THẾ NÀO LÀ XÁ LỢI THẬXÁLỢI GIẢ?

Sa môn Thích Hải Quang

 

Hỏi:

Bạch Thầy,

Trong thời buổi hiện nay, chúng con là những Phật tử sơ cơ, làm sao phân biệt được đâu là bậc chơn tu, giả tu, kẻ thật, người dối để chúng con nương theo tu tập và bảo đảm được vãng sanh?

Đáp:

Trong thời buổi MẠT PHÁP và Đấu tranh Kiên cố nầy, – (chúng ta và ngay đến chính cả bản thân Tôi nữa) – vì công-phu Tu hành còn quá lem-nhem bê-bối, chẳng chứng ngộ được chút chi hết, lại cũng chưa có THA TÂM (THÔNG), cùng ĐẠO NHÃN, nên:

KHÓ THỂ NÀO QUYẾT ĐỊNH ĐƯỢC ĐÂU LÀ KẺ THẬT, NGƯỜI DỐI.

Tại sao?

Vì người tu hành đời nay cũng ví như trái AM-LA (từ lúc còn sống cho đến khi chín, vỏ lúc nào cũng thuần là “một màu xanh”), nên khó lòng xét đoán được. Nếu như muốn rõ biết, ắt “trước” hết phải cùng với kẻ ấy ở chung nhau trong một thời gian dài, ngắn nào đó…, rồi “sau” sẽ quán sát đến phần ngôn (lời nói), hành (việc làm) của Họ trải qua nhiều năm, tháng,… nhiên hậu mới có thể hiểu thấu được phần nào.

Xin trích dẫn ra một đoạn Kinh sau đây để làm chứng tín (về việc vừa mới nói trên), như sau:

… “Ngài SƯ-TỬ HỐNG Bồ-Tát bạch cùng Phật rằng:

1/- Bạch THẾ-TÔN,

a/- Có hạng người “làm việc kỹ” mà Tâm “chẳng chánh thiệt.”

(Phụ chú:

Tức là loại người mà bên NGOÀI làm ra vẻ đạo-đức tu hành lắm…

Nhưng mà:

-Bên trong TÂM thì chỉ toàn là lừa dối, phỉnh-gạt (mình và người…) – (gọi nôm-na là kẻ “ngụy quân tử” hoặc “dối tu”…)

b/- Có hạng người “Tâm kỷ” mà “việc làm chẳng chánh thiệt”

(Tức là loại người mà bên NGOÀI xem có vẻ lem-nhem, bê-bối…, giống như kẻ chẳng ra gì.

Nhưng mà:

-Bên trong TÂM của Họ thì thiệt là thanh tịnh, đầy đủ “giới đức” và có “thật hạnh” của một bậc chơn tu (hoặc hiền nhơn, quân tử…)

……………

Bạch Thế-Tôn, hai hạng người nầy, làm sao biết được?

2/- PHẬT phán:

– Lành thay, nầy Thiện nam tử,

– Hai hạng người nầy rất khó biết được, vì khó biết nên phải:

a/- Cùng với họ ở chung,

(Để xem xét lời nói, hành động cùng việc tu hành của Họ… coi có phù hợp với nhau không, hay đó chỉ là kẻ “nói một đường, làm một nẻo” – (tức là lời nói mới nghe qua thì rất tốt, rất lành, đầy đủ đạo đức… nhưng mà những hành động thực sự của Họ thì rất xấu xa, tà ngụy) – đây gọi là hạng người: – “ Ngôn hành bất tương ưng”).

b/- Ở chung, nếu chẳng biết được thời phải ở lâu,

(Vì người “ngụy quân tử” hoặc kẻ giả tu… rất khéo léo giấu diếm các sự tà ngụy của Họ, nên chẳng dễ gì trong một sớm, một chiều mà thấu rõ được.

Vì thế nên cũng có vài ba trường hợp cần phải ở chung với Họ lâu ngày, chầy tháng,… (mới có thể “Thấy” được các sự giả dối, tà ngụy… ấy).)

c/- Ở lâu nếu chẳng biết được thì dùng trí huệ.

(Cũng có vài trường hợp, kẻ đó là “người giả ngụy” thuộc về loại “cáo già, hoặc đầu có sạn,” chẳng thể dễ dàng gì thấy rõ được mặt thật (chân diện mục) của Họ, vì thế nên phải dùng Trí huệ để nhận xét thêm)

d/- Dùng TRÍ mà chẳng biết thì nên “quán sát suy ngẫm kỹ.”

Do quán sát, suy gẫm kỹ thời sẽ biết được.

Phải đầy đủ hết cả 4 điều là:

“Ở CHUNG, Ở LÂU, TRÍ HUỆ, QUÁN SÁT thời biết” (là chân hay giả)

(Tức là:

Có khi dùng TRÍ phân biệt mà cũng chẳng biết được, thì bấy giờ phải:

– Nhập chung hết cả 4 điều lại.

– Để mà:

– Quán sát, suy gẫm cho thật tinh tường ở nơi những lời nói, hành động, cử chỉ, tánh tình, v.v… của Họ, nhiên hậu mới rõ biết được).

Như qua những lời dạy trên của PHẬT, thì việc muốn biết rõ về THẬT HẠNH của người khác chẳng phải dễ dàng, nhất là Kẻ đó và mình không từng thân cận lâu dài bên nhau.

Cho nên Ta chẳng thể nào phán xét một cách vội vàng hay quả quyết rằng:

– Người đó là tốt hay xấu, chân hay giả,

– Người đó tu niệm chơn thật hay là tà ngụy như thế nào?

Hoặc:

– Người đó tu hành tinh tấn hay biếng trễ?

– Công phu Niệm Phật của người đó đáng được vãng sanh hay chẳng đáng?…

Vì thế mà qua những lời được “Kể lại” từ nơi các hàng đệ tử, con cháu, thân thuộc… về việc tu hành, Niệm Phật, vãng sanh… của những nhận vật có “phương danh” được ghi trong quyển “NIỆM PHẬT LƯU XÁ-LỢI” kia, cần phải nên dùng “chánh tâm” xem xét lại.

Tại sao?

Bởi vì (trong thời buổi mạt pháp, dẫy đầy vàng thau lẫn lộn, hắc bạch nan phân nầy), có thể là:

1/- Hàng đệ tử vì muốn tôn vinh bậc “sư phụ” của mình… lên trước công luận

2/- Hàng con cháu, quyến thuộc, vì muốn làm nở mặt mày cho thân nhân cùa mình.

3/- Hàng thân hữu vì muốn cho bè bạn của mình được khen tặng (là một bậc chân tu) sau khi quá vãng…

… nên tạo dựng và vẽ vời ra thành một “câu chuyện vãng sanh” cho bậc tôn trưởng của mình giống như một số truyện mà (có lẽ là) Họ đã từng đọc được qua các quyển sách ghi lại về những sự tích vãng sanh của các bậc “cổ đức” khi xưa, chẳng hạn như là các bộ:

– ĐƯỜNG VỀ CỰC LẠC. (Hoà-Thượng THÍCH TRÍ-TỊNH soạn dịch)

– MẤY ĐIỆU SEN THANH. (Hoà-Thượng THÍCH THIỀN-TÂM soạn dịch)

(cũng không chừng)!?

Vì sao Tôi lại đưa lên các lời “ức thuyết” như thế?

Bởi vì gần đây Bổn tự và Ban Hoằng Pháp đã nhận được rất nhiều thơ, điện thoại… của chư độc giả Phật tử khắp nơi gởi đến cùng gọi về, bày tỏ lên những sự nhận xét riêng của Họ về quyển sách nầy và đôi ba nhân vật “vãng sanh, lưu xá lợi” có tên trong đó, đại khái như là:

a/- NHÂN và QUẢ của một số người VÃNG SANH LƯU XÁ-LỢI… được ghi tên trong “quyển sách” đó không phù hợp với nhau!

b/- NGƯỜI ấy khi còn sanh tiền, chúng tôi đã từng biết qua, Họ nào có được chút GIỚI ĐỨC hoặc CHÂN-THẬT TU HÀNH gì đâu!

Vả lại:

Gần suốt cả một đời tu tâp, Họ gần như cứ mãi miết chạy Đông chạy Tây, nay đi chỗ nầy, mai đến chỗ nọ, tuần tới đi nước nầy, tháng sau đi nước khác… dưới danh nghĩa là đi làm Phật sự, nhưng thật ra Họ chỉ toàn là… bôn ba cầu lợi (như kiếm đô la chẳng hạn), cầu danh, không thôi… thì làm sao mà ĐỊNH (Tâm) cho được!

c/- Suốt đời chưa từng thấy Họ phiên dịch được một quyển Kinh hay biên soạn ra một cuốn sách hoằng dương Phật Pháp nào giá trị đâu mà nói là có HUỆ!

– Như vậy thì làm thế nào đắc được ba phần GIỚI, ĐỊNH, HUỆ mà nói là lưu lại xá-lợi đến cả mấy mâm!!!

Đến đây, xin hãy tạm lấy ra câu chuyện cùa một Sa-di, pháp hiệu là M-Đ (Minh Đạt), người mà trong quyển sách “Lưu xá-lợi” ấy, tác giả có ghi lên bốn “sự thành tựu và chứng đắc” (!!!) đến mức độ siêu đẳng vượt ra ngoài “Tam giới sanh tử”… của “nhân vật” nầy rằng:

1/- Đó là một người đã báo trọn tứ-ân (và nêu lên một và trường hợp về việc báo Tứ-Ân – [rất là ấu trĩ, thiển cận] – của người Sa-di mới tu tập nầy…)

2/- Đó là một người đã đắc “Vô Sanh Pháp Nhẫn” và đạt được “Bất Thối Chuyển” của hàng đại-sĩ Bồ-Tát pháp thân giai vị!!!

3/- Đó là một người chứng đắc đầy đủ được “LỤC ĐỘ BA LA MẬT”!!!

4/- đó là một người đã trừ dứt được “THAM, SÂN, SI”!!! v.v…

Xem đọc qua những lời nghi chép về các việc thành tựu “không thể nghĩ bàn” được của người Sa-di mới vừa “Tập tễnh bước chân vào trong đường Tu Niệm” và bị “từ chối chẳng cho thọ giới Tỳ Kheo” (vì không hội đủ điều kiện và đức hạnh) nầy, người chơn thật Phật tử đúng nghĩa – tức là có “chánh kiến” và “không hiểu Phật pháp” sẽ thấy rõ ràng rằng:

– Đấy chỉ toàn là những lời “tán dương” dành riêng cho một cá nhân, được bịa đặt ra một cách cực kỳ ấu trĩ, thô thiển, lố bịch và rất đáng buồn cười…

Ở CHỖ NÀO?

Ở các chỗ sau đây, trước hết là từ nơi:

A/- VỀ NGƯỜI THUẬT CHUYỆN (các SỰ CHỨNG ĐẮC (!!) của Sa-di nầy):

Thì Tôi (sau khi dùng công tâm mà nhận xét) thấy được các điều rằng:

1/- Người “thuật chuyện” nói đến chữ TỨ-ÂN mà không biết thế nào là “ý nghĩa” chơn thật của TỨ ÂN cả, cho nên mới dám dùng lời “đại ngôn” để tán dương thân nhân của mình là người đã báo trọn được TỨÂN!

(Phụ chú 1:

(Vì muốn để cho người tu học Phật pháp hiểu rõ thế nào là nghĩa chơn thật của TỨ ÂN, cho nên trong phần dưới đây, soạn giả sẽ y theo “thánh giáo” – (lời dạy của Phật, Tổ sư) – để lược sơ qua về Bốn loại “ân trọng” nầy.)

Vậy thì thế nào là “TỨ ÂN”?

Đây tức là 4 phần “Ân trọng” (ơn lớn) mà người xuất gia (lẫn kẻ tại gia) cần phải báo đền.

Đó là:  – ƠN PHẬT, ƠN THẦY (Tổ), ƠN CHA MẸ, ƠN CHÚNG SANH.

1/- SAO GỌI LÀ ƠN PHẬT?

ƠN PHẬT là như thế nầy:

-Như đức THÍCH-TÔN ta, khi mới phát tâm, vì độ chúng ta mà tu Bồ-Tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các sự khổ.

Lúc Ta tạo nghiệp, đức Phật xót thương, phương tiện giáo hoá, mà Ta ngu si, không chịu tin theo. Ta đọa ác đạo, PHẬT lại càng thương, muốn thay chịu khổ.

Nhưng Ta nghiệp nặng, không thể cứu vớt.

Ta sanh làm người, PHẬT dùng phương tiện, khiến gieo căn lành, nhiều kiếp theo dõi, lòng không tạm bỏ.

PHẬT mới ứng thế, Ta còn trầm luân. Nay được thân người, PHẬT đã diệt độ.

Thử hỏi Ta đây:

– Tội chi mà sanh nhằm thời mạt pháp?

– Phước gì mà được dự chốn tăng luân?

– Chướng gì mà không thấy kim thân?

– May gì mà được gặp thánh tượng?

Rồi ta phải tự suy nghĩ rằng:

  • Nếu đời trước Ta không trồng căn lành, thì kiếp nầy làm sao được nghe Phật pháp?
  • Nếu như không nghe được chánh pháp, thì làm sao biết mình thường thọ Phật ân?

Ân đức nầy, sánh ra ắt biển thẳm không cùng, non cao khó ví.

Nếu như Ta không phát tâm Bồ đề, tu Bồ-Tát hạnh, giữ vững chánh pháp, cứu độ chúng sanh… thì dù cho thịt nát, xương tan đi nữa, cũng chẳng thể báo đền được trong muôn một…

2/- SAO GỌI LÀ ƠN THẦY (Tổ)?

ƠN THẦY (Tổ) là như vầy:

– Cha mẹ tuy sanh dục ra sắc thân Ta, nhưng nếu không có thầy thế gian dạy bảo, thì Ta chẳng hiểu biết NGHĨA, NHƠN.

– Còn như không có thầy xuất thế dắt dìu, tất nhiên Ta chẳng am tường Phật Pháp.

Mà nếu như:

– Không biết lễ, nghĩa, liêm sỉ thì nào khác chi các loài cầm thú?

– Không tường Phật pháp, nhơn quả, thì đâu khác gì các hạng ngu mông?

Nay Ta đây:

– Biết chút ít lễ nghĩa, liêm sỉ và hiểu được đôi phần Phật pháp là nhờ đâu?

Huống nữa:

Nay Ta duyên may được dự vào hàng xuất gia, tấm thân giới phẩm đã nhuận phần đức hạnh, áo cà sa thêm rạng vẻ phước điền. Thật ra đều nhờ nơi ơn sư trưởng mà được.

Đã biết như thế, nên nếu Ta cầu tiểu quả (Thanh văn, Duyên giác) thì chỉ có thể lợi riêng cho mình mà thôi. Vậy ta phải phát đại tâm (Bồ-tát) mới mong độ khắp các loài hàm thức.

Như vậy thì:

– Thầy thế gian mới được lợi ích.

– Thầy xuất thế cũng được vui lòng…

3/- SAO GỌI LÀ ƠN CHA MẸ?

ƠN CHA MẸ là như thế nầy:

– Than ôi!

Cha mẹ sanh Ta khó nhọc, mười tháng mang thai mỏi, nặng, ba năm bú sữa, mớm cơm. Đến khi Ta khôn lớn ,trưởng thành, mong sao cho Ta nối dõi được tông đường, cúng thờ tiên tổ.

Ngờ đâu Ta đã xuất gia, lạm xưng Thích tử, không dâng cơm nước, chẳng đở tay chân. Cha mẹ còn Ta không thể nuôi dưỡng thân già, cha mẹ chết Ta chưa thể dắt dìu thần thức!

Chừng hồi tưởng lại, thì:

Nước, trời đã cách biệt từ dung,
Mộ biếc chỉ hắt hiu thu thảo.

Như thế:

– Đối với đời là một lỗi lớn!

– Đối với đạo lại chẳng ích chi!

Hai đường đã lỗi, khó tránh tội khiên!

