Thiền Ngữ Lục
Thích Pháp Chánh dịch

 

Pháp Hải hỏi đạo Lục tổ

Thầy Pháp Hải, người huyện Khúc Giang, đất Thiều Châu, đến ra mắt Lục tổ, hỏi:  

– Xin ngài chỉ rõ ý nghĩa của câu “Tức tâm tức Phật.”  Lục tổ nói:  

– Niệm trước không sinh tức là tâm, niệm sau không diệt tức là Phật; hiện khởi tất cả hình tướng tức là tâm, xa lìa tất cả hình tướng tức là Phật. Nếu ta nói đầy đủ thì không bao giờ hết. Hãy nghe ta nói kệ:

Tức tâm là huệ
Tức Phật là định
Định huệ quân bình
Tâm ý thanh tịnh
Ngộ pháp môn này
Là do tập tính
Dụng vốn không sinh
Song tu là chính .

Thầy Pháp Hải nghe xong liền khai ngộ, bèn làm kệ tán thán:

Tức tâm vốn là Phật
Không ngộ nên chịu khuất
Biết định huệ nguyên nhân
Song tu lìa cảnh tướng.

Lạy không sát đất 

 Thầy Pháp Đạt, người đất Hồng Châu, xuất gia lúc bảy tuổi, thường trì tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Một hôm đến ra mắt Lục tổ, lúc lạy xuống đầu không chạm đất. Lục tổ thấy thế liền quở trách:  

– Lạy mà đầu không chạm đất thì cũng chẳng khác gì không lạy. Ta biết chắc là thầy đang có một tâm sự khiến cho thầy tỏ vẻ rất tự phụ. Chung quy, việc gì đã khiến thầy tự phụ như vậy? 

Pháp Đạt trả lời: 

– Tôi đã tụng được ba ngàn bộ Kinh Pháp Hoa

Lục tổ nghe xong, cười nói: 

– Giả như thầy tụng đến một vạn bộ, lĩnh ngộ được ý chỉ của kinh, mà không tỏ ra tự phụ thì mới có thể đến đây học Phật pháp. Hiện nay thầy chẳng qua chỉ tụng được ba ngàn bộ mà đã cống cao ngã mạn, mà lại cũng chẳng hề tự biết lỗi mình. Hãy nghe ta nói kệ: 

Lạy để trừ ngã mạn 

Sao đầu không chạm đất Chấp ngã ắt tội sinh Quên ngã, phước vô lượng. 

  Lục tổ hỏi tiếp:  – Thầy tên gì? 

– Pháp Đạt. 

Lục tổ nói:  

– Tên Pháp Đạt nghe rất hay. Pháp Đạt nghĩa là thông đạt vạn pháp, nhưng thầy đã thông đạt được pháp gì, nói ta nghe thử? 

Kế đó, Lục tổ bèn nói kệ: 

Thầy tên là Pháp Đạt
Tuy tụng không ngừng nghỉ
Nhưng chỉ theo âm thanh
Ngộ mới là Bồ tát
Thầy nay có duyên lành
Mới nghe ta nói pháp
Nếu tin Phật vô ngôn
Lời Phật từ miệng phát.

 Sau khi xong nghe bài kệ, Pháp Đạt vội vàng sám hối tạ tội, nói: 

– Đa tạ Đại sư chỉ điểm, từ đây về sau, con sẽ thay đổi thái độ, dùng tâm khiêm hư cung kính mà đối đãi mọi người. Lúc trước, tuy mỗi ngày con đều đọc tụng Kinh Pháp Hoa, nhưng rất tiếc chưa hiểu rõ nghĩa lý của nó, cho nên trong tâm lúc nào cũng chất chứa nghi ngờ. Đại sư là bậc trí tuệ cao minh, không biết ngài có thể giảng giải ý nghĩa trong kinh cho con được rõ?  Nghe xong, Lục tổ nói:  

– Pháp Đạt! Pháp vốn thông đạt, chỉ vì tâm thầy không thông đạt; kinh vốn không có chỗ đáng nghi, chỉ vì tâm thầy tự sinh nghi. Thầy từ xưa nay chỉ y vào mặt chữ mà tụng niệm, có biết tông thú của kinh là gì hay không? Pháp Đạt trả lời: 

– Căn tính con ám độn, xưa nay chỉ y vào mặt chữ đọc tụng, đâu biết tông thú là gì! 

Lục tổ nói:  

– Ta không biết chữ, thầy hãy đem quyển kinh ra tụng một lần, ta sẽ giải thích nghĩa lý của kinh. 

Pháp Đạt bèn lớn tiếng đọc kinh, đến phẩm Thí Dụ, Lục tổ bảo: 

Ngừng lại! Kinh này vốn dùng nhân duyên xuất thế làm tông thú, dù có nêu lên nhiều thí dụ, nhưng cũng không ngoài ý nghĩa này. Nhân duyên thế nào? Kinh nói: “Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện trên đời, đó là tri kiến Phật.” Người đời, ngoài thì chấp tướng, trong thì chấp không. Nếu có thể không chấp vào tướng cũng không chấp vào không thì trong ngoài đều sẽ không bị mê lầm. Nếu thể ngộ được pháp môn này thì trong một niệm tâm sẽ khai mở, đây tức là khai tri kiến Phật. Phật có nghĩa là giác, phân làm bốn môn: khai giác tri kiến, thị giác tri kiến, ngộ giác tri kiến và nhập giác tri kiến. Nếu nghe khai thị mà có thể ngộ nhập tức là giác tri kiến, nghĩa là chân tính vốn có xưa nay sẽ hiển hiện. Thầy phải cẩn thận, không nên hiểu lầm ý nghĩa của kinh, nghe người khác nói ‘khai thị ngộ nhập’ thì liền nghĩ rằng đó là tri kiến của Phật, mà mình không có phần. Nếu hiểu sai như vậy tức là phỉ báng kinh điển và chư Phật. Chư Phật đã là Phật, đã đầy đủ tri kiến, cần gì đến khai thị? Hiện nay thầy nên hiểu rằng tri kiến của Phật tức là tự tâm của mình, chứ không phải là Phật nào khác. Đại khái là vì tất cả chúng sinh tự che lấp ánh sáng của bổn tâm, tham mê trần cảnh, bên ngoài thì bôn ba, bên trong thì rối loạn, cam phận để cho nghiệp duyên lôi kéo, làm phiền chư Phật phải ra khỏi tam muội, thị hiện thế gian, ân cần khuyên nhắc chúng ta phải nên dứt trừ phiền não, chớ nên tìm cầu bên ngoài thì sẽ chẳng khác gì Phật, cho nên gọi là khai tri kiến Phật. Ta thường khuyên mọi người nên khai tri kiến Phật trong tự tâm mình. Người đời tâm tưởng tà vạy, ngu mê tạo nhiều tội chướng, ngoài miệng thì ngọt ngào, trong tâm thì tà ác, tham sân, ghen ghét, dua nịnh, ngã mạn, hiếp đáp người khác, tổn hại sinh vật, tự khai tri kiến chúng sinh; nếu có thể cải đổi tự tâm, thường phát sinh trí tuệ, quán chiếu tự tâm, dứt ác làm thiện, thì đây là tự khai tri kiến Phật. Thầy nên niệm niệm khai tri kiến Phật, chớ đừng nên khai tri kiến chúng sinh.  Khai tri kiến Phật tức là xuất thế, còn khai tri kiến chúng sinh tức là thế gian. Nếu thầy chỉ biết bo bo chấp vào sự tụng niệm, cho rằng đó là tu hành, thì có khác gì con trâu mao mến tiếc cái đuôi của nó? Pháp Đạt trả lời:  

– Nếu vậy thì chỉ cần hiểu nghĩa mà không cần tụng kinh hay sao? 

Lục tổ nói:  

– Kinh có lỗi gì, chả lẽ nó làm chướng ngại thầy hay sao? Mê ngộ là do người, tổn ích là do mình. Nếu miệng tụng niệm mà tâm làm theo, thì đây tức là mình chuyển kinh. Hãy nghe ta nói kệ: 

Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng lâu không hiểu ý
Nghĩa lý thành oan gia
Vô niệm là chánh niệm
Hữu niệm, niệm thành tà
Hữu vô đều xả bỏ
Được ngồi bạch ngưu xa.

 Pháp Đạt nghe nói, bất giác ứa nước mắt. Lục tổ vừa đọc xong bài kệ, thì thầy ấy liền được đại ngộ, bèn nói với Lục tổ: 

– Con từ xưa đến nay chưa từng chuyển Kinh Pháp Hoa mà bị Kinh Pháp Hoa chuyển. 

  Kế đến hỏi: 

– Kinh nói: “Các vị đại Thanh văn, nhẫn đến các Bồ tát cùng nhau suy lường, cũng không trắc lượng được trí tuệ của Phật.” Hiện nay khiến cho phàm phu chỉ liễu ngộ được tự tâm thì gọi là tri kiến Phật. Nếu không phải bậc thượng căn mà nghe được lời này ắt sẽ sinh tâm nghi ngờ hủy báng. Hơn nữa, kinh nói đến ba loại xe, xe dê, xe trâu và xe trâu trắng lớn (đại bạch ngưu xa) có gì khác biệt hay không. Cúi xin Hòa thượng chỉ dạy. 

  Lục tổ nói: 

– Ý kinh rõ ràng, chỉ vì ông bị mê mờ. Các hành giả ba Thừa không thể trắc lượng trí tuệ Phật, lý do là vì dùng sự suy lường. Suy lường càng nhiều thì càng không trắc lượng được trí tuệ Phật. Đức Phật vốn vì phàm phu chứ không phải vì chư Phật. Nhiều hành giả không hiểu rõ ý này nên đành phải thoái lui khỏi pháp hội. Họ không biết rằng mình đang ngồi trên xe trâu trắng mà vẫn cứ tiếp tục đi tìm ba loại xe kia. Huống chi kinh văn có nói rõ: “Chỉ có một Phật thừa, không có các thừa khác, hoặc hai hoặc ba, nhẫn đến chư Phật dùng vô số phương tiện, các loại nhân duyên, thí dụ, ngôn từ đều là vì muốn diễn đạt một Phật thừa mà thôi.” Tại sao thầy lại không hiểu. Ba xe là giả, chỉ là phương tiện, Nhất thừa là thật, hiện nay hiển bày. Kinh chỉ rõ phương pháp bỏ cái giả quay về cái thực, sau khi đã quay về cái thực, thì tên cái thực cũng không còn. Nên biết tất cả tài sản của ông trưởng giả đều thuộc về thầy, thầy tha hồ hưởng dụng, mà cũng không cần tưởng nghĩ đến cha, hoặc tưởng nghĩ đến con, mà cũng không cần đến sự tưởng nghĩ, đây gọi là thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Từ kiếp này qua kiếp khác, tay không rời quyển kinh, ngày đêm sáng tối không lúc nào là không trì tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Pháp Đạt nghe được lời khai thị của Lục tổ, cảm thấy vô cùng hoan hỷ, bèn đọc kệ tán thán: 

Tụng kinh ba ngàn bộ
Một lời Tổ liền quên
Chưa rõ đạo xuất thế
Kiếp nào dứt lụy phiền
Ba xe là quyền biến
Ba thời khéo tuyên dương
Ai ngờ trong nhà lửa
Vốn đã có Pháp vương.

Lục tổ nói:  

 – Thầy từ nay trở đi có thể được gọi là người khéo tụng kinh.  

 Sau khi lĩnh thọ ý chỉ thâm sâu của Lục tổ, Pháp Đạt vẫn tiếp tục siêng năng tụng kinh không dứt. 

 

Ba thân bốn trí 

Thầy Trí Thông, người vùng An Phong, đất Thọ Châu, đã đọc qua Kinh Lăng Già hơn ngàn lần mà vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của ba thân bốn trí bèn tìm đến thỉnh cầu Lục tổ giải thích. Lục tổ nói: 

– Ba thân tức là pháp thân, báo thân và hóa thân. Trong đây, Thanh tịnh pháp thân tức là Phật tính vốn có của chúng ta, Viên mãn báo thân tức là trí tuệ, còn Thiên bách ức hóa thân tức là hành vi. Ba thân này chỉ là những danh từ giả lập, mục đích là để chỉ dẫn cho những người chưa hiểu rõ. Nếu chúng ta xa lìa bản tính để bàn về ba thân thì chẳng khác gì có thân mà không có trí; chỉ cần hiểu rõ ba thân này đều từ một tự tính phát sinh, chứ không phải mỗi thân đều có tự tính riêng biệt, thì có thể liễu ngộ bốn trí bồ đề, tức là đại viên kính trí, bình đẳng tính trí, diệu quán sát trí và thành sở tác trí. Hãy nghe ta nói kệ: 

Tự tính đủ ba thân
Phát sinh thành bốn trí
Không lìa duyên thấy nghe
Siêu nhiên lên Phật địa
Ta nay nói thầy nghe
Tin sâu dứt mê hoặc
Đừng học kẻ truy cầu
Chỉ bàn suông Bồ đề.

Trí Thông nghe xong, hỏi tiếp: 

– Xin ngài giải thích thêm về ý nghĩa của bốn trí. 

Lục tổ nói:  

– Chẳng phải ta đã nói với thầy rồi hay sao? Chỉ cần thầy lĩnh hội ý nghĩa của ba thân, thì tự nhiên sẽ hiểu rõ ý nghĩa của bốn trí, tại sao thầy lại còn hỏi ta về ý nghĩa của bốn trí. Ly khai ba thân mà bàn bốn trí thì gọi là có trí mà không có thân. Giả như thầy có miễn cưỡng làm ra vẻ hiểu rõ, cũng không được lợi ích gì cả. Tuy nói có trí nhưng so với kẻ vô trí cũng không có gì khác biệt.  

Lục tổ bèn nói kệ: 

Đại viên kính trí tính thanh tịnh
Bình đẳng tính trí tâm không bệnh
Diệu quán sát trí không phân biệt
Thành sở tác trí không chấp trước
Các thức làm nhân quả cho nhau
Chỉ là tên gọi, không thực tính
Nếu như không chấp vào cảnh giới
Bất cứ nơi nào đều vô ngại.

Trí Thông nghe xong bài kệ, thể ngộ được trí tuệ trạm nhiên nơi bản tính, liền làm một bài kệ dâng lên Lục tổ: 

Ba thân là bổn thể
Bốn trí là tâm sáng
Thân trí đều vô ngại
Tùy cảnh mà hiển hiện
Mống tâm đều là vọng
Trụ tâm cũng chẳng chân
Nhờ Tổ mà hiểu đạo
Bỏ việc bàn luận xuông.

Trí Thường hỏi đạo Lục tổ 

Thầy Trí Thường, người huyện Quý Khê, đất Tín Châu (tỉnh Giang Tây), xuất gia từ nhỏ, một lòng mong cầu khai ngộ. Một hôm, Trí Thông đến hỏi đạo, Lục tổ bèn hỏi: 

– Thầy từ nơi nào đến, muốn cầu điều gì? 

  Trí Thường trả lời: 

– Gần đây con có đến chỗ Hòa thượng Đại Thông ở núi Bạch Phong, đất Hồng Châu, khẩn cầu giải thích ý nghĩa của việc kiến tính thành Phật, thế nhưng trong tâm  vẫn còn nhiều nghi vấn chưa được giải quyết. Hôm nay con từ xa đến đây đảnh lễ Đại sư, cốt mong ngài từ bi khai thị để con hiểu rõ vấn đề này. 

– Hòa thượng Đại Thông đã nói gì với thầy, hãy nói lại cho ta nghe. 

