THẤT CÂU ĐÊ ĐỘC BỘ PHÁP

Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn VÔ ÚY
Việt dịch: Huyền Thanh

 

Tổng Nhiếp 25 Bộ Đại Man Trà La Ấn: Đem 2 ngón vô danh, 2 ngón út cùng cài chéo nhau bên trong. Duỗi thẳng 2 ngón giữa cùng vịn nhau, 2 ngón trỏ phụ ở lóng thứ nhất của 2 ngón giữa, 2 ngón cái cùng vịn lóng giữa của 2 ngón vô danh. Nếu có Triệu Thỉnh thì đưa 2 ngón trỏ qua lại.

Đức Phật nói: “Chú và Ấn này hay diệt 10 ác, 5 nghịch, tất cả tội nặng, thành tựu công đức của tất cả Pháp trắng. Tác Pháp này chẳng kể tại gia hay xuất gia. Nếu người tại gia uống rượu ăn thịt, có vợ con, chẳng kể tịnh uế chỉ y theo Pháp của Ta thì không có gì không thành tựu. Thứ nhất là Đàn Pháp, thứ hai là Pháp Niệm Tụng, thứ ba là Pháp Thành Nghiệm, thứ tư là Pháp Quảng Minh Tự Tại, thứ năm là hàng Trời được Đại Thần Thông.

Đàn Pháp

Đức Phật nói: “Nếu cầu thành tựu. Tác Đàn Pháp chẳng đồng với các Bộ, rộng tu cúng dường. Đào đất làm Đàn, dùng bùn thơm xoa tô để xây dựng. Chỉ dùng một cái gương sạch mới chưa từng dùng. Ở trước tượng Phật, vào đêm thuộc ngày 15 của tháng, tùy sức cúng dường, đốt An Tất hương với nước trong sạch. Thoạt tiên nên tịnh Tâm không có sự suy tư, sau đó kết Ấn tụng Chú, chú vào cái gương 108 biến, dùng cái hộp bọc chứa gương, thường đem theo thân. Muốn niệm tụng chỉ đem cái gương này đặt ở trước mặt, kết Ấn tụng Chú, y theo gương làm Đàn liền được thành tựu”

Pháp Niệm Tụng

Đức Phật nói: “Muốn trì Pháp này. Vào đêm thuộc ngày 15, tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, hướng mặt về phương Đông ngồi Bán Già, để gương ngay phía trước. Tùy sức dùng hương hoa, nước trong sạch, các vật. Trước tiên nên tịnh Tâm dứt niệm, sau đó kết Ấn ấn ở trên trái tim, tụng Chú này 108 biến. Lúc tụng Chú này thời hay khiến cho kẻ đoản mệnh thành trường mệnh (sống lâu) như bệnh Ma La (bệnh do Ma gây ra) còn được trừ khỏi huống chi bệnh khác. Nếu chẳng tiêu khỏi thì không có chuyện đó. Mỗi tháng: ngày mồng một, ngày 8, ngày 14, ngày 15, ngày 18, ngày 23, ngày 24, ngày 28, ngày 29, ngày 30… Mười ngày như vậy, mỗi buổi sáng sớm dùng nước sạch xúc miệng, hướng mặt về phương Đông tụng Chú này 108 biến , sau đó ăn uống. Giả sử có vợ con chẳng đoạn Tân (ngũ tân), thịt cũng sẽ thành nghiệm.

Pháp Thành Nghiệm

Mỗi tháng vào ngày 18, dùng gương với kết Ấn niệm tụng. Trừ 10 ngày trai chẳng nên đối gương với kết Ấn, chỉ vào buối sáng sớm, lúc chưa dùng Tân Nhục (Ngũ tân và thịt) tụng trì Chú này 108 biến xong. Như vậy 49 ngày chẳng dứt.

Mỗi lần có chuyện thiện ác, cát tường, tai biến thì Chuẩn Đề Bồ Tát sai 2 vị Thánh đi theo người ấy. Hết thảy việc thiện ác, chú 7 biến rửa mặt rưới thân, tâm tưởng, tác tưởng vui vẻ sẽ hay khiến cho quốc vương, đại thần, trưởng giả sinh tâm cung kính, nhìn thấy liền vui vẻ như bề tôi kính trọng nhà vua, như cha yêu con, tâm tùy theo ước muốn cho đến thân mệnh đều không có luyến tiếc, thảy đều thành tựu.

