã đều chỉ hết cho ông rồi. Ngoài những điều ông xin hỏi ra, [tôi còn giải đáp thêm bằng] một bức thư dài, nhưng ông vẫn như chưa hề thấy một chữ nào mà cũng chẳng buồn nhắc tới. Lại cứ thường than thở thiếu duyên, đúng là nực cười đến cùng cực! Nếu có thể chết sạch lòng [mong ngóng, khiêm hư] sát đất, y theo lời tôi thì từ đây sẽ được vui sướng vô cùng. Nếu không, sẽ giống như gã câm nuốt phải Hoàng Liên[11], chịu đắng nhưng chẳng thể nói được! Xin hãy sáng suốt suy xét, đây là lời dặn dò cuối cùng của Quang!
(thư thứ tám)
Ông vọng tưởng tơi bời mà vẫn gấp muốn được nhất tâm bất loạn, tâm ấy chính là cái gốc cho ma dựa. Vì thế, Quang nói: “Pháp môn Tịnh Độ trọng tại tín – nguyện”. Nếu tín – nguyện chân thật, thiết tha, dẫu chưa đắc nhất tâm vẫn có thể vãng sanh. Nếu không có tín – nguyện, dẫu đắc nhất tâm, vẫn chẳng thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử! Vì thế, chẳng khuyên ông miệt mài cầu nhất tâm. Do ông vọng tưởng tơi bời, hễ cầu nhất tâm, nhất định sẽ bị ma dựa! Ông chẳng xét hiểu ý Quang, bèn nghĩ là “mặc kệ, miễn sao thuận tiện thì thôi”. Những kẻ đối với chuyện trước mắt bèn tùy tiện, chắc chắn chẳng phải là người tín – nguyện chân thiết! Nếu tín – nguyện chân thiết, quyết chẳng đến nỗi hờ hững, tùy tiện, để rồi đều chẳng được vãng sanh. Lý vốn chẳng chướng, do ông coi vô lý là hợp lý nên tự sanh chướng ngại thì còn oán trách ai?
Quán Âm Đại Sĩ chính là quá khứ cổ Phật. Nhà khảo chứng tầm mắt nhỏ tí như hạt đậu nhưng cứ nói bừa đạo lý! Há ông chẳng từng đọc phẩm Phổ Môn trong quyển bảy kinh Pháp Hoa, chương Quán Âm Viên Thông trong quyển sáu kinh Lăng Nghiêm? Đọc hai kinh ấy sẽ bật cười trước những lời lẽ của bọn khảo chứng. Sách [Quán Thế Âm Bồ Tát] Bổn Tích [Cảm Ứng] Tụng không gì chẳng nói rõ. Chỉ vì ông tâm khí thô phù, trọn chưa hề hiểu rõ ngữ khí và ý nghĩa của đoạn văn trước lẫn đoạn văn sau, nên mới mờ mịt, không biết theo hướng nào!
Ba cô con gái của vua Diệu Trang[12] là ngoa truyền. Cao Vương Kinh là ngụy kinh. Tụng kinh ấy thì vẫn có công đức chẳng ít, do [trong ấy] có thật nhiều danh hiệu Phật. Kinh này đã lưu truyền từ thời Lục Triều[13]. Người thật sự thông hiểu Phật pháp chẳng đề xướng, nhưng muốn cho tục nhân gieo thiện căn nên cũng chẳng ra sức ngăn trở.
Ông thật đáng gọi là kẻ cuồng bậc nhất! Tâm vinh hoa trong cõi đời như sóng biển vỗ đập ào ào mà muốn ngay lập tức gió yên, sóng lặng, lắng trong, bất động. Tâm gấp muốn cầu được bất động chính là cái gốc của mọi sự đua nhau dấy động đấy! Lại như nồi đã sôi trào, cứ tận lực tăng thêm lửa mà mong cho nó chẳng trào sùng sục, há có được chăng? Quang nói với ông toàn là những chuyện “lặng gió, rút bớt củi”, nhưng ông chẳng xét kỹ, vẫn cho là khuấy sóng, sôi trào thêm, há chẳng đáng buồn quá đỗi ư? Ông hãy đọc kỹ Văn Sao, Gia Ngôn Lục, ắt sẽ chẳng đến nỗi tự phụ bạc ông. Nếu không, đừng coi tôi là thầy, hãy bái vị cao minh [nào khác làm thầy], Quang cũng chẳng hỏi đến ông nữa!