– Con đến chỗ Hòa thượng Đại Thông, ở đó ba tháng, nhưng vẫn chưa được nghe Hòa thượng khai thị hoặc dạy dỗ điều gì. Sau đó vì tâm cầu đạo tha thiết,  không thể nhẫn nại thêm được, một hôm con bèn một mình tìm đến phương trượng để thỉnh cầu Hòa thượng chỉ bảo đạo lý về tâm tính. Hòa thượng bảo con: 

– Thầy có thấy hư không hay không? 

– Dạ có. 

Hòa thượng Đại Thông lại hỏi: 

– Thầy thấy hư không cũng có hình tướng, phải không? 

Con trả lời: 

– Hư không vô hình, làm gì có hình tướng? 

Hòa thượng Đại Thông bèn nói với con: 

– Đúng vậy, bản tính của thầy cũng giống như hư không, không có vật gì có thể thấy được, cũng không có vật gì có thể nhận biết, điều này mới là sự hiểu biết chân chính. Không có sự phân biệt màu sắc dài ngắn mà chỉ thấy bổn nguyên thanh tịnh, giác thể tròn đầy trong sáng, đây gọi là kiến tánh thành Phật, cũng gọi là tri kiến Như Lai. 

Con tuy nghe Hòa thượng Đại Thông khai thị như vậy, nhưng rốt cuộc vẫn không hiểu rõ ý nghĩa của ngài muốn nói, thành thử hôm nay con khẩn cầu Đại sư từ bi khai thị cho con được rõ. 

Lục tổ Đại sư nghe xong bèn nói:  

– Cái mà Hòa thượng Đại Thông nói vẫn còn bao hàm tri kiến, cho nên mới khiến cho thầy khó hiểu. Bây giờ ta đọc cho thầy nghe một bài kệ: 

Không thấy pháp, còn cái “vô kiến”
Giống như mây che khuất mặt trời
Không biết pháp, nhưng vẫn “biết không”
Giống như bầu trời sinh điện chớp
Chỉ cần tạm khởi tri kiến đó
Nhận lầm, chưa từng biết phương tiện
Nếu như tự biết mình thấy sai
Trí tuệ linh quang sẽ hiển hiện.

Trí Thường nghe xong bài kệ của Lục tổ, liền buông bỏ tất cả nghi ngờ, đồng thời làm một bài kệ: Vô cớ sinh tri kiến 

Chấp tướng cầu Bồ đề
Tâm còn một niệm “ngộ”
Làm sao vượt khỏi “mê”
Tự tánh giác xưa nay
Uổng theo dòng sinh tử
Nếu như không gặp Tổ
Vẫn còn chấp hai đầu.

Một hôm, Trí Thường hỏi Lục tổ: 

– Lúc Đức Phật giảng Kinh Pháp Hoa đã từng ví dụ Thanh văn thừa như xe dê, Duyên giác thừa như xe hươu, Bồ tát thừa như xe trâu, thế nhưng sau đó lại còn thêm xe trâu trắng lớn để ví dụ cho Tối thượng thừa. Con thực sự vẫn chưa hiểu rõ, cúi xin Tổ sư từ bi khai thị. 

  Lục tổ nói:  

– Thầy nên hồi quang phản chiếu bản tâm của chính mình, không nên hướng ngoại tìm cầu, chấp trước pháp tướng bên ngoài. Phật pháp xưa nay vốn không có sự phân biệt bốn thừa như vậy, chỉ do tâm người tu khởi lên những sự phân biệt mà thành ra có (bốn thừa). Chỉ biết thấy nghe tụng niệm, đó là hạng Thanh văn thừa; có thể liễu ngộ, giải nghĩa Phật pháp, đó là hạng Duyên giác thừa; có thể xác thực y vào pháp tu hành, đó là hạng Bồ tát thừa; còn hạng Tối thượng thừa phải là những bậc thấu rõ vạn pháp, đầy đủ vạn pháp, không bị nhiễm ô, lìa các pháp tướng, không bị dính mắc vào bất cứ pháp nào. Hành giả Tối thượng thừa chuyên trọng thực hành, chứ không phải chỉ đấu khẩu tranh luận nghĩa lý. Bởi vậy thầy cần phải y vào pháp mà hành động, siêng năng tu hành, không cần phải hỏi nhiều, mà ta cũng không tu thế cho thầy được. Trong bất cứ lúc nào, tự tính như như bất động, phải biết rõ ràng tâm thái của mình đang chuyển biến như thế nào. 

 Trí Thường nghe xong, vô cùng hoan hỷ, từ đó theo làm thị giả cho Lục tổ mãi đến trọn đời. 

 

Chí Đạo hỏi đạo Lục tổ 

 Thầy Chí Đạo, người huyện Đông Hải, tỉnh Quảng Đông, đến thỉnh giáo Lục tổ: 

-Con từ lúc xuất gia đến nay nghiên cứu Kinh Niết 

Bàn cũng đã mười mấy năm, nhưng vẫn chưa hiểu rõ đại ý của kinh, ngưỡng mong Đại sư từ bi khai thị cho con được rõ. 

 Lục tổ nghe xong bèn hỏi: 

– Thầy không hiểu chỗ nào?  Chí Đạo trả lời: 

– Trong kinh có một bài kệ nói: “Các hành vô thường, là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là lạc.” Đây là chỗ con không hiểu.   Lục tổ hỏi lại: 

– Mấy câu kệ này ý nghĩa rất rõ ràng, tại sao thầy vẫn còn nghi ngờ không hiểu?  Chí Đạo trả lời: 

– Tất cả chúng sinh đều có hai thân, tức là sắc thân và pháp thân. Chúng ta đều biết rằng sắc thân không trường tồn, là vật vô thường, có sinh có diệt, nhưng pháp thân thì vĩnh viễn tồn tại, vô tri vô giác. Kinh nói: “Sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là lạc”, không biết có phải là chỉ cho sắc thân tịch diệt và pháp thân thọ lạc, hay là chỉ cho pháp thân tịch diệt và sắc thân thọ lạc? Nếu nói pháp thân thọ lạc, thì lúc sắc thân do tứ đại hòa hợp bị phân tán, trên nguyên tắc chỉ toàn thống khổ, làm gì có sự khoái lạc? Hơn nữa, lúc pháp thân tịch diệt, chúng ta biến thành tựa hồ cỏ cây gỗ đá, làm gì có thể thọ lạc? Có thể nói như vầy: pháp tính là bổn thể của sắc thân sanh diệt, bổn thể này xuyên qua tác dụng của ngũ uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) mà hiển bày hiện tượng sanh diệt. Nói cách khác, bổn thể làm nhân cho năm loại tác dụng của ngũ uẩn, mà phát sinh hiện tượng sinh diệt không ngừng. Sinh là do bổn thể nương vào sắc thân mà khởi động tác dụng của ngũ uẩn, còn diệt tức là sau khi sắc thân bị diệt vong, năm uẩn ngừng dứt các hoạt động. Giả như có đời sau, thì các chúng sinh hữu tình tuy sinh nhưng không phải là vĩnh viễn sinh, tuy diệt cũng không phải là vĩnh viễn diệt. Như vậy sinh diệt không ngừng chẳng phải cũng đồng như không ngừng không diệt hay sao? Lúc đó làm sao có thể giải thích ý nghĩa “tịch diệt là lạc”? Nếu như không có chúng sinh, thì lúc sắc thân tịch diệt, ngũ uẩn sẽ vĩnh viễn ngưng bặt tác dụng, bổn thể sẽ cũng đồng như vật vô tình, không còn bất cứ cảm giác nào. Nếu vậy, sau khi các pháp tịch diệt, sẽ không còn tái sinh, và như thế, cái lạc của “tịch diệt là lạc” sẽ do kẻ nào cảm thọ? 

Lục tổ trả lời: 

– Thầy là đệ tử Phật, lại là một người xuất gia, làm sao lại có thể học tập cái luận thuyết tà kiến đoạn thường của ngoại đạo, rồi dùng nó để phê phán Phật pháp Tối thượng thừa? Theo như lời thầy nói thì thầy công nhận rằng ngoài sắc thân có pháp thân, ngoài sự sinh diệt có sự tịch diệt, rồi từ đây suy tưởng rằng Niết bàn là một cõi khoái lạc vĩnh hằng, và phải có một cái thân thọ dụng sự khoái lạc này. Thế nhưng sự thực nào có phải như vậy? Thầy nói lên điều này là vì còn đam mê khoái lạc thế gian, từ quan điểm sinh tử của người thế tục mà đưa ra kiến giải lầm lạc. Đức Phật đã sớm biết sự kiện này sẽ xảy ra, cho nên ngài đã tiên đoán rõ ràng là các phàm phu mê muội đều nhận lầm rằng cái hiện tượng sinh khởi bởi sự hòa hợp của ngũ uẩn sắc thọ tưởng hành thức là hình tướng sắc thân của mình, đồng thời phân biệt những sự vật ngoài thân đều là tướng mạo của tất cả trần duyên bên ngoài, do đây mà tham sống sợ chết, tâm niệm lúc nào cũng tùy theo sự vật bên ngoài mà thi vi tạo tác, mà hoàn toàn không hiểu rằng cuộc đời đều chỉ là giấc mộng, là huyễn hóa, là bèo bọt, là ảo ảnh, cho nên đã oan uổng thọ nhận sự đau khổ trong sáu nẻo luân hồi mà không tự biết. Tệ hơn nữa, lại còn nhân đây mà cho rằng Niết bàn là một sự kiện thống khổ, do đó mà hướng ngoại bận rộn tìm cầu những khoái lạc thế gian. 

Đức Phật chính vì thương xót những chúng sinh mê muội này cho nên mới thị hiện cho chúng ta biết sự chân lạc của niết bàn, trong sự chân lạc Niết bàn, dù trong một sát na, chúng ta cũng không thấy được tướng sinh hoặc tướng diệt, huống hồ là có sự sinh diệt. Lúc đó, cảnh giới hiện tiền tức là sự tịch diệt Niết bàn, mà hơn nữa cảnh giới hiện tiền đó cũng không thể nào trắc lượng, không có sự phân biệt không gian lớn nhỏ, thời gian dài ngắn, đây mới có thể gọi là cảnh giới thường tịch. Cảnh giới thường tịch này không có kẻ tiếp thọ, cũng không có kẻ không tiếp thọ, và đương nhiên sẽ không xuất hiện tác dụng của năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức. Còn như thầy cho rằng Niết bàn là một pháp khiến cho tất cả pháp ngưng bặt, khiến cho sinh mệnh không còn sinh khởi trở lại, thì đó là sự sai lầm của phàm phu, trên căn bản đó là sự hủy báng Phật pháp. 

Hãy nghe ta đọc kệ: 

Đại niết bàn vô thượng
Tròn sáng thường tịch chiếu
Phàm phu cho là chết
Ngoại đạo cho là đoạn
Còn hành giả Nhị thừa
Cho đó là vô tác
Đều là sự chấp trước
Gốc của mọi kiến chấp
Vọng lập tên hư giả
Nào phải nghĩa chân thực
Chỉ có bậc đại nhân
Thông đạt, không thủ xả
Vì biết pháp năm uẩn
Và ngã trong năm uẩn
Các sắc tướng ở ngoài
Tất cả tướng âm thanh
Đều giống như huyễn mộng
Không khởi mọi kiến giải
Dứt kiến giải Niết bàn
Cùng nhị biên, tam tế
Tuy khởi các diệu dụng
Không chấp vào công dụng
Tuy phân biệt các pháp
Cũng không chấp phân biệt
Dù kiếp hỏa thiêu tận
Gió thổi sập Tu di
Chân thường tịch diệt lạc
Tướng Niết bàn vẫn thế
Nay miễn cưỡng nói năng
Khiến cho bỏ tà kiến
Chớ chấp vào ngôn từ
Sẽ biết được ít phần.

Chí Đạo nghe Lục tổ đọc xong bài kệ liền được đại khai ngộ, vui mừng hớn hở cúi lạy Lục tổ rồi cáo lui. 

 

Thiền sư Hành Tư  

Thiền sư Hành Tư, họ Lưu, người huyện An Phúc, tỉnh Giang Tây, xuất gia từ nhỏ. Nghe đồn Lục tổ đang ở Tào Khê hoằng dương Phật pháp rất hưng thạnh, không tiền khoáng hậu, cho nên đã tìm đến hỏi đạo. Hành Tư hỏi Lục tổ: 

– Làm thế nào để không rơi vào giai cấp?   

 Lục tổ nghe xong bèn hỏi ngược lại: 

– Thầy trước khi đến đây đã làm những sự việc gì? 

 Hành Tư trả lời: 

– Ngay cả Tứ thánh đế tôi cũng không làm. 

Lục tổ bèn hỏi: 

– Như vậy, thầy nghĩ là rơi vào giai cấp nào? 

 Hành Tư trả lời: 

– Ngay cả tứ thánh đế tôi còn không làm, làm sao có giai cấp nào? 

 Lục tổ nghe câu trả lời, biết Hành Tư là một người có tài năng bản lãnh, bèn vô cùng quý trọng, phong cho Hành Tư làm thủ tòa, phụ trách việc giảng giải giáo lý cho đại chúng. 

Một hôm, Lục tổ nói với Hành Tư: 

– Thầy nên đến một nơi khác hoằng dương Phật pháp, tuyệt đối không nên để cho Phật pháp đoạn tuyệt. 

 Sau khi được truyền tâm ấn, Hành Tư trở về núi Thanh Nguyên ở Cát Châu để hoằng dương Phật pháp, hóa độ không biết bao nhiêu chúng sinh. Đến đời Đường Hy Tông, vua phong cho Hành Tư húy hiệu là Thiền sư Hoằng Tế. 

Thiền sư Hoài Nhượng 

Thiền sư Hoài Nhượng, họ Đỗ, người huyện An Khang, tỉnh Thiểm Tây. Thoạt tiên, Hoài Nhượng đến yết kiến Quốc sư Huệ An ở núi Tung Sơn, nhưng Quốc sư lại muốn ngài đến Tào Khê học với Lục tổ Huệ Năng. Hoài Nhượng bèn đến Tào Khê ra mắt Lục tổ, thành kính đảnh lễ. Lục tổ hỏi: 

– Thầy từ đâu đến? 

  Hoài Nhượng trả lời: 

– Từ Tung Sơn đến. 

  Thế nhưng Lục tổ lại đưa ra một câu hỏi kỳ quái: 

– Vật gì? Làm thế nào đến? 

 Thiền sư Hoài Nhượng là một người căn cơ cao, vừa nghe xong câu hỏi liền hiểu ý của Lục tổ, bèn trả lời: 

– Nếu ngài nói đó là một vật thì không trúng.  Lục tổ hỏi tiếp: 

– Có thể tu hành chứng đắc Phật quả không? 

  Hoài Nhượng trả lời: 

– Tu chứng thì chẳng phải không, nhiễm ô thì không thể được. 

Lục tổ nói:  

– Nói rất hay! Chỉ có cái không bị nhiễm ô thì mới được chư Phật hộ niệm. Thầy cũng như thế, mà ta cũng như thế. Tổ Ấn Độ thứ hai mươi bảy Bát Nhã Đa La đã từng dự đoán: “Ngày sau trong các học trò của thầy (Hoài Nhượng) sẽ có một nhân vật kiệt xuất (Mã Tổ Đạo Nhất), biện tài vô ngại, trí tuệ rộng lớn, trong tương lai khi hoằng pháp sẽ chiết phục nhiều pháp sư khác làm cho họ bội phục.” Thầy nên tạm thời cất giữ lời tiên đoán này trong tâm, và không nên cho ai biết. 