Nghĩ như thế rồi, làm sao chuộc lại?

– Chỉ có trăm kiếp, ngàn đời, tu Bồ-Tát hạnh.

– Mười phương, ba cõi, độ khắp chúng sanh.

Được như vậy thì:

– Chẳng những cha mẹ một đời thôi, mà cha mẹ nhiều đời, đều nhờ độ thoát.

– Chẳng những cha mẹ một người thôi, mà cha mẹ nhiều người, cũng được siêu thăng…

4/- SAO GỌI LÀ ƠN CHÚNG SANH?

ƠN CHÚNG SANH là như thế nầy:

– Ta cùng chúng sanh, từ vô thỉ đến nay, kiếp kiếp, đời đời, đổi thay nhau mà làm quyến thuộc, nên kia (là người), đây (là mình) đều có nghĩa với nhau.

Nay dù cho cách đời, thay hình, cải dạng, khác họ, đổi tên, hôn mê không nhớ, biết. Nhưng cứ lấy LÝ mà suy ra, thì chẳng thể nào không đền đáp được.

– Vật loại mang lông, đội sừng ngày nay, biết đâu Ta là con của nó trong kiếp trước.

– Loài bướm, ong, trùng, dế hiện tại, biết đâu đó là thân sinh tiền-thế của mình.

Còn đến như:

– Tiếng rên siết trong thành ngạ quỷ,

– Giọng kêu la dưới cõi Âm-ty.

Ta tuy mắt không thấy, tai chẳng nghe, song họ vẫn van cầu, cứu-vớt.

Ngoài Phật kinh ra, nơi đâu chỉ rõ việc nầy, còn nếu như không nhờ Phật nói, ắt chẳng ai hiểu rành nghĩa ấy.

Cho nên:

– Bồ-Tát xem ong, kiến là cha mẹ quá khứ,

– Nhìn thú cầm là chư Phật tương lai.

– Thương nẻo khổ lâu dài, hằng lo cứu vớt,

– Nhớ nghĩa xưa sâu nặng, thường tưởng báo ân…

(Phụ-chú 2:

Lại còn có thêm 4 Ơn lớn nữa mà người xuất gia (lẫn cả tại gia) cần phải báo đền, đó là:

– ƠN CHA MẸ, ƠN CHÚNG SANH, ƠN QUỐC VƯƠNG, ƠN TAM BẢO.

Về ƠN CHA MẸ, đại lược như trên đã nói (và ở nơi các bức thơ trước kia) rồi…

Cho nên:

Nơi đây chỉ xin được lược qua về “2 ƠN” trong số 4 ƠN trên là:

ƠN QUỐC-VƯƠNG ƠN TAM-BẢO mà thôi.

A/- SAO GỌI LÀ ƠN QUỐC VƯƠNG?

Quốc Vương là vị VUA đứng đầu trong một nước.

Có 2 loại VUA (Quốc-Vương), đó là:

– Phúc Đức Vương.

– Phi Phúc Chủ Vương.

a/- SAO GỌI PHÚC ĐỨC VƯƠNG?

    (Còn gọi bằng một tên khác nữa là bậc Thánh-Vương.

     Tại sao?)

Bởi vì vị VUA nầy thường hay dùng Chánh Pháp để giáo hoá nhân dân trong nước, khiến cho tất cả đồng hưởng thọ được các sự lợi ích, an vui. Do vì nhờ vào nơi Phúc Đức của bậc Thánh Vương

nầy, cho nên trong nước không bị 8 sự “khủng bố” (dưới đây) xâm nhập vào được.

Gì là 8 sự khủng-bố đó?

Chính là:

1a/- Bị nước ngoài xâm chiếm, bức hại.

2a/- Trong nước quan, dân sanh ra các sự phản nghịch

3a/- Ác quỷ, tật bệnh hiểm ác hoành hành.

4a/- Đất nước nghèo đói, dân chúng thiếu thốn, lầm than.

5a/- Mưa gió trái quá thời tiết (thất thường).

6a/- Bão lụt, động đất, núi lửa…

7a/- Nhật thực, nguyệt thực thường xảy ra.

8a/- Tinh tú biến quái (các vì sao – (chẳng hạn như Hỏa tinh, sao chổi…) – đi sái lộ trình).

Vị Phúc Đức Vương nầy vì luôn dùng Chánh Pháp giáo hoá dân chúng và trị nước – (tức là dạy dân tu theo phép Thập Thiện) – cho nên 8 loại nạn nầy không thể nào xâm phạm được.

Do dây nên Phúc Đức Vương còn được gọi là Chánh Pháp Vương.

Chánh Pháp Vương (còn gọi bằng tên khác nữa là Chuyển Luân Vương) thành tựu được 10 pháp thắng diệu sau đây, đó là:

1/- Năng chiếu (soi sáng): – tức là đem “mắt trí huệ” soi sáng thế gian và dân chúng.

2/- Trang nghiêm: – tức là đem phúc đức và trí huệ của mình mà trang nghiêm cho đất nước (được giàu sang, mạnh mẻ và có kiến thức rộng rải)

3/- Dữ lạc (cho vui): – tức là đem lại sự thanh bình, an-lạc cho đất nước và nhân dân.

4/- Phục oán (dẹp tan oán giặc): – tức là tất cả giặc cướp, nổi loạn, oán thù… đều tự nhiên chịu hàng phục.

5/- Ly Bố (xa lìa các sự sợ hãi): – tức là đánh tan được 8 nạn lớn của nhân dân.

Tám nạn lớn là:

5a/- Bị đoạ sanh vào địa ngục,

5b/- Bị đoạ sanh vào ngạ quỷ,

5c/- Bị đoạ vào súc sanh,

5d/- Điếc, đui, câm, ngọng,

5e/- Thế trí biện thông,

(Tức là thông minh theo lối đời, nhưng mà không có sự hiểu biết gì về đạo pháp).

5f/- Sanh ra trước Phật (ra đời) hoặc sau Phật (đã nhập Niết Bàn),

5g/- Sanh vào Bắc Câu Lư Châu,

(Người ở Châu (đại lục) nầy được sung sướng, an vui… nhưng chẳng gặp (cùng chẳng có) Chánh Pháp, cho nên không biết tu hành chi cả)

5h/- Sanh lên cõi trời VÔ TƯỞNG.

(Chư Thiên nơi đây, tuy là được thân Trời, nhưng bị Tà kiến, ngu si cầm nắm, chẳng hạn như là Họ nói rằng:

– Không có khổ, cũng chẳng có vui.

– Cho là sống hoài không chết…

(Không hiểu biết chi cả về Tứ Chơn Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo…)

6/- Tựu hiền (người hiền đức tựu họp về):

– Tức là được cùng với các bậc Hiền Nhơn, Quân Tử, Tài Đức… hội họp lại để cùng nhau luận bàn việc quốc chánh, cai trị nước nhà và dạy dỗ dân… tu hành theo đúng chánh pháp.

7/- Pháp-bản (gốc của chánh pháp):

– Tức là nhân dân trong nước đều một lòng tu theo chánh pháp của Vua dạy, vì thế nên luôn được an cư, lạc nghiệp.

8/- Trì thế (giữ gìn thế gian):

– Tức là đem pháp Thập thiện của cõi Trời mà gìn giữ thế gian.

(Cho nên dù là ở cõi thế gian, nhưng dân chúng vẫn hưởng được các sự vui sướng, phước đức như trên Thiên dường.)

9/- Nghiệp chủ (chủ nhơn của mọi nghiệp):

– Tức là tất cả các NGHIỆP, (hoặc Thiện hoặc Ác) đều do nơi Quốc Vương mà được tồn tại (nghiệp Thiện) hay bị diệt vong (nghiệp Ác).

10/- Nhân chủ (chủ nhơn của dân):

– Tức là tất cả nhân dân trong nước thì Vua đứng đầu – (vì có đầy đủ được 10 điều thắng diệu như vậy).

Do đây mà nhân dân trong nước hằng luôn miệng tán thán lên Phúc Đức Vương lời rằng:

THÁNH VƯƠNG TA, THÁNH VƯƠNG TA…

Cho chí đến các hàng:

Thiên Long Bát Bộ, Hộ pháp Thiện Thần đều đồng nhau vui-mừng…

Vì Phúc Đức Vương có đầy đủ 10 đại ơn đức như thế cho nên:

Người trong nước (tại gia lẫn xuất gia) đều phải báo đền.

ĐÂY GỌI LÀ ƠN QUỐC-VƯƠNG VẬY.

Trái với Phúc-Đức Vương là Ác-Vương.

Vị VUA nầy vô đức, vô đạo, dẫy đầy tà kiến, tà mạn… cho nên VUA nầy được (và bị) gọi là “Phi Phúc Chủ Vương” (Vua không có phúc đức), vì thế mà khiến cho cả nhân dân và dất nước… đều bị 8 nạn khủng bố (xem lại ở trên) xâm hại…

Đối với VUA “Phi Phúc Chủ” nầy (cả hai giới xuất gia lẫn đạo gia) đều không cần phải đền báo ơn chi hết.

B/- SAO GỌI LÀ ƠN TAM-BẢO?

ƠN TAM-BẢO là 3 đại ơn của PHẬT, PHÁP, và TĂNG đối với chúng sanh trong 9 giới (nói chung).

Gọi là ƠN TAM-BẢO vì Ơn nầy làm lợi ích cho chúng sanh không thể nghĩ bàn được.

Tại sao?

Bởi hết thảy chúng sanh vì bị phiền não, nghiệp chướng… ngăn che, cho nên như đui, như điếc, không hiểu biết gì cả, do đó phải chìm đắm trong biển khổ sanh tử trong vô lượng, vô số kiếp.

TAM-BẢO ra đời làm bậc Đại Thuyền Sư, ngăn trừ dòng ái dục, khiến vô lượng chúng sanh đồng được ra khỏi khổ nạn sanh tử, chứng lấy giải thoát Niết Bàn. Nên chúng sanh trong 8 giới (nói chung) và hai phàm giới tại gia, xuất gia (nói riêng) rất cần phải báo đền.

HỎI:

Ai là bậc đã đền báo được các “đại ơn” (bốn trọng ơn) nầy?

ĐÁP:

Chính là các bậc Đại sĩ pháp thân Bồ Tát trong hàng TAM HIỀN, THẬP THÁNH (nói chung) và riêng cho giai vị Bất thối chuyển (Đệ bát BẤT ĐỘNG ĐỊA trở lên trong hàng THẬP THÁNH [Thập Địa]), nơi Bồ-Tát Bất tư nghì cảnh giới giải thoát vậy.

HỎI:

Còn các bậc Thị Thừa Thánh-nhơn (tức là quý Ngài Thanh-Văn, Duyên-giác), có báo đền đầy đủ được “4 đại ơn” ấy chăng?

ĐÁP:

Các bậc thánh nhơn bên Thị thừa không thể nào báo đền hết được 4 ĐẠI ƠN nầy.

Tại sao?

Bởi vì:

– Quý Ngài chỉ lo tu phần Tự Lợi (lợi ích riêng cho mình) mà chẳng chịu tu hạnh Lợi Tha (làm lợi ích cho chúng sanh),

– Quý Ngài chẳng phát tâm Đại Bồ-Đề độ tận chúng sanh (tức là không có tu Bồ-Tát Đại hạnh)

– Quý Ngài chẳng phát tâm Đại Bồ-Đề cầu thành Phật quả.

– Quý Ngài chứng xong quả vị giải thoát và dứt trừ được sanh tử nơi 3 cõi rồi thời liền nhập vào trong Niết bàn (Thanh Văn Niết bàn) chánh vị.

(Bỏ mặt chúng sanh chìm nổi trong biển khổ sanh tử, luân hồi).

Vì thế cho nên quý Ngài không báo trọn được 4 đại ơn nầy.

Qua ý trên cho nên (bút-giả) mới nói rằng:

CHỈ CÓ BẬC ĐẠI BỒ TÁT TRONG HÀNG BẤT THỐI CHUYỂN VỊ

MỚI BÁO ĐỀN ĐƯỢC TỨ TRỌNG ÂN

Chớ còn như:

Hàng phàm phu tăng cùng các hạng bạt địa phàm phu chúng sanh “lục lục thường tài” (tức là KHÔNG [có] GIỚI, KHÔNG [có] ĐỊNH, KHÔNG [có] HUỆ, hoặc là các hàng “Tà tăng” giả mang hình tướng xuất gia lẫn lộn vào trong cửa Đạo…) chỉ chuyên lo tu về việc tụng Kinh, niệm Phật… cầu phước qua ngày, dối gạt đàn na tín thí… thì đương nhiên là:

CHẲNG THỂ NÀO ĐỀN BÁO ĐƯỢC TỨ TRỌNG ÂN nầy được cả.

Các hàng Phật tử tu học Phật pháp rất cần phải nên biết rõ điều nầy, ngỏ hầu khỏi bị phạm nhằm vào trong tội “nói quá bổn phận” và “Tăng thượng mạn”.

HỎI:

2/- Có Phật tử ở Canada thắc mắc về lời “thuật chuyện” rằng :

– Sa-di Minh-Đạt (ở chùa bên Canada) ấy là một người đã chứng được:

“VÔ SANH PHÁP-NHẪN”,

“ĐẮC BẤT THỐI CHUYỂN”

Xin Thầy từ bi giảng giải rõ:

– Thế nào là VÔ SANH PHÁP NHẪN đúng nghĩa của nó?

ĐÁP:

-Người “thuật chuyện” chẳng biết thế nào là “thật nghĩa” của “VÔ SANH PHÁP NHẪN” và “BẤT THỐI CHUYỂN” cả.

Tại sao?

Bởi vì đúng y theo lời Kinh mà Phật đã dạy về quả chứng “VÔ SANH PHÁP NHẪN” nầy, thì đối

với các bậc Nhị thừa Thánh nhơn đã được tự tại ngoài ba cõi là:

2a/- THANH VĂN:

– Bậc THÁNH NHÂN (A-la-hán) nầy đã phá trừ xong hai phần “Kiến hoặc”, “Tư hoặc” của ba cõi

 Dục, Sắc, Vô sắc, dứt được sanh tử, thoát khỏi luân hồi, làm Thiên Nhơn Sư và phước điền cho tất  

 cả chúng sanh trong tam giới.

2b/- DUYÊN GIÁC:

– Bậc THÁNH NHƠN nầy đã đoạn dứt được 12 phần “Tục đế nhơn duyên” (đương nhiên là có kiêm thêm cả việc loại trừ xong hai phần Kiến hoặc và Tư hoặc nữa).

Cả hai bậc “THÁNH” nầy đều đã được giải thoát ra khỏi vòng sanh tử, nơi ba cõi, ấy vậy… mà cũng vẫn còn chưa – (và chẳng bao giờ) – chứng được “VÔ SANH PHÁP NHẪN” thay.

(Phụ-chú3:

Để quý chư Hiền tu học theo Phật pháp hiểu thế nào là “Vô Sanh Pháp Nhẫn”, bút giả xin được lược sơ qua về “quả địa” nầy như sau:

Gọi “Vô Sanh Pháp Nhẫn” đây tức là:

a/- Cảnh giới của việc “Thị Chư Pháp Không Tướng”… (trong Bát Nhã Tâm Kinh) vậy…

b/- Cảnh giới của việc “lục căn vô động, lục trần vô chuyển”… vậy…

Xin được trích dẫn ra một đoạn Kinh để làm chứng tín như sau:

Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Đại Bồ-Tát bạch cùng với PHẬT rằng:

1/- Bạch đức THẾ-TÔN,

Vô Sanh Pháp Nhẫn được nói đó, thế nào được gọi là Vô Sanh Nhẫn?

 Bạch đức THẾ-TÔN,

 Do nơi “NGHĨA” gì mà gọi là:

a/- Pháp Vô Sanh Nhẫn?

b/- Đại Bồ-Tát phải như thế nào mới chứng được “Nhẫn Pháp” ấy?