(thư thứ chín)
Lá thư dài đã nhận được. Do ông nói sẽ đi ngay, tôi tính gởi thư sang cho Đức Chánh ở Trùng Khánh, nên trả lời chậm trễ. Hôm qua nhận được thư ông, biết ông vẫn chưa trở về Tứ Xuyên, nên tôi nói đại lược. Sát kiếp hiện thời có thể nói là “từ xưa đến nay chưa hề có!” Đang trong lúc thế đạo nhân tâm chìm đắm đến cùng cực này, làm dân đen cố nhiên là khổ, nhưng nỗi khổ của trưởng quan còn sâu đậm hơn trăm họ gấp hằng hà sa lần! Cha ông là Hoàn Quân Ông có tầm nhìn gần giống như ông, đều chưa thấy thấu suốt! Quân nhân hiện thời nói chung phải chú trọng thắng địch, từ sáng đến tối luôn suy nghĩ cách đánh thắng địch. Ông muốn đắc nhất tâm, thấy được hảo tướng ngay mà vẫn còn có thứ vọng tưởng ấy. May mà ông được Quang nói toạc ra. Nếu không, chắc chắn bị ma dựa!
Ước theo thân phận ông để luận, hãy nên giữ vững lòng chí thành, cung kính, lễ niệm là được rồi, đừng miệt mài cầu tương ứng thì sẽ có ích, không bị tổn hại. Nếu không, sẽ nguy hiểm hơn vào vực sâu, bước trên băng mỏng đấy! Ông nói: “Làm sĩ quan thì người khác chẳng dám khinh khi!” Hãy thử nghĩ xem quỷ có dám khinh ông hay chăng? Đã làm sĩ quan, há chẳng thể không chú trọng giết địch? Nếu giết cho đúng thì vẫn còn chưa đến nỗi bị trời phạt rành rành. Nếu không, sẽ như Bào Siêu[14] ở quý tỉnh, Quách Tử Mỹ ở Hồ Nam, chẳng đáng thương xót lắm ư? Đầu đời Tống, Tào Bân[15] làm nguyên soái, chẳng giết lầm một ai, nên [con cháu] mấy đời sang quý, vinh hiển. Tào Hàn là phó soái của Tào Bân, do Giang Châu đã lâu chưa chịu hàng bèn tàn sát cả thành. Không lâu sau, thân chết, con cháu tuyệt diệt, còn nhiều lần mang thân lợn (vào thời Vạn Lịch nhà Minh, ông ta từng báo mộng cho Lưu Ngọc Thụ[16]) bị người khác mổ xẻ. Những con vật nay làm thức ăn cho người khác, phần nhiều là do những đại nhân vật giống như vậy biến thành, há nên hâm mộ sự hống hách một thời ư?
Nếu chủ soái có lòng nhân như Tào Bân, chính mình đã biết nhân quả Phật pháp, hễ gia nhập quân đội, chánh trường sẽ có thể trừ bạo an dân, ngõ hầu đối với mình và đối với dân đều có công. Nếu nay coi mạng người như cỏ rác, binh sĩ lại không có kỷ luật, đến đâu cũng đều cướp bóc, gian dâm; ông đã bị người khác khống chế, há chẳng thể không tận hết chức trách ư? Hễ tận hết chức trách thì chẳng thể thuận theo lòng mình nghĩ mà phải hoàn toàn tuân theo mạng lệnh của người khác. Như vậy thì tuy có thể làm cho dân quê kính sợ, nhưng tôi trộm sợ quỷ thần chẳng kính sợ, sẽ muốn giáng họa, đến nỗi chính mình và người thân đều bị tổn hại đấy!
Cha ông tuy là một thiện nhân, nhưng tâm chuộng thể diện quá lớn, vì thế đang trong đời loạn này vẫn gấp muốn xây dựng từ đường. Thử nghĩ: Người nghèo khổ không có từ đường mà vẫn làm người được, cần gì cứ phải kiếm một chức quan trong đời loạn, dựng ngay từ đường ư? Ông nghe theo hay không, Quang chẳng cản ông; chỉ không thể chẳng thuật lợi – hại cùng ông! Nếu ông biết điều này thì ở trong cả hai giới quân sự lẫn chánh khách cũng đều rất có ích, chứ không phải là những lời nói thừa thãi vô dụng!