 Hoài Nhượng nghe xong, do túc căn trí tuệ từ đời trước, liền lãnh hội thấu triệt lời Tổ nói. Từ đó ngài theo bên hầu hạ Lục tổ trước sau khoảng mười lăm năm, thể ngộ đạo lý Thiền tông càng ngày càng tinh thâm. Sau đó, Hoài Nhượng rời Tào Khê đến núi Hành Sơn Nam Nhạc, phát huy rộng rãi Thiền tông. Vào tháng tám năm Thiên Bảo thứ ba (744), Hoài Nhượng viên tịch tại Hành Sơn. Triều đình truy phong húy danh ngài là Đại Tuệ Thiền Sư. 

 

Huyền Giác hỏi đạo Lục tổ 

Thiền sư Huyền Giác, họ Đái, người đất Ôn Châu, từ nhỏ đã nghiên cứu kinh luận, đặc biệt tinh thông pháp môn Thiên Thai Chỉ quán; sau đó nhân đọc Kinh Duy Ma Cật mà thấu rõ pháp môn tâm địa (được khai ngộ). Toàn vùng Giang Tô Triết Giang, không ai sánh kịp học vấn và công phu tu trì của ngài. Một hôm, trong một dịp ngẫu nhiên, một đệ tử của Lục tổ là Huyền Sách đến thăm, hai người cùng nhau đàm đạo Phật pháp. Trong lúc trao đổi quan điểm, Huyền Sách cảm nhận những điều mà Huyền Giác trình bày khế hợp với tông chỉ Thiền tông, bèn hỏi:  – Thầy học Phật pháp ở đâu, đắc pháp với vị nào? 

  Huyền Giác trả lời: 

– Lúc trước, tôi học kinh điển Đại thừa đều là nghe các vị pháp sư giảng giải, không phải tự học. Sau khi đọc Kinh Duy Ma Cật, tôi mới sáng tỏ tông chỉ của Phật pháp, hiểu rõ yếu chỉ “chỉ thẳng vào tâm, kiến tánh thành Phật” của Thiền tông. Nhưng đó chỉ là cảm nhận cá nhân, chưa biết đúng hay sai, hiện nay cũng chưa gặp được vị thiện tri thức thích đáng để ấn chứng. 

Huyền Sách nói: 

– Trong kinh nói vào thời cổ sơ, có đức Uy Âm Vương Như Lai thành Phật. Nhân vì trước đó chưa có Phật cho nên người tu hành chỉ có thể tự mình thể ngộ chân lý của Phật pháp, nhưng từ đó về sau, người tu hành nếu tự cho mình thể ngộ mà không có minh sư ấn chứng, thì có thể rơi vào cảnh giới thiên ma ngoại đạo, mà chẳng rõ đó không phải là Phật pháp. 

 Huyền Giác nghe xong liền nói: 

Vậy thì phiền thầy ấn chứng cho tôi. 

Huyền Sách nói:  

– Không được. Tôi chưa đủ trình độ ấn chứng cho thầy, nhưng tôi biết Đại sư Huệ Năng ở Tào Khê là vị kế thừa y bát của chư vị Tổ sư. Có rất nhiều người cầu đạo đã đến cầu pháp với ngài. Nếu như thầy có ý muốn cầu ngài ấn chứng thì tôi xin phép đi chung. 

 Huyền Giác bèn theo Huyền Sách đến Tào Khê, lên giảng đường yết kiến Lục tổ Huệ Năng. Chẳng ngờ, khi thấy Lục tổ, Huyền Giác tỏ ra dửng dưng, không hề thi lễ, không cất tiếng chào, mà chỉ đi nhiễu quanh ngài ba vòng, sau đó chống tích trượng đứng một bên. Lục tổ thấy Huyền Giác có thái độ ngạo mạn, bèn nói: 

– Theo như tôi biết, người xuất gia cần phải có đủ ba ngàn uy nghi, tám muôn tế hạnh. Xin hỏi thầy từ đâu đến mà có thái độ ngạo mạn như vậy? 

Huyền Giác trả lời: 

– Sinh tử là việc lớn, vô thường lại mau đến. Thời gian tu hành còn không đủ, làm gì có thời gian đảnh lễ? 

– Thầy đã rõ việc lớn sanh tử, tại sao không lo tu chứng đạo lý vô thường, liễu ngộ sự mau đến này? 

– Nếu có thể nhận rõ tự tánh bổn lai không có sanh tử, sau khi đã rõ điều này thì sanh tử cũng chẳng có sự nhanh chậm nào đáng nói. 

 Lục tổ nghe xong, biết Huyền Giác đối với chân lý đã có một sự nhận thức đáng kể, bèn ấn chứng, nói: 

– Quả đúng như vậy! Quả đúng như vậy! 

 Sau một phen đối đáp, Huyền Giác tin rằng Lục tổ đích thực là một bậc minh sư sẵn lòng ấn chứng cho mình, bèn chấn chỉnh uy nghi đỉnh lễ Lục tổ, sau đó từ biệt. Lục tổ thấy thế bèn hỏi Huyền Giác: 

– Thầy không có cảm giác là đi nhanh quá hay sao? 

 Huyền Giác bèn trả lời một cách khéo léo:  – Tự tính xưa nay vốn bất động, làm gì có nhanh chậm? 

  Lục tổ lại hỏi: 

– Ai biết tự tính của thầy là động hay không động? 

  Huyền Giác trả lời: 

– Đây là do ngài còn sinh tâm phân biệt.  Lục tổ nói: 

– Thầy quả thật hiểu rõ ý nghĩa vô sinh. 

Huyền Giác hỏi ngược: 

– Nếu đã là vô sinh, làm gì còn phát sinh ra ý?  Lục tổ trả lời: 

– Nếu không có ý, cái gì phân biệt ý nghĩa vô sinh? 

  Huyền Giác trả lời: 

– Tuy có sự phân biệt, nhưng không phải ý phân biệt.  Lục tổ nghe Huyền Giác giảng ý nghĩa vô sinh một cách thấu triệt như vậy, vô cùng hoan hỷ, bèn tán thán: 

– Lành thay, lành thay! Thầy giảng thật hay. 

Sau đó Lục tổ mời Huyền Giác ở lại chùa Bảo Lâm một đêm. Giai thoại này được lưu truyền rộng rãi, mệnh danh là “nhất túc giác”,  nghĩa là “ở một đêm thì được giác ngộ”. 

 Hôm sau, Huyền Giác trở về Vĩnh Gia, rộng hoằng dương Phật pháp, và đã sáng tác một tác phẩm nổi tiếng là Vĩnh Gia Chứng Đạo Ca. Sau khi viên tịch, Huyền Giác được triều đình ban tặng húy hiệu là Vô Tướng Đại Sư, còn người đời tôn xưng ngài là Chân Giác Thiền Sư. 

Thiền sư Trí Hoàng 

Thiền sư Trí Hoàng, ban đầu học Phật pháp với tổ Hoằng Nhẫn, tự cho rằng đã đắc được chân truyền của ngài, bèn dựng một am tranh sơ sài để dụng công tọa thiền. Tương truyền Trí Hoàng thường ngồi không nằm khoảng thời gian hai mươi năm. Khi ấy, một đệ tử của Lục tổ là ngài Huyền Sách đang đi du phương, đến vùng Hà Sóc, nghe tiếng của Trí Hoàng bèn đến thăm hỏi. Huyền Sách hỏi: 

– Nghe nói thầy ở đây nhập định, xin hỏi sự nhập định là do tâm có ý niệm mà nhập, hay là do tâm không có ý niệm mà nhập? Nếu như không có ý niệm mà nhập thì tất cả các loài vô tình như cỏ, cây, ngói, đá, v.v…, cũng đều đã đắc định, còn nếu có ý niệm mà nhập thì tất cả các loài hữu tình đều đã đắc định.  

Trí Hoàng trả lời: 

– Đang lúc nhập định, tôi không thấy có ý niệm hay không có ý niệm. 

Huyền Sách liền nói:  

– Thầy đã không thấy mình có ý niệm “có” hoặc “không”, điều này chứng tỏ thầy đang ở trong trạng thái “định”, thế nhưng tại sao thầy lại có tình trạng nhập định hoặc xuất định. Nếu có trạng thái nhập định hoặc xuất định phát sinh, chứng tỏ thầy chưa đạt đến trạng thái thiền định mà Đức Thế Tôn đã đề cập đến. 

Trí Hoàng nghe xong không biết phải trả lời thế nào, bèn hỏi Huyền Sách: 

– Những điều mà thầy vừa trình bày là đã học từ vị 

Đại sư nào? 

Huyền Sách trả lời: 

– Thầy của tôi là Lục tổ Huệ Năng, phương trượng chùa Nam Hoa ở Tào Khê. 

Trí Hoàng lại hỏi: 

– Pháp thiền định của Lục tổ là thế nào? 

Huyền Sách trả lời: 

– Giáo nghĩa của Lục tổ huyền diệu sâu xa, viên mãn thanh tịnh, bổn thể và tác dụng viên dung tự tại, cho rằng năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức tuy tiếp thọ cảnh giới, nhưng pháp đó chỉ là huyễn, bổn chất là không; sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp cũng đều do tâm hiển hiện, lìa tâm không còn hiện hữu. Cái tâm này xưa nay chưa hề có sự xuất nhập, mà cũng không có sự phân biệt giữa định và loạn. Sau khi hiểu rõ diệu dụng của bổn thể thì sẽ hiểu rõ bổn tính của thiền là không sinh không diệt, hơn nữa, không thể khởi tâm vọng tưởng về bổn tính của thiền. Ví như tâm chúng ta giống như hư không, nhưng không thể nhân đây mà cho rằng tâm này đồng như hư không, rồi chấp trước vào không. 

Trí Hoàng nghe nói chí lý, bèn theo Huyền Sách đến bái kiến Lục tổ. Lục tổ vừa gặp mặt liền hỏi: 

– Thầy từ đâu đến? 

Trí Hoàng đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại cho Lục tổ nghe. Nghe xong, Lục tổ bèn nói: 

– Những lời thầy Huyền Sách nói hoàn toàn không sai, chỉ cần tâm thầy có thể như hư không, mà cũng không chấp vào không, thì có thể ứng dụng vô ngại. Thiền định chân chính là bất cứ trong lúc nào, đi đứng nằm ngồi đều bảo trì sự vô tâm này, mà trong tâm cũng không nên khởi lên ý tưởng “mình là phàm phu, làm thế nào để có thể trở thành thánh nhân.” Đem tâm đang thấy, vật bị thấy, v.v…, đều gác qua một bên, khiến cho bổn tính và tướng trạng dung thông vô ngại, mà trong tâm cũng không vướng mắc một ảnh hưởng nào. Nếu được như vậy, tính tướng đều như như, mới có thể được gọi là thường ở trong định. 

Trí Hoàng nghe xong lời khai thị của Lục tổ liền khai ngộ, hồi tưởng hơn hai mươi năm qua ôm chặt kiến chấp “hiểu đạo”, đi ngược với chân lý vô tướng, làm chướng ngại sự ngộ đạo của chính mình, hiện nay nhờ vào sự chỉ điểm của Lục tổ mới có thể hoàn toàn sáng tỏ. Vào đêm đó, tại Hà Bắc, quê nhà của Trí Hoàng, có rất nhiều người nghe trên không trung có tiếng nói rằng: “Hôm nay, thầy Trí Hoàng đã khai ngộ.” 

Ít lâu sau, Trí Hoàng từ giả Lục tổ trở về Hà Bắc nỗ lực hoằng dương Phật pháp, tiếp độ giáo hóa rất nhiều người tại gia cũng như xuất gia. 

 

Tranh đoạt y bát 

Một hôm, có một thầy tăng đến hỏi Lục tổ:  – Rốt ráo, ai là người được kế thừa y bát của Ngũ tổ Hoàng Mai? 

Lục tổ trả lời: 

– Người hiểu Phật pháp được. 

Vị tăng hỏi tiếp: 

– Nếu vậy, có phải Đại sư là người được kế thừa y bát? 

Lục tổ trả lời: 

– Ta không hiểu Phật pháp. 

 

Thiền sư Ngoạ Luân 

Một hôm, có một thầy tăng đọc bài kệ của thiền sư Ngọa Luân: 

Ngọa Luân có tài năng
Đoạn trừ mọi vọng tưởng
Đối cảnh tâm không động
Bồ đề ngày tăng trưởng.

Lục tổ Huệ Năng ngẫu nhiên nghe được bài kệ bèn nói với thầy ấy:

– Bài kệ này chưa thấy được đạo (minh tâm kiến tánh), nếu theo bài kệ này tu tập, chỉ e tăng thêm phiền não, tự mình trói buộc chính mình.

Kế đến, ngài bèn đọc một bài kệ:

Huệ Năng không tài năng
Chẳng trừ mọi vọng tưởng
Đối cảnh tâm thường động
Bồ đề chẳng tăng trưởng.

 

Giặt y bên suối 

Một hôm, Lục tổ muốn đem giặt tấm y mà Ngũ tổ truyền trao, thế nhưng những chỗ gần chùa đều không có một con suối sạch để giặt, ngài bèn đi tìm, mãi đến một nơi cách chùa khoảng năm dặm thì thấy một vùng hoa lá xum xuê, tàng ẩn một vầng thụy khí. Lục tổ lấy tích trượng chống xuống đất, tức thời từ nơi đó phụt ra một dòng nước, dần dần tạo thành một cái ao nhỏ. Ngài bèn đến ngồi nghỉ trên một tảng đá để chuẩn bị giặt y. 

Lúc ấy, có một vị tăng đến đảnh lễ Lục tổ và nói: 

– Tôi là Phương Biện, người đất Tây Thục. Dạo trước tại Nam Ấn Độ bái kiến Tổ sư Đạt Ma, ngài bảo tôi mau đến Trung Quốc, bởi vì y bát của Thiền tông mà ngài trao truyền đã đến Tổ đời thứ sáu, hiện nay đang ở Tào Khê, đất Thiều Châu, cho nên ngài muốn tôi đến đảnh lễ. Tôi đã không quản đường xa ngàn dặm đến đây, hy vọng được nhìn thấy y bát mà Tổ Đạt Ma đã trao truyền. 

Lục tổ bèn đem y bát ra đưa cho Phương Biện xem, đồng thời hỏi thầy ấy có được sở trường nào. Phương Biện trả lời: 

– Tôi chuyên tạc tượng Phật. 

Lục tổ nghe xong, nghiêm nghị nói: 

– Nếu thế xin thầy tạc một bức tượng để tôi xem. 

Phương Biện nghe thế cảm thấy bối rối không biết phải làm thế nào. Qua mấy ngày sau, Phương Biện đã tạc xong một bức tượng của Lục tổ cao khoảng bảy thốn (ba tấc), trông rất tượng hình, ngay những nét vi tế nhất cũng được hoàn thành một cách tỉ mỉ, rõ ràng. Lục tổ sau khi nhìn thấy bức tượng bèn nói với 

Phương Biện: 

– Té ra, thầy chỉ biết rõ cách tạc tượng mà không hiểu rõ Phật tính của mình. 

Nói xong, 

Lục tổ lấy tay xoa đầu Phương Biện và nói: 

– Nguyện thầy trong những đời sau vĩnh viễn sẽ làm bậc thầy của trời người, làm nơi bồi dưỡng phước điền cho chúng sanh. 

Sau đó, Lục tổ tặng cho Phương Biện một tấm y để  thưởng công. Phương Biện bèn phân tấm y làm ba mảnh, một mảnh đắp lên bức tượng, một mảnh giữ lại, còn một mảnh thì chôn xuống đất, nguyện rằng:  

– Ngày sau nếu có người được tấm y này thì đó là lúc tôi tái sinh tại nơi này hoằng dương Phật pháp. 