Nếu có chúng sinh đoản mệnh nhiều bệnh. Vào đêm tuộc ngày 15 của tháng thiêu đốt An Tất Hương, tụng Chân Ngôn này 108 biến thì Ma Quỷ, cuồng đồ bị tâm thần, Hồ Ly, Quỷ ác đều hiện hình ở trong gương. Lúc đó muốn dạy bảo giết liền giết, dạy thả liền thả, tức chẳng dám đến và người ấy được tăng thọ vô lượng.

Nếu lại có người không có Phước, không có tướng cầu quan không dời đổi, bị áp bức nghèo khổ. Mỗi ngày trong 10 ngày trai thường tụng Chú này hay khiến cho đời hiện tại được địa vị Chuyển Luân Vương, mong cầu quan được xứng toại.

Nếu muốn Triệu hàng Tứ Thiên Vương, Phạm Vương, Đế Thích, 28 Bộ Trời, Ba Tuần…. Đối gương kết Ấn đưa ngón trỏ qua lại. Ở nơi thanh tĩnh cao giọng tụng 21 biến thì chúng Hiền Thánh , Diêm La Vương, Quỷ tùy theo tình ắt đến chẳng dám bỏ đi trước. Hết thảy nghiệm liền tùy theo tình đều được.

Nếu muốn biết Pháp này thành hay chẳng thành. Đầy đủ 7 biến y theo Pháp tụng Chú thì trong mộng thấy Phật Bồ Tát với dùng hoa quả, miệng nôn ra vật màu đen lại ăn vật màu trắng liền biết thành tựu.

Pháp Quảng Minh Tự Tại

Đức Phật nói: “Đà La Ni này có thế lực lớn, dời núi Tu Di với nước biển lớn, chú vào cây khô hay sinh hoa quả. Nếu thường tụng trì thì nước chẳng thể cuốn chìm, lửa chẳng thể thiêu đốt. Thuốc độc, đao binh, oán bệnh đều chẳng thể hại.

Nếu biết trong đất có Bảo Tàng vật. Kết Ấn tụng Chú đầy đủ 7 biến thì Phục Tàng trong đất tự nhiên phun lên, tùy ý mong muốn đều được sung túc.

Nếu có nạn quân trận, giặc cướp. Kết Ấn ấn chỉ thì tùy theo nơi chỉ thảy đều lui tan.

Nếu có người chết do Quỷ Thần đánh chết. Kết Ấn tụng Chú, dùng Ấn ấn trên trái tim thì người bị chết vì bệnh nặng liền được sống lại

Nếu nhà cửa chẳng yên bị Quỷ Thần gây họa. Chú vào 4 hòn đất đem trấn ở 4 góc thì chúng liền bỏ đi.

Nếu có người mà Lục Thân chẳng hòa, người chẳng thương nhớ. Y theo Pháp tụng Chú hướng đến sự hòa hợp thì họ nghe tên thấy thân đều sinh vui vẻ, chẳng muốn lìa bỏ.

Trong lửa mạnh dùng Ấn chỉ lửa thì lửa liền tiêu diệt. Dùng Ấn chỉ nước thì sóng xô liền lặng. Phàm mọi sự cầu nguyện không có gì không xứng toại huống chi liền hay kết Ấn, giữ Trai Giới y theo Pháp trì tụng há chẳng chuyển Nhục Thân (thân máu thịt này) đi đến Tĩnh Thổ ở 4 phương ư?…

Hàng Trời được Đại Thần Túc

Nếu cầu trường sinh với Sắc cho chư Thiên lấy Thuốc Tiên. Ở trước Tháp xưa và trong núi sâu hoặc bên trong Tịnh Phòng, y theo gương làm Đàn, đầy đủ 7 ngày hoặc 21 ngày, đốt hoa sen xanh hòa với An Tất Hương. Vào lúc đầu đêm tụng Chú 108 biến tức lúc nằm ngủ hoặc ở trong mộng ăn Thuốc Tiên hoặc Nhiếp Lực Pháp. Hoặc ở trước mặt gương có ánh sáng 5 màu, trong ánh sáng có Thuốc, tùy ý ăn liền thành Tiên Đạo. Các công lực khác có hàng trăm ngàn ức, nói chẳng thể hết.

