THẬP LUẬT TỤNG
Hán dịch: Hậu Tần Phất Nhược Đa La cộng La Thập dịch
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 18

V. CHÍN MƯƠI PHÁP BA DẬT ĐỀ (Tiếp Theo)

82. Giới Vào Cửa Cung Vua

Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó vua Ba-tư-nặc tự ra pháp tắc: Nếu Phật ở Kỳ hoàn thì ta sẽ hằng ngày đến đó yết kiến. Cho nên khi nghe tin Phật ở Kỳ hoàn liền ra lịnh quét dọn sạch sẽ trong Kỳ hoàn và bảo quân lính đuổi hết mọi người ra để vua đến yết kiến Phật. Lúc đó chỉ còn một người mặc y cũ rách ngồi ở trước Phật nghe pháp, vì kính Phật nên quân lính không dám đuổi đi, liền trở về bạch vua biết, Vua ra lịnh ngự giá đến Kỳ hoàn, đến nơi xuống xe đi bộ vào trong Kỳ hoàn, đại chúng từ xa thấy vua đến liền đứng dậy đón tiếp vua, chỉ có cư sĩ Tu-đạt ở trước Phật đang nghe pháp, vì kính Phật nên không đứng dậy. Vua nổi giận nói: “Đây là người nào mà mặc y cũ rách ngồi trước Phật, thấy ta đến lại không đứng dậy. Ta là đại vương đã được quán đảnh, ở trong nước ta được tự tại, người không phạm tội chết ta cũng có thể giết chết, người có tội chết ta cũng có thể tha”, tuy vua tức giận như thế nhưng vì kính Phật nên không nói ra lời, đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên. Lúc đó Phật nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ nhưng vì vua đang tức giận nên pháp không nhập tâm, thường pháp của Phật là không thuyết pháp cho người không nhất tâm nghe pháp, Phật liền hỏi vua: “Vì sao đem hai tâm nghe pháp”, vua nói: “Thế tôn, đây là người nào mà mặc y cũ rách… giống như đoạn văn trên, cho đến câu người có tội chết tôi cũng có thể tha”, cư sĩ Tu-đạt liền nói: “Đại vương biết không, tôi ở trước Phật đang nghe pháp, vì kính Phật nên không đứng dậy đón vua chớ không có lòng kiêu mạn”, vua hổ thẹn bèn hỏi các đại thần: “Đây là người nào mà mặc y cũ rách ở trước Phật, thấy ta đến mà không đứng dậy nghinh đón”, các đại thần tâu: “Đại vương, đây là cư sĩ Tu-đạt, là đệ tử của Phật đã đắc quả A-na-hàm, ngồi ở trước Phật đang nghe pháp, vì kính Phật nên không đứng dậy nghinh đón chứ không có lòng kiêu mạn”. Vua nghe rồi liền nguôi giận suy nghĩ: “Định lực của Phật pháp khiến cho tâm người đắc được lực vô úy, ta nay sao không bảo các phu nhân thọ học Phật pháp để được đạt tâm”, nghĩ rồi liền bảo các phu nhân: “Hãy theo các Tỳ kheo thọ học kinh pháp”. Lúc đó các Tỳ kheo thối thoát nói rằng: “Phật chưa cho phép chúng tôi dạy kinh pháp cho các phu nhân”, liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “Từ nay cho các Tỳ kheo dạy kinh pháp cho các phu nhân”. Các phu nhân liền tự mỗi người thỉnh kinh sư, có người thỉnh Xá-lợi-phất, có người thỉnh Đại Mục-kiền-liên, có người thỉnh A-na-luật, phu nhân Mạt-lợi thỉnh Ca-lưu-đà-di làm thầy. Ở hậu cung các phu nhân theo thứ lớp hầu hạ vua, lúc đó đến phiên phu nhân Mạt-lợi hầu vua, bà mặc hạ-ý bằng lưới châu, thượng y bằng ma bối mỏng nên trong thân hiển lộ. Lúc đó Ca-lưu-đà-di mới tờ mờ sáng đã bước vào cửa cung, Mạt-lợi phu nhân thấy thầy đến vội bước ra đón, vì mặc y mỏng lộ thân nên hổ thẹn quỳ không đứng dậy, Ca-lưu-đà-di thấy rồi cũng hổ thẹn nên trở về lại trong Kỳ hoàn, đem việc này kể cho các Tỳ kheo nghe, các Tỳ kheo đem việc này bạch Phật, Phật bảo các Tỳ kheo: “Tội lỗi như thế và còn nặng hơn nữa đều là do thường vào trong cung vua. Nếu Tỳ kheo thường vào trong cung vua sẽ có mười lỗi lầm như sau:

Một là, nếu vua cùng phu nhân đang ngồi chung, Tỳ kheo bước vào, nếu phu nhân nhìn Tỳ kheo cười hoặc Tỳ kheo nhìn phu nhân cười thì Tỳ kheo này sẽ khởi ác nghiệp.

Hai là, vua ngủ với phu nhân mà không tự nhớ nghĩ, nếu phu nhân này ra ngoài cung trở về có mang, lúc đó vua thấy Tỳ kheo ra vào trong cung liền nghĩ rằng: Phu nhân này ra ngoài cung, Tỳ kheo này thường ra vào cung, ắt là đã cùng khởi ác nghiệp.

Ba là, vua mất năm loại vật báu hay năm loại tợ vật báu, thấy Tỳ kheo thường ra vào trong cung liền nghĩ ắt là đã khởi ác nghiệp.

Bốn là, vua bí mật dặn dò việc gì, nếu chẳng may việc ấy bị tiết lộ ra ngoài, vua thấy Tỳ kheo thường ra vào trong cung liền nghĩ ắt là do Tỳ kheo truyền nói.

Năm và sáu là, vua muốn giết vương tử hoặc vương tử muốn thích sát vua, những người không tin ưa sẽ cho rằng là do Tỳ kheo làm và không muốn làm việc chung với Tỳ kheo.

Bảy và tám là, vua muốn thăng chức cho quan nhỏ hoặc giáng chức của quan lớn, những người không tin ưa sẽ cho là do Tỳ kheo làm và không muốn làm việc chung với Tỳ kheo.