Ông không hiểu chuyện quá sức, Quang quở trách ông vẫn là vì ông không hiểu rõ cho nên chỉ dạy ông. Lời lẽ chẳng thống thiết sẽ không thể động tâm ông được! Ông lại tưởng là tôi giận dữ bèn hai lần dùng chữ “vạn tử” (đáng chết vạn lần), ba lượt dùng chữ “vạn vọng vật giới ý” (muôn vàn mong mỏi đừng để ý). Vậy là ông nghĩ tôi là hạng sân độc không thể hình dung được, là hạng người bỉ ổi, thô ác, hung tợn chẳng đáng tiếp xúc. Sao chẳng biết sự vụ đến mức như thế? Không có chuyện gì chớ nên gởi thư đến nữa!
(thư thứ mười)
Sao ông không biết sự vụ đến mức như thế. Quang là hạng người nào mà có thể sánh bàn với Liên Trì đại sư? Ông nói lời ấy nhằm tâng bốc Quang, chẳng biết là đã hủy báng Quang vậy! Từ nay về sau đừng dùng [lời lẽ] “đem phàm lạm thánh” để tâng bốc tôi như thế nữa! Tôi thấy lời ấy như bị đánh, như bị nhạo báng, hổ thẹn khôn ngằn!
1) “Tâm thanh, trăng hiện”, há nên bàn luận theo kiểu chấp chết cứng? Cần biết rằng: Phàm phu có sự trong lặng hiển hiện của phàm phu, Thanh Văn có sự trong lặng hiển hiện của Thanh Văn, Bồ Tát có sự trong lặng hiển hiện của Bồ Tát; chỉ có thành Phật mới có thể đạt tới sự trong lặng hiển hiện rốt ráo. Nếu nói đúng như pháp thì trong hết thảy những địa vị khác đều chẳng phải là trong lặng hiển hiện, chỉ có Phật mới là trong lặng hiển hiện. [Do vậy, ông cho rằng] lời đại sư Liên Trì trở thành sai ngoa, chẳng biết chính mình hoàn toàn chưa mở được chánh nhãn nên mới có thứ lập luận mù quáng ấy! Sao lại khổ sở như thế?
Sự trong lặng hiển hiện của phàm phu là sự trong lặng hiển hiện do quán hạnh. Thanh Văn đoạn Kiến Hoặc, Tư Hoặc chính là sự trong lặng hiển hiện thuộc về địa vị Tương Tự. Bồ Tát thuộc địa vị Nội Phàm, [tức là những địa vị] từ Sơ Tín đến Thất Tín cũng giống như Thanh Văn. Bát, Cửu, Thập Tín phá Trần Sa, chứng Pháp Không, há nên nói là “phá Pháp Không”? Sơ Trụ liền phá Vô Minh, chứng Pháp Thân. Đây chính là địa vị đầu tiên của bậc Phần Chứng. Cho đến Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Đẳng Giác (Đẳng Giác là địa vị cuối cùng thuộc Phần Chứng. Trong các địa vị thuộc Phần Chứng, phàm những gì Phật chứng được, họ đều chứng, nhưng chưa chứng được viên mãn rốt ráo). Bốn mươi mốt địa vị chính là sự trong lặng hiển hiện nơi Phần Chứng; chỉ có Phật mới là trong lặng hiển hiện rốt ráo.
Hơn nữa, ngay trong một địa vị còn có vô lượng vô biên [tầng cấp chứng ngộ] sâu – cạn bất đồng. Ví như người nước ngoài đến Trung Quốc, vừa đến biên giới Trung Quốc liền có thể nói là “đã đến Trung Quốc”, nhưng từ đấy vẫn còn có đường dài mấy ngàn dặm mới tới được kinh đô Trung Quốc. Ý ông cho rằng: “Đã đến rồi thì không cần bàn đến đường đi nữa; đã chưa đắc đạo mà nói sự hiển hiện trong lặng thì thành sai ngoa, trái nghịch với sự tướng cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh”. Lỗi ấy là do ông thích xưng là bậc thông gia, chứ không phải vì Liên Trì đại sư nói lời chẳng thích đáng! Từ nay về sau, hãy nên sốt sắng niệm Phật, bớt nói lời phô trương! Nếu vẫn [dùng lời lẽ] đem phàm lạm thánh tâng bốc Quang như thế tức là khiến cho thiên hạ hậu thế thóa mạ Quang! Sao lại khổ sở làm những chuyện tổn hại vô ích như thế?
