thập nhân duyên

Phật Quang Đại Từ Điển

(十因緣) Chỉ cho 10 chi duyên khởi trong 12 nhân duyên. Tức đối với Duyên khởi quan, các kinh có nói khác nhau. Chủ yếu có 2 thuyết: 1. Mười chi từ Thức đến Sinh, Lão tử, tức trong 12 nhân duyên trừ Vô minh và Hành. Các kinh được dẫn dụng trong luận Bà sa và Tạp a hàm Hán dịch nhất trí chủ trương Sinh quán(quán thuận) 10 chi, Diệt quán(quán nghịch) 12 chi. Còn kinh điển tiếng Pàli thì Sinh quán và Diệt quán đều là 10 chi. 2. Mười chi từ Vô minh đến Hữu, tức Trong 12 nhân duyên, trừ Sinh và Lão tử. Kinh Đại bát niết bàn (bản Bắc) quyển 21 (Đại 12, 490 hạ) nói: Pháp 10 nhân duyên là Sinh tác nhân, tức cho rằng 2 chi Sinh và Lão tử thuộc vị lai, bởi vậy, nếu thuyết minh nhân duyên từ quá khứđến hiện tại thì chỉ có 10 chi. Kinh Đại bát niết bàn quyển 19 (bản Nam) dùng 12 chi để giải thích 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai, cho Vô minh và Hành là 2 chi thuộc quá khứ, 10 chi còn lại thì thuộc vị lai. [X. kinh Tạp a hàm Q.12; kinh Trung a hàm Q.24; luận A tì đàm tì bà sa Q.13; luận Phát trí Q.1; luận A tì đàm bát kiền độ Q.2; Nguyên thủy Phật giáo tư tượng luận (Kimura Taiken)].