Quả nhiên, vài trăm năm sau, vào đời Triệu Tống, năm Gia Hựu thứ sáu (1066), có pháp sư Duy Tiên ở tại nơi đó kiến lập tự viện. Khi đào đất thì tìm được mảnh pháp y mà Phương Biện đã chôn. Tương truyền, khi tấm y được đào lên thì vẫn còn mới tinh nguyên. Đây là chứng cứ cho lời thệ nguyện linh ứng của Phương Biện. Còn bức tượng mà Phương Biện đã tạc cho Lục tổ, sau này được tôn trí tại chùa Cao Tuyền để Phật tử đến tham quan lễ bái, và nghe nói những người đến cầu nguyện đều được rất nhiều sự linh ứng. 

 Nam Năng Bắc Tú 

Đang lúc Lục tổ Huệ Năng tại phương Nam hoằng dương pháp môn Đốn giáo, Đại sư Thần Tú cũng đang hoằng dương Tiệm giáo tại chùa Ngọc Tuyền, vùng Kinh Nam ở phương Bắc. Như thế, vào thời đó Thiền tông bị chia làm hai tông, Nam tông và Bắc tông. Nam tông giảng pháp tu đốn ngộ, Bắc tông giảng pháp tu tiệm ngộ, cả hai đều rất thịnh hành, người đời xưng là Nam Năng Bắc Tú.  Từ lúc phân thành hai tông Nam Bắc về sau, nhiều người muốn học đạo phần lớn không biết phải theo học với tông nào. Theo học Lục tổ? Tuy ngài là người chính thức kế thừa y bát Thiền tông nhưng lại không biết chữ, vả lại những đạo lý mà ngài giảng không hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa trong kinh, điều này làm dao động lòng tin của nhiều người; trái lại, ngài Thần Tú ở phương bắc tuy không được chính thức kế thừa y bát nhưng lại là người học vấn uyên bác, những đạo lý mà ngài giảng đều y cứ vào kinh điển. Vì lý do này nhiều người học đạo trở nên phân vân không biết chọn tông nào. 

  Đối với vấn đề này, Lục tổ khai thị cho đại chúng, nói: 

Phật pháp xưa nay chỉ có một tông phái, nhưng vì có những người bị quan niệm địa phương hẹp hòi khống chế, cho nên mới khởi tâm phân biệt Bắc tông, Nam tông. Hơn nữa, Phật pháp xưa nay cũng chỉ có một loại, tức là pháp môn Bất nhị, nhưng vì kiến giải mỗi người có nhanh, chậm, lợi, độn khác nhau, cho nên phân thành hai loại. Thế nào gọi là đốn, tiệm? Phật pháp là pháp môn Bất nhị cho nên không có phân biệt đốn, tiệm. Chỉ vì mỗi người căn tính khác nhau, hoặc thông minh, hoặc ngu si, hoặc nhanh nhẩu, hoặc chậm chạp, cho nên thiết lập đốn giáo, tiệm giáo khác biệt. 

 Nhưng những đệ tử của ngài Thần Tú, vì không hiểu đạo lý đốn tiệm khác biệt này, nên xem thường Lục tổ Huệ Năng, phê bình rằng: 

– Lẽ nào có lý này! Chỉ biết được mấy chữ mà lại làm Tổ là thế nào? 

 Lời phê bình này chẳng bao lâu được truyền đến tai Thần Tú, ngài liền quở trách đệ tử: 

– Tuyệt đối không nên nói như vậy. Tổ Huệ Năng là người đã khai ngộ, thông đạt vô sư trí. Tuy chưa nghe kinh điển, nhưng chỗ chứng đắc của Huệ Năng đã đến cảnh giới Tối thượng thừa. Hơn nữa, tổ Hoằng Nhẫn đã đem y bát truyền trao cho Huệ Năng, chả lẽ ngài đã chọn lầm người hay sao? Chắc chắn không có điều này. Ta chỉ hận là không thể tự thân đến Tào Khê học pháp với Huệ Năng. Tuy triều đình phong ta làm quốc sư, nhưng các thầy cũng không nên lưu luyến nơi này, hãy mau đến Tào Khê thân cận Lục tổ để học hỏi Phật pháp. 

Một hôm, Thần Tú bảo đệ tử Chí Thành: 

– Con là người thiên tư đỉnh ngộ, thông minh tài trí. Nay ta phái con thay ta đến Tào Khê nghe pháp. Đến đó, bất luận nghe được điều gì đều nên nhớ ghi chép, rồi đem về đây cho ta xem. 

 Chí Thành theo lời dặn của Thần Tú bèn đến Tào Khê, lẫn vào đại chúng thỉnh cầu Lục tổ khai thị. Chí Thành không tiết lộ thân phận, cũng không cho ai biết là mình từ đâu đến. Nào ngờ Lục tổ ở trước đại chúng lên tiếng: 

– Hôm nay có một người đến nghe trộm pháp đang ẩn núp trong đại chúng. 

 Chí Thành nghe xong kinh hoảng, bèn vội vàng đứng dậy bước ra, đỉnh lễ Lục tổ tạ tội, trình bày lý do đến nghe pháp. Lục tổ bèn nói với Chí Thành: 

– Thầy từ chùa Ngọc Tuyền đến, có thể gọi là mật thám. 

  Chí Thành hoảng hốt giải thích:  – Không phải.  Lục tổ hỏi: 

– Tại sao không phải? 

Chí Thành trả lời: 

– Trước khi đệ tử nói với Tổ mục đích đến đây thì có thể nói là đúng. Còn bây giờ đệ tử đã thẳng thắn phát lộ sám hối, cho nên không thể gọi là mật thám. 

Lục tổ gật đầu, nói với Chí Thành: 

– Bình thường sư phụ của thầy giảng những gì? 

Chí Thành trả lời: 

– Sư phụ thường dạy mọi người nên trụ tâm một chỗ để quán tịnh, thường ngồi tĩnh tọa, không nằm. 

Lục tổ nghe xong, hướng về đại chúng nói: 

– Trụ tâm quán tịnh, đây là thiền bệnh, không phải thiền định, thường ngồi không nằm chỉ là tự mình câu thúc thân tâm, đối với việc tọa thiền đâu có lợi ích gì? Hãy nghe ta nói kệ: 

Lúc sống ngồi không nằm
Khi chết nằm không ngồi
Chỉ là bộ xương thối
Làm sao mà dụng công?

 Chí Thành nghe xong bài kệ, trong lòng hoan hỷ, hướng Lục tổ lễ tạ, nói: 

Con học với sư phụ Thần Tú đã hơn chín năm, nhưng chưa hề khai ngộ, không ngờ hôm nay chỉ nghe Đại sư đọc vài câu kệ khai thị liền được khế hợp bổn tâm, lãnh hội Phật pháp. Con biết vô thường nhanh chóng, sinh tử là việc lớn, kính thỉnh Tổ sư phát lòng từ bi giảng giải và chỉ dẫn thêm cho con. 

  Lục tổ bèn nói: 

Ta nghe Đại sư Thần Tú ở phương Bắc dạy về pháp giới định tuệ, nhưng chưa rõ nội dung, xin thầy hãy nói lại cho ta biết. 

  Chí Thành trả lời: 

– Thầy con nói rằng “không làm các điều ác gọi là giới, làm các điều thiện gọi là tuệ, tự tịnh tâm ý gọi là định.” Sư phụ con dạy như thế, nhưng không biết Tổ sư dạy pháp thế nào? Kính mong Tổ sư khai thị cho con được biết những điều mà ngài đã dạy bảo đệ tử. 

Lục tổ nói:  

– Thật ra ta chẳng có pháp nào hết. Nếu như nói có một pháp cố định nào đó để dạy dỗ, thì đây là lừa dối người khác. Ta chẳng qua là tùy theo tài năng mà chỉ dẫn, tùy theo căn cơ của mỗi người mà dùng các phương pháp khác nhau để dẫn đạo, khiến cho họ buông bỏ sự chấp trước, tháo gỡ sự trói buộc mà thôi. Cái phương pháp này làm gì có tên gọi? Chỉ có thể tạm gọi nó là tam muội – chánh định hoặc chánh thọ – mà thôi. Những lời dạy về giới định tuệ của Đại sư Thần Tú bất khả tư nghì, nhưng ta đối với giới định tuệ lại có một lối nhìn khác. 

 Chí Thành nghe xong cảm thấy kỳ quái, tại sao giới định tuệ lại có hai lối giảng khác nhau, bèn hỏi Lục tổ:  – Giới định tuệ là giới định tuệ, tại sao lại có hai lối giảng giải khác biệt? 

  Lục tổ nói: 

– Sư phụ thầy giảng giới định tuệ là dành cho những người căn tánh Đại thừa, còn ta giảng giới định tuệ là dành cho những người căn tánh Tối thượng thừa. Cảnh giới thể ngộ của ta và sư phụ thầy có chỗ khác biệt, cho nên kiến giải có đốn, tiệm, nhanh, chậm không giống nhau. Hiện nay thầy nghe pháp ta đang giảng có giống sư phụ thầy giảng hay không? Pháp ta đang giảng không phải là pháp bên ngoài, mà là tất cả pháp không lìa tự tánh. Xa lìa tự tánh mà thuyết pháp thì gọi là trước tướng, là chấp ngã. Nếu trước tướng chấp ngã thì tự tính sẽ bị điên đảo mê hoặc, không thể hiển hiện. Thầy nên nhớ kỹ rằng tất cả các pháp đều phải từ tự tánh mà sanh khởi tác dụng, đây mới chính là tam học giới định tuệ. Kế đến, ta sẽ nói cho thầy một bài kệ: 

Tâm không mê lầm là tự tánh giới
Tâm không mê muội là tự tánh tuệ
Tâm không mê loạn là tự tánh định
Không tăng không giảm tựa như kim cương
Thân đến thân đi đều là tam muội.

Chí Thành nghe xong, một mặt sám hối, một mặt lễ tạ, nhưng trong tâm vẫn chưa quyết chắc sự thể ngộ của mình là đúng hay sai bèn trình lên tổ Huệ Năng một bài kệ: 

Thân huyễn năm uẩn
Nào phải cứu cánh
Quay về chân như
Chấp là bất tịnh.

Lục tổ gật đầu mỉm cười nói: 

– Không sai, kiến giải của thầy là đúng. Sư phụ thầy giảng giới định tuệ là dành cho những người có căn khí tiếp thọ giáo pháp Tiểu thừa, còn ta giảng giới định tuệ là dành cho những người đã đầy đủ căn tánh Đại thừa, đầy đủ đại trí tuệ. Nếu như đã thấu triệt tự tánh thì không có Bồ đề Niết bàn, không có cái gọi là giải thoát, cũng không có cái gọi là tri kiến. Đem tất cả cái này buông bỏ, không bám víu thì mới có thể thành lập vạn pháp. Tuy không có pháp nào, nhưng vạn pháp vẫn hiển nhiên. Nếu có thể thấu rõ đạo lý này thì gọi là đồng với chư Phật, cũng có thể gọi là chứng đắc Bồ đề Niết bàn, lại cũng có thể gọi là giải thoát tri kiến. Nói tóm, thầy gọi nó là gì cũng tốt, chỉ cần hiểu rõ là được. Nếu như không hiểu rõ điều này, thì bất luận gọi nó là gì cũng đều là sai lầm. Những người đã khai ngộ (minh tâm kiến tánh) kiến lập pháp môn để độ chúng sinh cũng được, mà không kiến lập pháp môn cũng được. Bởi vì những người chân chánh khai ngộ đã đạt được sự tự do tự tại đối với sanh tử, đến đi vô ngại, việc cần phải làm, cần phải nói đều tùy duyên hóa độ, tùy cơ nghi mà thuyết pháp, không có một hình thức nhất định. Lúc ấy, có thể nói rằng nơi nào cũng có hóa thân, thế nhưng đi đứng nói năng tất cả đều không lìa chân như tự tánh, mà cũng đã đạt đến thần thông tự tại, du hý tam muội, đây gọi là kiến tánh. 

Chí Thành nghe Lục tổ nói xong nhưng vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ bèn hỏi tiếp: 

– Con vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của việc không kiến lập pháp môn, kính xin Tổ giải thích thêm cho rõ.  Lục tổ trả lời: 

– Trong tự tánh, không có thị phi, không có si mê, không có thác loạn, mỗi niệm đều là trí tuệ chiếu soi tự tánh, không chấp trước tất cả pháp tướng, tự do tự tại, tung hoành vô ngại. Trong cảnh giới như vậy thì còn gì để kiến lập pháp môn. Huống chi tự tánh phải do tự mình thể ngộ, chỉ cần tức khắc thể ngộ thì có thể tức khắc tu hành, như vậy còn gì để thuyết pháp theo thứ tự. Căn cứ trên lý do này cho nên ta nói không kiến lập tất cả pháp, tất cả đều là không, làm sao nói đến thứ tự. 

Chí Thành nghe xong cảm thấy vô cùng bội phục, giập đầu cúi lạy, phát nguyện ở lại làm người hầu hạ, ngày đêm siêng năng phục dịch cho Lục tổ. 

 

Chánh kiếm bất tà 

Từ lúc Thiền tông bị phân làm hai phái Nam Bắc, tuy hai ngài Huệ Năng và Thần Tú không có tâm phân biệt, nhưng những đệ tử của Thần Tú đối với Lục tổ khởi tâm đố kỵ và bất mãn. Nhóm đệ tử của Thần Tú có khoảng hơn ngàn người, xưa nay vẫn âm thầm suy tôn Thần Tú là tổ Thiền tông đời thứ sáu, nhưng họ sợ bị thiên hạ phê bình, bởi vì mọi người đều biết rằng y bát Thiền tông đã được truyền trao cho Lục tổ Huệ Năng, vì thế họ đã mướn một thích khách đi đến Tào Khê hành thích ngài. 

Gã thích khách này tên Trương Hành Xương, từ nhỏ thường ưa can thiệp vào những việc bất công, tuy giỏi võ, trọng nghĩa, nhưng tánh ưa sát hại. Chỉ vì nghe lời vu khống rằng ngài Huệ Năng là kẻ tiểu nhân đắc chí, chuyên làm việc đối địch với Thần Tú, cho nên Hành Xương đã nhận tiền từ các đệ tử của Thần Tú để đi hành thích Lục tổ.  Lúc ấy, Lục tổ đã có tha tâm thông, biết trước sẽ có người đến hành thích, cho nên đã chuẩn bị món tiền mười lượng bạc để bên cạnh và ngồi chờ. 

Đến tối, Hành Xương lén vào phòng Lục tổ. Đang lúc ông ta giơ kiếm định giết, Lục tổ chẳng những không né tránh mà lại còn đưa cổ ra cho Hành Xương chém. Hành 

Xương sửng sốt, luống cuống quơ đao ba lần liên tiếp, chỉ thấy Lục tổ ngồi an nhiên, nơi cổ của ngài không hề lưu lại một vết tích nào. Hành Xương thấy sự việc kỳ quái xảy ra, bao nhiêu dũng khí đều tiêu tán, đôi chân mềm nhũn, ngã quỵ trên mặt đất. Lúc ấy, Lục tổ điềm tĩnh nói với ông ta: 

– Dùng kiếm chánh nghĩa hành hiệp không nên lưu giữ tâm tà, nếu có tâm tà, tự nhiên sẽ không thể dùng kiếm hành hiệp chánh đáng. Đời trước ta chỉ thiếu nợ tiền chứ không thiếu nợ mạng, cho nên ông không thể làm tổn thương thân mạng của ta. 