Chín là, khi vua xa giá có cờ xí chuông trống hoặc vua cởi voi, ngựa, ngồi kiệu ra ngoài, quân lính đi trước xua đuổi mọi người, những người không tin ưa thấy Tỳ kheo bên cạnh vua sẽ cho là do Tỳ kheo xúi giục vua làm và không muốn làm việc chung với Tỳ kheo.

Mười là, vua chinh phạt hàng phục được quân địch, người đáng tội chết đáng lẽ xử tội chết nhưng lại ra lịnh tha; những người không tin ưa sẽ cho là do Tỳ kheo xúi giục vua và không muốn làm việc chung với Tỳ kheo.

“Này các Tỳ kheo, chỗ các vương gia có nhiều binh voi, binh mã… chỉ thích nghi với bạch y chớ không thích nghi với Tỳ kheo”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo, dòng vua Sát-đế-lỵ đã được quán đảnh, trời chưa sáng, vua chưa cất của báu mà bước qua ngạch cửa cung thì Tỳ kheo này phạm Ba-dật-đề.

Vua dòng Sát-đế-lỵ được quán đảnh là lên ngôi vua, nếu Bà-lamôn hoặc cư sĩ hay người nữ lên ngôi vua cũng gọi là vua dòng Sát-đếlỵ được quán đảnh. Trời chưa sáng là vua chưa ra khỏi hậu cung, chưa cất của báu là phu nhân chưa lui vào trong hậu cung, chưa cất đồ trang nghiêm nơi thân.

Tướng phạm trong giới này là vua chưa ra khỏi hậu cung, phu nhân chưa vào trong thẩm cung, chưa cất của báu, lúc đó Tỳ kheo bước vào cửa cung thì phạm Ba-dật-đề. Vua tuy ra khỏi hậu cung nhưng phu nhân chưa vào trong thẩm cung, chưa cất của báu, Tỳ kheo bước vào cửa cung cũng phạm Ba-dật-đề. Vua tuy ra, phu nhân tuy đã vào nhưng chưa cất của báu, Tỳ kheo bước vào cũng phạm Ba-dật-đề. Vua đã ra, phu nhân đã vào và đã cất của báu, Tỳ kheo bước vào cửa cung thì không phạm.