2) Lời của Liên Trì đại sư là lời viên dung vô ngại. Nếu [là người] căn cơ sâu, y theo đó tu trì sẽ có đại lợi ích. Nếu căn cơ nông cạn, hoặc mắc khuyết điểm chấp Lý phế Sự, chỉ nên chiếu theo sự tướng chí thành trì danh thì mới là ổn thỏa. Thuyết “Lý nhất tâm” do không làm được, có nói cũng vô ích; chỉ không đề xướng là được rồi, [chứ thốt ra] hai chữ “bài xích” chẳng phải là ăn nói vớ vẩn hay sao? “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Nếu chẳng làm Phật mà nói “tâm này là Phật” thì có thể bài xích được. Nếu niệm Phật mà nói “tâm này là Phật” thì đấy chính là căn bản để khuyên người, há nên lẫn lộn thốt lời bài xích! Nếu bài xích sẽ trở thành tà kiến, tội cực nặng! Phàm quán tưởng hay trì danh đều gọi là “làm Phật”.
3) Lời ấy của Liên Trì đại sư dành cho kẻ chuyên chí quán tưởng. Ông đem cái tâm suy tưởng tán loạn của ông để so đo, nên trở thành lời lẽ chẳng biết thân phận! Phàm phu tâm như khỉ – vượn, chẳng thể định được trong khoảnh khắc nào, há có thể tưởng tướng nào sẽ thấy được tướng ấy ư? Nếu thâm tâm quán tưởng, quán cái này lại thấy cái kia, tức là không tương ứng. Vì thế gọi là tà, là chẳng tương ứng! Ông lại cho là ma thì là đã sai quá rồi! Nhưng nếu chẳng tương ứng mà chẳng nhận biết thì lâu ngày chắc sẽ có ma sự!
4) Ông thật sự là một gã hồ đồ chẳng biết trời cao đất dầy nên mới dám dẫn chuyện Thiện Đạo đại sư xả thân để làm tiền lệ. Ngài Thiện Đạo niệm Phật miệng tỏa quang minh, chính là bậc thánh nhân đại thần thông. Lâm chung, Ngài trèo lên cây liễu nói kệ, nhảy xuống bèn đứng qua đời, ông ngỡ là Ngài từ trên cây té xuống chết! Ông đúng là tội lỗi, mắt quáng mà chuyên thích nói lời lẽ mù quáng. Ông muốn xả thân sẽ thành con quỷ chết oan, mong sanh Tây Phương thì có mộng cũng chẳng mơ được đâu! Trong những truyện ký về Thiện Đạo đại sư, đôi khi có những chỗ lời văn chưa thể hiện rõ ý nghĩa mầu nhiệm này cho nên ông tưởng là Ngài xả thân mà chết!
Ông từng thấy chuyện của Châu Tiến Sĩ trong Kim Cang Kinh Cảm Ứng[17] hay chưa? [Ông Châu] nghe bốn câu kệ của kinh Kim Cang sanh lòng hoan hỷ; chẳng lâu sau mộng thấy theo năm kẻ [tội nhân] nọ ngồi xe đến một nhà. Năm người đều uống canh, ông ta muốn uống, nhưng người dẫn ông ta đi (tức gã quỷ sứ áp giải tội nhân) không cho uống, liền tỉnh giấc. Trong tâm hết sức lạ lùng, tìm đến nhà ấy, họ nói có sáu con chó vừa mới sanh, một con chết ngay. Do vậy, ông ta chuyên trì kinh Kim Cang, đến năm tám mươi chín tuổi trèo lên cây nói kệ, rồi buông mình xuống, đứng yên qua đời. Trong đời này, người ấy [đáng lẽ] biến thành chó, nhưng do mấy chục năm trì kinh Kim Cang nên vẫn có thể từ trên cao nhảy xuống qua đời như thế; huống hồ Thiện Đạo đại sư là bậc đại thánh nhân thần thông mầu nhiệm khôn lường ư? Ông tưởng là xả thân, đáng thương lắm thay! Điều này cũng là cùng một tri kiến với kẻ ngu, thấy Phật nhập Niết Bàn bèn bảo là “Phật chết”.
5) Ông vọng tưởng tột cùng, so với sóng cuộn trong biển cả còn sôi sục hơn rất nhiều. Chỉ nên tự lượng thân phận của chính mình để hành, nào sợ kẻ khác chê cười! Nếu ông trở về nhà ở Thành Đô, hãy nên đem tâm tướng ấy khuyên cha ông là Hoàn Quân Ông hãy thong dong đôi chút để đôi bên đều được thành tựu. Nếu ông tinh thành niệm Phật thì quyến thuộc cũng sẽ có dịp chuyển biến. Ông nội ông là Hưng Toàn Ông còn để lại gia nghiệp, mà ông vẫn nói “khổ sở chẳng thể chịu đựng được!” Nếu ông vốn là gã nghèo cùng, chắc sẽ chẳng còn muốn làm người nữa ư?