2/- Đức PHẬT phán dạy rằng:

Nầy VĂN THÙ SƯ-LỢI,

Phải biết rằng:

– Thiệt không có nhất một Kẻ nào ở trong Sanh Pháp (tức là còn bị lệ-thuộc và nằm vào trong sự sanh-diệt của PHÁP HỮU-VI nơi ba cõi) mà đắc được Vô Sanh Nhẫn1) cả.

3/- Nói là ĐƯỢC (NHẪN PHÁP) ấy là chỉ có ngữ ngôn, văn tự mà thôi.

Tại sao?

– Vì Vô Sanh Pháp chẳng thế nào ĐƯỢC vậy.

– Vì lìa PHAN DUYÊN cho nên chẳng thể Được Pháp Nhẫn vậy.

Nếu như:

– ĐƯỢC không chỗ được,

– Không đắc, không thất,

Do đây mà gọi là:

– ĐƯỢC Vô Sanh Pháp Nhẫn

4/- Lại nữa nầy Văn Thù Sư-Lợi,

Vô Sanh Pháp Nhẫn được nói ấy là:

– Vì tất cả PHÁP vô sanh: – Nên NHẪN như vậy.

– Vì tất cả PHÁP vô lai, vô khứ: – Nên NHẪN như vậy.

– Vì tất cả PHÁP vô ngã, vô chủ: – Nên NHẪN như vậy.

– Vì tất cả PHÁP vô thủ, vô xả: – Nên NHẪN như vậy.

– Vì tất cả PHÁP vô sở hữu (tức là không thật có): – Nên NHẪN như vậy.

– Vì tất cả PHÁP vô tỉ (không có gì để ví-dụ được), vô đẳng đẳng (không có thứ bậc nào cả):

– Nên NHẪN như vậy.

– Vì tất cả PHÁP vô thiệt: – Nên NHẪN như vậy.

Cho đến :

  …………………….

– Vì tất cả các PHÁP vô lực (không có tự sức), vô tác (không tự tác động), gầy kém, hư cuống (không thật còn), như ảo, như mộng, như hưởng (âm hưởng), như ảnh (như bóng), như cảnh tượng (không bền), như ba tiêu (cây chuối, lột bẹ riết rồi không còn có cây chuối nữa), như tụ mạt (bụi tụ), như thủy bào (bóng nước).v.v… : – Nên nhẫn như vậy.

(Phụ chú4:

Nơi các PHÁP là vô lực, vô tác, gầy kém, hư cuống, v.v… là bởi vì:

– (Tất cả các) PHÁP tự nơi nó không thể nào sanh khỏi ra được.

Mà:

– NÓ (PHÁP ấy) bắt buộc phải nương nhờ vào một thứ THẾ LỰC khác mới phát sanh ra.

THẾ LỰC ĐÓ LÀ NHÂN DUYÊN TÊN GỌI vậy.

Cho nên:

– Hễ có và còn NHÂN DUYÊN và tên gọi thì PHÁP được sanh ra và tồn tại.

Còn nếu như:

– NHÂN DUYÊN cùng “tên gọi” bị diệt rồi thì : –PHÁP CŨNG LIỀN BỊ DIỆT THEO LUÔN

Phải nên hiểu như vậy.)

Mà:

5/- Cái bị NHẪN cũng không có ĐƯỢC NHẪN

(Vì nếu còn thấy Ta có Nhẫn thì tức là còn chấp vào nơi bốn tướng Ngã, Nhơn, Chúng sanh, Thọ giả, còn thấy “Ta có”, “Ta được”, “Ta nhẫn”…

Hễ:

Còn thấy (Ta có) như thế đó) phần vừa giải thích dưới điều 5) thì đấy là Pháp Chúng Sanh hữu vi chớ đâu phải là Pháp Vô Sanh, Vô Vi của bậc thánh nhơn giải thoát).

6/- Chẳng phải PHÁP, chẳng phải PHI PHÁP.

Mà:

7/- Chỉ dùng DANH-TỰ nói lên PHÁP ấy thôi.

Nhưng phải biết rằng:

8/- DANH-TỰ ấy cũng bất khả đắc, bổn tánh (vô-sanh) của PHÁP là tự LY (hết tất cả các loại nột ngoại

TƯỚNG DẠNG)

…………….

Đây gọi là ĐẠI BỒ-TÁT ở trong các PHÁP được VÔ SANH NHẪN,

Cho đến:

– Chẳng HÀNH tất cả TƯỞNG vậy.

(Phụ chú 5:

TƯỞNG là PHÁP thứ 3 trong ngũ uẩn.

Đây là một trong bốn loại NỘI TƯỚNG DẠNG (Thọ, Tưởng, Hành, Thức).

…………….

9/- Văn Thù Sư lợi Đại Bồ Tát bạch PHẬT rằng:

  – Bạch đức Thế Tôn, nói là Nhẫn ấy, thế nào gọi là Nhẫn cho đến chẳng bị cảnh giới phá hoại nên gọi là Nhẫn.

10/- THIỆN TRỤ Ý Thiên Tử hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát:

  – Bạch Đại sĩ, những gì chẳng bị cảnh giới phá hoại?

11/- Ngài VĂN THÙ SƯ LỢI Bồ-tát đáp:

Nầy Thiên Tử, đó là NHÃN (con mắt) vậy.

PHÁP nào phá hoại NHÃN?

Đó là:

– Sắc tốt hay xấu kia làm (việc phá) hoại NHÃN.

Như NHÃN bị SẮC (tướng) làm hoại như thế rồi, thì các trần còn lại là:

(Âm) Thanh hoại NHĨ (lỗ tai)

(Mùi) Hương hoại TỶ (lỗ mũi)

– (Mùi) Vị hoại THIỆT (lưỡi)

– Xúc (dục) hoại THÂN

– Pháp (sanh, diệt) hoại Ý.

(Đây tức là sáu căn bị sáu trần huỷ hoại [làm cho hư hại đi, chẳng còn thanh-tịnh nữa]).

12/- Nầy Thiên-tử,

Nếu Bồ-Tát MẮT thấy SẮC mà:

– Chẳng nắm lấy TƯỚNG,

– Chẳng ham tốt,

– Chẳng chê xấu,

– Chẳng phân biệt tư tưởng,

– Chẳng ái, chẳng yểm (chẳng thương, chẳng bỏ),

Mà còn lại biết thêm rằng:

– Bổn tánh (thanh tịnh, tức là Phật tánh) vốn không có NIỆM TƯỞNG.

(Bổn Tánh nầy) của MẮT không bao giờ bị các thứ loại SẮC TƯỚNG làm cho hư hoại…

Như thế cho chí đến hiểu được điều rằng:

– Bổn tánh của Tai không bao giờ bị các thứ loại ÂM THANH làm cho hư hoại.

– Bổn tánh của Tỷ (mũi), Thiệt (lưỡi), Thân, Ýcũng không bị các thứ loại HƯƠNG, VỊ, XÚC, PHÁP, làm cho hư hoại… như thế.

13/- Nầy Thiên tử,

Nếu như:

– Sáu căn (lục căn) ấy không trước (không chấp), không phược (không bị 6 Trần trói buộc), không hoại, không tan, không hại,…

Thì:

Đại Bồ-Tát Nầy An trụ Nơi Vô sanh Pháp Nhẫn

14/- Vì an trụ vào VÔ SANH PHÁP NHẪN như vậy, cho nên ở nơi tất cả Pháp, đại Bồ-Tát ấy sẽ:

– Không chỗ phân biệt,

– Không sanh, bất sanh,

– Không lậu, bất lậu,

– Không thiện, không bất thiện,

– Không vi (hành), không bất vi (không phải là chẳng phải “chẳng hành”)

– Không niệm thế pháp và xuất thế pháp.

– Không phân biệt, chẳng tư duy.

Như thế thì gọi là:

VÔ SANH PHÁP NHẪN vậy.

15/- Lúc nói Pháp Nhẫn nầy có:

– Sáu vạn chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ-đề.

– 12,000 vị Bồ-Tát đắc được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

………………..

(Lời phụ của bút giả:

Như trước đã có nói rằng:

Pháp “Vô Sanh Nhẫn” đây là phần hành của bậc Đại Bồ-Tát từ hàng Thập-Địa trở lên hành trì, chớ chẳng phải là Pháp tu tập của hàng Thanh-văn, Duyên-giác đâu…

Vậy mà:

–  Người thuật chuyện nói rằng hàng bạt địa phà -phu tăng Sa-di M-Đ kia là người đã đắc được Vô Sanh Nhẫn rồi!

Vậy thử hỏi:

– Đấy chẳng phải là người Đại Tăng Thượng Mạn (nói).

– Đấy chẳng phải là người dốt đạo (nói).

Thì gọi là gì?)

(Ghi chú:

Ấy thế mà từ tác giả quyển sách cho chí đến “Người chứng minh, giới thiệu” NÓ (quyển sách kia) đến cho hàng ngũ Phật tử khắp nơi xem, lại còn:

– A dua và chấp thuận theo (lời người thuật chuyện dốt đạo kia), rồi cho in lên thành sách và quảng bá ra khắp nơi nữa!

Hỡi ôi!

Thật là đáng buồn thương cho Phật-Pháp, và cho những Kẻ tự xưng là người Hoằng dương đạo pháp (lẫn đến buồn cho cả các hàng “đạo tâm thiện tín” tu học Phật Pháp – (bị gạt lầm) – trong thời buổi Mạt pháp sau cùng nầy biết bao)!

Cao hơn nữa là bậc Đại Thừa Bồ Tát bên hàng Thập tín, các vị Thánh nhơn nầy đã phá trừ xong “Trần Sa Hoặc” (nơi các giai vị Đệ bát Hồi Hướng Tâm, Đệ cửu Giới Tâm, Đệ thập Nguyện Tâm, Đệ thập Nguyện Tâm), phần chứng đắc của quý Ngài còn cao hơn những bậc Nhị Thừa Thánh Giả rất nhiều, ấy thế mà cũng vẫn còn chưa đạt được Vô Sanh Pháp Nhẫn thay.

Kế tiếp đến :

2c/- (Trên hàng Thập Tín Bồ Tát) là các bậc Bồ Tát Đại Sĩ Pháp Thân nơi 10 giai vị Thập Trụ, 10 giai vị Thập Hạnh, 10 giai vị Thập Hồi Hướng cùng với 6 giai vị đầu tiên của Bậc Thập Địa Đại Sĩ Pháp Thân Bồ Tát trong Bất Tư Nghì thậm thâm cảnh giới giải thoát (từ SƠ HOAN HỶ ĐỊA đến Đệ lục HIỆN TIỀN ĐỊA) – trước sau quý Ngài đã phá trừ xong được 36 phẩm Vô minh và chứng được lục độ Ba La Mật rồi… ấy thế mà cũng vẫn còn chưa chứng được “Vô Sanh Pháp Nhẫn” thay.

(Phụ chú 6:

Chỉ riêng có Bậc Bồ Tát Đại sĩ Pháp Thân trong hàng Thập Địa (tức là Thập Thánh) nơi các giai vị chót là:

– Đệ thất Viễn hành Địa, Đệ bát Bất Động địa, Đệ cửu Thiện Huệ Địa mới tu chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn nầy thôi).

Như thế mà “người thuật chuyện” dốt đạo và tăng thượng mạn kia – (có lẽ là một trong những thân nhân ruột thịt của cố Sa di M-Đ nên mới) dám “cả gan” nói lên lời đại ngôn quá đáng rằng:

Sa-di nầy là một bậc:

– Đã đền báo xong Tứ Ân!!!

– Đã đắc được Vô Sanh Pháp Nhẫn rồi!!!

Cha chả! Tôi cũng chẳng hiểu tại sao mà một người không thông hiểu chút chi về Phật pháp như Họ, lại dám to gan, lớn mật – (khinh thường các bậc đại gia Phật học) – thốt ra lời “Đại ngôn tán dương” vô ý thức đối với một Sa di phàm tăng vừa mới học, mới tu… lem nhem như vậy? – (mà chẳng biết là đương nhơn ấy khi còn sanh tiền có được “đắc giới Sa di” không nữa) –

2d/- Người “thuật chuyện” ấy lại còn “đại ngôn” thêm rằng:

Sa di M-Đ ấy đã tu chứng được “Bất Thối Chuyển” vị!

Họ nói đến chữ “Bất Thối Chuyển” vô thượng của các giai vị Đại thừa Đại sĩ Pháp thân Bồ Tát tu chứng, mà Họ chẳng hiểu được chút (xíu) thật nghĩa nào của quả địa “Bất Thối Chuyển” ấy cả!!!

NHƯ THẾ NÀO?

Bởi vì “Bất Thối Chuyển” quả địa đây (nói đúng theo Pháp Nghĩa) thì đó chẳng phải là:

– Cảnh giới và phần tu chứng của các Bậc Thánh Nhị thừa Thanh Văn, Duyên Giác.

Cùng với những:

– Bậc phá “Trần Sa Hoặc” Thập Tín Bồ Tát (giai vị thứ 8-9 và 10).

Lại nữa, quả vị đó cũng chẳng phải là “cảnh giới tu chứng” của:

– Hàng Đại sĩ Pháp thân Bồ Tát đã và đang phá từng phần “Vô minh Hoặc” trong 10 giai vị Thập trụ, 10 giai vị Thập hạnh, 10 giai vị Thập Hồi hướng.

(cộng thêm là):

– 7 giai vị phá “Vô minh Hoặc” đầu tiên của các bậc Đại thừa Đại sĩ Pháp thân Bồ Tát trong hàng Thập địa, từ Sơ “Hoan Hỷ Địa” cho đến Đệ thất “Viễn Hành Địa”, tu chứng nữa.

Mà “Bất Thối Chuyển Vị” đây chính thật là:

– “Cảnh giới” và “phần chứng” của các Bậc Đại sĩ Pháp Thân Bồ Tát trong hàng Thâp Thánh từ giai vị Đệ bát “Bất Động Địa” trở lên đến Đệ thập “Pháp Vân Địa” mới có đủ khả năng tu chứng được.

Vậy thì như thế nào (và sao) mà được:

Gọi là Bậc “Bất Thối Chuyển” Đại Bồ Tát?

Xin hãy tạm nghe và suy ngẫm kỹ về nghĩa lý của vài đoạn KINH mà bút giả trích dẫn ra để làm chứng tín sau đây:

“Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Đại Bồ-Tát nói cùng với Ngài Bửu Thượng Thiên tử (cũng là một vị Đại Bồ-Tát khác nữa, dùng môn “thiện quyền phương tiện” hiện thân ra làm một vị Thiên tử để giáo hoá các hàng Thiên tử nơi cõi Trời) rằng:

1/- Nầy Thiên Tử, nếu có bậc Bồ Tát nào quán sát được:

– Tất cả các PHÁP “chẳng có tai hoạn” 2)

– KHÔNG “chẳng có tai hoạn” (tức là “có tai hoạn”) 3)

Mà cũng:

– Không “chẳng phải là chẳng có tai hoạn” 4)

Thì gọi đó là Bồ Tát Bất Thối Chuyển vậy.

2/- Lại nầy Thiên Tử,

Nếu có Bồ Tát nào mà:

– Cũng “thối” cũng “chẳng thối” (xem Phụ chú 4 dưới đây)

Thì gọi là Bồ Tát Bất Thối Chuyển vậy.

(Phụ-chú 7:

Nói “thối” (thụt lùi) đây tức là:

– Thối bỏ tất cả các ĐIỀU THIỆN của Dục-giới, và Vô Sắc-giới.

Tại sao?

Bởi vì nếu bậc Đại Bồ-Tát nào mà còn thấy có các “điền thiện” nầy thì – (có nghĩa là) – vị Đại Bồ-Tát đó vẫn còn trụ vào Quả-Địa “Hữu công dụng”, chớ chưa được chứng nhập vào trong Quả Địa “Vô công dụng” của bậc Pháp Vân Địa (giai vị thứ 10 của hàng Thập Thánh đại Bồ Tát).

…(Xem lại lời chú giải nầy nơi quyển Truyền Tâm Ấn Luận 1, các trang 99, 100, 101 sẽ hiểu rõ hơn).