Phật tại nước Câu-xá-di, lúc đó vua Ưu-điền có một ngàn phu nhân chia làm hai bộ, mỗi bộ năm trăm người, phu nhân Xá-di-đề-bà đứng đầu một bộ, phu nhân A-nô-bạt-ma đứng đầu một bộ, bộ của Xá-di-đềbà thì hiền lành có công đức còn bộ của A-nô-bạt-ma thì bất thiện ác tà. Lúc đó vua Ưu-điền có một nước nhỏ phản nghịch muốn đi chinh phạt nên suy nghĩ: “Ta nên cử ai ở lại để trấn giữ cung thành không cho việc ác xảy ra, ta mới yên tâm đi phá giặc. Bà-la-môn Ma-kiền-đề là người lợi căn có oai đức, lại là cha vợ của ta, ta sẽ cử ở lại trấn giữ cung thành không cho việc ác xảy ra để ta đi phá giặc. Ta đối với ông ấy không xấu chắc là không có ưu hối”, nghĩ rồi liền cử Bà-la-môn ở lại giữ cung thành, tin này liền lan truyền ra khắp các tụ lạc thành ấp, sáng hôm sau có trăm ngàn người đứng trước cửa nhà của Bà-la-môn này, người này khen ngợi, người kia tán tụng, người nọ cung kính lễ bái, người khác đem dâng voi ngựa, trâu dê… vàng bạc châu báu… Bà-la-môn này liền suy nghĩ: “Ta được giàu có thế lực như thế đều là nhờ sức của con gái ta, ta phải làm gì để báo đáp, nếu cho vàng bạc châu báu thì on ta không thiếu. Người mà con ta oán thù tật đố không ai khác là các phu nhân đối đầu, ta phải làm cho bộ của phu nhân Xá-di-bà-đềchết hết để báo ân con gái ta, nhưng ta không thể ra mặt giết chết, ta phải làm phương tiện hỏa thiêu để giết chết họ”, nghĩ rồi liền sai sứ đến nói với phu nhân Xá-di-bà-đề: “Bà như con gái của ta không khác, nếu bà có cần gì như tô dầu củi gỗ… thì cứ sai người đến lấy”, lại bảo người giữ kho: “Nếu phu nhân Xá-di-bà-đề có sai người đến lấy tô dầu củi gỗ … thì nên cho gấp hai, Ba-lần”. Tánh người nữ vốn tham cất chứa tài vật dễ được nên phu nhân cho người đến lấy nhiều tô dầu củi gỗ … chất đầy trong cung của mình. Khi Bà-la-môn này biết được phu nhân đã lấy nhiều chất dẫn lửa để trong cung liền ra lịnh đóng cửa cung rồi phóng hỏa thiêu. Mọi người trong cung thành thấy trong cung lửa cháy muốn phá cửa để vào cứu lửa, Bà-la-môn này suy nghĩ: “Nếu mọi người phá cửa vào được thì phu nhân sẽ không bị thiêu chết”, nghĩ rồi liền phương tiện ngăn cản nói rằng: “Không nên phá cửa cung xông vào mà nên làm thang dây leo vào”, khi họ làm xong thang dây leo vào thì phu nhân Xá-di-bà-đề… cả thảy năm trăm người đều đã bị thiêu chết, họ liền đưa tin báo cho vua biết. Vua nghe tin này trong lòng ưu não nói rằng: “Người có phước đức như thế nay vĩnh viễn biệt ly rồi”, vì quá ư não nên vua ngất xỉu nằm mê man, các quan rưới nước cho vua tỉnh lại rồi khuyên can: “Vua chớ ưu sầu, sẽ cho xây lại cung điện và tuyển chọn mỹ nữ”. Vua phá giặc xong trở về trụ ở ngoài thành nói rằng: “Ta sẽ không vào thành cho đến khi nào xây lại xong cung điện và tuyển đủ năm trăm mỹ nữ”, vua tức giận dùng bạo lực để thúc đẩy công việc này mau thành nên không bao lâu sau cung điện mới được xây xong và năm trăm mỹ nữ cũng được tuyển chọn xong, trong số mỹ nữ này có em gái của Xá-di-bà-đề là đẹp nhất và có oai đức. Các quan tâu với vua: “Nay cung điện đã xây xong, mỹ nữ cũng đã tuyển đủ xin vua biết thời”, vua liền vào ngự trong cung mới và cùng các mỹ nữ mới được tuyển chọn vui vầy hoan lạc. Sau đó vua dần dần tra hỏi rõ sự việc mới biết là do Bà-la-môn Ma-kiền-đề vì con gái mình mà làm việc ác này, vua liền cho gọi đến nói rằng: “Ông hãy rời khỏi nước ta, ta không thích giết Bà-la-môn”, và ra lịnh giết phu nhân A-nô-bạt-ma. Những phu nhân mới khi được vua sũng ái liền bạch vua: “Phu nhân Xá-di-bà-đề trước đây thường cúng dường Phật và tăng, xin vua cho phép chúng tôi cũng được cúng dường Phật và Tăng”, vua nói: “Phật không cho các Tỳ kheo vào trong cung”, các phu nhân muốn vua khởi tâm kiêu mạn nên nói: “Vua có đại oai lực, việc lớn còn lo xong huống chi việc này, xin vua giúp chúng tôi hoàn thành tâm nguyện này”, vua nghe lời này liền khởi tâm kiếu mạn nhận lời nói rằng: “Nếu các nàng thật muốn cùng dường thì hãy tùy sức lo liệu các phẩm vật cúng dường”. Các phu nhân này nghe rồi liền tùy sức lo liệu, người muốn cúng y Tăng-già-lê, người muốn cúng y Uất-đa-la-tăng, người muốn cúng y An-đà-hội… Lúc đó vua liền cho gọi người thợ khéo đến hỏi: “Khanh có thể làm cách nào khiến cho các phu nhân không ra khỏi cung mà vẫn có thể cúng dường Phật và Tăng không?”, đáp là có thể được, vua liền hỏi làm thế nào, người thợ đáp: “Nên xâu một hành luân cung”, vua liền ra lịnh xây hành luân cung. Sau khi xây xong người thợ đến bạch vua: “Luân cung đã xây xong xin vua biết thời”, vua liền đi đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật thuyết pháp cho vua được lợi hỉ rồi im lặng, vua chắp tay bạch Phật: “Xin Phật và Tăng ngày mai thọ con thỉnh thực”, Phật im lặng nhận lời, vua biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ hữu nhiễu rồi ra về. Trong đêm đó vua ra lịnh lo liệu đủ các món ăn ngon để cúng dường, sáng sớm trải tòa ngồi rồi sai sứ đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật biết thời”. Các Tỳ kheo đi đến cung vua, Phật bảo người nhận lấy phần của mình, người thợ khéo lúc đó biết Tăng đã đến liền làm cho luân cung chuyển quanh chúng Tăng, vua biết Tăng đã ngồi rồi liền tự tay dâng các món ăn lên cúng dường cho tất cả đều được no đủ. Sau đó cho mở cửa cung để các phu nhân ra thăm hỏi các Tỳ kheo, lúc đó Trưởng lão Xá-lợi-phất hỏi các Tỳ kheo: “Chúng ta ngày nay không ở trong cung vua phải không, phải cùng nhất tâm”, vua lấy ghế nhỏ ngồi trước Tăng muốn nghe thuyết pháp và bảo các phu nhân muốn cúng dường gì thì bây giờ là đúng lúc. Các phu nhân người cúng y Tăng-già-le, người cúng y Uất-đa-la-tăng, người cúng y An-đà-hội… cho các Tỳ kheo , tất cả đều đựng đầy tay đãy các phẩm vật cúng dường. Lúc đó vua phương tiện nghĩ cách nào cho các Tỳ kheo đi ngang qua trong cung, liền bảo thợ khéo ngăn đường đi phía trước rồi bạch Tăng: “Các Đại-đức hãy đi lối này”, các Tỳ kheo nói: “Phật không cho chúng tôi đi vào trong cung”, vua nói: “Ta mời các vị đi ra chứ không mời đi vào”. Lúc đó Trưởng lão Xá-lợi-phất chú nguyện xong liền cùng chư Tăng đứng dậy ra về, về đến Tăng phường đem việc này bạch Phật, Phật do việc này nhóm Tỳ kheo tăng đủ lời khen ngợi giới và người trì giới rồi bảo các Tỳ kheo: “Từ nay giới này nên nói lại như sau:

Nếu Tỳ kheo khi vua dòng Sát-đế-lỵ đã quán đảnh trời chưa sáng chưa ra khỏi cung, chưa cất của báu mà bước qua ngạch cửa cung thì phạm Ba-dật-đề, trừ nhân duyên. Nhân duyên là vua sai sứ đến mời, hoặc phu nhân, vương tử, các quan có thế lực mời thì không phạm.

83. Giới Nói Không Biết Học Giới

Phật tại nước Câu-xá-di, lúc đó Tỳ kheo Xiển-na có tội nên sám hối, các Tỳ kheo thương xót muốn tâm thầy được an nên bảo thầy sám hối, Xiển-na nói: “Tôi nay mới biết việc này ở trong Giới kinh, tùy mỗi nửa tháng nói một lần ”. Có Tỳ kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ kheo tăng rồi hỏi Tỳ kheo Xiển-na: “Thầy thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ kheo đã phạm tội nên sám hối, các Tỳ kheo thương xót dạy bảo sám hối lại nói là tôi nay mới biết việc này… nói một lần”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo khi thuyết giới nói rằng: “Tôi nay mới biết việc này ở trong Giới kinh, tùy mỗi nửa tháng nói một lần”. Các Tỳ kheo biết Tỳ kheo này trước đã từng hai, Ba-lần nghe thuyết giới không phải chỉ một lần. Tỳ kheo này không phải vì nói không biết mà được thoát tội, tùy theo việc đã phạm mà bảo như pháp sám hối, nên quở trách khiến cho được chiết phục rằng: “Thầy không có lợi ích, đây là việc ác bất thiện, khi thuyết giới đã không tôn trọng giới, không nhất tâm nghe giới”, do việc này nên phạm Ba-dật-đề.