Nay ông cực lực muốn chống đỡ thể diện xuông, chính mình lại hoàn toàn khởi lên những vọng tưởng chẳng dựa theo đạo lý ấy. Vọng tưởng ấy có thể làm rạng mày nở mặt tổ tông, trọn hết phận con, báo đáp bà nội kế là Sài lão thái phu nhân, trọn hết trách nhiệm của một tín đồ Phật giáo hay không? Đã biết cảm kích ơn người dẫn dắt nhập đạo, sao chính mình lại làm những chuyện phụ bạc ơn của khắp mọi người thân lẫn ân Phật? Từ nay về sau, ông chỉ nên đọc Văn Sao, đừng gởi thư tới nữa. Tôi quả thật chẳng có tinh thần để thù tiếp những lời lẽ ma mị của ông!
(thư thứ mười một)
Nhận được thư và khoản tiền gởi đến. Đọc thư ông, biết ông cảnh ngộ khốn cùng, biết ông chẳng giữ yên bổn phận. Ông tiền bạc không dư dả, há nên vẫn ương ngạnh giữ thể diện đối với Quang? Quân tử hành xử theo đúng địa vị, hễ nghèo cùng thì chẳng lấy tiền tài làm lễ; huống hồ đối với vị thầy chính mình đã coi như cha như mẹ ư? Do vậy, biết ông một mực luôn mang thứ tình kiến này: “Do không chống giữ được thể diện, bèn muốn tìm cái chết!” Ông chẳng biết đã mang thứ tâm hạnh ấy, hễ chết rồi thì so với việc bị mất thể diện sẽ còn khó chịu đựng hơn vô lượng vô biên hằng hà sa lần!
Trước đây, ông từng nói Trùng Khánh Phật Học Xã khá chuộng Mật Tông, ông muốn lập một cơ sở khác chuyên tu Tịnh Độ. Đấy cũng là lời nói chẳng biết giữ yên bổn phận! Phàm tạo dựng cơ sở, điều thứ nhất là phải được mọi người tin phục. Điều thứ hai là phải có tiền để ứng ra. Tuy quyên mộ mọi người, nhưng chính mình vẫn phải bỏ ra trước. Trong hai điều này, ông chẳng có được một điều nào! Há nên khởi lên những thứ suy tính vượt phận ấy ư?
Trong nhà đã có cơm ăn, chẳng cần phải mong phát tài nứt đố đổ vách nữa! Đối với hai giới quân sự và chánh khách hiện thời, nếu ông chẳng quan tâm đến đầu mặt[18] trong đời sau thì cứ gia nhập cũng chẳng sao. Nếu vẫn lo đến đầu mặt đời sau thì đừng gia nhập sẽ là kế sách tối thượng thượng. Hãy nên bảo cặn kẽ với Đức Chánh Kê thị[19] buông xuống tập khí phú quý, kiêu căng, xa xỉ, hãy ăn mặc, trang sức như phụ nữ nông dân chốn làng quê, cùng với bà ta trở về gia đình ở Thành Đô, nghiêm túc giữ gìn sản nghiệp của tổ phụ. Đấy sẽ là biện pháp rốt ráo ổn thỏa, thích đáng nhất. Những điều khác trước đây tôi đã đều nói qua, nên không cần phải nhắc lại nữa!
(thư thứ mười hai)
Đọc thư ông, khôn ngăn hoan hỷ! Bọn họ trong bảy ngày liền có thể vãng sanh, liền có thể thành Phật thì người trong khắp cả thế gian đều thành Phật. Chúng ta là nghiệp lực phàm phu, ắt sẽ có vô lượng vô biên Phật độ thoát, may mắn chi hơn? Nhưng chúng ta hãy giữ bổn phận ta, nhường cho bọn họ thành Phật độ thoát chúng ta, há chẳng phải là càng ổn thỏa hơn ư? Như bọn họ còn có nguy hiểm, chứ trong pháp môn này của ta trọn chẳng có nguy hiểm! Nếu nghe bọn họ nói thì thật bùi tai, khôn ngăn nhiệt tâm dấy lên. Nếu thành thì may mắn, nhưng bại sẽ thành quyến thuộc ma, thật khiến cho người ta nguội lạnh cõi lòng!