Trương Hành Xương là kẻ đã từng qua lại chốn giang hồ nhiều năm, trong việc hành thích chưa từng thất bại, đừng nói chi đến gặp việc kỳ quái như ngày hôm nay. Ông ta cảm thấy kinh hãi quá mức bèn ngã lăn trên mặt đất bất tỉnh nhân sự, một hồi lâu mới tỉnh lại.  

Sau khi tỉnh lại, Hành Xương bèn sám hối với Lục tổ, bày tỏ sự cải quá tự tân, phát tâm muốn xuất gia. Lúc ấy, Lục tổ đem mười lượng bạc đã dự bị sẵn đưa cho Hành Xương, dặn: 

Nay ông tạm thời trở về chốn cũ, nếu đệ tử ta phát giác việc này ắt sẽ không tha thứ cho ông. Qua một đoạn thời gian, ông hãy cải trang rồi trở lại đây, lúc đó ta sẽ thâu ông làm đệ tử. 

Hành Xương theo lời căn dặn, thừa lúc đêm tối tẩu thoát, sau đó đến một ngôi chùa xin xuất gia thọ giới tỳ kheo, tinh tiến tu hành. Một hôm, Hành Xương nhớ lại lời dặn của Lục tổ, bèn từ phương xa trở lại Tào Khê để bái kiến ngài. Lục tổ thấy Hành Xương bèn nói:  

– Ta đã đợi rất lâu, sao thầy đến nay mới trở lại? 

Hành Xương trả lời: 

– Dạo trước nhờ ơn sư phụ mở lòng từ bi tha thứ lỗi lầm của con. Hiện nay tuy con xuất gia tu hành khổ hạnh, nhưng vẫn cảm thấy chưa báo đáp được ân đức của ngài. Con nghĩ rằng chỉ có hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sanh mới có thể báo đáp thâm ân này. Thế nhưng, con tụng Kinh Đại Niết Bàn đến nay vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của thường và vô thường. Kính thỉnh sư phụ từ bi khai thị cho con được rõ. 

Lục tổ liền giải thích: 

– Vô thường là chỉ cho Phật tánh, còn thường là chỉ cho tâm phân biệt tất cả thiện ác. 

Hành Xương nghe xong có cảm tưởng như rơi vào đám sương mù mờ mịt, trong lòng hồ nghi bèn hỏi: 

– Những điều sư phụ nói rất trái nghịch với kinh văn.  Lục tổ hỏi ngược:

Ta là người truyền thọ pháp truyền tâm của Phật, lẽ nào dám trái nghịch kinh Phật? 

Hành Xương nói: 

– Trong kinh rõ ràng nói Phật tánh là thường, sư phụ lại nói là vô thường; các pháp thiện ác cho đến tâm giác ngộ Bồ đề đều là vô thường, sư phụ lại nói là thường. Hai điểm này rõ ràng trái nghịch, khiến cho đệ tử càng thêm khó hiểu. 

Lục tổ thấy thế bèn giải thích: 

– Lúc trước ta đã từng nghe tỳ kheo ni Vô Tận Tạng đọc Kinh Đại Niết Bàn qua một lần, sau đó giải thích cho bà ấy nghe, không một chữ một nghĩa nào trái nghịch kinh văn, cho đến hiện nay giảng cho thầy nghe, cũng không có chỗ nào trái nghịch ý kinh. 

Hành Xương nghe xong vội vàng lạy xuống, nói:  – Con là người ngu muội, kiến thức thô lậu, kính phiền sư phụ giảng lại. 

Lục tổ nói: 

– Thầy nên hiểu rõ, đức Phật nói Phật tánh thường hằng là đối với những người tầm thường mà nói. Nếu thầy nói Phật tánh thường hằng thì làm sao còn có thể nói đến các pháp thiện ác? Nếu Phật tánh là thường hằng thì tất cả chúng sinh đã sớm thành Phật, cớ sao hiện nay chúng ta chẳng tìm được mấy người chân chánh phát tâm Bồ đề? Vì lý do này nên ta nói Phật tánh là vô thường. Nếu Phật tánh là thường hằng thì tất cả chúng sanh không cần tu hành mà vẫn có thể thành Phật. Bởi thế ta nói Phật tánh vô thường tức là phù hợp với ý Phật nói về đạo lý chân thường bất diệt. 

 Lại nữa, tại sao ta nói tất cả các pháp thiện ác là thường hằng? Bởi vì tất cả mọi vật đều có tự tánh, mà tự tánh thì bất sanh bất diệt, không thọ sanh tử. Nếu nói các pháp là vô thường, mà đã là vô thường, ắt có sự biến hóa sanh tử, và như vậy, chẳng phải là trước sau mâu thuẫn hay sao? Cho nên ta nói tất cả các pháp thiện ác là thường hằng, trên thực tế muốn nói rằng chúng có tự tánh, đây là chính là ý nghĩa mà đức Phật muốn nói về sự vô thường. Thật ra đức Phật đã sớm biết phàm phu ngoại đạo đều nhận thức lầm lạc rằng tất cả sự vật đều là chân thực thường tồn, mà sanh khởi bốn loại tà kiến chấp trước, tức là cho khổ là lạc, cho vô thường là thường, cho vô ngã là ngã, và cho bất tịnh là tịnh. Hơn nữa, một số người tu hạnh Thanh văn, Bích chi phật nhận xét lầm lẫn, sanh khởi bốn kiến giải điên đảo, cho Phật tánh chân thường là vô thường, cho sự chân lạc là khổ, cho chân ngã là vô ngã, cho sự chân tịnh là bất tịnh. Trong Kinh Đại Niết Bàn, đức Phật đặc biệt nêu rõ cách nào để phán quyết rốt ráo giáo lý chân thật, hiển thị trung đạo, phá trừ thiên kiến của phàm phu và ngoại đạo, đồng thời phát huy bốn đức thường lạc ngã tịnh mà những người tu học Đại thừa cần phải viên mãn: không biến chuyển gọi là thường, an ẩn gọi là lạc, tự tại gọi là ngã, và vô ngã gọi là tịnh. Nếu có thể y vào bốn đức này mà tu hành thì Phật tánh sẽ lập tức hiển hiện. Hiện nay thầy y theo lời kinh mà giải thích ngu ngơ, nhận lầm sự đoạn diệt là vô thường, những sự vật bất động là thường, đem cái tri kiến phàm phu để hiểu lầm những lời dạy thâm diệu viên mãn cuối cùng của đức Bổn Sư. Nếu như thế, dù có xem Kinh Đại Niết Bàn ngàn lần cũng chẳng ích lợi gì? 

 Sau khi nghe Lục tổ giải thích tường tận, Hành Xương thốt nhiên đại ngộ, bèn nói bài kệ: 

Vì người chấp vô thường
Phật nói tánh là thường
Người không khéo tu hành
Giống như lượm sỏi đá
Con nay không dụng công
Phật tánh vẫn hiện tiền
Không phải do thầy dạy
Cũng chẳng do sức mình.

Lục tổ nói với Hành Xương: 

 – Thầy hiện nay đã triệt ngộ, thông đạt giáo pháp, ta sẽ đặt cho thầy pháp danh Chí Triệt. 

  Chí Triệt bèn lễ tạ cáo lui. 

 

Chỉ học danh tướng 

 Thần Hội, họ Cao, người huyện Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc, từ nhỏ đã xuất gia với ngài Thần Tú ở chùa Ngọc Tuyền. Sau đó nghe danh Lục tổ Huệ Năng đang ở Tào Khê truyền thọ pháp môn đốn ngộ, bèn lặn lội đường xa tìm đến chùa Bảo Lâm, khi ấy Thần Hội mới được mười ba tuổi. 

 Từ Hồ Bắc đến Quảng Đông phải trải qua một lộ trình hơn ngàn dặm, nghe nói lúc Thần Hội đến chùa Bảo 

Lâm, quần áo lam lũ, thân thể cáu bẩn, giống như một dâ cư vùng rừng núi. Lục tổ thấy Thần Hội tuổi tác còn trẻ mà đã có tâm thành cầu pháp như thế bèn nảy lên ý tưởng muốn thử xem trình độ Phật pháp của Thần Hội đến đâu, ngài liền dùng phương pháp song quan (hai cửa) để hỏi:  – Chú từ chốn xa xăm, hành trình gian khổ đến đây, không biết có còn nhận rõ bản lai diện mục của mình không? Nếu có thì đã nhận thức được chủ nhân ông của chính mình (Phật tính), chú hãy nói ta xem thử! 

 Thật ra, Thần Hội đối với Phật pháp chưa lĩnh ngộ được gì, bất quá ở bên cạnh ngài Thần Tú nghe các thiền sư đối đáp mà thôi. Thế nhưng, Thần Hội là một đứa trẻ ranh mãnh, nhất định không thừa nhận mình không hiểu rõ Phật pháp, chỉ lập lại những lời đối đáp của các thiền sư, nhưng vẫn tỏ vẻ thông thái: 

– Con dùng vô sở trụ làm bản lai diện mục, mà kiến tánh tức là chủ nhân. 

Lục tổ nghe xong liền chỉnh Thần Hội: 

– Này, tiểu sa di! Chú chỉ tùy tiện học lại lời người khác, như vậy tốt sao? 

Thần Hội nghe xong, trong lòng không vui, nhưng vẫn hỏi ngược Lục tổ: 

– Lúc ngồi thiền, Hòa thượng thấy hay không thấy?   Lục tổ không trả lời, vươn tay lấy gậy đánh Thần Hội ba cái, sau đó hỏi: 

– Ta đánh chú ba cái, chú đau hay không đau? 

Thần Hội nhịn đau, ngoan cố trả lời: 

– Dạ đau, mà cũng không đau. 

Lúc đó, Lục tổ bèn trả lời câu hỏi trước đó của Thần Hội: 

– Ta cũng vậy, thấy mà cũng không thấy. 

Thần Hội cảm thấy háo kỳ, hỏi Lục tổ: 

– Làm thế nào vừa thấy vừa không thấy? 

  Lục tổ trả lời: 

– Cái thấy của ta là thấy lỗi lầm của chính mình mà không thấy sự thị phi tốt xấu của kẻ khác, cho nên gọi là thấy mà cũng không thấy. Còn chú nói vừa đau vừa không đau là sao? Ta đánh chú, nếu chú không đau thì giống như cây cỏ đá sỏi, còn nếu đau thì cũng giống như những người bình thường khác, sanh khởi tâm sân hận, đây cũng chẳng phải là khai ngộ. Chú nên biết, khi chú hỏi ta thấy hay không thấy là nêu lên đạo lý nhị biên (đối đãi), còn khi ta hỏi chú đau hay không đau, đây là pháp sanh tử. Chú chưa thấy được tự tánh, mà dám ở trước mặt ta lộng ngôn, bắt chước luận điệu của kẻ khác? 

 Thần Hội nghe xong, biết mình có lỗi, bèn thành tâm kính phục, đảnh lễ sám hối. 

 Lục tổ thấy Thần Hội có tâm hối cải, bèn khai thị:  – Nếu như trong tâm chú còn chấp mê, chưa thể kiến tánh thì phải nên tìm thiện tri thức cầu mong chỉ dạy phương pháp tu hành. Giả như chú đã khai ngộ, tự nhiê có thể minh tâm kiến tánh, y vào pháp mà tu tập. Hôm nay chú vẫn còn mê chấp chưa thấy tự tâm mà dám chạy đến đây hỏi ta kiến tánh hay chưa. Ta kiến tánh hay chưa chỉ tự mình ta biết rõ, lẽ nào bị chú hỏi vài ba câu liền mê hoặc hay sao? Tương tự, nếu như chú đã kiến tánh thì hôm nay đã không bị vài câu hỏi của ta làm cho mê hoặc. Tại sao chú không tự mình hồi quang phản chiếu, lại chạy tìm bên ngoài, mà còn dám đến đây đối đáp cơ phong với ta, hỏi ta kiến tánh hay chưa? 

Thần Hội nghe xong, càng cảm thấy hổ thẹn, bèn xì xụp lạy Lục tổ hơn một trăm lạy, thỉnh cầu ngài từ bi tha tội. Từ đó về sau, để bày tỏ sự sám hối và lòng chân thành khâm phục, Thần Hội luôn túc trực bên cạnh Lục tổ để hầu hạ sớm hôm. 

Một hôm, Lục tổ nói với đại chúng: 

– Ta có một vật không có đầu, không có đuôi, không có tên (danh) cũng không có chữ (tự), không có phía trước cũng không có phía sau, các thầy có biết là vật gì không? 

 Thần Hội thấy mọi người đều im lặng, bèn từ đám đông bước ra nói: 

– Cái này đơn giản, không phải nó là bổn nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội hay sao? 

 Thần Hội tuy giải thích rất hay, nhưng y nhiên vẫn là học lóm từ người khác, lại thích khoa trương, do đó Lục tổ bèn nói với thầy ấy: 

– Ta đã nói không có danh tự, tại sao thầy lại còn gọi nói là bổn nguyên Phật tánh? Nếu cứ như vậy thì rốt cuộc thầy chỉ là một người thông hiểu văn tự xuông. Ta thấy ngày sau thầy cũng chỉ có thể là người giải thích kinh điển Thiền tông mà thôi. 

Sau khi Lục tổ viên tịch, Thần Hội đến kinh đô Lạc 

Dương hoằng dương pháp môn đốn giáo. và có sáng tác quyển Hiển Tông Ký truyền bá rất rộng rải. Nhân vì Thần Hội trú ngụ tại vùng Hà Trạch, huyện Tào Châu, tỉnh Sơn Đông, cho nên người đời thường gọi ngài là thiền sư Hà Trạch. 

 

Từ chối không lên Kinh đô 

Vào tiết Nguyên tiêu, ngày rằm tháng giêng năm Thần Long thứ nhất (705), hoàng hậu Võ Tắc Thiên và vua Trung Tông hạ chiếu thư nói: 

– Trẫm nghinh thỉnh hai vị Đại sư Huệ An và Thần Tú đến Trường An, vào cung tiếp thọ cúng dường. Hơn nữa, nhân rảnh rỗi việc triều chánh, cũng cầu hai vị thuyết giảng đạo lý về Nhất Phật Thừa. Thế nhưng, hai vị Đại sư đều rất khiêm nhường nói: “Tài đức chúng tôi đều không bằng Thiền sư Huệ Năng ở phương Nam. Ngài Huệ Năng đã từng được Ngũ tổ Hoằng Nhẫn mật truyền y bát, và là người truyền Tâm ấn của Phật. Hoàng thượng nếu có nghi vấn, xin hãy nghinh thỉnh ngài Huệ Năng về triều để hỏi đạo.” Vì thế hôm nay trẫm phái nội thị trong cung là Tiết Giản đem thư này đến phương Nam dâng lên cung thỉnh Đại sư, hy vọng ngài từ bi đến kinh thành ban bố pháp nhũ.  Thế nhưng Lục tổ viện lý do bị bệnh để dâng sớ thoái từ. Tiết Giản không có cách nào hơn là thỉnh Lục tổ ban bố Phật pháp để tiện trở về triều phục mệnh. Tiết Giả hỏi Tổ: 

– Tôi nghe các thiền sư nơi kinh thành nói nếu muốn lĩnh ngộ Phật pháp nhất định phải tọa thiền tập định, nếu không tọa thiền mà muốn được giải thoát thì đây là điều bất khả. Không biết đường lối tu hành của Đại sư thế nào, giống hay không giống các vị ấy? 