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo khi thuyết giới đến bốn Ba-la-di mà nói rằng: “Tôi nay mới biết việc này ở trong Giới kinh… nói một lần”, thì phạm Ba-dật-đề. Khi thuyết giới đến mười ba pháp Tăng-già-bà-thi-sa hoặc hai pháp bất định hoặc ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề hoặc chín mươi pháp Ba-dật-đề hoặc bốn pháp Bala-đề-đề-xá-ni hoặc Chúng học pháp hoặc bảy pháp Chỉ tránh, cho đến kinh tùy luật mà nói rằng: “Tôi nay mới biết việc này… nói một lần ”, thì phạm Ba-dật-đề. Trừ kinh tùy luật ra, nói các kinh khác mà nói rằng: “Tôi nay mới biết pháp này…”, thì phạm Đột-kiết-la.

84. Giới Làm Ống Kim Bằng Ngà

Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó trong nước Xá-vệ có một người thợ tiện sừng, ngà tên là Đạt-ma-đề-na, nhà giàu có đủ thứ thành tựu nên Phật và Tăng cần gì đều thỉnh tùy ý như móc y, bát, ống kim… Do các Tỳ kheo thường thường đến thọ lấy dùng nên người này trở nên nghèo thiếu, không thể cung cấp đủ cho vợ con. Các cư sĩ khác sanh tật đố hiềm trách: “Sa-môn Thích tử không biết lượng, không biết nhàm đủ, nếu người thí không biết lượng thì người thọ nên biết lượng. Đạt-mađề-na này vốn giàu có nhiều tài bảo, do bố thí không biết lượng nên trở nên nghèo thiếu, không thể cung cấp đủ cho vợ con”. Có Tỳ kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ kheo tăng rồi quở trách các Tỳ kheo: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại không biết thời, không biết lượng, người thí không biết lượng thì… không thể cung cấp đủ cho vợ con”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo dùng sừng, ngà, xương làm ống kim thì phạm Badật-đề.

Sừng là sừng dê, sừng trâu, sừng bò, sừng nai… ngà là ngà voi; xương là xương voi, xương ngựa, xương rắn…

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo lấy sừng (dê, nai…) hoặc ngà voi hoặc xương (voi, ngựa…) làm ống kim thì phạm Ba-dật-đề, tùy làm được bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Nếu Tỳ kheo đã dùng sừng, ngà, xương làm ống kim rồi thì nên phá bỏ ống kim này rồi vào trong Tăng bạch rằng: “Tôi dùng sừng, ngà, xương làm ống kim, phạm Ba-dật-đề, nay xin phát lồ sám hối không dám che dấu”, Tăng nên hỏi: “Thầy đã phá bỏ ống kim đó chưa?”, đáp là đã phá, Tăng nên hỏi: “Thầy có thấy tội không?”, nếu đáp là thấy tội thì Tăng nên bảo: “Thầy nay phát lồ sám hối, sau chớ có tái phạm”. Nếu đáp là chưa phá bỏ thì Tăng nên bảo phá bỏ, nếu Tăng không bảo như thế thì tất cả Tăng đều phạm Đột-kiết-la; nếu Tăng đã dạy bảo mà không nghe theo thì Tỳ kheo này phạm Đột-kiết-la.

85. Giới Làm Giường Cao Quá Lượng

Phật tại nước Câu-xá-di, lúc đó Tỳ kheo Xiển-Na-làm giường cao rộng tốt đẹp, khi Phật và A-nan du hành đến phòng của Xiển-na, Xiểnna liền bạch Phật: “Thế tôn, hãy vào phòng con xem giường”, Phật bước vào nhìn thấy chiếc giường cao rộng tốt đẹp liền nói với A-nan: “Nhiễm ô bại hoại, tại sao người ngu si này lại dùng giường cao rộng tốt đẹp như thế này”, quở trách rồi do việc này nhóm Tỳ kheo Tăng bảo các Tỳ kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo muốn làm giường thì nên làm đúng lượng. Đúng lượng là chân giường cao bằng tám ngón tay của Phật, trừ phần tra vào lỗ bệ. Quá lượng này mà làm thì phạm Ba-dật-đề.

Giường có hai: Giường dây lỗ bệ nhỏ và giường dây lỗ bệ lớn. Chân giường lỗ bệ lớn có năm loại: Chân A-san-đề, chân Ba làng-cù, chân Đê-dương-giác, chân nhọn, chân cong; chân giường lỗ bệ nhỏ cũng có năm loại giống như vậy. Cao bằng tám ngón tay của Phật là như Phật nói: “Làm giường cao bằng tám ngón tay của ta, và ba phân tra vào lỗ bệ”.

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo làm giường cao quá tám ngón tay của Phật thì phạm Ba-dật-đề, tùy làm bao nhiêu phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Nếu Tỳ kheo làm giường cao quá tám ngón tay thì nên chặt bỏ bớt rồi vào trong Tăng bạch rằng: “Tôi làm giường cao quá tám ngón tay, phạm Ba-dật-đề , nay ở trong Tăng phát lồ sám hối, không có che dấu”, Tăng nên hỏi: “Thầy đã chặt bỏ bớt chưa?”, đáp là đã chặt, lại hỏi: “Thầy có thấy tội không?”, đáp là thấy tội, Tăng nên bảo: “Thầy nên như pháp sám hối, sau chớ có tái phạm “. Nếu đáp là chưa chặt bỏ thì Tăng nên bảo chặt bỏ, nếu Tăng không bảo chặt bỏ thì tất cả Tăng đều phạm Đột-kiết-la; nếu Tăng dạy bảo mà không chịu nghe theo thì Tỳ kheo này phạm Đột-kiết-la.

86. Giới Dồn Đâu-La-Miên Làm Ngọa Cụ

Phật tại thành Vương xá, lúc đó Lục quần Tỳ kheo dùng bông Đâu-la-miên dồn làm ngọa cụ, các cư sĩ thấy rồi liền chê trách: “Samôn Thích tử tự nói lành tốt có đức mà lại dùng bông Đâu-la-miên dồn làm ngọa cụ, như vua, Đại-thần không khác”. Có Tỳ kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ kheo tăng rồi hỏi Lục quần Tỳ kheo: “Các thầy thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại dùng bông Đâu-la-miên dồn làm ngọa cụ”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo tự dùng bông Đâu-la-miên dồn làm ngọa cụ hoặc bảo người khác dồn thì phạm Ba-dật-đề.