3/- Lại nầy nữa Thiên tử, Bồ Tát vì:

– CHẲNG BIẾT, CHẲNG HIỂU nên THỐI.

(Tức là “chẳng biết, chẳng hiểu”được các nghĩa vừa nêu trên).

– Vì BIẾT và HIỂU nên chẳng có TRANH TỤNG (tức là không có các sự tranh cãi, luận bàn… về vấn đề “Pháp chấp”).

Đây gọi là Bồ Tát Bất Thối Chuyển.

4/- Ở nơi Phật Pháp không nghi ngờ, chẳng tin theo lời người khác,

(Tức là do nhờ vào nơi Trí Huệ Bát Nhã Ba La Mật [đã chứng đắc được lúc còn tu nhơn ở giai vị Đệ lục “Hiện Tiền Địa”)mà tự mình suy hiểu ra “Thậm thâm Nghĩa lý” trong Phật Pháp, chớ không do bậc Thánh nào khác tuyên nói ra cả).

– Rời lìa hai việc PHẢI và CHẲNG PHẢI, (tức là dứt được Thị và Phi thị)

– Sơ tâm THANH TỊNH không có TẬT ĐỐ,

– Không ĐỘNG, không LAY, trí huệ chiếu sáng,

– Được Tự tại đối với các Pháp, hiểu rõ như Phật.

Đây gọi là Bồ Tát Bất Thối Chuyển.

…………………….

5/- Nầy Thiên tử, Bồ Tát nếu có thể

Chẳng phân biệt Như Lai Thập Lực, (10 Trí lực của Phật).

– Chẳng phân biệt Tứ Vô Uý, (bốn pháp “không sợ” của Phật).

– Chẳng phân biệt Thập Bát Bất Cộng Pháp, (18 pháp “không đồng loại” với chư Thánh nhơn Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, của Phật)5)

– Chẳng phân biệt tất cả các thứ: Căn, Lực, Giác, Đạo, 6)

– Chẳng phân biệt các Tướng Hảo (32 tướng tốt + 80 vẻ đẹp tuỳ hình của Phật),

– Chẳng phân biệt Trang Nghiêm Phật Quốc,

– Chẳng phân biệt Thanh Văn, Duyên Giác,

– Chẳng phân biệt Bồ Tát,

Nhẫn đến:

– Chẳng phân biệt tất cả “PHÂN BIỆT THỐI CHUYỂN”, thì gọi là Bồ Tát Bất Thối Chuyển.

(Phụ-chú 8:

Trên đây Tôi chỉ nêu lên vài đoạn Kinh dẫn chứng để cho hàng Phật tử học tu Phật pháp Đại-Thừa biết được thế nào là “Bất Thối Chuyển” vị thôi, chớ không giảng giải ra chi tiết, bởi vì:

– Đó lại là chuyện khác.

– Vả lại nếu như muốn giảng giải cho rõ NGHĨA, e có khi phải dài đến hơn 1000 trang giấy… Các phần “Bất Thối Chuyển” nầy sẽ được giảng đến trong bộ sách:

NIỆM PHẬT BA LA MẬT KINH

(Như-Thích-Đại-Sớ)

do Tôi sớ giải (20 quyển) sẽ xuất bản trong những thời gian sắp tới đây).

3/- Người “thuật chuyện” ấy lại nói rằng:

Sa-di M-Đ là người đã tu chứng được Lục-Độ Ba-La-Mật (!!!)

Người “thuật chuyện” nầy nói đến chữ “Ba-La-Mật” mà Họ không hiểu được “chút xíu” gì về NGHĨA của Ba-La-Mật cả.

NHƯ THẾ NÀO?

Vì “Ba-La-Mật” ấy vốn chẳng phải là “cảnh giới” và phần “tu chứng” của:

a/- Các bậc Nhị thừa thánh nhơn Thanh Văn, Duyên Giác.

Cùng với:

b/- Các bậc Bồ Tát đã phá trừ xong “Trần Sa Hoặc” (trong hàng Thập tín Bồ-Tát giai vị đệ 8,9,10).

c/- Các bậc Bồ Tát Đại sĩ pháp thân ĐÃ và ĐANG phá từng phần “Vô Minh Hoặc” (trong 10 giai vị Thập Trụ, 10 giai vị Thập hạnh, 10 giai-vị Thập Hồi hướng).

Mà:

– “Ba-La-Mật” đây chính thực là cảnh giới tu hành và chứng đắc của các bậc Bồ-Tát Đại sĩ Pháp Thân (đang phá thêm từng phần “vô minh hoặc” cao hơn trên hàng Tam Hiền Bồ-Tát nữa) nơi 10 giai vị của hàng Thập Địa (tức là Thập Thánh Bồ-Tát) vậy

Bởi vì:

– Khi chứng đắc xong giai vị Sơ Hoan Hỷ Địa rồi, thì Bậc Đại Bồ Tát ấy mới thành tựu được Bố Thí Ba-La-Mật.

Qua đến các giai vị kế sau, như là :

– Đệ nhị Ly Cấu Địa, Đại Bồ Tát mới chứng được Trì Giới Ba-La-Mật.

– Đệ tam Phát Quang Địa, Đại Bồ-Tát mới chứng được Nhẫn Nhục Ba-La-Mật.

– Đệ tứ Diễm Huệ Địa, Đại Bồ-Tát mới chứng được Tinh Tấn Ba-La-Mật.

– Đệ ngũ Cực Nan Thắng Địa, Đại Bồ-Tát mới chứng được Thiền Tịnh Ba-La-Mật.

– Đệ lục Hiện Tiền Địa, Đại Bồ-Tát mới chứng được Trí Huệ Ba-La-Mật.

Xin được trích dẫn ra một vài lời Phật dạy về “chơn thật nghĩa” của “quả địa” Ba-La-Mật sau đây:

Gọi Ba-La-Mật (tức là quả địa của những bậc “Đại Bồ Tát Đáo bỉ ngoạn” ấy), là do ở noi các “Nghĩa”:

1/- Vì siêu quá các “Sở Hành” của hàng Nhị Thừa vậy.

(Tức là:

– Những sự chứng đắc, phát tâm độ sanh, tu tập v.v… của chư Nhị thừa giải thoát chánh nhơn không thể nào so bì kịp được).

2/- Vì (được) quảng đại viên mãn Như-Lai Trí vậy.

(Tức là:

– Thâm nhập được vào trong biển Trí Huệ và cảnh giới bí mật của chư Phật).

3/- Vì chẳng chấp trước ở nơi hữu vi, vô vi vậy.

(Tức là:

– Chẳng chấp nơi “có” mà cũng chấp nơi “không”).

Sao gọi là HỮU VI?

– Vì CÓ SANH, CÓ TRỤ, CÓ DỊ và CÓ DIỆT.

Sao gọi là VÔ VI?

– Vì BẤT SANH, BẤT TRỤ, BẤT DỊ, BẤT DIỆT).

4/- Vì “Như Thiệt” biết rõ lỗi họa của sanh tử vậy.

(Tức là:

– Biết rõ chúng sanh trong 6 nẻo luân hồi sanh tử hằng luôn gây tạo vô lượng tội lỗi và họa hoạn – (do nơi “Vô minh điên đảo” mà sanh khởi ra) – vì thế cho nên quý Ngài phát đại nguyện là sẽ dứt trừ sanh tử, lỗi họa cho chúng sanh).

5/- Vì những kẻ chưa giác ngộ đều khiến cho được giác ngộ vậy.

6/- Vì được Như Lai vô tận pháp tạng vậy.

(Tức là:

– Thâm nhập được vào trong cảnh giới “Trí huệ Lực” và “Phương tiện Lực” của chư Phật).

7/- Vì được “Vô ngại giải thoát” vậy.

8/- Vì dùng “Bố thí” để độ thoát chúng sanh vậy.

9/- Vì dùng “Trì giới” để viên mãn bổn thể (nguyện đã phát) vậy.

10/- Vì dùng “Nhẫn nhục” để đầy đủ vô lượng tướng hảo trang nghiêm vậy.

11/- Vì dùng “Tinh tiến” để được đầy đủ các Phật pháp vậy.

12/- Vì dùng “Thiền định” để xuất sanh “Tứ Vô lượng Tâm” vậy.

13/- Vì dùng “Bát nhã” để diệt trừ phiền não vậy.

14/- Vì dùng “Nguyện” để có thể khiến cho các Phật pháp của mình được viên mãn vậy.

15/- Vì dùng “Lực” để khiến cho chúng sanh được tinh tiến vậy.

16/- Vì dùng “Trí” để được đầy đủ Như Lai “Nhứt Thiết chủng trí” vậy…

(Ghi-chú:

Như muốn biết cho đầy đủ về quả địa Ba-La-Mật xin xem lại “Pháp nghĩa” của phần chứng nầy nơi quyển “Niệm-Phật Ba-La-Mật Kinh” (Như Thích Đại Sớ – Quyển I, nơi các trang từ 311 đến 329) do Tôi chú giải và đã xuất bản).

Còn Sa di Minh-Đạt đây chỉ là một Sa di phàm tăng bạt địa, tu hành lem nhem (mà chưa biết là đương sự có được “đắc giới Sa di” không nữa), ấy thế mà “người thuật chuyện” kia lại nói rằng đã tu chứng đến mức độ:

– Đầy đủ lục Ba-La-Mật!!!

(Đây là “tội” Đại Tăng-Thượng Mạn và Đại Vọng Ngữ [Một tội “rất là khó cứu” ở trong Phật pháp”])

Nhẫn đến việc:

4/- Người “thuật chuyện” lại còn nói thêm rằng:

– Sa-di Minh-Đạt ấy là người đã “Dứt dược THAM, SÂN, SI!!!

Người Phật tử chân chánh tu học Phật pháp – (tức là có “Chánh kiến” và “Thông hiểu kinh điển, giáo lý”) – phải nên biết rõ điều rằng:

– AI LÀ BẬC ĐÃ DỨT ĐƯỢC BA ĐỘC “THAM, SÂN, SI”?

Chính là các Thánh Nhị Thừa (Thanh-văn, Duyên-giác), bậc đã phá trừ xong 88 phẩm Kiến hoặc và 81 phẩm Tư hoặc trong ba cõi Dục, Sắc, và Vô sắc, cùng đoạn diệt được 12 phép “Tục Đế Nhơn duyên”, thành tựu xong đạo quả A-La-Hán, Duyên giác, chứng đầy đủ các phần:

TAM MINH, LỤC THÔNG và BÁT GIẢI THOÁT

(Mới dứt được ba độc Tham, Sân, Si nầy)

(Lời phụ:

Các điều Tôi vừa dẫn chứng trên đây, chỉ là “vài ba” trong “trăm ngàn” phần sai lầm khác riêng về chuyện:

“Vãng sanh Lưu Xá-lợi của cố Sa-di Minh-Đạt”

mà thôi.

Còn nếu như việc dẫn ra cho cùng đi nữa thì tất cả những chuyện “Vãng sanh Lưu Xá-lợi” của các nhân vật có tên trong “Quyển Sách Kia” (trừ ba vị là:

– Hư-Vân Thượng nhân,

– Thích Tuyên-Hoá Hoà-Thượng,

– Thích-Thiền-Tâm Hoà-Thượng.

Kỳ dư còn lại thì thảy đều là:

a/- Sai trái với Lý Đạo (ở một tầm mức rất nghiêm trọng)

b/- Sai trái với Tôn chỉ của Tịnh Độ Pháp môn.

c/- Phạm nhằm lỗi Tăng Thượng mạn và Đại Vọng ngữ.

hết. Nhưng vì không muốn gieo nhân đấu tranh và làm “mất lòng” đối với các nhân vật (đời và đạo) có liên hệ đến quyển sách nầy… cho nên Tôi chẳng kể thêm ra [các điều sai trái ấy] làm chi).

B/- Về phần người Biên soạn (tức là “Tác giả” của quyển sách “Niệm-Phật Lưu Xá-Lợi”), nếu như lấy công tâm mà nhận xét thì:

Người biên soạn nên quyển sách nầy – (được biết qua lời kể lại) – là một Phật tử tại gia lớn tuổi, cũng có công lao xem đọc và nghiên cứu kinh sách của đạo Phật ta, nhưng bởi vì không được bậc chân sư dẫn dắt, giảng dạy về nghĩa lý, mà chỉ là:

– Tự xem đọc và suy hiểu “Kinh Nghĩa” theo ý thiển cận và một chiều của riêng mình thôi.

Người nầy thì:

– Cũng có thiện tâm, hảo ý đối với người Tu (tại gia và xuất gia).

– Cũng có lòng Tin thành đối với 3 ngôi Tam Bảo.

– Cũng có hiểu biết được chút ít về Phật pháp.

– Cũng có nghiên cứu sơ qua về tôn chỉ của Tịnh Độ pháp môn.

– Cũng có được chút đỉnh khả năng viết lách…

Nhưng mà:

– Sự hiểu biết đúng về Phật pháp thì còn rất nông cạn.

Và:

– Không có được TRÍ XÉT ĐOÁN đâu là THỰC, HƯ, CHƠN, GIẢ trong đường đạo và ở nơi Phật-pháp.

Vì thế mà:

1/- Chẳng thể nào phân biệt được đâu là việc:

– Vãng sanh thật,

– Vãng sanh giả (tức là bịa chuyện),

– Xá lợi thật,

– Xá lợi giả (tức là cốt hôi),

– Cốt truyện (vãng sanh) thực, cốt truyện (vãng sanh) hư. (Tức là bịa chuyện KHÔNG thành ra CÓ.)

Cho nên:

2/- Cứ nhắm mắt đoán bậy, nghe càn, chớ không chịu nghiệm xét kỹ lại những lời tường thuật (do các hàng đệ tử, thân nhân, hoặc con cháu… của “người quá vãng” ấy), kể lại để đoán quyết các việc ấy là:

– Có lý hay vô lý.

(Tức là không biết xem kỹ lại hai phần NHÂN GIEO và QUẢ CHỨNG được kể lại của ngưới quá vãng ấy có phù hợp với nhau không).

– Đáng tin hay chẳng đáng tin.

– Đúng với Phật pháp, Phật lý, hay là sai trái với lời Kinh, Ý Phật, và Ý của chư Bồ Tát, Tổ Sư…

(Ngay chính đến “Tác giả” của quyển-sách mà cũng còn hiểu biết sơ đẳng về Phật pháp thay, thì nói chi đến việc phân biệt:

– Đâu là SAI hay ĐÚNG được.)

Vì thế cho nên mới hạ bút biên quấy-quá ra thành sách, trong “Ý” của “tác giả” nầy, có lẽ người nghĩ rằng “việc mình làm như thế là Phật sự”!!

Và sẽ:

– Gây lợi ích cùng hoằng dương pháp môn Tịnh Độ…

– Khuyến khích hàng Phật Tử Niệm Phật nhiều thêm hơn nữa…

– Là nêu gương “vãng sanh hiện đại”…

– Là tôn vinh những người “vãng sanh” kia và “Xá lợi” (!!!) của Họ…

Nhưng thật ra thì “quyển sách ấy” cùng với các chuyện vãng sanh được ghi trong đó chỉ làm:

– Tổn hại cho pháp môn Tịnh-Độ,

– Sai lầm với tôn chỉ của pháp môn Niệm-Phật.

– Làm tăng thêm lòng “Tăng Thượng Mạn” cho những kẻ giả dối… (hoặc người chỉ tu trên điều môi, chót lưỡi) mà thôi.

Ở CHỖ NÀO?

Ở chỗ:

Tôn chỉ chánh yếu của pháp môn Tịnh-Độ là trước hết phải:

Phát lòng TÍN, NGUYỆN,

Rồi sau đó mới đến việc:

– Chuyên nhất một lòng (nhất tâm) trì câu phật hiệu – (tức là HẠNH) – để được “nương nhờ” vào nơi:

– Sức tự lực trì niệm của riêng-mình

Cùng (phối hợp) với:

– Nguyện lực tiếp dẫn của Phật (A-Di-Đà)

ngõ hầu trong giây phút tối hậu của cuộc đời – (tức là lúc lâm-chung) – được : – Đới nghiệp vãng-sanh mà thôi, chớ nào có phải là: – Niệm Phật để cầu cho có được Xá-lợi đâu!