Thần thông của gã X… đã hoàn toàn thất bại. Ngôn luận của gã X… và gã Y… đều đúng là vu báng, miệt thị thánh hiền. Bọn họ đã thành Phật, sao lại có hiện tượng ấy? Do vậy biết: Bọn họ hoàn toàn chẳng khác gì lũ trẻ đầu đường xó chợ, nói chi có Phật tâm cho được? Những điều khác chẳng cần phải nhắc đến nữa!
***
[1] Cao Dã Sơn (Kōya-san) là rặng núi thiêng đối với Phật giáo Nhật Bản, thuộc huyện Hòa Ca Sơn (Wakayama ken) của Nhật Bản. Đây là nơi Sai Nga Thiên Hoàng (Saga-tennō) ban cho Hoằng Pháp Đại Sư Không Hải (Kobodashi Kūkai), sáng tổ Chân Ngôn Tông (Shingon shu) Nhật Bản để lập đạo tràng tu hành sau khi Sư đã dùng đạo đức, mật pháp thuyết phục triều đình chấp nhận Chân Ngôn Tông (Mật Tông) do Sư du nhập từ Trung Quốc về Nhật Bản vào năm Hoằng Nhân thứ bảy (816). Toàn núi có đến 117 ngôi chùa, được coi là Tổng Bổn Sơn (đạo tràng gốc) của mọi chi phái Mật Tông Nhật Bản. Ngôi chùa chánh yếu là Kim Cang Phong Tự (Kongōbu-ji).
[2] Đạt Ma tướng pháp là một trong các cách xem tướng người (nhân tướng) khá phổ biến ở Trung Hoa dựa theo một bài khẩu quyết có tên là Đạt Ma Tổ Sư Tướng Pháp Bí Quyết, tương truyền do tổ sư Bồ Đề Đạt Ma trong chín năm diện bích tại động Thiếu Thất đã “ngộ” ra. Theo ngu ý, đây cũng là một thứ học thuật của người Trung Hoa chế ra rồi mạo nhận tên Tổ Sư để tăng uy tín cho thuật bói toán này. Cũng như Dịch Cân Kinh thường được coi là của tổ sư Bồ Đề Đạt Ma truyền, nhưng dựa trên văn phong, thuật ngữ, các nhà nghiên cứu cho biết Dịch Cân Kinh chỉ có thể xuất hiện sớm nhất vào đầu đời Minh!
[3] Đây là một câu nói trích từ thiên Đại Vũ Mô, sách Thương Thư. Câu này dịch theo cách giải thích của Hán Tự Thành Ngữ Từ Điển.
[4] Trần Bạch Sa (1428-1500) tên thật là Hiến Chương, tự Công Phủ, hiệu Thật Trai, do từng sống ở thôn Bạch Sa nên được gọi là Bạch Sa tiên sinh. Ông Trần chịu ảnh hưởng sâu đậm của Lý Học, từng theo học với học giả Ngô Dữ Bật. Ông ta học rộng, có tài văn chương, rất được các danh nhân đương thời tán thưởng, nhưng suốt đời nghèo hèn, thường nói: “Có hai khoảnh ruộng để cày cấy là đủ rồi!” Ông ta đề xướng đường lối để thấu hiểu đạo Nho là “lấy Tĩnh làm chủ, ngồi yên lắng lòng, trong sự yên tĩnh, dưỡng thần sẽ thấy được đầu mối”. Những kẻ theo đường lối ấy được gọi là Giang Môn Học Phái.
Châu Hối Am chính là Châu Hy, tức một trong những người sáng lập Lý Học.
[5] Đây là một câu nói trích từ thiên Ly Lâu sách Mạnh Tử: “Nam nữ thọ thọ bất thân, lễ dã” (男女授受不親,禮也). Sách Tứ Thư Bạch Thoại Giải: Chữ Thọ (授) là trao, còn Thọ (受) là nhận, thời xưa nam nữ trao đồ vật cho nhau chẳng thể đưa tay đụng chạm. Câu này hiểu theo nghĩa rộng là nam nữ chẳng thể tùy tiện đụng chạm nhau, chỉ trừ những trường hợp bất khả kháng như cứu người chết đuối, đỡ người bị ngã v.v…
[6] Danh xưng tỏ vẻ tôn kính vợ của người khác.