Bông Đâu-la-miên là hoa liễu, hoa bạch dương, hoa A-cưu-la, hoa Ba cưu la…

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo dùng bông Đâu-lamiên dồn làm ngọa cụ thì phạm Ba-dật-đề, tùy dồn bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Nếu Tỳ kheo dùng bông Đâu-la-miên dồn làm ngọa cụ thì nên phá bỏ ngọa cụ này rồi vào trong Tăng bạch rằng: “Tôi dùng bông Đâu-la-miên dồn làm ngọa cụ phạm Ba-dật-đề, nay phát lồ sám hối không có che dấu”, Tăng nên hỏi: “Thầy đã phá bỏ chưa?”, đáp là đã phá bỏ, Tăng nên hỏi: “Thầy có thấy tội không?”, đáp là thấy tội, Tăng nên bảo: “Thầy nên như pháp sám hối, sau chớ có tái phạm”. Nếu đáp là chưa phá bỏ thì Tăng nên bảo phá bỏ, nếu Tăng không bảo phá bỏ thì tất cả Tăng đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tăng bảo phá bỏ mà không chịu nghe theo thì Tỳ kheo này phạm Đột-kiết-la.

87. Giới May Áo Tắm Mưa Quá Lượng

Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó Tỳ-xá-khư-lộc-tử-mẫu đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho được lợi hỉ rồi liền im lặng. Tỳ-xá-khư chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, xin Phật và Tăng ngày mai thọ con thỉnh thực”, Phật im lặng nhận lời, bà biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về, về đến nhà ngay trong đêm đó lo liệu đủ các món ăn ngon. Đêm đó Phật và A-nan kinh hành ngoài đất trống, Phật ngẩng nhìn các vì sao rồi bảo A-nan: “Nếu bây giờ có người hỏi người hiểu biết về thiên văn là lúc nào sẽ mưa, người đó ắt sẽ nói là bảy năm nữa sẽ mưa. Nhưng này A-Nan-đến giữa đêm ngôi sao này diệt sẽ có ngôi sao khác xuất hiện, nếu lúc đó có người hỏi người hiểu biết về thiên văn là lúc nào sẽ mưa, người đó ắt sẽ nói là bảy tháng sau sẽ mưa. Nhưng này A-Nanđền cuối đêm ngôi sao này diệt sẽ có ngôi sao khác xuất hiện, nếu lúc đó có người hỏi người hiểu biết về thiên văn là lúc nào sẽ mưa, người đó ắt sẽ nói bảy ngày nữa sẽ mưa. Nhưng này A-Nan-đền khi trời sáng ở phương Đông có đám mây hình tròn như cái bát giăng đầy trong hư không, đám mây này có thể làm mưa lớn, nước sẽ trán đầy cống rãnh. Này A-nan, hãy bảo các Tỳ kheo đám mây hình tròn như cái bát này sẽ làm mưa có công đức trừ bịnh tật, nếu các Tỳ kheo muốn tắm thì nên đứng ngoài đất trống để tắm”, A-nan vâng lời Phật dạy đi thông báo cho các Tỳ kheo. Sáng hôm đó lúc trời mưa các Tỳ kheo tùy ý đứng ngoài đất trống tắm, lúc đó Tỳ-xá-khư đã chuẩn bị thức ăn xong trải tòa ngồi rồi sai Tỳ-sử đến bạch Phật: “Đã đến giờ thọ thực, xin Phật biết thời”.

Tỳ-sử này đi đến trong Kỳ hoàn tìm các Tỳ kheo không thấy, nhìn qua lỗ cửa thì thấy các Tỳ kheo lỏa hình đứng tắm. Nhìn thấy rồi không vui nghĩ rằng: “Trong đây đều không có Tỳ kheo, đều là ngoại đạo lỏa hình không có hổ thẹn”, nghĩ rồi liền trở về bạch với Tỳ-xá-khư biết, Tỳ-xákhư là người lợi căn nghe rồi liền biết ngày nay trời mưa lớn nên các Tỳ kheo lỏa hình đứng tắm ngoài đất trống, Tỳ-sử không biết nên mới nói lời này. Bà liền kêu một Tỳ-sử khác đến Kỳ hoàn đập cửa kêu lớn rằng: “Giờ thọ thực đã đến, xin tự biết thời”, Tỳ-sử này đến Kỳ hoàn làm y như lời bà dạy, lúc đó Phật cùng đại chúng đắp y mang bát đi đến nhà Tỳ-xá-khư. Đợi Phật và Tăng ngồi xong, Tỳ-xá-khư tự tay rót nước và dâng thức ăn lên cúng dường, sau khi Phật và Tăng thọ thực xong, bà lấy chiếc ghế nhỏ ngồi phía trước Phật nghe thuyết pháp rồi bạch Phật: “Thế tôn, xin cho con được nguyện”, Phật nói: “Chư-đa-dà-a-già-độ-a -la-ha-tam-miệu-tam-Phật-đà không cho cô được quá nguyện”, Tỳ-xákhư nói: “Xin cho con được nguyện”, Phật nói: “Cho cô được nguyện, cô muốn được nguyện gì?”, Tỳ-xá-khư nói: “Con muốn được nguyện:

– Một là cúng cho Tỳ kheo tăng áo tắm mưa.

– Hai là cúng cho Tỳ kheo ni áo tắm.

– Ba là cúng thức ăn cho Tỳ kheo mới đến.

– Bốn là cúng thức ăn cho Tỳ kheo sắp đi xa.

– Năm là cúng thức ăn uống cho Tỳ kheo bịnh.

– Sáu là cúng thức ăn uống cho Tỳ kheo khán bịnh.

– Bảy là thường cúng cháo cho Tỳ kheo tăng.

– Tám là cúng thuốc thang và các vật cần dùng cho Tỳ kheo có nhiều người quen biết hay ít người quen biết khi có bịnh duyên.