Vả lại, như trong những phần biện giải nơi các bức thơ trước, Tôi đã có nói rằng:

– Xá-lợi là sự kết tinh của ba phần “Giới, Định, Huệ” – đó là công phu tu chứng của các bậc thánh

nhơn đã được dự vào trong dòng Thánh Số – (Từ quả vị “Tu-Đà-Hoàn” trở lên…), chớ còn hạng loại Tu hành biếng trễ, Niệm Phật lem nhem, bê bối như chúng ta đây, (nhất là vào thời kỳ Mạt pháp tối hậu nầy) thì cũng giống như cảnh:

– MỘT NGÀY PHƠI NẮNG, 9 (hoặc) 10 NGÀY BỎ LẠNH… vậy.

Nghĩa là:

– Một ngày Niệm Phật (chẳng biết có đến “vài giờ” hoặc được “vài câu” Phật Hiệu nào đạt đến mức Nhứt tâm không nữa) rồi 9, 10 ngày bỏ quên (tức là không có Niệm).

Như thế thì làm sao mà:

– Trừ được vô lượng, vô biên phiền não, nghiệp chướng… tích tụ từ vô thỉ kiếp đến nay?

B/- Về phần người Biên soạn (tức là “Tác giả” của quyển sách “Niệm Phật Lưu Xá Lợi”), nếu như lấy công tâm mà nhận xét thì:

– Người biên soạn nên quyển sách nầy – (được biết qua lời kể lại) – là một Phật tử tại gia lớn tuổi, cũng có công lao xem đọc và nghiên cứu kinh sách của đạo Phật ta, nhưng bởi vì không được bậc chân sư dẫn dắt, giảng dạy về nghĩa lý, mà chỉ là:

– Tự xem đọc và suy hiểu “Kinh Nghĩa” theo ý thiển cận và một chiều của riêng mình thôi.

Người nầy thì:

– Cũng có thiện tâm, hảo ý đối với người Tu (tại gia và xuất gia).

– Cũng có lòng Tin thành đối với 3 ngôi Tam Bảo.

– Cũng có hiểu biết được chút ít về Phật Pháp.

– Cũng có nghiên cứu sơ qua về tôn chỉ của Tịnh Độ pháp môn.

– Cũng có được chút đỉnh khả năng viết lách…

Nhưng mà:

– Sự hiểu biết đúng về Phật Pháp thì còn rất nông cạn.

Và:

– Không có được TRÍ XÉT ĐOÁN đâu là THỰC, HƯ, CHƠN, GIẢ trong đường đạo và ở nơi Phật Pháp.

Vì thế mà:

1/- Chẳng thể nào phân biệt được đâu là việc:

– Vãng sanh thật,

– Vãng sanh giả (tức là bịa chuyện),

– Xá lợi thật,

– Xá lợi giả (tức là cốt hôi),

– Cốt chuyện (vãng sanh) thực, cốt chuyện (vãng sanh) hư. (Tức là bịa chuyện KHÔNG thành ra CÓ.)

Cho nên:

2/- Cứ nhắm mắt đoán bậy, nghe càn, chớ không chịu nghiệm xét kỹ lại những lời tường thuật (từ các hàng đệ tử, thân nhân, hoặc con cháu… của “người quá vãng” ấy kể lại) để đoán quyết các việc ấy là:

– Có lý hay vô lý.

(Tức là không biết xem kỹ lại hai phần NHÂN GIEO và QUẢ CHỨNG được kể lại của người quá vãng ấy có phù hợp với nhau không).

– Đáng tin hay chẳng đáng tin.

– Đúng với Phật Pháp, Phật lý, hay là sai trái với lời Kinh, Ý Phật và Ý của chư Bồ Tát, Tổ Sư…

(Ngay chính đến “Tác giả” của quyển sách mà cũng còn hiểu biết sơ đẳng về Phật Pháp thay, thì nói chi đến việc phân biệt:

– Đâu là SAI hay ĐÚNG được.)

Vì thế cho nên mới hạ bút biên quấy quá ra thành sách, trong “Ý” của “tác giả” nầy, có lẽ người nghĩ rằng “việc mình làm như thế là Phật sự”!!

Và sẽ:

– Gây lợi ích cùng hoằng dương pháp môn Tịnh Độ…

– Khuyến khích hàng Phật tử Niệm Phật nhiều thêm hơn nữa…

– Là nêu gương “vãng sanh hiện đại”…

– Là tôn vinh những người “vãng sanh” kia và “Xá lợi” (!!!) của HỌ…

Nhưng thật ra thì “quyển sách ấy” cùng với các chuyện vãng sanh được ghi trong đó chỉ làm:

– Tổn hại cho pháp môn Tịnh Độ,

– Sai lầm với tôn chỉ của pháp môn Niệm Phật.

– Làm tăng thêm lòng “Tăng Thượng Mạn” cho những kẻ giả dối… (hoặc các người chỉ tu trên đầu môi, chót lưỡi) mà thôi.

Ở CHỖ NÀO?

Ở chỗ:

Tôn chỉ chánh yếu của pháp môn Tịnh Độ là trước hết phải:

Phát lòng TÍN, NGUYỆN,

Rồi sau đó mới đến việc:

– Chuyên nhất một lòng (nhất tâm) trì câu Phật hiệu – (tức là HẠNH) – để được “nương nhờ” vào nơi:

– Sức tự lực trì niệm của riêng mình

Cùng (phối hợp) với:

– Nguyện lực tiếp dẫn của Phật (A Di Đà)

ngõ hầu trong giây phút tối hậu của cuộc đời – (tức là lúc lâm chung) – được:

Đới nghiệp vãng sanh

mà thôi, chớ nào có phải là:

Niệm Phật để cầu cho có được Xá lợi đâu!

Vả lại, như trong những phần biện giải nơi các bức thư trước, Tôi đã có nói rằng:

– Xá lợi là sự kết tinh của ba phần “GIỚI, ĐỊNH, HUỆ” – đó là công phu tu chứng của các bậc thánh nhơn đã được dự vào trong dòng Thánh Số – (Từ quả vị TU ĐÀ HOÀN trở lên…), chớ còn hạng loại Tu hành biếng trễ, Niệm Phật lem nhem, bê bối như chúng ta đây, (nhất là vào thời kỳ Mạt Pháp tối hậu nầy) thì cũng giống như cảnh:

– MỘT NGÀY PHƠI NẮNG, 9 (hoặc) 10 NGÀY BỎ LẠNH… vậy.

Nghĩa là:

– Một ngày Niệm Phật (mà chẳng biết có đến “vài giờ” hoặc được “vài câu” Phật Hiệu nào đạt đến mức Nhứt tâm không nữa) rồi 9, 10 ngày bỏ quên (tức là không có Niệm).

Như thế thì làm sao mà:

– Trừ được vô lượng, vô biên phiền não, nghiệp chướng… tích tụ từ vô thỉ kiếp đến nay?

Hơn nữa, hầu hết những người Phật tử tại gia Niệm Phật trong thời buổi nầy thì bởi vì:

– TÂM vẫn còn bị đủ mọi thứ “duyên đời” trói buộc.

– Ý rong ruổi hoài nơi chốn Đông, Tây…

(Ngay chính cả khi đang Niệm Phật cũng vậy nữa.)

– Nay vầy, mai khác, (TÂM) thay đổi liền liền trong mỗi sát na.

– Kinh điển không học, không tụng tập… không hiểu, không thuộc…

– Phật Pháp không biết, không nghe…

– Không thành tựu được chút xíu nào về ba phần GIỚI, ĐỊNH, HUỆ…. cả.

Vậy thì thử hỏi:

– Lấy gì để bảo đảm cho việc Vãng sanh?

– Lấy gì để kết thành ra Xá lợi?

Mà nếu như:

– Xá lợi đã không thành, không có… rồi thì:

SAO ĐƯỢC GỌI LÀ LƯU?

(Phụ chú 9:

Qua một vài phần vừa được luận giải để chứng minh trên đây, Ta có thể nói lên lời quả quyết rằng:

Quyển sách nầy chỉ là một

tác phẩm “HÍ LUẬN”.

[Tức là lợi dụng Phật Pháp viết chơi, nói giỡn… để đọc cho vui hoặc cầu danh, thủ lợi… mà thôi].

Chớ:

– Không đáng dùng làm “mô phạm” và “cương kỹ” trong đạo [nói chung] và riêng cho Tông môn Tịnh độ.

– Gây ra rất nhiều tai hại cho những người tu học Phật Pháp hiện tại lẫn cả về sau [nói chung] và riêng đến cho các hành giả tu theo Tông môn Tịnh Độ.

Ở chỗ nào?

Ở các chỗ:

1/- Sẽ khiến cho có thêm nhiều “chuyện vãng sanh bịa đặt” mới khác nữa từ nơi các kẻ háo danh, chẳng có thực hạnh, không học, không tu… mà muốn được tiếng đời khen tặng rằng Ta đây là người được Phật đến rước [ngang hông] về cõi Cực Lạc… hầu để:

– Nở mặt mày với “lối xóm bà con” trong đường đạo.

Và:

– Lừa dối các người thân thế… [hiện tại lẫn cả về sau].

Còn riêng về phần Tác giả [của quyển sách], thì người nầy vô tình – [hoặc có thể là cố ý] – phạm nhằm vào trong các lỗi:

– Lạm dụng Phật Pháp [nói chung] và Tịnh Độ tông [nói riêng] để mưu cầu danh lợi.

– Tu đắc “tam muội nơi cửa miệng” [nói theo ý của Liên Tông Bát Tổ CHÂU HOẰNG Đại sư].

Chớ không có thực hạnh, thực đức, thực tài, thực tu… chi cả.

Và như thế thì bỗng dưng trở thành ra là:

MỘT NGƯỜI “CUỒNG HUỆ” TRONG CỬA ĐẠO).

Vì sao mà Tôi lại nói như vậy?

Bởi vì nếu như là người có Trí huệ thì phải biết phân biệt rõ “Thật Tướng” của các Pháp (nói chung) và về việc “vãng sanh, lưu xá lợi” (nói riêng) của các hàng phàm phu Niệm Phật trong thời buổi Mạt Pháp, điên đảo nầy.

Xin được trích dẫn ra một đoạn Kinh (dưới đây) để làm dẫn chứng cho việc “có trí huệ cùng chăng” như sau:

Phật bảo cùng với Ngài CA DIẾP Bồ Tát rằng:

“ Nầy CA DIẾP, Tướng của TRÍ HUỆ là hay biết phân biệt”…

HỎI:

-Vậy thì BIẾT PHÂN BIỆT như thế nào?

ĐÁP:

(Đại khái) chính là phải biết rõ các việc sau đây :

1/- Trong thời buổi Mạt Pháp, điên đảo hiện nay, hầu hết chúng sanh đều bị các cảnh ngũ dục, lục trần… làm cho “tán loạn thân tâm”, nên không thể nào tu tập GIỚI, ĐỊNH, HUỆ đúng mức được, vì thế mà:

CHẲNG THỂ NÀO CÓ XÁ LỢI ĐƯỢC.

2/- Đâu chánh, đâu tà, đâu sai, đâu đúng…

3/- (Quyết định) Không thể nào nghe (kể lại) một chiều về các việc tu tập hay vãng sanh, có xá lợi… của một vài cá nhân nào đó (từ nơi thân nhân, quyến thuộc hoặc hàng môn đồ… của HỌ) mà không có sự thẩm sát (thẩm định và quán sát) một cách cẩn thận.

………………

Cho chí đến phải biết :

4/- (Xem lại những phần đã được luận giải nơi các bức thư “Gởi Người Học Phật” từ số 37 cho đến đây)

HỎI:

– Sao gọi là “CUỒNG HUỆ”?

ĐÁP:

– CUỒNG HUỆ  ấy có rất nhiều nghĩa khác nhau, nhưng nếu như nói khái lược thì đấy là một kẻ:

a/- Thông minh khùng điên (tức là người ấy tưởng rằng ở trong Phật Pháp thì mình thông minh hoặc

tài giỏi lắm, nhưng thật ra thì các sự hiểu biết mà người ấy có, gần như hầu hết đều bị sai lầm so với chánh lý, chánh giáo hết cả).

b/- Đem cái TÂM “tán loạn”, phan duyên, cầu danh, háo lợi ra mà biện giảng Phật Pháp…

c/- Thế trí biện thông:

  – Tức là chỉ giỏi về những sự hơn thua, đắc thất, phải quấy cao thấp… của thế tình, chẳng hạn như bàn luận về đời thì rất hay.

Nhưng:

– Đối với “lý đạo” thì dốt đặc, hoặc nếu như có học hỏi đi chăng nữa, thì cũng chỉ là hiểu biết theo một chiều và nông cạn… mà thôi.

d/- Biết nhưng không có lòng Tin, chẳng chịu thực hành (theo sự hiểu biết đó), mà chỉ giỏi phần nói

suông trên “đầu môi, chót lưỡi(vì tham cầu danh lợi).

e/- Ngồi đâu thì “nói dóc” đó, vì đấy chỉ là một loại người chuyên môn đọc sách và biện luận lý

thuyết suông, chớ chẳng có phần “sự thực hành” hay “tu tập” chi hết.

TẠI SAO?

– Vì HỌ “biết chỉ là để (chuyên) dùng vào trong việc luận biện, hầu phân biệt cao thấp, hơn thua, v.v… mà thôi, chớ chẳng có thật tâm cùng chịu chăm lòng tu tập”… vậy.

(Tức là: – Nghe vào tai thì nói ra đàng Miệng để mua vui).

Cho nên:

Đối với kẻ CUỒNG HUỆ thì không bao giờ có được “Sự Thực Tu, Thực Hạnh” chi hết.

Trong quyển “Quán Âm Huyền Nghĩa” có lược giảng về Sự CUỒNG HUỆ nầy như sau:

1/- TÂM của kẻ nào chỉ có ĐỊNH mà không có HUỆ thì gọi là “SI ĐỊNH”.

(Chẳng hạn như chư Thiên ở hai cõi Sắc và Vô Sắc, tuy là tu đắc được Tứ Thiền, Tứ Định, nhưng HỌ không có HUỆ, vì thế mà chẳng thể nào thành đạt được đạo quả giải thoát để thâm nhập “vào trong dòng Thánh” được – [từ quả vị TU ĐÀ HOÀN trở lên… thì gọi là {nhập} VÀO DÒNG THÁNH).

(Bậc đã được “vào dòng Thánh” rồi thì không bao giờ “thối đọa” nơi bước đường tu và bị “nghiệp lực” kéo dắt làm cho rớt lui lại vào trong 6 nẻo luân hồi nữa).

Mà quý Ngài ấy:

QUYẾT ĐỊNH SẼ ĐƯỢC

ĐẮC THÀNH PHẬT QUẢ Ở TƯƠNG LAI.

(Như là các Bậc:

– TU ĐÀ HOÀN thánh giả thì sau 80,000 đại kiếp sẽ thành Phật.

– TƯ ĐÀ HÀM thánh giả thì sau 60,000 đại kiếp sẽ thành Phật.

– A NA HÀM thánh giả thì sau 40,000 đại kiếp sẽ thành Phật.

-A LA HÁN thánh giả thì sau 20,000 đại kiếp sẽ thành Phật.

– DUYÊN GIÁC thánh giả thì sau 10,000 đại kiếp sẽ thành Phật.

Cho đến:

– Bậc ĐẠI SĨ PHÁP THÂN BỒ TÁT nào đã đắc được “Vô Sanh Pháp Nhẫn” rồi, thì bảy ngày sau có thể thành Phật [nếu muốn]).

(Nhưng quý Ngài chưa muốn thành Phật ngay, bởi vì:

– Lòng Từ Bi đối với chúng sanh còn trầm nịch chưa thoả.

