THẬP LUẬT TỤNG
Hán dịch: Hậu Tần Phất Nhược Đa La cộng La Thập dịch
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 5

IV. BA MƯƠI PHÁP NI TÁT KỲ BA DẬT ĐỀ

1. Giới Chứa Y Dư Quá Mười Ngày

Phật tại thành Vương xá, lúc đó lục quần Tỳ kheo chưa nhiều y phục, vào tụ lạc thì đắp y khác, ra tụ lạc lại đắp y khác, khi ăn cơm đắp y khác, trước giờ ăn đắp y khác, sau giờ ăn lại đắp y khác… chứa nhiều y phục dư như thế, đến nỗi bị mục nát, côn trùng cắn làm hư hoại không dùng được. Có Tỳ kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà thấy rồi tâm không vui liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ kheo mà lại chứa nhiều y phục vào tụ lạc mặc y khác, ra tụ lạc mặc y khác… bị côn trùng cắn làm hư hoại không dùng được”, quở trách rồi đem việc này bạch Phật. Phật do nhân duyên này nhóm Tỳ kheo tăng rồi hỏi Lục quần Tỳ kheo: “Các thầy thật đã làm việc này phải không?” Đáp: “Thật vậy Thế tôn”, Phật liền quở trách rằng: “Tại sao gọi là Tỳ kheo mà lại chứa nhiều y phục, vào tụ lạc mặc y khác, ra tụ lạc mặc y khác… bị côn trùng cắn làm hư hoại không dùng được”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo may y đã xong, đã xả y Ca-hi-na, được chứa y dư đến mười ngày, nếu chứa quá mười ngày thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Trong đây có bốn trường hợp:

1. Có người may y xong nhưng chưa xả y Ca-hi-na

2. Có người đã xả y Ca-hi-na nhưng chưa may y xong3. Có người may y xong và cũng đã xả y Ca-hi-na . Có người chưa may y xong cũng chưa xả y Ca-hi-na.

Y dư là trừ y Tăng-già-le, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, các y khác đều gọi là y dư. Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là y dư nên xả, tội Ba-dật-đề nên sám.

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo ngày thứ nhất được y cất chứa qua ngày thứ hai xả, ngày thứ hai được y cất chứa qua ngày thứ ba xả, ngày thứ ba được y cất chứa qua ngày thứ tư xả, ngày thứ bảy được y cất chứa qua ngày thứ năm xả, ngày thứ năm được y cất chứa qua ngày thứ bảy xả… như thế cho đến ngày thứ mười được y thì trong ngày thứ mười, Tỳ kheo nên cho người khác y này hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không cho người khác, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo ngày thứ một được y, ngày thứ hai lại được y thì nên cất chứa một cái xả một cái; ngày thứ hai được y, ngày thứ Ba lài được y thì nên cất chứa một cái xả một cái… như thế cho đến ngày thứ chín được y, ngày thứ mười lại được thì nên cất chứa một cái xả một cái; ngày thứ mười được y thì trong ngày thứ mười Tỳ kheo nên cho người khác y này hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không cho người khác, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Tỳ kheo ngày thứ nhất được y, ngày thứ hai lại được y, nếu xả cái trước thì cất chứa cái sau… như thế cho đến ngày thứ chín được y, ngày thứ mười lại được y nếu xả cái trước thì cất chứa cái sau; ngày thứ mười được y thì trong ngày thứ mười Tỳ kheo nên cho người khác y này hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không cho người khác, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Tỳ kheo ngày thứ nhất được y, ngày thứ hai lại được y, nếu cất chứa cái trước thì nên xả cái sau… như thế cho đến ngày thứ chín được y, ngày thứ mười lại được y, nếu cất chứa cái trước thì nên xả cái sau; ngày thứ mười được y thì trong ngày thứ mười Tỳ kheo nên cho người khác y này hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không cho người khác, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo ngày thứ nhất được y, ngày thứ hai cho đến ngày thứ mười đều không được y, thì trong ngày thứ mười Tỳ kheo nên cho người khác y đã cất chứa từ ngày thứ nhất, hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không cho người khác, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo ngày thứ nhất được y cất chứa, ngày thứ hai cho đến ngày thứ mười đều được y cất chứa, thì trong ngày thứ mười Tỳ kheo nên cho người khác những y này hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không cho người khác, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo ngày đầu được vải may thành y Tăng-già-lê chín điều, phân biệt có bao nhiêu đàn cách dài, bao nhiêu đàn cách ngắn, tổng cộng là chín điều xong rồi thì ngay trong ngày may y xong, Tỳ kheo nên tác pháp thọ trì, nói rằng: “Y Tăng-già-lê chín điều này nay tôi xin thọ trì”. Thọ trì rồi thì nên cho người khác vải dư và cả y Tănggià-lê trước đã thọ trì, hoặc tác tịnh hay cho người. Nếu Tỳ kheo vào ngày đầu được vải may thành y Uất-đa-la-tăng bảy điều, phân biệt có bao nhiêu đàn cách dài, bao nhiêu đàn cách ngắn, tổng cộng là bảy điều xong rồi thì ngay trong ngày may y xong, Tỳ kheo nên tác pháp thọ trì, nói rằng: “Y Uất-đa-la-tăng này nay tôi xin thọ trì”. Thọ trì rồi thì nên cho người khác vải dư và cả y Uất-đa-la-tăng đã thọ trì trước, hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu Tỳ kheo ngày đầu được vải may thành y An-đàhội năm điều, phânbiệt có bao nhiêu đàn cách dài, bao nhiêu đàn cách ngắn, tổng cộng là năm điều xong rồi thì ngay trong ngày may y xong, Tỳ kheo nên tác pháp thọ trì, nói rằng: “Y An-đà-hội này nay tôi xin thọ trì”. Thọ trì rồi thì nên cho người khác vải dư và cả y An-đà-hội đã thọ trì trước, hoặc tác tịnh hay thọ trì.