Phật hỏi: “Do nhân duyên gì cô muốn cúng áo tắm cho Tỳ kheo tăng?”, đáp: “Đại-đức, con ngày nay chuẩn bị xong thức ăn liền trải tòa ngồi và sai Tỳ-sử đến Kỳ hoàn bạch Phật đã đến giờ thọ thực, Tỳ-sử này nhìn qua lổ cửa thấy các Tỳ kheo lỏa hình đứng tắm ở ngoài đất trống nên trở về nói với con rằng: Trong Kỳ hoàn không có Tỳ kheo, chỉ có các ngoại đạo lỏa hình không có hổ thẹn. Đại-đức, Tỳ kheo lỏa hình ở trước Phật và trước Hòa thượng, A-xà-lê tắm thì thật là không có hổ thẹn. Vì thế con muốn cúng áo tắm cho Tỳ kheo tăng để mặc tắm mưa ở ngoài đất trống”, Phật lại hỏi: “Do nhân duyên gì cô muốn cúng áo tắm cho Tỳ kheo ni tăng?”, đáp: “Đại-đức, con cùng các cư sĩ nữ đến tắm trong sông A-kỳ-la, các Tỳ kheo ni cũng lỏa hình tắm trong sông. Các cư sĩ nữ này nhìn thấy rồi tâm không vui chê trách rằng: Những người này ít phước đức, thân thô xấu không đẹp, bụng lớn, vú xệ, cần gì tu phạm hạnh. Đại-đức, người nữ lỏa hình rất xấu xí, cho nên con muốn cúng áo tắm cho Tỳ kheo ni tăng”, Phật lại hỏi: “Do nhân duyên gì cô muốn cúng thức ăn uống cho Tỳ kheo khách mới đến?”, đáp: “Đại-đức, khách Tỳ kheo mới đến không biết chỗ nào nên đi chỗ nào không nên đi, đi đường lại mõi mệt chưa được nghỉ ngơi, con muốn cúng thức ăn uống cho Tỳ kheo khách mới đến để sau đó vị ấy tùy biết chỗ nào nên đi, chỗ nào không nên đi”, Phật lại hỏi: “Do nhân duyên gì cô muốn cúng thức ăn uống cho Tỳ kheo sắp đi xa?”, đáp: “Tỳ kheo sắp đi xa nếu đợi đến giờ ăn, giờ Bát-đát-na hay phải đi khất thực thì bạn đồng hành sẽ bỏ đi, hoặc giữa đêm vào đường hiểm hoặc đi một mình ở ngoài đồng hoang. Con muốn cúng thức ăn uống để vị ấy không mất bạn, không bị lạc trong đường hiểm”, Phật lại hỏi: “Do nhân duyên gì cô muốn cúng thức ăn uống cho Tỳ kheo bịnh?”, đáp: “Đại-đức, Tỳ kheo bịnh nếu không được thức ăn uống ứng với bịnh thì bịnh khó lành, con muốn cúng thức ăn uống để bịnh của vị ấy mau lành”, Phật lại hỏi: “Do nhân duyên gì cô muốn cúng thức ăn uống cho Tỳ kheo khán bịnh?”, đáp: “Đại-đức, Tỳ kheo khán bịnh nếu đợi đến giờ ăn traong tăng hoặc phải đi khất thực thì việc chăm sóc cho Tỳ kheo bịnh sẽ thiếu sót trong việc nấu cơm, canh hay cháo hoặc thuốc thang hoặc đổ đồ bất tịnh… Con muốn cúng thức ăn uống cho Tỳ kheo khán bịnh để vị ấy chăm sóc người bịnh không có thiếu sót”, Phật lại hỏi: “Do nhân duyên gì cô muốn thường cúng cháo cho Tỳ kheo tăng?”, đáp: “Đại-đức, nếu Tỳ kheo không ăn cháo sẽ đói khát, trong bụng cồn cào. Con muốn cúng cháo để các Tỳ kheo không bị khổ não”, Phật lại hỏi: “Do nhân duyên gì cô muốn cúng thuốc thang và các vật cần dùng cho Tỳ kheo có bịnh duyên có nhiều người quen biết hay ít người quen biết?”, đáp: “Tỳ kheo khi có bịnh duyên ắt rất cần thuốc thang và các vật cần dùng nên con muốn cúng. Đại-đức, lại nữa nếu con nghe có Tỳ kheo ở trú xứ nào chết mà Phật thọ ký cho vị đó là đã đoạn được ba phần kiết sử chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa trong ba ác đạo, chắc chắn được niết bàn, còn bảy đời nữa qua lại trong cõi trời người sẽ dứt hết khổ. Đại-đức, con sẽ hỏi: “Trưởng lão này có từng đến nước Xá-vệ không”, nếu con nghe Tỳ kheo này đã từng đến nước Xá-vệ, con suy nghĩ: “Trưởng lão này có thọ con cúng áo tắm mưa hoặc thức ăn uống mà con cúng cho Tỳ kheo khách, hoặc thức ăn uống mà con cúng cho Tỳ kheo sắp đi xa, hoặc thức ăn uống cho Tỳ kheo bịnh, hoặc thức ăn uống cho Tỳ kheo khán bịnh, hoặc cháo mà con thường cúng cho Tăng, hoặc thuốc thang và vật cần dùng mà con cúng cho Tỳ kheo có bịnh duyên thì xin cho con vì nhân duyên này mà được giác ý đầy đủ. Đại-đức, nếu con nghe có Tỳ kheo ở trú xứ nào chết mà Phật thọ ký cho vị đó là đã đoạn hết ba hạ phần kiết sử, làm yếu ba độc chứng quả Tư-đà-hàm, còn một đời nữa trở lại cõi này sẽ dứt hết khổ. Đại-đức, con sẽ hỏi… giống như đoạn văn trên cho đến câu xin cho con vì nhân duyên này được giác ý đầy đủ. Đại-đức, nếu con nghe có Tỳ kheo ở trú xứ nào chết mà Phật thọ ký cho vị ấy là đã đoạn hết năm hạ phần kiết sử chứng quả A-na-hàm, ở trên cõi trời bát niết bàn không còn trở lại trong nhân gian. Đại-đức, con sẽ hỏi… giống như đoạn văn trên cho đến câu xin cho con vì nhân duyên này được giác ý đầy đủ. Đại-đức, nếu con nghe có Tỳ kheo ở trú xứ nào chết mà Phật thọ ký cho vị ấy là sanh đã tạn, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, tự biết tác chứng, được chứng quả A-la-hán. Con sẽ hỏi:… giống như đoạn văn trên cho đến câu xin cho con vì nhân duyên này được giác ý đầy đủ. Đại-đức, như thế Tài phước đức của con được thành tựu, do nhân duyên này con nhiếp được Pháp phước đức”. Phật nói: “Lành thay Tỳ-xá-khư, ta cho cô được như nguyện này, cô hãy cúng áo tắm cho Tỳ kheo tăng… tám điều nguyện trên. Tỳ-xá-khư, đây là Tài phước đức thành tựu, do nhân duyên này nhiếp được Pháp phước đức”. Phật nói pháp cho Tỳ-xá-khư được lợi hỉ rồi cùng chư tăng ra về, về đến trú xứ Phật do việc này nhóm Tỳ kheo tăng rồi bảo các Tỳ kheo: “Từ nay cho các Tỳ kheo cất chứa áo tắm mưa, tùy ý mặc tắm ở ngoài đất trống”.