– Muốn tu thêm cho hoàn mãn được “Bồ Tát đại hạnh”…)

Người SI ĐỊNH thì cũng giống như cảnh của một :

– “Đứa đui cưỡi con ngựa mù” (tất nhiên là cả hai chủ, tớ đều bị sụp hầm, sa hố hết cả)!!

2/- Còn nếu như kẻ nào chỉ có HUỆ mà không ĐỊNH thì gọi là CUỒNG HUỆ (bởi vậy cho nên TÂM của HỌ ưa cầu cao, ham danh lợi và háo thắng lắm).

Người CUỒNG HUỆ thì cũng giống như cảnh:

– “Đốt ngọn đèn để giữa gió, ắt nhiên là ngọn lửa phải bị leo lét, lu mờ, chẳng soi rõ được vật gì hết”.

Vì thế mà người thuộc về loại CUỒNG HUỆ nầy thì thường là hạng người:

NĂNG THUYẾT BẤT NĂNG HÀNH.

(Tức là chỉ ưa “luận huyền nói diệu” trên đầu môi chót lưỡi mà thôi, chớ chẳng hay thực hành hoặc thành tựu được việc gì đúng theo lời nói, để lợi mình, lợi người cả – [dù cho đó là việc ngoài đời hay trong đạo chi cũng đều như vậy]).

3/- Tu đắc được môn “Tam muội trên cửa miệng” ngõ hầu dối đời, gạt chúng…

Xin được đề nghị với Tác giả (của quyển sách Lưu Xá Lợi) mấy điều sau:

a/- Viết thư sám hối với hàng Tứ Chúng gần xa – (về việc “chỉ có nghe hàng môn đồ hay thân quyến kể lại” về những sự vãng sanh, lưu xá lợi của năm ba nhân vật [có tên trong quyển sách đó] thôi… chớ không được cảnh sự mình “tai nghe, mắt thấy”, để phối kiểm lại theo “Hiện chứng lượng”) – ngõ hầu suy gẫm, quán sát các lời “thuật chuyện” kia là ĐÚNG hay SAI thế nào (so với chánh lý đã từng được ghi chép trong Kinh Luận).

b/- Viết văn thư gởi đi khắp nơi để xin “thâu hồi quyển sách” ấy lại, với lý do:

CHUYỆN KHÔNG THẬT CÓ VÀ SAI TRÁI VỚI

TÔN CHỈ CỦA TÔNG MÔN TỊNH ĐỘ.

(Đại khái như trường hợp vãng sanh và lưu xá lợi [!!!] của bà Diệu Chi TĂNG KIM LANG ở Provo – Utah (là đệ tử lâu năm nhất của Tôi, nên biết rất rõ về Nghiệp quả của bà suốt thời gian trước khi lâm bệnh, sau khi lâm bệnh…và trước giờ lâm chung) đã được thân quyến âm thầm ngụy tạo ra một cách rất là ấu trĩ (mà Tôi không hề hay biết).

Và:

– Tác giả (cuốn Lưu Xá Lợi) đã hấp tấp, vội vàng cho đăng vào trong quyển sách kia mà không kiểm chứng lại cho kỹ lưỡng trước khi hạ bút biên thành ra cốt chuyện… để phổ biến.

Đây há chẳng phải là một sự việc không thật thì gọi là gì?

Một chuyện đã không thật rồi thì các chuyện khác làm sao tin tưởng được)!

HỎI:

– “Người Chứng Minh và Giới Thiệu” cho quyển sách nầy lại là người xuất gia, có danh tiếng trong cửa đạo,  thì ai biết được “hư, thật”, “chân, giả” ra sao ?? Xin Thầy từ bi giải dùm cho chúng đệ tử được tỏ tường” :

ĐÁP:

Kính bạch Đại tăng và quý Liên Hữu,

Xuyên qua các lời “Phật Huyền Ký” (như trước đã có dẫn chứng rồi), đó là:

Trong thời Mạt Pháp nầy có rất nhiều hạng “phàm Tăng Thanh Văn Tỳ Kheo” vì : -“Già Yếu Mà Trang Nghiêm Y Phục”…,

Và:

– … “Nếu có đọc tụng kinh văn, họ không rành câu chữ, nhưng không chịu tìm hỏi nơi Bậc Cao Minh, tự mãn cầu danh, cho Mình là phải…”

Đối với các hạng loại “Tăng” nầy, chẳng những là bị Phật, Bồ Tát… quở mắng không thôi đâu, mà chư vị Tổ Sư cũng lại rầy la thêm nữa, đại khái như Tổ QUY SƠN đã có lời “trách dạy” rằng:

1/- “Giáo lý vị thường thố hoài, huyền đạo vô nhơn khiết ngộ.

2/- Cập chí niên cao lạp trưởng, không phúc cao tâm.

3/- Bất khẳng thân phụ lương bằng, duy tri cứ ngạo.

4/- Toại thành sơ dã, xúc sự diện tường.

5/- Hậu học tư tuân, vô ngôn tiếp dẫn.

6/- Túng hữu đàm thuyết, bất thiệp điển chương.

7/- Hoặc bị khinh ngôn, phản trách hậu sanh vô lễ.

8/- Tài tương giác sát, tiện ngôn ngã thị sơn tăng.

9/- Nhơn ngã cống cao, khi áp hậu học.

10/- Toại sử nhứt sanh không quá, hậu hối vô truy

11/- Triển chuyển luân hồi, hà thời hưu tức”!

(Ý nghĩa của 11 câu ở trên là :

1/- Giáo lý không thường đặt trong cõi lòng, thì cái đạo pháp sâu kín, nhiệm mầu (của Phật dạy) làm sao mà hiểu được ?

(Tức là ý nói:

– Các phần “giáo lý” nhiệm mầu, sâu kín của (chư Phật, Tổ tuyên dạy) chẳng chịu chăm lo học hỏi và thường xuyên đặt để NÓ ở trong lòng cho TÂM TRÍ được mở thông, sáng suốt (ý nói là các loại Tăng “vì già yếu mà trang nghiêm y phục”, “không rành câu chữ, nghĩa lý của Kinh văn”, nhưng vẫn cứ tự cho Ta đây là hay giỏi… lắm)!

– Các hạng Tăng nầy chính là những loại “tu mù” và “dốt nát Kinh nghĩa” vậy)

2/- Kịp đến lúc tuổi già, bụng trống lòng cao…

(Tức là ý nói:

Vì vậy cho nên tháng lại ngày qua tuổi già đáo đầu, mà trước sau vẫn không học hiểu được chút ít phần “Kinh nghĩa” nào cả, dốt nát vẫn hoàn dốt nát… ấy thế mà cứ vênh mặt ngạo kiêu và tự phụ rằng:

– Ta đây là Hoà Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức…

– Là bậc tiền bối cao hạ, tu lâu năm… hậu sanh các người phải kính trọng Ta chớ không được xem thường).

3/- Chẳng muốn nương tựa bạn lành, chỉ biết ngông nghênh, kiêu ngạo.

(Tức là ý nói:

Đã [dốt nát như] thế rồi, mà lại còn thêm chẳng chịu nương tựa vào nơi các bậc minh sư, thiện hữu… để nhờ chỉ bảo thêm cho – [về giáo lý) – trái lại, cứ mỗi ngày tháng qua [vì thành bậc trưởng bối, cao hạ nên] lòng càng tăng thêm các sự kiêu căng, ngạo mạn).

4/- Không thèm kết thân với ai cả, gặp việc (đáng giúp, đáng làm) thì xây mặt ngó qua chỗ khác.

(Tức là ý nói:

Vì ỷ mình là lão Tăng tu lâu năm, cao hạ… nên trong TÂM kiêu ngạo lắm, không thèm cầu thân [kết giao] với một ai hết cả – [vì HỌ tự nghĩ rằng chẳng có ai bằng mình hết]. Trong chúng, hoặc ở các nơi chùa miễu, đình đám… có việc gì cần đến sự giúp đỡ thì HỌ quay mặt làm ngơ, chẳng thèm đoái hoài… đến).

5/- Hàng hậu học (đàn em tu sau) nếu có đến thăm hỏi đạo pháp để nhờ chỉ dẫn, thì HỌ chẳng biết lấy lời gì để mà khuyên dạy hết.

(Tức là ý nói:

Các hàng Học Tăng hậu bối, vì thấy ĐÓ là bậc Hoà Thượng, Thượng Toạ tu lâu năm, cao hạ, đáng bậc tôn trưởng của mình, nên đến đảnh lễ cầu pháp, nhưng [bởi vì dốt nát Kinh điển] cho nên Thầy:

KHÔNG BIẾT VÀ CHẲNG NÓI LÊN ĐƯỢC

LỜI PHÁP NÀO ĐỂ DẪN DẠY CẢ!!)

6/- Nếu bị hỏi nột và năn nỉ quá, thì bắt buộc Thầy phải nói dạy nói lên vài ba câu, (bất đắc dĩ) nhưng mà thảy đều sai, trái với Kinh điển, giáo lý hết!

(Tức là ý nói:

Hàng hậu học [vì tưởng rằng người xuất gia nào cũng giỏi giáo lý] nên cứ lạy lục, khẩn cầu, năn nỉ ỷ ôi… hoài, như là:

– Xin Thầy hoặc Hòa thượng từ bi khai thị giùm cho đệ tử đoạn Kinh nầy, lời Pháp kia v.v…

Vì bị “lâm vào trong thế kẹt”, nên Thầy bắt buộc phải cố gắng giảng nói lên vài câu Kinh Pháp ngắn gọn qua loa để chỉ dạy, nhưng :

– Hỡi ôi! Lời dạy nào thốt ra cũng đều sai chìa, trật khoá với Kinh văn, điển tích… hết).

7/- Hoặc như có bị lời khinh dễ (chẳng những là HỌ không biết hối lỗi của mình) mà lại còn trách ngược lại là hàng hậu học vô lễ !

(Tức là ý nói:

Hàng hậu học vì bị “Thầy” giáo hoá, dẫn dắt… sai lầm, nên sanh tâm phiền muộn và “lỡ miệng” thốt ra vài ba lời khinh khi, coi thường… thì “Thầy” giận dữ mà trách ngược lại rằng:

– Tụi bây là thứ đồ nhãi ranh, mới tu học… sao dám vô lễ đối với Ta là bậc Tiền bối, tu hành lâu năm !!)

8/- Mới nhắc nhau để tỉnh xét, thì nói Ta là thầy tu núi.

Tức là ý nói:

Các bạn “đồng tu” khác thông hiểu Kinh nghĩa, vì thấy [và gặp mấy Thầy dốt đạo như vậy], nên Tôi sanh lòng thương xót, mới đến thăm nom, tìm lời khuyên nhắc (trước khi tôi đi nhập thất ẩn tu)… như là :

– “Mình là người xuất gia, bước đầu tiên là phải học thông kinh điển. Thầy nên ráng học hỏi thêm Kinh sách, để có khả năng tiếp độ hàng hậu học sau nầy..v.v…”

Thì “Thầy” nổi giận, ngoe ngoảy bỏ đi và nói lẫy rằng:

– Ta không cần Huynh nhắc nhở chi cả. Vì Ta là thầy tu núi, đâu cần phải tiếp xúc gặp gỡ với ai đâu mà dẫn với dắt… chớ !

Tức là “tự ái” không chịu nghe theo lời ai khuyên nhắc cả, dù rằng “Thầy” rất dốt đạo).

9/- Chấp ngã, chấp nhơn, kiêu căng ngạo mạn, khi dễ, đàn áp và trách mắng hàng hậu học.

(Tức là ý nói:

Vì “Thầy” ỷ mình là Hoà Thượng, Thượng Toạ…tuổi già, cao hạ, nên dù dốt đạo, nhưng tánh tình kiêu căng, ngạo mạn lắm, hằng luôn đè ép các hàng hậu học, bắt họ phải phụng sự và kính trọng mình, nếu không được như ý thì [lấy “Luật” ra] trách mắng, bắt lỗi..v.v….Vì thế mà Phật tử không ai dám xúc phạm đến quý Thầy, qúy Sư Cô cả…)

10/- Khiến cho một đời trôi qua vô ích, sau có hối hận, ăn năn cũng không kịp.

(Tức là ý nói:

Như thế… tháng lại, ngày qua, suốt cả cuộc đời tu hành mà không làm nên được một hoặc hai… việc gì để lợi mình, lợi người, lợi cho đạo pháp cả…

Chỉ lạm dụng oai đức Tam Bảo và xài phí cơm gạo của đàn na tín thí mà thôi.

Đến khi đại hạn đáo đầu, gần chết rồi, nghiệp Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh hiện ra dẫn lối, đưa đường,… chừng ấy dù cho có hối hận ăn năn đến thế mấy đi nữa, cũng đã muộn màng lắm vậy).

11/- Lăn lộn hoài trong nẻo luân hồi, biết bao giờ mới thoát!

(Tức là ý nói:

Đến khi nhắm mắt, tắt hơi rồi, thì đương nhiên là “Thần thức” phải theo các hành nghiệp xấu ác kia – [hoặc quá khứ, hoặc hiện tại] – mà đọa sanh vào trong các nẻo luân hồi, biết bao giờ mới thoát ra khỏi được).

Nay chúng ta đây, mang danh phận là người Sa môn Thích tử, với trách nhiệm:

TÁC NHƯ LAI SỨ, HÀNH NHƯ LAI SỰ

(Làm sứ giả của Phật, thay thế Phật hành việc Phật sự cứu độ chúng sanh)

Hoặc là:

TRIỆU LONG THÁNH CHỦNG.

(Làm cho hưng thạnh dòng giống Phật Pháp…)

Vậy phải nên:

NHỚ ĐẾN TRÁCH NHIỆM CỦA MÌNH

Mà thường xuyên để TÂM:

Quán xét lại riêng phán đạo hạnh sơ bạc của tự thân hầu sanh khởi ra lòng tàm quý, cố gắng tu hành chơn thật trở lại, để duy trì và hoằng dương chánh giáo Như Lai – (cứu người ra khỏi hiểm nạn và  nghiệp lực…dù là đang ở trong thời kỳ Mạt Pháp) – chớ đừng nên để cho:

PHÁP ĐÃ MẠT LẠI CÀNG THÊM MẠT

mà mang lỗi với Tam Bảo (và phụ ơn cung dưỡng của các hàng đàn na tín thí… nữa).

VIỆC ẤY QUYẾT KHÔNG NÊN.

Quyển sách “Niệm Phật Lưu Xá Lợi” nầy, qua các phần luận giảng và những đoạn Kinh văn mà Tôi đã trích lục ra để trực tiếp chứng minh (từ trước đến đây), nếu như bình tâm xem đọc và chiêm nghiệm cho kỹ lại, chắc quý Ngài cũng nhận thấy rằng:

Đây chính là một “tác phẩm hí luận”

Cho nên những phần “Pháp luận” được tác giả TH biên chép và biện minh trong đó, mới xem đọc sơ qua thì có vẻ:

TƯƠNG TỰ NHƯ PHẬT PHÁP

Nhưng nếu như bình tâm xét nghiệm lại cho thật kỹ thì sẽ thấy rõ ràng là:

Hoàn toàn sai trái với Lời và Ý của Phật dạy trong Kinh điển cùng làm tổn hại đến “Pháp môn Niệm Phật Viên Đốn” (Tịnh Độ) của Đức Như Lai.

(Phụ chú 10:

– Đây ý nói rằng:

Những phần Giáo Pháp được dẫn chứng trong quyển sách “Lưu xá lợi” ấy đa phần đều bị tác giả “ép văn, bẻ ý” một cách cong quẹo, làm mất đi “mùi vị” cam lồ của chánh Pháp nói chung và riêng cho Tông môn Tịnh Độ).

Bởi vì:

Nếu như có hàng “Phật tử sơ cơ” hậu học nào, không từng học biết qua về Phật lý và chẳng hiểu rõ tôn chỉ của pháp môn Tịnh Độ, khi đọc đến quyển sách nầy, ắt HỌ ít nhiều sẽ:

1/- Hiểu lầm về Tịnh Độ và pháp môn Niệm Phật đới nghiệp vãng sanh.