[7] Quyết Trạch (Nairvedhika), gọi đủ là “quyết đoán giản trạch”, tức là dùng vô lậu thánh trí để giải quyết dứt khoát các mối nghi, phân biệt chọn lựa pháp thích đáng. Về sau, Quyết Trạch được dùng như một từ ngữ diễn tả sự chọn lựa, phân định một giáo nghĩa là chánh hay tà, giải trừ mối nghi, chọn lựa đường lối tu hành thích hợp.
[8] Hành Cước, còn gọi là Du Phương, Du Hành, nghĩa là vị Tăng không có nơi ở nhất định, nhằm tham phỏng các vị danh sư mà đi khắp bốn phương.
[9] Chữ “tiểu thuyết” ở đây nhằm chỉ những thứ tiểu thuyết bị coi là “dâm thư” do khơi gợi tình yêu trai gái suồng sã như Tây Sương Ký, Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng v.v…
[10] Nguyên văn: “Phệ tễ bất cập” vốn là một thành ngữ ngụ ý: Giống như con thú tự mình cắn rốn lôi ruột ra, có hối hận cũng đã muộn rồi!
[11] Hoàng Liên (Coptischinensis Franch) vốn là một loại dược thảo, phần làm thuốc chính là phần củ (thân ngầm) vị rất đắng, được tin là có tác dụng giáng hỏa, tiêu độc, thường dùng để chữa các chứng bệnh tiêu chảy, ói mửa, đau răng, tai có mủ v.v…
[12] Dân gian Trung Hoa thường truyền tụng xưa kia tại Trung Hoa có vua Diệu Trang (nhưng không hề nói rõ vua Diệu Trang sống vào thời đại nào) có ba cô con gái. Hai người con đầu xa hoa, tham lam quyền thế, vật chất, tìm mọi cách lấy lòng cha, gièm xiểm người em út. Người con gái thứ ba tên là Diệu Thiện hâm mộ Phật pháp, nhạt mùi danh lợi, trốn hoàng cung đi tu, về sau chứng quả, trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát. Thậm chí để giải thích hình tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn của đức Quán Âm, có nơi còn vẽ rắn thêm chân như sau: Do làm nhiều chuyện ác, đốt chùa, đuổi Tăng, vua Diệu Trang bị đọa địa ngục. Để cứu cha, Diệu Thiện xuống địa ngục, quỷ sứ đòi chuộc mạng, Diệu Thiện phải cắt một cánh tay biếu cho quỷ sứ ăn. Khi trở về dương gian, do cảm mộ tấm lòng từ bi của Diệu Thiện và thấy Ngài mất một cánh tay, dân chúng đã tự động dùng ngọc, đá, vàng, bạc làm thành cánh tay biếu tặng Ngài. Do mạnh ai nấy phát tâm nên dân chúng đã đúc ra 999 cánh tay. Không thể phụ lòng tốt của người khác, Diệu Thiện phải tiếp nhận tất cả. Do vậy Bồ Tát có đến một ngàn cánh tay!
[13] Lục Triều có hai cách hiểu:
1) Sáu triều đại ở phương Nam tức Đông Ngô, Đông Tấn, Nam Tề, Lương, Trần đều đóng đô tại Kiến Khang Nam Kinh nên sử thường gọi là Nam Triều Lục Triều.
2) Sáu triều đại ở phương Bắc là Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Bắc Tề, Tây Châu, Tùy đều ở phương Bắc nên sử gọi là Bắc Triều Lục Triều.
Dù hiểu theo cách nào thì kinh Cao Vương cũng xuất hiện trễ nhất vào thời Trần – Tùy, tức khoảng năm 581.
[14] Bào Siêu (1828-1886), tự Xuân Đình người xứ An Bình, tỉnh Tứ Xuyên, là một danh tướng có công bình định loạn Thái Bình Thiên Quốc, nhưng không biết chữ, là một hung thần đối với quân Thái Bình Thiên Quốc, từng được thăng tới chức Đề Đốc tỉnh Chiết Giang. Tục truyền có lần đánh nhau với quân Thái Bình Thiên Quốc, ông ta bị giặc vây hãm không cách nào phá vòng vây được, phải viết thư cầu cứu, nhưng không biết chữ, đành viết một chữ Bào, vẽ vòng tròn khoanh lại, giao thư cho người chuyển cho Tăng Quốc Phiên. Nhận thư, Tăng Quốc Phiên mở ra đọc, cười lớn, biết ngay là Bào Siêu đang bị vây hãm, bèn phái quân đến cứu.