Sau khi Phật cho cất chứa áo tắm mưa, các Tỳ kheo liền may áo rộng dài, có Tỳ kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ kheo tăng rồi hỏi các Tỳ kheo: “Các thầy thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại may áo tắm rộng dài như thế”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo muốn cất chứa áo tắm mưa, nên may đúng lượng như sau: dài sáu gang tay của Phật, rộng hai gang tay rưỡi, may quá lượng chế định này thì phạm Ba-dật-đề.

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo may áo tắm chiều dài, chiều rộng quá lượng chế định này thì phạm Ba-dật-đề. Áo tắm quá lượng này nên cắt bỏ rồi vào trong Tăng bạch rằng: “Tôi may áo tắm mưa chiều dài chiều rộng đều quá lượng phạm Ba-dật-đề, nay phát lồ sám hối không có che dấu”, Tăng nên hỏi: “Thầy đã cắt bỏ chưa?”, nếu đáp là đã cắt bỏ, Tăng nên hỏi: “Thầy thấy tội không?”, nếu đáp là thấy tội, Tăng nên nói: “Thầy hãy như pháp sám hối, sau chớ có tái phạm”. Nếu đáp là chưa cắt bỏ thì Tăng nên bảo cắt bỏ, nếu Tăng không bảo cắt bỏ thì tất cả Tăng đều phạm Đột-kiết-la; nếu Tăng bảo cắt bỏ mà không chịu cắt bỏ thì Tỳ kheo này phạm Đột-kiết-la.

88. Giới Cất Chứa Y Che Phủ Ghẻ

Phật tại nước Duy-na-ly (Tỳ-da-ly), nước này đất mặn và ẩm ướt nên các Tỳ kheo mắc bịnh ghẻ lở, có một Tỳ kheo ghẻ lở chảy máu mủ làm dơ y An-đà-hội. Phật hỏi rõ nguyên do rồi do việc này nhóm Tỳ kheo tăng đủ lời khen ngợi giới và người trì giới rồi bảo các Tỳ kheo: “Từ nay cho cất chứa y che phủ ghẻ cho đến mười ngày sau khi ghẻ lành, nếu cất chứa quá mười ngày thì phạm Ba-dật-đề”. Sau khi Phật cho cất chứa y che ghẻ, các Tỳ kheo liền may y rộng dài, có Tỳ kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ kheo tăng rồi hỏi các Tỳ kheo: “Các thầy thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại cất chứa y che ghẻ rộng dài như thế”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo muốn may y phủ ghẻ, phải may đúng lượng như sau: dài bốn gang tay của Phật, rộng hai gang tay, may quá lượng chế định này thì phạm Ba-dật-đề.

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo may y phủ ghẻ chiều dài chiều rộng đều quá lượng chế định thì phạm Ba-dật-đề. Y quá lượng này nên cắt bỏ rồi vào trong Tăng bạch rằng: “Tôi may y phủ ghẻ chiều dài chiều rộng đều quá lượng chế định phạm Ba-dật-đề, nay phát lồ sám hối không có che dấu”, Tăng nên hỏi: “Đã cắt bỏ chưa?”, nếu đáp là đã cắt bỏ, Tăng nên hỏi: “Thầy thấy tội không?”, nếu đáp là thấy tội, Tăng nên bảo: “Thầy hãy như pháp sám hối chớ có tái phạm”. Nếu đáp là chưa cắt bỏ thì Tăng nên bảo cắt bỏ, nếu Tăng không bảo cắt bỏ thì Tăng phạm Đột-kiết-la; nếu Tăng bảo cắt bỏ mà không chịu cắt bỏ thì Tỳ kheo này phạm Đột-kiết-la.

89. Giới Cất Chứa Ni-Sư-Đàn

Phật tại nước Duy-na-ly (Tỳ-da-ly), lúc đó có Tỳ kheo xuất tinh làm dơ ngọa cụ, sáng sớm giặt phơi ở bên trong tinh xá, khi Phật đắp y mang bát vào thành khất thực nhìn thấy việc này nên sau khi thọ thực xong, Phật do việc này nhóm Tỳ kheo tăng rồi hỏi các Tỳ kheo: “sáng sớm ta đắp y mang bát vào thành khất thực nhìn thấy ngọa cụ dơ giặt phơi trong tinh xá, các thầy không nên phơi như thế. Chúng tăng dùng nhiều ngọa cụ không biết lượng, các cư sĩ dè xẻn để cúng dường cầu phước, các thầy nên trù lượng dùng ít thì tốt. Nếu Tỳ kheo loạn niệm, không nhất tâm trong khi ngủ thì có năm lỗi: Một là khó ngủ, Hai là khó tỉnh thức, Ba là thấy ác mộng, Bốn là khi ngủ thiện thần không hộ, Năm là khi tỉnh thức tâm khó nhập pháp thiện giác quán. Ngược lại nếu Tỳ kheo không loạn niệm, nhất tâm trong khi ngủ thì có năm điều thiện: Một là không khó ngủ, Hai là dễ tỉnh thức, Ba là không có ác mộng, Bốn là khi ngủ thiện thần hộ, Năm là khi tỉnh thức tâm dễ nhập pháp thiện giác quán. Nếu Tỳ kheo có dâm nộ si, chưa được ly dục, không loạn niệm, nhất tâm ngủ nghỉ còn không thất tinh huống chi là Tỳ kheo lìa dục”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: “Từ nay cho các Tỳ kheo cất chứa Ni-sư-đàn để hộ ngọa cụ của Tăng, không nên không trải Ni-sưđàn mà ngồi trên ngọa cụ của Tăng.