2/- Lên mặt ngạo kiêu, tự xem thân nhân hay thầy bạn… (hoặc quá vãng, hay còn hiện thế) của HỌ đều ngang bằng với các bậc Bồ Tát, Tổ Sư hết.

3/- Xem cốt hôi (hoặc hôi cốt) của Thầy, bạn, hoặc thân nhân quá cố của HỌ đều là Xá lợi cả, có thua kém gì với Xá lợi, Linh cốt… của các bậc Tiên hiền, cổ đức và chư Bồ Tát, Tổ Sư khi xưa đâu…

NHƯ VẬY THÌ VÔ TÌNH MÌNH SẼ LÀM CHO HỌ BỊ MANG TỘI GÌ?

– HỌ sẽ bị vướng vào trong lỗi: “Tăng Thượng Mạn” hết cả.

Tội “Mạn” nầy trong Kinh nói dầu cho Phật còn tại thế cũng khó thể nào cứu được – (vì HỌ bị “chướng nghiệp khinh mạn” ngăn che, cho nên không thể nào gặp được Phật) – huống chi là các bậc Thánh nhân trong hàng “Tam thừa” là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát… (mà có thể cứu giải cho HỌ được ư?)

Tôi (HQ) trước hết xin cúi đầu đảnh lễ và sau nữa là thống trách quý Ngài, vì quý Ngài đã:

– Chứng minh và giới thiệu quyển sách “Hí luận” sai lầm nầy đến chư Phật tử, khiến cho những hàng học đạo sơ cơ hiện tại lẫn về sau nhân đọc đến NÓ mà bị hiểu lầm… rồi bước đi sai trái ra ngoài đường tu Tịnh Độ và tôn chỉ của pháp môn.

Quý Ngài nên sám hối với 10 phương chư Phật (nói chung) và 13 vị Tổ Sư Tịnh Độ (nói riêng) cùng các bậc tiên hiền cổ đức khác… (xưa hoặc nay) trong tông môn Niệm Phật.

Trước đây quý Ngài đã mặc nhiên với một giáo phái ngoại đạo trá hình, để cho HỌ lợi dụng Tăng tướng, kinh điển… làm tổn hại đến pháp môn “TRUYỀN TÂM ẤN” vô thượng của đạo Phật ta rồi!

Nay quý Ngài lại:

Mặc nhiên nhìn nhận và hậu thuẫn, qua sự giới thiệu và chứng minh cho quyển sách “Niệm Phật Lưu Xá lợi” sái quấy nầy nữa!

Tôi cũng chẳng biết “Phật sự” mà quý Ngài đang làm đó như thế nào?!

Xin nhớ rằng:

Chúng ta dù là phàm Tăng, nhưng (nhờ nương vào nơi oai đức của Phật nên) được danh xưng là Một trong Tam Bảo, ở trong đời Mạt Pháp nầy, có trách nhiệm kế truyền dòng Pháp của chư Phật, Bồ Tát, Tổ Sư… giữ gìn và hoằng tuyên chánh giáo Như Lai… ắt phải rõ biết điều dạy sau đây:

“NHƠN NĂNG HOẰNG ĐẠO,

PHI ĐẠO HOẰNG NHƠN”

Nghĩa là sao?

Tức là:

CON NGƯỜI NĂNG LÀM RỘNG CHO ĐẠO PHÁP,

Chớ không phải là:

ĐẠO PHÁP NĂNG LÀM RỘNG CHO CON NGƯỜI.

Tại sao?

Vì chư Pháp vốn là Vô Tướng, Vô Hành, Vô Động, Vô Chuyển vậy.

(THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG)

Mà nếu như Pháp đã là Vô Tướng, Vô Tác… như vậy rồi, thì thế nào tự NÓ có thể “làm rộng” cho con Người vốn là Hữu Tướng, Hữu Tác… được.

Thí dụ:

Như quyển Phật Kinh kia, nếu cứ để NÓ nằm yên ở trên bàn thờ hay trong ngăn tủ hoài, mà không bao giờ chịu đọc, tụng, xem xét, hay tìm học đến và thực hành theo các nghĩa lý (mà Phật đã dạy trong đó) thì mình:

– Mãi mãi vẫn cứ ngu mê, tăm tối…

Và quyển Kinh quý báu kia vẫn:

– Mãi mãi là một quyển sách vô dụng nằm hoài nơi ngăn kéo hay hộc tủ mà thôi.

Chớ đâu phải là:

– Vì ở trong nhà (hoặc) nơi tủ CÓ CẤT ĐỂ MỘT QUYỂN “PHẬT KINH” MÀ:

MÌNH TỰ NHIÊN TRỞ THÀNH RA LÀ MỘT NHÀ THÔNG THÁI…

Hoặc:

BỔNG DƯNG CHỨNG THÀNH PHẬT QUẢ

(ngang hông) được sao?!

Hay (nói xa hơn một chút nữa) là:

– Người ở trong nhà mình và tất cả mọi người chung quanh… đều tự nhiên biết Đạo, sáng suốt… hết sao?

Cho nên Tổ Sư mới nói rằng:

NGƯỜI NĂNG LÀM RỘNG CHO ĐẠO (PHÁP)

Chớ chẳng phải là:

ĐẠO PHÁP (tự nhiên) LÀM RỘNG CHO NGƯỜI

chính là như vậy.

Lại nữa, người Sa môn Thích Tử chúng ta rất cần phải biết rõ điều rằng:

– Việc chứng minh, giới thiệu hoặc viết lời Tựa cho một quyển sách tôn-giáo (nhất là về Phật Pháp cao diệu của đức Như Lai) không phải dễ dàng như biên soạn nên một tờ tạp chí, quyển tiểu thuyết, hoặc cuốn lịch sách Tử vi đâu… mà quý Ngài xem thường đến nổi:

Hạ bút viết lên các lời chứng-minh, giới thiệu… một cách tắc trách và vô ý thức đến cho các hàng Phật tử tu học Phật Pháp khắp nơi như vậy?

Việc làm nầy, quyết định chẳng những:

– Làm trò cười cho các bậc đại gia thức giả trong Phật Pháp không thôi đâu…

Mà lại còn mang thêm:

– Tội “Diệt Pháp” nặng nề khác nữa!

Như vậy thì đối với trách nhiệm:

– “Tác Như Lai Sứ, Hành Như Lai sự” tốt đẹp kia làm sao mà quý Ngài dám vinh danh cùng đảm đương và mang vác cho nổi được!!!

Tôi xin đê đầu khóc lễ đến quý Ngài và trình bạch lên đôi lời “tâm huyết” rằng:

1/- Đừng bao giờ để cho các hàng “CUỒNG HUỆ” về Phật Pháp – (dù HỌ mang hình tướng tại gia hay xuất gia cũng thế) – thốt ra lời cao ngạo rằng:

– “Những hàng xuất gia Tăng, Ni nào muốn mau được giỏi về đạo pháp thì phải nên cố gắng xem đọc đến sách của Ta viết”…

Vì nếu quý Ngài “mặc nhiên” hoặc “thị thiền cho HỌ nói lên các lời Tăng thượng mạn như thế, thì cũng như là gián tiếp làm nhục tự thân (nói riêng) và chung cho giới xuất gia, Tăng, Ni, vốn là một trong Tam Bảo vậy.

2/- Đừng nên hành xử thiển cận và kém suy xét như một vị “Hoà Thượng” nào đó – (mà tôi đã được biết đến Pháp Hiệu của Ngài qua phóng sự của một Phật tử ký giả đăng trên tờ nhật báo ở San Jose, CA) – tuyên bố lên lời rằng:

– Ngài sẽ tình nguyện đi khắp các nơi (bằng xe bus) để thuyết giảng cho Phật tử rõ và khuyến khích HỌ nên tu học nhiều hơn  nữa về pháp môn “Niệm Phật Lưu Xá Lợi” nầy (!!!)

Tại sao Tôi lại nói ra lời như vậy?

Bởi vì:

– Phật nào có thuyết dạy ra pháp môn gì gọi là “Niệm Phật Lưu Xá Lợi” đâu!

Mà đức Như Lai chỉ có thuyết ra pháp môn “Tịnh Độ”, khuyên dặn các hàng đệ tử (tại gia và xuất gia) nên phát lòng “TÍN, NGUYỆN” sâu thiết và chuyên “Hành” câu Niệm:

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

cho thật tinh thuần để được:

HIỆN ĐỜI NƯƠNG THEO PHẬT LỰC TIẾP DẪN

MÀ ĐỚI NGHIỆP VÃNG SANH VỀ CÕI CỰC LẠC,

Và nương nhờ vào nơi đại Nguyện lực của đức Phật A Di Đà mà:

CHỨNG ĐƯỢC ĐỊAVỊ BẤT THỐI CHUYỂN.

Cũng:

THOÁT HẲN RA KHỎI VÒNG SANH TỬ NƠI BA CÕI mà thôi.

Chớ đức Thế-Tôn nào có dạy cho các hàng môn hạ phải nên cố gắng Niệm Phật thật nhiều để có được Xá Lợi bao giờ?!

3/- Xin quý Ngài để tâm nhớ lại lời Phát Nguyện mà chúng ta đã từng học và đọc ra lúc thế phát nơi giới đàn rằng:

Huỷ hình thủ khí tiết,
Cắt ái từ sở thân.
Xuất gia hoằng thánh đạo,
Thế độ nhất thế nhân.

Tức là (ngày hôm nay – nơi giới đàn nầy, Ta “Nguyện” rằng):

– Huỷ phá vẻ đẹp của hình sắc bên ngoài (nơi thân thể), để giữ cái chí khí “siêu trần, thoái tục” của mình.

– Cắt đứt hết các sợi dây trói buộc (của “duyên đời” cùng tình “lục thân quyến thuộc”), lìa ra những chỗ thân yêu.

– Quyết tâm lìa bỏ mái ấm gia đình mà ra đi sống đời “vô gia đình” để chuyên nhất tu hành và hoằng tuyên Thánh đạo Phật Pháp.

Hầu chứng được đạo quả:

“Tự độ, độ tha”.

Và:

Đưa hết mọi người đồng vượt qua biển khổ sanh-tử.

Lời Nguyện cao siêu, thoát trần kia đã phát ra như vậy… nhưng giờ đây chúng ta hãy nên bình tâm quán sét lại nơi mình để xem rằng:

Chúng ta có còn giữ được đúng theo “Pháp Ý” của lời Nguyện ấy chăng?

Hay là ngày nay trên đầu đã thấy:

DÍNH LẠI “BỤI TRẦN” RỒI?

Từ đây trở đi, nếu như chúng ta không khéo siêng tu 3 phần “GIỚI, ĐỊNH, HUỆ” (mà phần “GIỚI” là điều tiên quyết nhất) ắt là:

– Tóc đen sẽ mọc dài ra, phủ kín đầu như xưa và trói buộc mình lại vào trong vòng ngũ dục (y như cũ)!!

Như thế thì hoá thành ra là cảnh:

TỰ MÌNH HUỶ DIỆT LẤY MÌNH!

(Đừng nên bao giờ để cho cảnh buồn thảm ấy xảy ra)

MONG LẮM VẬY THAY.

Lại nữa (Tôi khóc lễ và) cũng xin quý Ngài:

Đừng để cho các hàng Phật tử cư sĩ có được chút ít kiến văn về Đạo Học – (như tác giả của quyển sách “Niệm Phật Lưu Xá Lợi” nầy) – nhìn vào nơi giới xuất gia mà bình luận, chê cười và cho chúng ta là những hạng người:

GIÁO LÝ VỊ THƯỜNG THỐ HOÀI,

HUYỀN ĐẠO VÔ NHƠN KHIẾT NGỘ…

D/- Đối với chư Phật tử (tại gia hoặc xuất gia) tu học theo Phật Pháp và nhất là quý vị đang hành trì theo tông môn Tịnh Độ.

Thưa quý Phật tử,

Trước hết Tôi và đoàn thể Tăng già (sangha order) xin tán dương và biết ơn đến lòng Tịnh tín đối với Tam Bảo cùng những sự hỗ trợ từ nơi quý vị trên mọi phương diện về các Phật sự của giáo hội.

Bởi vì nếu như không có những sự Hộ Pháp quý báu nầy thì Đạo giáo (nói chung) và Phật sự (nói riêng) chẳng thể nào trường tồn hoặc thành tựu mỹ mãn được, vì thế cho nên:

Trong Kinh Phật đã có lời dạy rằng:

“Nầy A NAN,

… Lúc bấy giờ (tức là trong thời kỳ Mạt Pháp hiện nay), có các hàng Trưởng giả, cư sĩ, tuy bị nhiều sự khổ não bức thiết (vì thời cuộc và kinh tế), song HỌ vẫn sanh lòng tịnh tín, cung kính, tôn trọng ngôi Tam Bảo, bố thí, tụng Kinh, tu các công đức.

Do thiện căn đó, nên khi mạng chung, HỌ được sanh về thiện đạo, hưởng các điều vui…”

Qua lời huyền ký trên – (và quả thật là đúng y như vậy) – bởi vì trong thời buổi Mạt Pháp điên đảo hiện nay ta thấy rằng:

– Đa phần người xuất gia lại ưa thích làm những “công việc thế tục” của người tại gia – (đây có nghĩa là đã bị phạm giới, phá giới và mất thể giới xuất gia rồi).

Và:

– Một số người cư sĩ Phật tử tại gia lại hành xử các công việc về Phật sự và Pháp sự của giới xuất gia, chẳng hạn như là hộ trì Tam Bảo và Phật Pháp, tu các công đức, niệm Phật, tụng Kinh, cúng dường, bố thí, giảng thuyết Kinh Pháp, in chép Kinh sách v.v…

Đứng về phương diện:

a/- “Đạo Tâm” thì chư Phật tử tại gia như quý vị rất ư là dõng mãnh, đáng kính trọng, khen ngợi và tán thán lắm.

Nhưng trên bình diện về:

b/- Đạo Pháp, giáo lý, thì rất yếu kém, gần như không biết chi cả(vì bận bịu lo lắng việc đời, sinh kế và bị cảnh gia duyên bận rộn ràng buộc, nên không thể nào thường xuyên tham dự được vào các đạo tràng để nghe học Phật Pháp, hoặc giả như nếu có, thì lại gặp nhằm hạng thầy “lục sư ngoại đạo, Ma Tà Tăng”, giả tu… chuyên “mượn đạo tạo đời”… hướng dẫn sai lầm và bẻ cong các phần giáo lý cùng với những “phương pháp hành trì” tu tập trong cửa đạo!!!)

Vậy thì:

– Thế nào là những hạng “Lục Sư Ngoại Đạo Ma Tà Tăng” (vừa mới  được nêu lên) đó mà chúng ta

cần phải biết rõ và nhận diện ra chúng?

Xin được trích dẫn ra một đoạn Kinh sau đây để làm chứng tín về các loại Ma Tà Tăng nầy… để cho hàng Thiện tín quý vị tỏ rõ, hầu khỏi bị “Chúng” gạt lầm.

… “Phật bảo cùng với Ngài VĂN THÙ SƯ LỢI PHÁP VƯƠNG TỬ Đại Bồ Tát rằng:

1/- Khi TA nhập diệt rồi thì có nhiều thứ loại Ma BA TUẦN xen lộn vào trong Phật Pháp của TA, CHÚNG NÓ cũng ở chùa, cạo đầu, mặc áo Phật (áo cà-sa), tự xưng là đệ tử của Phật!

“Chúng” sống chung lộn với người đời, ăn thịt, uống rượu, làm dơ bẩn đức Phật.

ĐẤY LÀ LOẠI NGOẠI ĐẠO THỨ NHẤT

(Phụ chú 11:

Đây chính là các hạng loại “Ma Tà giả mang hình tướng Tăng Bảo”, ẩn nương nơi chốn Già Lam, Phật tự, lợi dụng vào oai đức của Tam Bảo, với mục đích tà siểm:

– Lường gạt các hàng Thiện tín có đức TIN, nhưng nhẹ dạ, ít hiểu biết nhiều về đạo lý…

Để mà:

– Cầu danh và thủ lợi cho cá nhân.