CHUẨN ĐỀ BIỆT PHÁP

Trước tiên, tay trái: đem 3 ngón trỏ, vô danh, út để ở trong lòng bàn tay, dùng ngón cái vịn trên móng của 3 ngón trỏ, vô danh, út. Tay phải cũng vậy. Cùng hợp 2 ngón giữa dính đầu ngón. Tụng Chú

Kết Giới Ấn: Hai tay phải trái: Ngón giữa, ngón vô danh hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau. Dựng thẳng 2 ngón út, 2 ngón trỏ cùng trụ nhau. Ngón cái của 2 tay đều vịn lóng giữa của ngón trỏ. Tụng Chú

Hộ Thân Ấn: Chắp 2 tay lại, 2 ngón trỏ hướng ra ngoài cùng cài chéo nhau, ngón cái kèm vịn trên lóng giữa của ngón trỏ. Ba ngón từ ngón giữa trở xuống dựng thẳng hợp nhau.

Nếu gặp trộm, giặc cướp. Đem Ấn đội trên đỉnh đầu, Trước tiên ấn vai trái, tiếp vai phải, ấn trước trái tim (Ức ngực), ấn dưới đầu (Cổ họng), ấn My Gian (tam tinh) thì bọn này chẳng dám xâm nhiễu.

Trị Bệnh ấn: Hai ngón trỏ, 2 ngón giữa hướng vào bên trong cùng cài chéo nhau. 2 ngón vô danh, 2 ngón út hướng ra ngoài cùng trụ nhau rồi chắp tay lại, 2 ngón cái đều vịn lóng giữa của ngón trỏ.

Tổng Nhiếp Ấn: Hai ngón út, 2 ngón vô danh cài chéo nhau trong lòng bàn tay, dựng thẳng 2 ngón giữa cùng hợp đầu ngón, mở dính 2 ngón trỏ rồi hơi co lại, 2 ngón cái che ngón vô danh. Lúc Triệu Thỉnh thì đưa ngón trỏ qua lại tựa như Đài Hoa, tụng Chú 7 biến. Dùng ấn ở 2 bắp tay, dưới cổ họng, my gian, chân tóc. Lại để Ấn này ngang trái tim, tụng Chú 108 biến.

Phá Thiên Ma Ấn: Hai tay phải trái dùng 4 ngón che ngón cái bên trong lòng bàn tay, gấp nắm quyền so tính. Tức là hết thảy nơi đáng sợ, nghi có Quỷ Mỵ, Rồng độc liền tác Ấn này, dùng âm thanh sân nộ tụng Chú.

Thỉnh Quỷ Thần Ấn: Tay phải: Ngón giữa che ngón cái đè Đàn, đem các ngón còn lại bên trên đều duỗi như răng nanh. Hơi co gấp ngón trỏ, ngón út qua lại. Tụng Chú 7 biến, đến biến thứ ba thì tất cả Quỷ Thần đều đến.

Bên trên là Thất Câu Đê Độc Bộ Quỹ.

_Xưa kia có vị Luật Sư thấy bản Lược Đề nói: “Chẳng kể tại gia, xuất gia, uống rược, ăn thịt, có vợ con, chẳng kể tịnh uế” liền cho là Văn đọc bị sai lầm nên cho đó là Ngụy Văn

Trong Thiên Minh, Sa Môn LƯỢNG HÙNG biện giải sự sai lầm đó, dùng bản Cụ Đề làm bản chính còn bản Lược Đề là bản thảo chưa được sửa chữa.

Sa Môn TUỆ LƯỢNG ấn thí bản Cụ Đề lưu hành ở đời, dùng cái nhìn tầm thường cho là chẳng đúng, lại nương vào bản thảo gần đúng mà quyết định

Mật Sao Vấn Đáp Đẳng Dẫn dùng Quỹ này

Năm nay, hợp mọi bản cất chứa của viện Thanh Hà ở Lạc Bắc, viện Trí Tích ở Lạc Tây Chùa Diên Mệnh ở Hà Châu, Đương Sơn Ái Nhiễm Viện Đại Diễn Đẳng… xem xét rồi đính chính nên đem cả 2 bản ấn hành.

Thời ấy, Hưởng Hòa cải nguyên, năm Tân Dậu, tháng Trung Thu.

Phong Sơn Diệu Âm Hạ Tổng Trì Viện_ KHOÁI ĐẠO ghi

Một lần xem xong_ TỪ THUẬN