Sau khi Phật cho cất chứa Ni-sư-đàn, các Tỳ kheo liền may rộng dài, có Tỳ kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà nghe biết việc này tâm không vui liền đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ kheo tăng rồi hỏi các Tỳ kheo: “Các thầy thật đã làm việc này phải không?”, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại cất chứa Ni-sư-đàn rộng dài như thế”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo muốn may Ni-sư-đàn, nên may đúng lượng như sau: dài hai gang tay của Phật, rộng một gang tay rưỡi, may quá lượng chế định này thì phạm Ba-dật-đề.

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo may Ni-sư-đàn chiều dài chiều rộng đều quá lượng chế định thì phạm Ba-dật-đề. Ni-sư-đàn quá lượng này nên cắt bỏ rồi vào trong Tăng bạch rằng: “Tôi may Nisư-đàn chiều dài chiều rộng đều quá lượng phạm Ba-dật-đề , nay phát lồ sám hối không có che dấu”, Tăng nên hỏi: “Đã cắt bỏ chưa?”, nếu đáp là đã cắt bỏ thì Tăng nên hỏi: “Thầy thấy tội không?”, nếu đáp là thấy tội, Tăng nên bảo: “Thầy hãy như pháp sám hối, sau chớ có tái phạm”. Nếu đáp là cắt bỏ thì Tăng nên bảo cắt bỏ, nếu Tăng không bảo cắt bỏ thì Tăng phạm Đột-kiết-la; nếu Tăng bảo cắt bỏ mà không chịu cắt bỏ thì Tỳ kheo này phạm Đột-kiết-la.

Phật tại nước Xá-vệ, lúc đó vào sáng sớm Phật đắp y mang bát vào thành khất thực, thọ thực xong vào trong rừng An đà trải Ni-sưđàn dưới một gốc cây ngồi. Trưởng lão Ca-lưu-đà-di cũng vào trong rừng An đà, trải Ni-sư-đàn dưới một gốc cây ngồi cách Phật không xa. Trưởng lão này thân to lớn, quỳ gối hai tay cầm y nguyện rằng: “Chừng nào Phật sẽ cho tôi may Ni-sư-đàn thêm một gang tay của Phật nữa thì mới đủ ngồi”. Đến xế chiều Phật xuất thiền, do việc này nên nhóm Tỳ kheo tăng rồi bảo các Tỳ kheo: “Sáng nay ta đắp y mang bát vào thành khất thực… giống như đoạn văn trên cho đến câu thì mới đủ ngồi”. Này các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói lại như sau:

Nếu Tỳ kheo muốn may Ni-sư-đàn, nên may đúng lượng như sau: dài hai gang tay của Phật, rộng một gang tay rưỡi và viền quanh thêm một gang tay, may quá lượng chế định này thì phạm Ba-dật-đề.

90. Giới May Y Bằng Lượng Y Của Phật

Phật tại nước Ca-duy-la-vệ, Trưởng lão Nan-đà là em của Phật do Di mẫu sanh ra, thân tương tợ như Phật cũng có ba mươi hai tướng tốt, nhưng thấp hơn Phật bốn ngón tay. Lúc đó Trưởng lão may y bằng lượng y của Phật đắp mặc khiến cho các Tỳ kheo vào giờ thọ thực từ xa thấy Nan-đà đến đều tưởng là Phật nên đứng dậy nghinh đón, khi Nan-đà đến gần mới biết là không phải Phật nên các Thượng tòa đều hổ thẹn, nghĩ rằng: “Đây là Hạ tòa của chúng ta, tại sao lại đứng dậy nghinh đón”, Nan-đà cũng hổ thẹn nói rằng: “Đã khiến cho các vị đứng dậy nghinh đón tôi”. Các Tỳ kheo đem việc này bạch Phật, Phật do việc này nhóm Tỳ kheo tăng rồi hỏi Nan-đà: “Thầy thật đã làm việc này phải không?’, đáp: “Thật đã làm thưa Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại may y bằng với lượng y của Phật, từ nay thầy nên may y giảm bớt thước tấc lại. Y này nên đem nhuộm cho hoại sắc rồi trải phơi. Nếu có ai may y giống như thế, Tăng cũng nên đồng tâm đem nhuộm cho hoại sắc rồi trải phơi”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo may y bằng với lượng y của Phật thì phạm Ba-dậtđề. Lượng y của Phật là dài chín gang tay của Phật, rộng sáu gang tay.

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo may y bằng với lượng y của Phật thì phạm Ba-dật-đề, may quá lượng y của Phật cũng phạm Ba-dật-đề, tùy may được thành đều phạm Ba-dật-đề. Y này nên cắt bỏ rồi vào trong tăng bạch rằng: “Tôi may y bằng với lượng y của Phật, phạm Ba-dật-đề, nay phát lồ sám hối không có che dấu”, Tăng nên hỏi: “Đã cắt bỏ chưa?”, nếu đáp là đã cắt bỏ, Tăng nên hỏi: “Thầy thấy tội không?”, nếu đáp là thấy tội, Tăng nên bảo: “Thầy hãy như pháp sám hối, sau chớ có tái phạm”. Nếu đáp là chưa cắt bỏ, Tăng nên bảo cắt bỏ, nêu Tăng không bảo cắt bỏ thì Tăng phạm Đột-kiết-la; nếu Tăng bảo cắt bỏ mà không chịu cắt bỏ thì Tỳ kheo này phạm Đột-kiết-la.