Lục tổ trả lời: 

– Phật pháp là từ tâm mà thể ngộ, làm sao lại chỉ có tọa thiền? Chỉ tọa thiền không chưa đủ, mà còn phải hiểu rõ giáo lý đạo Phật mới được. Hiểu rõ giáo lý là giải, tọa thiền là hành. Nếu chỉ hành mà không giải, đây gọi là ngu si; nếu chỉ giải mà không hành, ắt trở thành “khẩu đầu thiền.” Cho nên phải hiểu rõ đạo lý rồi mới nỗ lực thực hành, chứ không phải cứ ngồi từ sáng đến tối, ngồi mấy mươi năm cũng chẳng hiểu giáo lý, mà tự mình cũng chẳng thể khai ngộ. Kinh Kim Cương nói: “Nếu có người cho rằng Như Lai có đi, có đến, có ngồi, có nằm, người đó không hiểu những điều ta nói. Vì sao? Như lai không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai.” Nếu có người cho rằng Phật ngồi hoặc nằm, người này là bàng môn tả đạo. Tại sao? Bởi vì Phật không từ chỗ nào đến, cũng không đi đến chỗ nào, vốn chẳng sanh mà cũng chẳng diệt, đây mới là thanh tịnh thiền, tất cả Phật pháp xưa nay không tịch, đây mới là thanh tịnh tọa. Giải thoát cứu cánh xưa nay không có một pháp nào có thể chứng đắc, có thể nắm giữ, huống chi chỉ y vào pháp tọa thiền. 

Tiết Giản nói: 

– Tôi trở về kinh thành, Hoàng thượng nhất định sẽ hỏi tôi về yếu chỉ Phật pháp. Xin Đại sư từ bi chỉ rõ yếu điểm, để tôi về kinh thành có thể trình lên Hoàng thượng, Hoàng hậu; hơn nữa, cũng có thể truyền đạt đến các người tu thiền, lễ Phật nơi kinh thành. Đây giống như một ngọn lửa có thể thắp sáng trăm ngàn ngọn đèn, khiến cho bóng tối được bừng sáng không cùng tận. 

Lục tổ nói:  

– Bản thể của đạo không phân biệt sáng tối, bởi vì sự chuyển biến giữa sáng và tối cũng giống như sự chuyển biến giữa mới và cũ. Ánh sáng đến thì bóng tối đi, bóng tối đến thì ánh sáng đi. Tuy ông nói ánh sáng không cùng tận, nhưng thật sự ánh sáng cũng có sự cùng tận. Vì sao? Bởi vì sáng và tối là pháp tương đối, mà đã là pháp tương đối thì nếu không là bên này thì là bên kia. Cho nên Kinh Duy Ma Cật nói: “Pháp không thể nghĩ bàn, không còn sự đối đãi, là tuyệt đối chứ không phải tương đối.” Tiết Giản hỏi tiếp: 

– Mọi người chẳng phải đem ánh sáng ví dụ cho trí tuệ, đem bóng tối ví dụ cho phiền não hay sao? Người tu 

Phật pháp nếu không đem trí tuệ chiếu phá phiền não thì làm sao giải thoát khỏi sanh tử?  Lục tổ trả lời: 

– Phiền não tức là Bồ đề. Ông muốn đem phiền não và Bồ đề phân làm hai, nhưng chúng không thể bị phân biệt. Đem trí tuệ chiếu phá phiền não, đó là quan điểm của hai thừa Thanh văn và Duyên giác, là cảnh giới xe dê xe hươu. Người có đại trí tuệ chân chánh không làm theo lối này. 

Tiết Giản hỏi: 

– Thế nào là kiến giải Đại thừa? 

Lục tổ nói:  

– Sáng và tối, theo lối nhìn phàm phu, quả nhiên hoàn toàn khác biệt, nhưng người có đại trí tuệ ắt biết rằng bổn tánh của cả hai không có sai khác. Cái tánh vô nhị này tức là thật tánh. Thật tánh là gì? Nghĩa là nó không vì ở nơi kẻ phàm mà giảm bớt, hoặc ở nơi bậc thánh mà tăng thêm. Trong cảnh giới phiền não nó không loạn, trong cảnh giới thiền định nó cũng không tịch tĩnh. Nó vừa động vừa tĩnh, không đoạn không thường, không đến không đi, không ở giữa, cũng không ở mé ngoài, không sanh không diệt, tánh tướng nhất như, không dời không đổi, đây tức là đạo. 

Tiết Giản lại hỏi: 

– Đại sư nói bất sanh bất diệt, so với ngoại đạo có chỗ nào không đồng? 

Lục tổ nói:  

– Ngoại đạo nói bất sanh bất diệt là đem cái diệt ngăn chận cái sanh, dùng cái sanh hiển bày cái diệt; nhân đây cái diệt của họ giống như không diệt, cái sanh của họ giống như không sanh. Còn ta nói bất sanh bất diệt là chỉ cho Phật tánh xưa nay vốn không sanh cũng không diệt, cho nên không giống với ngoại đạo. Nếu ông muốn biết yếu chỉ của pháp “đem tâm truyền tâm” thì chỉ cần đối với tất cả pháp thiện ác đều không khởi tâm suy lường phân biệt, tự nhiên sẽ đạt đến bổn thể tâm linh trong sạch sáng suốt, đây là sự vĩnh viễn thanh tịnh, chứ không phải tạm thời. Tuy tâm tánh trạm nhiên thường tịch (chân không), nhưng lại ứng khởi tác dụng nhiều như cát sông Hằng (diệu hữu).  

Nghe xong lời khai thị của Lục tổ, Tiết Giản thể ngộ được ý nghĩa sâu xa, bèn lạy tạ. Sau khi trở về kinh thành, Tiết Giản đem những lời dạy của Lục tổ trình lên nhà vua và hoàng hậu. Vào tháng chín năm đó, Hoàng đế hạ chiếu thư phong thưởng Lục tổ, đồng thời ban cho ngài một tấm cà sa ma nạp và một cái bình bát bằng thủy tinh, lại còn mệnh lệnh thứ sử Thiều Châu trùng tu ngôi chùa cũ của ngài ở Tân Châu và đồng thời sắc phong là chùa Quốc Ân. 

   

Nói pháp đối đãi 

Một hôm Lục tổ triệu tập các đệ tử Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như, v.v… đến, ngài nói:  – Các thầy không như các đệ tử khác, sau khi ta viên tịch, các thầy đều sẽ trở thành những bậc đạo sư, mỗi người giáo hóa một phương. Hôm nay ta muốn chỉ dạy cho các thầy một phương cách hoằng dương Phật pháp. Các thầy phải thuyết pháp thế nào? Hãy nhớ, lúc thuyết pháp tuyệt nhiên không nên quên tông chỉ của pháp môn Đốn giáo. Trước tiên phải nêu lên ba khoa, dùng ba khoa này làm pháp môn căn bản, kế đến dùng ba mươi sáu pháp đối đãi, nhưng phải khéo léo không để bị vướng mắc vào hai bên, mà cũng không thể chấp vào trung đạo. Điều quan trọng nhất là không được xa lìa tự tánh. Nếu có người đến hỏi thì dùng những pháp đối đãi để trả lời, mỗi pháp đều phải thích ứng với đầu mối của câu hỏi; sau cùng trừ khử ý niệm đối đãi, cho đến khi không còn chỗ chấp trước mới thôi. 

Thế nào là ba khoa? Tức là ấm, giới, nhập. Ấm tức là năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức; nhập tức là sáu trần bên ngoài: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, cộng với sáu căn bên trong: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, tổng cộng là mười hai nhập; giới tức là sáu căn, sáu trần cộng thêm sáu thức: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân và ý, thành mười tám giới. Tự tánh có thể bao hàm vạn pháp, còn gọi là hàm thức tạng, tất cả tác dụng của ý thức đều bao hàm trong đây. Nếu trong tâm chúng ta khởi lên một niệm suy lường, đây gọi là chuyển thức, sẽ sinh ra sáu thức, xuyên qua sáu căn, tiếp xúc với sáu trần. Đây tức là mười tám giới, đều là tác dụng xuất phát từ chân như tự tánh. Nếu tự tánh là tà thì sẽ sinh khởi mười tám tà; nếu tự tánh là chánh thì sẽ sinh khởi mười tám chánh. Nếu tác dụng không đúng, đây là tác dụng của chúng sanh; nếu tác dụng là thiện, là viên mãn, đây là tác dụng của chư Phật. Thế nhưng, bất luận những tác dụng này xuất phát từ đâu, chúng đều là pháp đối đãi. Các vật vô tình thiên nhiên bên ngoài thuộc về năm cặp đối đãi: trời đối với đất, mặt trời đối với mặt trăng, sáng đối với tối, âm đối với dương, nước đối với lửa. Đây là năm cặp đối đãi của loài vô tình. Về phương diện pháp tướng và ngữ ngôn có mười hai cặp đối đãi: ngữ đối với pháp, hữu đối với vô, sắc đối với vô sắc, hữu tướng đối với vô tướng, hữu lậu đối với vô lậu, sắc đối với không, động đối với tĩnh, thanh đối với trược, phàm đối với thánh, tăng đối với tục, già đối với trẻ, lớn đối với nhỏ. Đây là mười hai cặp đối đãi của pháp tướng ngữ ngôn. Chân như tự tánh sinh khởi tác dụng có mười chín cặp đối đãi: dài đối với ngắn, tà đối với chánh, si đối với tuệ, ngu đối với trí, loạn đối với định, từ (ái) đối với (ác) độc, giới đối với phi (phá giới), ngay thẳng (trực) đối với cong vạy (khúc), thực đối với hư, hiểm (hốc) đối với bình (phẳng), phiền não đối với bồ đề, thường đối với vô thường, bi (mẫn) đối với (hãm) hại, hỷ đối với sân, xả đối với san (keo kiết), tiến đối với thoái, sinh đối với diệt, pháp thân đối với sắc thân, hóa thân đối với báo thân. Đây là mười chín cặp đối đãi của tự tánh sanh khởi tác dụng.  

Lục tổ nói tiếp: 

– Nếu có thể hiểu rõ thâm ý và vận dụng thích đáng ba mươi sáu pháp đối đãi này thì có thể quán thông và hiểu rõ tất cả kinh điển, tâm ý xa lìa sự chấp trước vào hai bên, không bị trói buộc. Lúc chân như tự tánh tùy duyên sanh khởi tác dụng, đàm luận với người khác, tuy duyên cảnh tướng bên ngoài nhưng không chấp trước vào cảnh tướng. Nếu chuyên chấp vào tướng thì sẽ sanh khởi tà tri tà kiến, nếu chuyên chấp vào không thì sẽ sanh khởi tâm thức ngu si. Những người chấp vào không, thường hủy báng kinh điển rằng: “Truyền đạt Phật pháp không cần nương vào văn tự.” Các thầy hãy nghĩ xem, nếu thật sự không cần văn tự thì mọi người cũng không cần phải nói năng, bởi vì ngữ ngôn cũng là một hình tướng khác của văn tự. Những người đó còn cho rằng chân lý là “bất lập văn tự.” Mỗi khi thấy có người giảng kinh thuyết pháp bèn phê bình người giảng chấp trước vào văn tự giải thích. Nhưng các thầy nghĩ xem, hai chữ “bất lập” này có phải là văn tự hay không? Các thầy phải cẩn thận, tuyệt nhiên không được hủy báng kinh pháp. Tội chướng báng pháp này nặng không thể tưởng được. 

Ngoài ra, nếu có người chấp vào hình tướng bên ngoài, dùng đủ mọi biện pháp để truy cầu chân lý; hoặc đi khắp nơi kiến lập đạo trường, hoặc nói “có” nói “không”, những người như vậy, bất luận trải qua bao nhiêu thời gian, cũng không cách nào minh tâm kiến tánh. Các thầy chỉ cần ghi nhớ những lời ta dạy, y vào pháp mà tu hành là được. Thế nhưng, chớ nên việc gì cũng không tưởng nghĩ đến, điều này sẽ sanh khởi sự chướng ngại đối với việc lãnh ngộ chân lý. Lại cũng không nên chỉ biết giảng thuyết mà không chịu tu hành, khiến cho mọi người sanh khởi tà niệm. Cho nên các thầy phải nương vào pháp mà tu tập, không chấp vào hình tướng, mà làm tất cả Phật sự lợi ích chúng sanh. Nếu các thầy hiểu những gì ta nói, y vào đây mà thuyết pháp, vận dụng, tu trì, tạo tác sự nghiệp, thì sẽ không bị thất lạc tông chỉ của Thiền tông. 

 Giả sử có người đến hỏi các thầy chân đế của pháp tu thiền, nếu họ hỏi “hữu” thì dùng “vô” mà giải đáp, nếu họ hỏi “vô” thì dùng “hữu” mà giải đáp, hỏi “phàm” thì nói “thánh”, hỏi “thánh” thì nói “phàm.” Dùng đạo lý đối đãi này, hai bên làm nhân cho nhau, thì có thể làm sáng tỏ ý nghĩa Trung đạo. Tương tự như trường hợp hỏi đáp, các vấn đề khác cũng y chiếu vào đây mà hành xử, thì cũng không đánh mất ý nghĩa Trung đạo. Giả như có người hỏi: “Thế nào gọi là bóng tối”, thì nên trả lời: “Ánh sáng là nhân, bóng tối là duyên, khi ánh sáng biến đi thì bóng tối hiện ra, dùng ánh sáng để nêu rõ bóng tối, dùng bóng tối để phô bày ánh sáng, hai bên làm nhân quả cho nhau, đây là ý nghĩa chân thật của Trung đạo.” Những vấn đề khác cũng giải đáp tương tự như vậy. Trong tương lai khi các thầy hoằng dương giáo pháp Thiền tông đều phải y chiếu vào đạo lý này mà truyền thọ cho nhau, không nên đánh mất tông chỉ của Thiền tông.  

 

Lục tổ viên tịch 

Tháng bảy năm Thái Cực thứ nhất đời Đường Duệ Tông (712), Lục tổ Huệ Năng phân phó các đệ tử đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu xây tháp, lại còn dặn mọi người phải nhanh chóng hoàn thành. Đến mùa hạ năm sau (713), việc xây cất được xem như hoàn tất. Ngày mồng một tháng bảy, Lục tổ triệu tập tất cả đệ tử, nói: 

– Đến tháng tám này ta sẽ rời khỏi thế gian, các thầy nếu còn những thắc mắc gì hãy sớm đến hỏi, ta sẽ giải đáp để các thầy không còn bị mê hoặc. Nếu không, đến lúc ta mất rồi, e rằng sẽ không còn ai dạy dỗ chỉ dẫn các thầy. 

Các đệ tử nghe Lục tổ nói thế đều cảm thương rơi lệ, chỉ có Thần Hội là nghiễm nhiên không tỏ vẻ xúc động. Lục tổ thấy thế bèn lên tiếng: 

– Các thầy có thấy Thần Hội không, thầy ấy tuy tuổi còn trẻ, nhưng lại là người thông đạt yếu chỉ Phật pháp. Chẳng những bất động đối với sự khen chê, mà còn bất động đối với sự thương ghét. Quả thật hiếm có. Ngược lại, các thầy tự quán sát mình xem, bao nhiêu năm nay tu hành cái gì, tại sao mới vừa nghe ta sắp viên tịch lại lớn tiếng khóc lóc như vậy! À, thật là vô dụng, chẳng bằng vị thầy trẻ tuổi này. Các thầy hiện nay khóc lóc là vì ai vậy? Các thầy hãy an tâm, ta đã biết rõ mình sẽ đi về đâu. Nếu ta không biết mình sẽ đến nơi nào thì hiện giờ ta đâu có gọi các thầy lại để dặn dò. Có phải các thầy hiện nay bi thương là vì không biết ta sẽ đi về đâu? Còn như các thầy biết ta sẽ đi về đâu, thì không nên tỏ vẻ bi thương mới đúng. Nên biết pháp tánh không sanh không diệt, không đến không đi. Bây giờ các thầy hãy ngồi xuống nghe ta nói bài kệ “Chân giả động tĩnh.” Hãy nhớ thuộc lòng bài kệ này. Nếu các thầy cùng ý hướng với ta thì hãy y vào bài kệ mà tu hành, ắt sẽ không đánh mất tông chỉ của Thiền tông. 