[15] Tào Bân (931-999) tự Quốc Hoa, người huyện Linh Thọ, Chân Định, là một đại tướng sống vào đầu thời Bắc Tống. Do có công đánh bại Khiết Đan và diệt nhà Bắc Hán, được thăng tới chức Khu Mật Trực Chỉ, rồi do diệt được nhà Hậu Thục nên được thăng lên chức Đô Giám. Trong những cuộc chinh phạt dẹp tan các vương triều đối lập với nhà Tống, ông giữ quân lệnh rất ngặt, nghiêm cấm binh sĩ không được lạm sát dân chúng vô tội, không được gian dâm, cướp bóc bừa bãi khi chiếm được thành.
[16] Tào Hàn (924-992): Thoạt đầu phục vụ dưới trướng Châu Thế Tông (Sài Vinh), từng theo Thế Tông đánh Cao Bình và Ngõa Kiều Quan. Khi Triệu Khuông Dẫn tạo binh biến, cướp ngôi của ấu chúa nhà Châu, lập ra nhà Tống, ông ta liền theo Tống, từng tham dự nhiều trận đánh. Trong khi theo Tống Thái Tổ diệt Nam Đường, vây thành Giang Châu (nay là huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tô), ông ta đã tàn sát cả thành. Năm 979, lại tùng chinh diệt Bắc Hán, đánh Khiết Đan, lập rất nhiều chiến công. Do sát nghiệp quá nặng, con cháu ông ta hoặc chết yểu, hoặc phá tan gia nghiệp, sống lang thang, vất vưởng, rất khổ sở. Đến thời Vạn Lịch nhà Minh, Lưu Tích Nguyên (tự Ngọc Thụ), vốn là người Tô Châu, làm Chủ Khảo khoa thi năm Nhâm Tý (1612) ở Quý Châu. Khi chấm thi xong, trở về quê, thuyền đi ngang một bến sông, chợt mộng thấy một người mặt mũi dài sọc đến thưa: “Tôi là tướng quân Tào Hàn triều Tống. Vào thời Đường làm thương nhân, từng đi qua một ngôi chùa thấy pháp sư giảng kinh, phát tâm thiết trai cúng dường, nghe kinh nửa ngày. Do thiện nhân ấy, từng làm những chức quan nhỏ mấy đời. Đến triều Tống làm Tướng Quân, tức là Tào Hàn, do vì đánh thành Giang Châu đã lâu không được, khi phá được thành liền tức giận tàn sát cả thành. Do sát nghiệp ấy, đời đời làm lợn. Khi sanh trong nhà một tá điền của Ngài, từng được Ngài cứu sống. Ở chỗ Ngài dừng thuyền đây, con lợn bị giết đầu tiên vào sáng mai, chính là tôi, có duyên gặp gỡ Ngài, xin xót thương phát tâm từ bi cứu mạng cho tôi!” Lưu Tích Nguyên tỉnh giấc bèn lên bờ, quả nhiên thấy có một lò mổ gần đấy. Đồ tể khiêng ra một con lợn đang kêu ầm ĩ, Tích Nguyên bèn bỏ tiền ra mua, chở về Tô Châu, thả trong khu vườn phóng sanh của một ngôi chùa ở ngoài cửa Xương Môn. Hễ ai hô “Tào Hàn!” lợn liền cúi đầu, ngoắt đuôi tỏ vẻ mừng rỡ.
[17] Tác phẩm này có tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Cảm Ứng Truyện, không rõ tác giả, được đánh số 1632 trong Tục Tạng Kinh, ghi chép truyện của bốn mươi người do trì kinh Kim Cang được cảm ứng, khởi đầu bằng Diễm Pháp Sư, kết thúc bằng truyện của Lục Ông.
[18] Do Trung Hoa thời đó loạn lạc đến cùng cực, quân phiệt chiếm lãnh các tỉnh, tự xưng hùng xưng bá, liên tục đánh phá, triệt hạ lẫn nhau, nếu làm quân nhân hay chánh khách thời đó sẽ tạo nghiệp rất lớn, đời sau sẽ bị đọa lạc trong tam đồ, sẽ thay đầu đổi mặt, làm ngạ quỷ, súc sanh hay đọa trong địa ngục.
[19] Vợ ông Ôn Quang Hy họ Kê, pháp danh là Đức Chánh.