Ngày nay trong thời buổi Mạt Pháp, hạng Ma Tà Tăng nầy rất nhiều, gần như hầu hết 97% các hàng Tăng, Ni – [mới xuất gia sau nầy] – đều nằm vào trong số loại “Ngoại đạo Ma Tà Tăng” nầy cả.)

2/- Còn có thêm một loại người dắt vợ, đem con vào trong Phật tự, học theo tà thuật, nói là để truyền lại cho đệ tử.

– Chúng cũng ăn thịt, uống rượu.

– Cũng đi làm chay, tụng Kinh, cúng đám… cho người!

– Chúng không nằm vào trong SỐ nào hết cả.

ĐÂY LÀ LOẠI NGOẠI ĐẠO THỨ HAI

(Phụ chú 12:

Vì sao mà Phật nói loại “Ma Tà Tăng” nầy không nằm vào trong “SỐ” nào hết?

Vậy thì thế nào mà gọi là “SỐ”?

– “SỐ” đây tức là “Số loại” vậy.

Có hai thứ “Số loại”.

Đó là:

– “Số loại” của người Phật tử tại gia

Và:

– “Số loại” của người Phật tử xuất gia.

a/- Số loại người Phật tử tại gia:

Đây là các hàng cư sĩ Phật tử tại gia, sống đời thế tục, đầu còn để tóc, HỌ:

– Có vợ (hoặc chồng), con, cháu, gia đình…

– Có công việc làm ăn, như các nghề nghiệp thuộc về 5 “ngành nghệ” chánh là:

– SĨ (kẻ văn học, kỹ sư, bác sĩ, công, tư chức…)

– NÔNG (người làm ruộng rẫy, canh tác, trồng trọt…)

– CÔNG (kẻ làm các nghề về công kỹ nghệ, lao động…)

– BINH (quân nhân)

– THƯƠNG (thương mãi, buôn bán)

Tóm lại là những hạng người thuộc vào trong “Số loại” nầy thì:

– Có đầy đủ hết các việc thế lợi buộc ràng…

b/- Số loại người Phật tử xuất gia:

Đây là các hạng Tăng, Ni lìa “hồng trần gia” (bỏ nhà cửa thế tục, vợ, chồng, con cái, cùng các thứ thế lợi buộc ràng, bỏ hết những gì dính dấp đến việc đời…)

Mà:

– Cắt tóc, từ thân, xuất gia làm người Sa môn Thích Tử.

– Sống trong giới luật của Phật Pháp, mang trọng trách:

TÁC NHƯ LAI SỨ, HÀNH NHƯ LAI SỰ

[làm người sứ giả của Phật, thay thế Phật mà hành xử các việc Phật Pháp (giảng kinh, thuyết pháp]

Để:

– BẢO TOÀN ĐẠO PHÁP CÙNG HOẰNG DƯƠNG CHÁNH GIÁO CỦA NHƯ LAI.

trong 3 thời kỳ:

Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp…

Hoặc nói khác hơn nữa là trong 5 giai đoạn “kiên cố”, đó là:

– Giải Thoát kiên cố.

– Thiền Định kiên cố.

– Đa Văn kiên cố.

– Tháp Tự kiên cố.

– Đấu tranh kiên cố (của Phật Pháp).

– TỒI TÀ, HIỂN CHÁNH [làm cho Tà Pháp bị tiêu diệt, Chánh Pháp được tăng trưởng].

– HƯỚNG DẪN HÀNG PHẬT TỬ TẠI GIA TU HỌC PHẬT PHÁP… [đúng theo chánh giáo].

Trên đây là “Hai Số Loại” chánh yếu duy nhất của nhân quần xã hội hiện thời.

Nay loại Ma Tà Tăng NGOẠI ĐẠO THỨ HAI nầy, Phật nói rằng:

– “CHÚNG KHÔNG NẰM VÀO TRONG SỐ LOẠI nào cả”, đó là vì:

a/- Nếu như nói “Chúng” thuộc về “số loại tại gia cư sĩ” thì:

Cũng không phải nữa

Tại sao?

Bởi vì:

– Rõ ràng là “Chúng” mang hình tướng xuất gia, cạo đầu, mặc áo đạo, ở chùa, tụng Kinh, Niệm Phật, cúng đám, làm chay, v.v…

Vậy thì:

– Nói “Chúng là hàng tại gia cư sĩ” thì chắc chắn là không phải rồi.

b/- Còn nếu như bây giờ mà:

Nói “Chúng” thuộc về “Số loại xuất gia” thì:

Chắc chắn là cũng chẳng phải nữa!!

Tại sao?

Bởi vì:

– Tuy là “Chúng” mang hình tướng xuất gia, ở chùa, v.v…

Nhưng mà:

– Chúng có vợ, chồng, con cái, bồ bịch lăng nhăng…

– Chúng ăn thịt, uống rượu.

– Chúng hành xử các phần việc của người tại gia, chẳng hạn như là:

– Tổ chức đại nhạc hội, cải lương, ca vũ nhạc kịch, buôn bán thức ăn, sách tử vi, vé số…

– Làm các chuyện liên quan đến chánh trị, thương mãi…

– Đầy đủ hết các việc thế tục buộc ràng…

Vậy thì:

– Chắc chắn là “Chúng” không thuộc về “Số loại xuất gia” rồi.

Tổ sư gọi họ bằng tên : THÓC CƯ SĨ (cư sĩ trọc đầu)

Và như vậy thì chúng ta thấy rõ điều rằng:

Trong hai số loại “tại gia” và “xuất gia” nầy, “Chúng”:

KHÔNG NẰM VÀO TRONG “SỐ LOẠI” NÀO HẾT!!!

Thế thì thử hỏi:

“CHÚNG” THUỘC VỀ “SỐ LOẠI” NÀO ĐÂY?

Vì thế nên Ta có thể kết luận rằng:

“Chúng” thuộc về loại:

– Tăng chẳng ra tăng.

– Tục chẳng ra tục.

– Đạo chẳng ra đạo.

– Đời chẳng ra đời.

“Chúng” thuộc về hạng loại mà trong cửa Đạo gọi rằng:

– “Ma Tăng, Ngoại Đạo” giả mang hình-tướng xuất gia, để lợi dụng vào nơi oai đức của Tam Bảo, lường gạt Phật tử, ngỏ hầu cầu danh, thủ lợi, phá hoại chánh pháp – (tức là bẻ cong lời chánh giáo của Phật dạy) – và tiêu diệt Phật Pháp mà thôi! )

3/- Lại có những hạng người mà:

– Trên thời không có thầy truyền,

– Dưới thời không có thầy chứng!

Bị Ma quỷ ám ảnh khiến cho mê tâm, muội trí, thấy biết bậy bạ mà cứ tự cho là (mình) thông minh (lắm)!

“Chúng”:

– Chẳng có công tu hành chi cả mà tự xưng là thành đạo.

(Như nói Ta đây chính là: A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, Vô Thượng Sư, Phật, v.v…)

– Bên ngoài dáng mạo thì Chúng làm giống theo Phật.

Nhưng mà:

– Trong TÂM thì hành xử nhiều điều tà-mỵ (giả dối), phỉnh gạt người đời… “Chúng”:

– Theo nhau vào đường Tà, diệt mất “hột giống Trí huệ của Phật”

(Tức là bị mất dần đi các thiện căn mà “Chúng” đã vun bồi từ trong kiếp trước).

ĐÂY LÀ LOẠI NGOẠI ĐẠO THỨ BA.

(Phụ chú 12:

Phần Kinh nầy là Phật nói đến các thứ “Ma Tà Tăng” thuộc về loại “Manh Tu, Hạt Luyện” (tức là “tu đui, luyện mù”), hạng Ma Tà Tăng nầy thì trên, dưới, trước, sau… chi chi, “Chúng” đều cũng:

– Không có Thầy truyền dạy Đạo Pháp.

Lại cũng:

– Chẳng có Thầy chứng minh cho…

“Chúng”:

– Tự mình xem trộm lấy “Kinh Pháp” của Phật, nhưng bởi vì do ngu si, dốt nát, lại không được bậc Thầy cao đạo dẫn dạy [tức là HỌ không có bậc “A Xà Lê” chân chánh giáo hóa, dắt dìu trên đường tu học], cho nên “Chúng”:

– Dốt nát, ngu mê.

– Hiểu biết bậy bạ, sai lầm với Ý Kinh và lời Phật dạy mà cứ tự cho là đúng…

“Chúng” đem các điều “hiểu biết xằng bậy và ngu mê” đó ra mà dạy nói quàng xiên, lếu láo… lại cho hàng bổn đạo, đệ tử – [vì lầm tưởng “Chúng” là bậc chân tu, tài đức… nên đua nhau tin nhận theo những lời “Chúng” nói] – khiến cho hàng hậu học đều bị mê lầm, vì thế mà Thầy, Trò cùng nhau sa vào trong cảnh:

– Một người đui dẫn dắt đám mù!!!

Rốt lại rồi:

Cùng bị rớt hết vào trong Tam đồ ác đạo).

4/- Lại có, những hạng “Người”:

– Vẽ bùa, thỉnh chú.

– Đuổi quỷ, sai thần.

– Phỉnh gạt người đời.

– Ác kiến của HỌ ngày càng thêm nhiều.

Thì:

– Chánh kiến về Phật Pháp (của HỌ) ngày càng thêm tiêu diệt.

ĐÂY LÀ LOẠI NGOẠI ĐẠO THỨ TƯ

(Phụ chú:

Đoạn Kinh nầy là Phật nói về các “Kẻ”:

– Bàng môn, tả đạo [thầy bùa, thầy pháp]

– Các thứ đạo sĩ tu Tiên tà quấy – [trái với tôn chỉ của Lão Giáo và Đức Lão Tử {tức là ông THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN} Tổ của Đạo Tiên {Taoism}].

Chúng lợi dụng bùa chú để:

-Làm hại những người thiện nam, tín nữ, nhẹ dạ, dốt giáo lý…

Hầu:

– Bòn rút và thu đoạt tiền bạc của các người ngu mê ấy…

– Cầu danh, thủ lợi cho cá nhân và gia đình [của chúng], bất kể lương tâm chi cả.

 

Hạng loại “Ma Tà Tăng” nầy ngày nay chiếm đa phần [hơn 95%] trong giới xuất gia của Phật giáo nhà Ta).

5/- Lại còn có hạng “Người”:

– Y theo các việc tốt, xấu.

– Chuyên tu học theo cách chiếm quẻ, đoán điềm, bàn luận kiết (tốt) hung (xấu)…

– Coi bói, xem tướng.

– Nói trước các điều hoạ phước.

– Dối chúng, gạt người.

– Tiêu diệt chánh pháp của Phật.

ĐÂY LÀ LOẠI NGOẠI ĐẠO THỨ NĂM

(Phụ chú 13:

Phần Kinh nầy là Phật nói về các thứ Tà Ma, Ngoại Đạo, chuyên môn lợi dụng đạo pháp để lường gạt người đời, như là các hạng loại:

– Xem tay, bói toán, viết sách [hoặc làm nghề] tử vi, số mạng, chiêm tinh.

– Bàn xăm, đoán quẻ, nói đây [điềm nầy] là tốt, kia [điềm nọ] là xấu…

Mục đích “thuần” chỉ để:

– Dối gạt người đời và các kẻ không có chánh kiến hầu thủ lợi cho cá nhân.

Hạng loại Ma Tà Tăng nầy, ngày nay Ta thấy có rất nhiều trong đạo Phật).

6/- a/- Lại còn có thêm hạng “Người”:

– Sửa soạn hình tướng (bên ngoài), y hậu rỡ ràng (vải gấm, thêu hoa)…

– Bụng trống lòng cao… (ý nói dốt nát, ngu si, không thông lý đạo).

– Không có được chút Tài đức nào mà cứ tự xưng mình là một trang tài giỏi (!)

– Chưa chứng ngộ mà tự cho là chứng ngộ.

– Học đặng một vài lời trong Kinh Pháp của Phật (mà chưa chắc là có hiểu đúng Nghĩa không nữa) thì tự cho rằng mình đã thấy được “Lý Đạo”.

b/- Lại có hạng người:

(Làm bộ) chẳng ăn dầu, muối, trà, quả, tương, giấm… chấp theo tà tướng, dối gạt người vô trí, “Chúng” nói với các người thiện tín rằng:

– Các ngươi không cần phải xem Kinh, Niệm Phật,

– Chẳng cần làm phước, tham thiền,

– Chẳng cần xuất gia, thọ giới,

– Không cần tầm sư, học đạo… chi cả.

– “Chúng” dám đem cái “sắc thân giả dối” (thân tứ tại) nầy mà cho rằng đồng với Phật không khác!

– “Chúng” dối gạt người đời (để đồng nhau với “Chúng” mà) đi vào trong chỗ Hắc ám (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh)!

– Dứt đoạn căn lành, tiêu diệt hột giống Trí-huệ.

– Hay chấp theo các sự khờ khạo, ngu si…

ĐÂY LÀ LOẠI NGOẠI ĐẠO THỨ SÁU

(Phụ chú:

Loại nầy chính là các nhóm “tà ngoại” được mệnh danh là:

– “Vô Thượng Sư – Truyền Tâm Ấn” môn.

Hoặc là:

– Nhóm cuồng thiền, cuồng huệ, ma thiền…

– Nhóm truyền pháp “Quán đảnh” v.v…

mà “Chúng” đang lạm dụng Phật pháp để làm mưa gió hiện nay – dưới danh nghĩa là Tăng, Ni, Đại Đức, Thượng Toạ, Hoà Thượng v.v… – hiện có khắp nơi trên chốn “đạo trường”.

Các Phật tử nếu như Ai có được “Chánh kiến, chánh trí”, nghe thấy các việc làm quấy quá của Chúng, ắt sẽ thấy rõ được chân tướng, diện mục của “Chúng” ngay.)

7/- Phật dạy tiếp nữa rằng:

Sáu hạng “ngoại đạo” nầy chính là Ma BA TUẦN.

Ngày sau trong thời Mạt Pháp, “Chúng” sẽ xen vào trong giáo pháp của Ta, phá hoại chốn Già lam, huỷ báng chánh pháp của Phật, chê bai những “giáo tướng, nghi thức tụng niệm” (tức là xem thường các sự cúng, lễ, tụng Kinh, niệm Phật, v.v… mà “Chúng” cho là còn “chấp tướng” cần phải phá bỏ)!!!

(Phụ chú:

Trên đây Phật đã “nêu rõ” ra và “chỉ đích danh” của 6 loại “Ma BA TUẦN” giả làm người xuất gia, mang hình tướng Sa môn Thích tử… trong thời buổi “đấu tranh kiên cố” nầy rồi…

Ngày nay chúng ra – [đây là nói đến hạng loại Phật tử có “chánh kiến”, có thật tu, thật hạnh] – đều thấy rõ điều rằng:

– Có những loại Tăng, Ni dẫn dạy cho Phật tử tu học theo nhiều phương pháp tu hành rất quái dị, chẳng hạn như là:

– Thiền ôm, thiền nằm, thiền ca hát, thiền trà…

– Không gọi đức Như Lai là Phật [như các bậc Tôn đức, Tổ Sư xưa nay trong chốn Thiền môn đã từng tôn kính xưng tặng] mà “Chúng” gọi [bằng một danh từ không mấy gì làm trang trọng lắm] là BỤT!!!)

Niệm Phật Tăng, Sa môn Thích Hải quang

(Còn tiếp)

Ghi chú: Loạt bài thơ liên quan “THẾ NÀO LÀ XÁ LỢI” được chia ra nhiều phần, Tuy nhiên đến thơ thứ hai xin tạm ngưng, vì Thầy đã viết ra Tiểu Luận “Thế Nào Là Xá Lợi”, sách dầy gần 600 trang, chúng tôi sẽ cố gắng đánh máy để bổ túc cho trọn Phần 1 của Quyển Niệm Phật Lưu Xá Lợi này.