 Mọi người nghe xong bèn đảnh lễ thỉnh cầu Lục tổ đọc kệ: 

Tất cả pháp đều không chân thật
Không nên điên đảo thấy là chân
Nếu như thấy pháp là chân thật
Đây chỉ là “thấy”, không phải “chân”
Nếu tự tâm đạt đến cảnh “chân”
Xa lìa giả tướng tức là chân
Tự tâm không thể lìa giả tướng
Tâm đã không chân, đâu là chân
Hữu tình xưa nay vốn là động
Cây đá vô tình mới bất động
Nếu chỉ chuyên tu “bất động hành”
Cũng giống cây đá thường bất động
Nếu tìm tự tâm “chân bất động”
Trong sự động ắt có bất động
Bất động nếu là sự “cứng đơ”
Vô tình ắt không có “giống Phật”
Nên khéo phân biệt các pháp tướng
Đối “đệ nhất nghĩa” không dao động
Chỉ cần có lối nhìn như vậy
Đó là tác dụng của chân như
Nay xin dặn các người học đạo
Khi dụng công phải nên chú ý
Không nên trong pháp môn Đại thừa
Vẫn chấp vào cái thấy phàm phu
Hai bên bàn luận, nếu hợp ý
Thì mới luận bàn nghĩa Phật pháp
Nếu như hai bên không hợp ý
Hãy nên chắp tay, tâm hoan hỷ
Tông môn xưa nay vốn vô tranh
Nếu tranh, e mất “chân đạo nghĩa”
Những người cố chấp ưa tranh luận
Tâm tánh bị buộc trong sanh tử.

Sau khi Lục tổ nói xong bài kệ, tất cả mọi người kiền thành cúi đầu đảnh lễ, đều thể ngộ tâm ý của ngài, nguyện nhiếp tâm, y vào pháp tu hành, không dám tranh cãi.  

Mọi người biết rằng Lục tổ sẽ không còn trụ thế bao lâu nữa, cho nên thượng tọa Pháp Hải bèn lạy Lục tổ, hỏi: 

– Sau khi sư phụ diệt độ, y bát sẽ truyền thọ cho ai? 

Lục tổ nói: 

– Các thầy nên ghi lại tất cả lời dạy của ta từ lúc ở chùa Đại Phạm đến nay, đề tên là Kinh Pháp Bảo Đàn. Phải nên cẩn thận giữ gìn pháp bảo này, triển chuyển lưu truyền đời sau để độ tất cả chúng sanh. Nếu y vào đây mà truyền dạy thì gọi là chánh pháp. Hôm nay ta vì các thầy thuyết pháp, nhưng không truyền thọ y bát, lý do là vì tín tâm của các thầy đã thuần thục, quyết định không còn nghi ngờ, có thể đảm nhiệm việc lớn. Y cứ vào bài kệ phó chúc của tổ Đạt Ma, thời cơ không còn thích hợp để truyền thọ y bát. Bài kệ của tổ Đạt Ma nói: 

Một hoa sanh năm cánh
Kết quả tự nhiên thành .

Lục tổ lại nói: 

– Các thầy hãy lắng nghe ta nói. Nếu muốn thành tựu Phật trí phải nên thông đạt Nhất tướng tam muội và Nhất hành tam muội. Nếu ở bất cứ nơi nào đều không trụ vào tướng, đối với các tướng cũng không khởi tâm thương, ghét, cũng không giữ, không bỏ, không màng đến các việc lợi ích, thành hoại, mà nên an nhàn, tự tại, bao dung, đạm bạc, đây gọi là Nhất tướng tam muội. Nếu ở tất cả mọi nơi, đi đứng nằm ngồi, chỉ giữ một tâm “trực”, không rời đạo trường, mà thành Tịnh độ, đây gọi là Nhất hành tam muội. Người nào đầy đủ hai tam muội này, giống như đất có hạt giống, dung chứa nuôi dưỡng, khiến thành hoa trái. Nhất tướng Nhất hành tam muội cũng giống như vậy. Nay ta nói pháp cũng giống như cơn mưa thấm nhuần mặt đất, còn Phật tánh của các thầy giống như hạt giống, gặp được cơn mưa đều phát triển. Nếu như tuân theo lời dạy của ta, quyết sẽ được Bồ đề, nếu y theo lời dạy mà tu hành, nhất định sẽ chứng diệu quả. Nghe ta nói kệ: 

Tâm địa chứa hạt giống
Gặp mưa đều nảy mầm
Các hữu tình đốn ngộ
Đều sẽ chứng Bồ đề.

Tổ lại nói:  

– Phật pháp không có hai pháp, tâm cũng vậy, không có hai tâm. Nên nhớ rằng Phật đạo thanh tịnh cũng không có hai tướng. Chớ nên quá chú trọng vào việc quán tịnh, hoặc muốn khiến tâm mình trở thành “không.” Tự tâm xưa nay vốn thanh tịnh, không có chấp chặt hoặc xả bỏ vật nào. Các thầy mỗi người phải tự nỗ lực dụng công, khéo léo trong việc tùy duyên hóa độ chúng sanh. 

Nghe xong, mọi người đều đảnh lễ Lục tổ mà lui ra. 

Ngày mồng tám tháng bảy, Lục tổ bỗng nói với mọi người:  – Ta muốn trở về Tân Châu, các thầy hãy mau đi chuẩn bị thuyền. 

Mọi người nghe xong lo rằng Lục tổ sắp sửa viên tịch bèn khẩn hoãn thỉnh cầu ngài ở lại. Lục tổ bảo mọi người: 

– Chư Phật ứng hiện trên thế gian cũng đều thị hiện nhập Niết bàn, huống gì là ta? Phàm việc gì có đến ắt có đi, có sanh ắt có diệt, đây là một sự kiện hiển nhiên. Cái bọc da thối của ta cũng phải nên có một chỗ an trí thỏa đáng. 

– Sư phụ ra đi kỳ này, ắt không phải là từ đây vĩnh biệt, sớm muộn gì sư phụ cũng sẽ trở lại, phải không? 

Lục tổ nói: 

– Lá rụng về cội, không ngày trở lại.  Các đệ tử lại hỏi: 

– Chánh pháp nhãn tạng phải nên truyền trao cho ai kế thừa? 

  Lục tổ nói: 

– Người hiểu đạo sẽ được, kẻ vô tâm (không chấp) sẽ tự nhiên hiểu rõ. 

  Các đệ tử lại hỏi: 

Trong tương lai sẽ có pháp nạn nào không? 

  Lục tổ nói: 

– Sau khi ta mất khoảng năm, sáu năm sẽ có người đến lấy đầu ta. Hãy nghe ta tiên đoán: 

Một người vì phụng thờ
Một người vì miếng ăn
Kẻ phạm tội tên Mãn
Bị Liễu, Dương xử án.

Sau đó, Lục tổ nói tiếp: 

– Sau khi ta viên tịch bảy mươi năm, có hai vị Bồ tát từ phương Đông đến, một vị xuất gia, một vị tại gia, sẽ cùng đến để xây cất miếu tự, hoằng dương pháp môn Thiền tông, đem Phật pháp truyền bá rộng rãi.  Mọi người lại hỏi: 

– Không biết từ đời Phật Thích Ca đến nay, y bát đã được truyền thọ bao nhiêu đời rồi, kính xin Tổ sư từ bi nói rõ cho mọi người biết. 

Lục tổ nói: 

– Chư Phật ứng hiện thế gian vô lượng vô biên, nói không thể hết. Hiện nay lấy bảy vị Phật làm khởi đầu: kiếp quá khứ Trang Nghiêm có Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù, kiếp hiện tại Hiền có Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm, Phật Ca Diếp và Phật Thích Ca, tổng cộng là bảy vị Phật. 

 Đức Thích Ca truyền cho ngài Ca Diếp làm tổ thứ nhất, ngài A Nan làm tổ thứ nhì, ngài Thương Na Hòa Tu làm tổ thứ ba, ngài Ưu Bà Cúc Đa làm tổ thứ tư, ngài Đề Đa Ca làm tổ thứ năm, ngài Di Già Ca làm tổ thứ sáu, ngài Bà Tu Mật Đa làm tổ thứ bảy, ngài Phật Đà Nan Đề làm tổ thứ tám, ngài Phục Đà Mật Đa làm tổ thứ chín, ngài Hiếp Tôn giả làm tổ thứ mười, ngài Phú Na Dạ Xa làm tổ thứ mười một, ngài Mã Minh làm tổ thứ mười hai, ngài Ca Tỳ Ma La làm tổ thứ mười ba, ngài Long Thọ làm tổ thứ mười bốn, ngài Ca Na Đề Bà làm tổ thứ mười lăm, ngài La Hầu La Đa làm tổ thứ mười sáu, ngài Tăng Già Nan Đề làm tổ thứ mười bảy, ngài Già Da Xá Đa làm tổ thứ mười tám, ngài Cưu Ma La Đa làm tổ thứ mười chín, ngài Xà Da Đa làm tổ thứ hai mươi, ngài Bà Tu Bàn Đầu (Thế Thân) làm tổ thứ hai mươi mốt, ngài Ma Noa La làm tổ thứ hai mươi hai, ngài Cưu Lặc Na làm tổ thứ hai mươi ba, ngài Sư Tử làm tổ thứ hai mươi bốn, ngài Bà Xá Tư Đa làm tổ thứ hai mươi lăm, ngài Bất Như Mật Đa làm tổ thứ hai mươi sáu, ngài Bát Nhã Đa La làm tổ thứ hai mươi bảy, ngài Bồ Đề Đạt Ma làm tổ thứ hai mươi tám, ngài Huệ Khả làm tổ thứ hai mươi chín, ngài Tăng Xán làm tổ thứ ba mươi, ngài Đạo Tín làm tổ thứ ba mươi mốt, ngài Hoằng Nhẫn làm tổ thứ ba mươi hai, còn ta làm tổ đời thứ ba mươi ba. Từ các đời tổ trước đều có truyền thừa. Từ các thầy về sau hãy lần lượt truyền thọ, chớ để thất truyền.  

Ngày ba tháng tám năm Tiên Thiên thứ nhì (713), tại chùa Quốc Ân, Lục tổ theo thường lệ cùng mọi người thọ trai. sau khi thọ trai, ngài bảo mọi người ngồi theo thứ tự để ngài nói lời từ giả. Ngài Pháp Hải hỏi: 

– Sư phụ lưu lại giáo pháp nào để những người mê lầm đời sau được minh tâm kiến tánh?  

Lục tổ nói: 

– Các thầy lắng nghe! Những người mê lầm đời sau nếu nhận rõ chúng sinh nơi tự tâm mình thì có thể nhận rõ Phật tánh, nếu như không nhận rõ chúng sanh nơi tự tâm mình, thì dù có trăm ngàn kiếp đi tìm Phật cũng vẫn hoài công. Hiện nay ta dạy cho các thầy cách nào để nhận rõ chúng sanh nơi tự tâm mình, thấy rõ được Phật tánh nơi tự tâm mình. Muốn thấy được Phật, trước tiên phải nhận rõ chúng sanh. Bởi vì chúng sanh mê muội Phật tánh của chính mình, chứ không phải chư Phật khiến chúng sanh mê muội bổn tánh. Tự tánh nếu giác ngộ, chúng sanh tức là Phật, tự tánh nếu mê muội, Phật là chúng sanh. Tâm nếu tà vạy thì Phật ẩn trong chúng sanh, tâm nếu bình đẳng chất trực, chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, tự Phật là chân Phật. Nếu tự mình không có tâm Phật, thì đi tìm chân Phật chỗ nào? Tự tâm các thầy là Phật, nhất định không nên hồ nghi. Ngoại cảnh không có một vật gì có thể tự kiến lập, mà đều là các pháp do bản tâm sanh khởi tác dụng. Kinh nói: “Tâm sanh tất cả pháp sanh, tâm diệt tất cả pháp diệt.” Ta sẽ nói một bài kệ bái biệt, gọi là “Tự tánh chân Phật kệ.” Những người đời sau nếu hiểu ý bài kệ này sẽ tự thấy bản tâm, tự thành Phật đạo. 

Chân như tự tánh là chân Phật
Tà kiến, ba độc là ma vương
Đang lúc tà mê, ma hiển hiện
Lúc khởi chánh kiến, Phật hiện tiền
Trong tâm khởi tà kiến, ba độc
Tức là ma vương đến quấy nhiễu
Nếu chánh kiến diệt trừ ba độc
Ma biến thành Phật, thật chẳng giả
Pháp thân, báo thân và hóa thân
Ba thân xưa nay là một thân
Nếu hướng vào tâm thấy được Phật
Tức là nhân Bồ đề thành Phật
Vốn từ hóa thân sanh tịnh tánh
Tự tánh thường ở trong hóa thân
Tánh khiến hóa thân hành chánh đạo
Tương lai viên mãn thật vô cùng
Dâm tánh là nhân của tịnh tánh
Trừ dâm tức là thân tịnh tánh
Trong tâm vốn tự lìa ngũ dục
Kiến tánh ắt thấy Phật là chân
Đời này nếu gặp pháp đốn ngộ
Liền ngộ tự tánh thấy Thế Tôn
Nếu muốn tu hành, muốn thành Phật
Không biết nơi nào để tìm chân
Nếu như trong tâm tự thấy chân
Có “chân” tức là nhân thành Phật
Không thấy tự tính, tìm bên ngoài
Khởi tâm như vậy là người ngu
Nay đã lưu lại pháp đốn ngộ
Muốn độ người đời, phải tự tu
Người học Phật đời sau nên biết
Nếu không thấy đạo, uổng đời tu.

Sau khi đọc bài kệ, Lục tổ nói với mọi người: 

– Các thầy khéo an trụ. Sau khi ta diệt độ, không nên bi thương khóc lóc giống như những kẻ ngoài đời, không được mặc đồ tang và cũng không nên thọ nhận sự phúng điếu chia buồn của mọi người. Người nào làm điều này thì không phải là đệ tử của ta, mà cũng không làm đúng chánh pháp. Chỉ cần nhận chân bản tâm của mình không có sự động tĩnh, sanh diệt, tới lui, thị phi, đi ở, là được. Ta chỉ e các thầy hãy còn mê hoặc, chưa thể hiểu rõ những đạo lý mà ta đã dạy. Nếu các thầy có thể y vào những phương pháp ta dạy mà thực hành thì cũng giống như ta vẫn còn trụ tại thế gian. Nếu đi ngược những lời dạy của ta, thì dù ta vẫn còn sinh hoạt tại thế gian, đối với các thầy vẫn chẳng có lợi ích gì. 

Kế đó, Lục tổ nói bài kệ: 

Bất động, chẳng tu thiện
Thung dung, chẳng tạo ác
An nhiên, dứt thấy nghe
Thênh thang, tâm không chấp.

Nói bài kệ xong, Lục tổ ngồi nhập định đến canh ba, sau đó nói với mọi người: 

  Ta đi đây. 

Nói xong, 

Lục tổ thâu thần nhập diệt. Nghe nói, lúc ấy trong phòng ngài tỏa ngát mùi hương lạ, trên không xuất hiện một cầu vồng trắng, cây cỏ cũng biến thành màu trắng, các loài cầm thú đều cất tiếng bi thương. 

Tháng mười một, năm Khai Nguyên thứ nhất (713), quan liêu của ba quận Quảng Châu, Thiều Châu, Tân Châu, cùng các đệ tử xuất gia và tại gia đều tranh nhau nghinh thỉnh di thể của Lục tổ đến quận mình để thờ phụng cúng dường. Nhóm Quảng Châu thì muốn nghinh thỉnh về chùa Pháp Tánh (Quang Hiếu), vì đó là nơi Lục tổ xuống tóc xuất gia, nhóm Thiều Châu thì cho rằng Lục tổ là tổ khai sơn của chùa Bảo Lâm (Nam Hoa), còn nhóm Tân Châu thì muốn nghinh thỉnh về chùa Quốc Ân, vì nơi đó là quê hương của Lục tổ. Mọi người ai cũng có lý lẽ riêng, không ai chịu nhường ai. Sau đó, có người đưa ý kiến là nên thắp hương cầu Lục tổ quyết định, nếu khói hương bay về hướng nào thì sẽ đưa di thể về nơi đó. Kết quả là sau khi niệm hương, khói hương bay thẳng về hướng Tào Khê. Do đó vào ngày mười ba tháng mười một, mọi người đưa di thể Lục tổ cùng y bát Thiền tông đến chùa Bảo Lâm ở Tào Khê. 

Ngày hai mươi lăm tháng bảy năm sau (714), đại chúng thỉnh nhục thân Lục tổ ra khỏi điện thờ để ngài Phương Biện phết bột thơm để giữ cho không bị mục nát. Các đệ tử nhớ lại lời dự đoán trong tương lai sẽ có người đến trộm đầu ngài, bèn lấy thép và vải sơn bao chặt cổ nhục thân rồi đưa vào tháp thờ. Khi ấy có một luồng ánh sánh trắng từ trong tháp phóng ra chiếu thẳng lên trời, đến ba ngày sau mới từ từ tan đi. Thứ sử Thiều Châu đem sự linh ứng đó tâu lên triều đình, nhà vua bèn ban sắc lệnh lập bia để kỷ niệm đạo hạnh của Lục tổ. 

Sau khi Lục tổ viên tịch, ngài Thần Hội lên phương Bắc, tại chùa Đại Vân ở Hoạt Đài (hiện nay là huyện Hoạt, tỉnh Hà Nam), triệu khai Vô già đại hội, tuyên giảng tông chỉ của pháp môn Đốn giáo, phê bình kích bác Thiền tông phương Bắc, xác lập địa vị chánh thống của ngành Thiền đốn ngộ. Từ đó về sau, phái Thiền của ngài Thần Tú dần dần suy vong. Nhân vì Thần Hội làm trụ trì chùa Hà Trạch ở Lạc Dương, tông phái do ngài truyền thọ được gọi là Hà Trạch Tông. Phái này rất hưng thạnh vào thời Trung Đường, nhưng chẳng bao lâu cũng bị suy vong.  

Trong các đệ tử của Lục tổ, chánh thức phát triển lớn mạnh vào đời sau là hai hệ phái của ngài Nam Nhạc (Hoài Nhượng) và Thanh Nguyên (Hành Tư). 

Ngài Nam Nhạc truyền pháp cho ngài Mã Tổ Đạo Nhất, Đạo Nhất truyền pháp cho ngài Bách Trượng Hoài Hải. Từ sau ngài Bách Trượng được chia làm hai phái là: (1) chi phái do hai ngài Quy Sơn Linh Hựu và Ngưỡng Sơn Huệ Tịch thành lập gọi là Quy Ngưỡng Tông, (2) chi phái do ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền thành lập gọi là Lâm Tế Tông. 

Ngài Thanh Nguyên Hành Tư, một vị đệ tử mà Lục tổ vô cùng quý trọng, có một đệ tử là ngài Thạch Đầu Hy Thiên, truyền qua vài đời thì có ngài Vân Môn Văn Yển thành lập Vân Môn Tông; hai ngài Tào Sơn Bổn Tịch và Động Sơn Lương Giới thành lập Tào Động Tông; còn  ngài Thanh Lương Văn Ích thì thành lập Pháp Nhãn Tông. Như vậy, bắt đầu từ khi đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni cầm nhánh hoa kim sắc đưa lên, ngài Đại Ca Diếp biết ý mĩm cười, pháp môn thiền “đem tâm truyền tâm” được truyền thọ đời này qua đời khác, cuối cùng đã đến Trung quốc khai hoa kết quả. Năm tông Quy Ngưỡng, Lâm Tế,  Vân Môn, Tào Động, Pháp Nhãn ứng nghiệm lời huyền ký của tổ Đạt Ma: “Một hoa sanh năm cánh, kết quả tự nhiên thành.” 

Lục tổ Huệ Năng hưởng thọ bảy mươi sáu tuổi, trải qua sáu đời vua, lúc hai mươi bốn tuổi được truyền thọ pháp y, lúc ba mươi chín tuổi xuống tóc xuất gia, thuyết pháp độ hóa chúng sanh ba mươi bảy năm. Số người đắc pháp với ngài được bốn mươi ba vị, còn số người nghe pháp tu tập được khai ngộ nhập đạo, hoặc siêu phàm nhập thánh thì nhiều không kể xiết. Y bát mà tổ Đạt Ma truyền thọ, y bát do triều đình phong tặng, bức tượng do ngài Phương Biện tạc thành, cùng những đạo cụ của tổ Huệ Năng đều được đưa vào tháp để làm pháp bảo trấn giữ đạo trường. Lưu truyền Kinh Pháp Bảo Đàn cùng hiển dương pháp môn Thiền đốn ngộ, cũng đều là việc hưng long Phật pháp Tam bảo, và đây cũng là những điều xác thực làm lợi ích chúng sanh. 

 Vào lúc nửa đêm ngày mồng ba tháng tám năm Khai Nguyên thứ mười (722), trong chùa Bảo Lâm đột nhiên có tiếng dây xích sắt kéo lê trong tháp, mọi người trong chùa choàng dậy chạy ra thì thấy có một người mặc tang phục đang từ trong tháp chạy ra. Đại chúng vội vàng chạy vào trong tháp thì thấy 

nơi cổ của di thể Lục tổ có vết đao chém, bèn đem việc này báo cáo lên quan phủ. Sự kiện này đã làm kinh động mọi người trong vùng. Quan huyện Dương Khoản, thứ sử Liễu Vô Thiêm bèn hạ lệnh giải quyết vụ án này nhanh chóng. Sau vài ngày, quan quân bắt được một người ở thôn Thạch Giác tên Trương Tịnh Mãn, giải lên quận Thiều Châu thẩm vấn. Tịnh Mãn bèn khai: 

– Tôi là người huyện Lương ở Nhữ Châu, lúc ở chùa Khai Nguyên ở Hồng Châu nhận số tiền hai chục ngàn từ một nhà sư Triều Tiên tên Kim Đại Bi, ông ấy muốn tôi đi trộm thủ cấp của Lục tổ để đem về Triều Tiên cúng dường. Tôi vì đang cần tiền để nuôi gia đình thành thử đã nhận lời.  Thứ sử Liễu Vô Thiêm sau khi nghe xong, chưa vội ra phán quyết, bèn tự mình đi đến Khúc Khê, thỉnh cầu vị sư giữ tháp là Lịnh Thao cho biết ý kiến. Ngài Lịnh Thao nói: 

– Nếu theo phép nước, đáng lẽ phải phán tội tử hình, nhưng cửa Phật từ bi, huống chi người chủ mưu chỉ muốn thỉnh về để cúng dường, cho nên cũng không thể cho rằng họ phạm tội cực ác, thôi thì tha cho họ vậy! 

Liễu Vô Thiêm nghe xong vô cùng ca ngợi lòng từ bi khoan thứ của Phật giáo, bèn phóng thích phạm nhân. Điều này ứng nghiệm với lời tiên tri của Lục tổ. 

Năm Thượng Nguyên thứ nhất (760), đời Đường 

Túc Tông, nhà vua phái sứ giả đến Tào Khê nghinh thỉnh y bát của Lục tổ về cung cúng dường. Mãi đến ngày năm tháng năm, năm Vĩnh Thái thứ nhất (765), đời Đường Đại Tông, vua Đại Tông nằm mộng thấy Lục tổ đến yêu cầu trả lại y bát. Vào trưa ngày bảy tháng năm, nhà vua hạ lệnh cho thứ sử Thiều Châu là Dương Giam nói: 

– Trẫm nằm mộng thấy thiền sư Huệ Năng đến đòi y bát, cho nên hiện nay phái Trấn quốc đại tướng quân Lưu Sùng Cảnh cung kính hộ tống y bát trở về Tào Khê. Ông cần phải đúng như pháp an trí tại chùa Bảo Lâm, và cũng cung thỉnh đại chúng trong chùa phải khéo giữ gìn, không để thất lạc. 

 Sau đó, mặc dù y bát bị kẻ gian trộm đi, nhưng chẳng bao lâu lại tìm được, như vậy trước sau cả thảy bốn lần. 

 Đời Đường Hiến Tông, triều đình phong húy hiệu Lục tổ là Đại Giám Thiền Sư, phong tháp của ngài hiệu là Nguyên Hòa Linh Chiếu.   

 Vào thời Triệu Khuông Dẫn lập nhà Tống, đã từng đem quân đến bình định vùng Nam Hải. Đối thủ của Triệu Khuông Dẫn là Lưu Dụ bị đại bại, tàn quân của ông ta tẩu tán khắp nơi, kết quả là chùa tháp của Lục tổ cũng bị thiêu rụi. Rất may di thể của ngài được các vị giữ tháp bảo trì nguyên vẹn, không chút tổn hoại.  

 Lúc vua Tống Thái Tông lên ngôi, rất tôn sùng Thiền tông, hạ chiếu trùng tu tháp của Lục tổ thành bảy tầng, lại phong húy hiệu cho Lục tổ là Đại Giám Chân Không Thiền Sư. 

 Năm Thiên Thánh thứ mười đời Tống Nhân Tông (1032), triều đình chuẩn bị xa giá trang nghiêm nghinh thỉnh di thể và y bát của Lục tổ vào cung cúng dường, lại phong húy hiệu cho ngài là Đại Giám Chân Không Phổ Giác Thiền Sư. 

 Đời Tống Thần Tông lại phong húy hiệu là Đại Giám Chân Không Phổ Giác Viên Minh Thiền Sư. 

    

Lời bạt 

Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, bộ pháp ngữ tinh tủy đầu nguồn của dòng Thiền đốn ngộ, đã gợi niềm cảm hứng khích lệ cho bao nhiêu thế hệ học Phật. Người học Phật dù thuộc về tông phái nào cũng đều công nhận rằng Thiền tông là bảo tàng phát sanh rất nhiều tư tưởng đặc thù của Phật giáo Đông phương. 

 Lục tổ Huệ Năng, một vị Bồ tát bậc cao thị hiện trong dáng dấp một người miền sơn dã, đã minh chứng cho chúng ta, những người học Phật, tư tưởng bình đẳng tuyệt đối của Phật giáo Đại thừa: Phật tánh không phân biệt Bắc Nam, chủng tộc, tuổi tác, dòng dõi, học vấn, v.v… Sự thị hiện của Ngài đã thể hiện rõ ràng những lời dạy bàng bạc của đức Bổn Sư cũng như của tất cả chư Phật trong những kinh điển Đại thừa, như Bát Nhã, Duy Ma Cật, Thắng Man, Thủ Lăng Nghiêm, và nhiều kinh điển khác. Những lời dạy của Lục tổ, dựa trên văn tự nhưng không vướng mắc vào văn tự, có một năng lực tuyệt vời, với tác dụng vi diệu nâng cao cái nhìn của hành giả, từ cái nhìn của một phàm phu đến cái nhìn của một thánh nhân. 

 Người dịch, tuy biết rằng bản kinh Pháp Bảo Đàn  đã nhiều lần được các vị tôn túc phiên dịch sang tiếng Việt, nhưng vì lòng kính ngưỡng và sùng mộ một bậc đại cao tăng vì pháp quên thân, đã không ngần ngại bỏ nhiều công sức, với một hoài bảo duy nhất là làm phong phú thêm cho kho tàng văn hóa Phật giáo Việt nam, và hơn nữa, hy vọng bản dịch này, với một giọng văn bình dị dễ hiểu, không quá câu nệ vào kinh văn, sẽ đem đến cho người đọc một cảm nhận nhẹ nhàng, thanh thoát. 

 

Thư mục tham khảo 

Anh 

– The Platform Sutra of The Sixth Patriarch, bản Anh dịch Pháp Bảo Đàn Kinh của Phillip B. Yampolsky, http://fodian.yolook.net/ world/ Platform_Sutra_Yampolsky.pdf  

 

 

– The Sixth Patriarch’s Dharma Jewel Platform Sutra, bản  Anh dịch Pháp Bảo Đàn Kinh Lược Giảng của H.T. Tuyên Hoá, http://www.fodian.net/world/PlatformSutra.pdf 

 

 

Hán 

1. Lục Tổ Đại Sư Huệ Năng Cố Sự (Lục Tổ Đàn Kinh Bạch Thoại Thiển Dịch), Ngô Trọng Đức biên soạn, Hòa Dụ Xuất Bản Xã, Đài Nam, Đài Loan, 1997. 

2. Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh Hợp Bổn (Tào Khê Bổn, Cải Chánh Bổn và Đôn Hoàng Bổn), Hòa Dụ Xuất Bản Xã, Đài Nam, Đài Loan, 1998. 

3. Lục Tổ Đàn Kinh, Thích Tâm Ấn biên tập, Từ Vân Sơn Trang-Tam Tuệ Học Xứ ấn hành, Tân Trang, Đài Bắc, 1994.

4. Lục Tổ Đàn Kinh Tiên Chú, Đinh Phúc Bảo soạn, Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội ấn hành, Đài Bắc, Đài Loan, 2002.    

5. Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh Thuật Chỉ, Vương Tương Lục thuật chỉ, Vô Thượng Phật Gia (Amitabha Buddhist Society) ấn hành, Cơ Long, Đài Loan. 

6. Trung Quốc Thiền Tông Sử, Đại Sư Ấn Thuận biên soạn, Chánh Văn Xuất Bản Xã, Đài Bắc, Đài Loan, tái bản lần thứ 8, 1992. 

Việt

1. Kinh Pháp Bảo Đàn, Hòa Thượng Duy Lực dịch và lược giải, Tủ sách Tổ Sư Thiền, 2003. 

2. Kinh Pháp Bảo Đàn (Bản Đôn Hoàng), Hòa Thượng Mãn Giác dịch, NXBTGHN, 2003. Bản tiếng Việt từ website http://www.thuvienhoasen.org. 

3. Pháp Bửu Đàn Kinh, Hòa Thượng Minh Trực Thiền Sư dịch, Phật Bửu Tự ấn hành, 1944. In lại tại Mỹ Quốc, 2001. 

4. Kinh Pháp Bảo Đàn Giảng Giải, Hòa Thượng Thich Thanh Từ giảng, Thiền Đường Tuệ Thông ấn hành tại Hoa Kỳ, California, 1993. 

5. Lục Tổ Đàn Kinh, Hòa Thượng Tuyên Hóa lược giảng, Buddhist Text Translation Society ấn hành, California, 2004. 

6. Lục Tổ Đàn Kinh, Ni Sư Thích Nữ Trí Hải dịch. Bản tiếng Việt từ website http://www.buddhismtoday.com.

7. Thiền Đạo Tu Tập, Chang Chen Chi soạn, Như Hạnh dịch Anh Việt. Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1998. 8- Thiền Luận, 3 tập, D. T. Suzuki soạn, Trúc Thiên dịch tập 1, Tuệ Sỹ dịch tập 2, 3. Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1989.