Nếu Tỳ kheo được vải mới thì nên may thành y Tăng-già-lê hai lớp hoặc y Uất-đa-la-tăng một lớp hoặc y An-đà-hội một lớp hoặc Nisư-đàn hai lớp. Nếu muốn may Tăng-già-lê ba lớp, Ni-sư-đàn ba lớp hoặc dùng vải mới may nhiều lớp thì Tỳ kheo may y nhiều lớp này phạm Đột-kiết-la; và nếu cất chứa quá mười ngày thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải cũ thì nên may thành y Tăng-già-lê bốn lớp hoặc y Uất-đa-la-tăng hai lớp, y An-đà-hội hai lớp, Ni-sư-đàn bốn lớp; nếu muốn may nhiều lớp thì Tỳ kheo may y nhiều lớp này phạm Độtkiết-la và nếu cất chứa quá mười ngày thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải mới nên may thành y Tăng-già-lê hai lớp, Uất-đa-la-tăng một lớp, An-đà-hội một lớp, Ni-sư-đàn hai lớp; nếu may bớt lại nghĩ rằng: “Đem vải này cho người khác hoặc tác tịnh hay thọ trì”, thì Tỳ kheo may bớt này phạm Đột-kiết-la và nếu cất chứa quá mười ngày thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải cũ nên may thành y Tăng-già-lê bốn lớp, Uất-đa-la-tăng hai lớp, An-đà-hội một lớp, Ni-sư-đàn bốn lớp; nếu may bớt lại nghĩ rằng: “Đem vải này cho người khác hoặc tác tịnh hay thọ trì”, thì Tỳ kheo may bớt này phạm Đột-kiết-la và nêu cất chứa quá mười ngày thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải mới nên may thành y Tăng-già-lê hai lớp,

Ni-sư-đàn hai lớp; hoặc Tăng-già-lê ba lớp, Ni-sư-đàn ba lớp. Nếu may bớt lại nghĩ là sẽ đem giặt nhuộm hay thay đổi trong ngoài thì Tỳ kheo may bớt này phạm Đột-kiết-la, nhưng cất chứa quá mười ngày không phạm.

Nếu Tỳ kheo được vải cũ nên may thành y Tăng-già-lê bốn lớp, Uất-đa-la-tăng hai lớp, An-đà-hội hai lớp, Ni-sư-đàn bốn lớp; nếu may bớt lại nghĩ là sẽ đem giặt nhuộm hay thay đổi trong ngoài thì Tỳ kheo may bớt này phạm Đột-kiết-la, nhưng cất chứa quá mười ngày không phạm.

Nếu Tỳ kheo có y phạm Xả đọa chưa xả, tội chưa sám, thứ lớp nối nhau chưa dứt mà được y nữa, thì y được sau do tương tục với y trước nên phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo có y phạm Xả đọa đã xả nhưng tội chưa sám, thứ lớp nối nhau chưa dứt mà được y nữa, thì y được sau do tương tục với tâm trước nên phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo có y phạm Xả đọa đã xả, tội cũng đã sám, thứ lớp nối nhau đã dứt; nếu được y nữa thì không phạm.

2. Giới Lìa Y Ngủ Qua Đêm

Phật tại thành Vương xá, lúc đó Lục quần Tỳ kheo gởi y rồi đi khắp nơi, chỉ mặc y thượng hạ du hành các nước đến nỗi y rách không có oai nghi. Các cựu Tỳ kheo nhận y ký gởi này của Lục quần thường phải đem ra phơi, đập giũ rồi xếp đem cất lại như thế nên phế bỏ việc đọc tụng tọa thiền hành đạo. Có Tỳ kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà thấy rồi tâm không vui liền quở trách Lục quần Tỳ kheo rằng: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại gởi y rồi đi khắp nơi… giống như trên cho đến câu phế bỏ việc đọc tụng tọa thiền hành đạo”, quở trách rồi đem việc này bạch Phật. Phật do nhân duyên này nhóm Tỳ kheo tăng rồi hỏi Lục quần Tỳ kheo: “Các thầy thật đã làm việc này phải không?” Đáp: “Thật vậy Thế tôn”, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại gởi y rồi đi khắp nơi… cho đến câu phế bỏ việc đọc tụng tọa thiền hành đạo”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo may y xong, y Ca-hi-na đã xả, trong ba y nếu lìa một y nào ngủ qua một đêm thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, trừ Tăng yết ma.

Một đêm là từ mặt trời lặn qua đến hôm sau khi mặt trời chưa mọc. Trong ba y nếu lìa một y nào là lìa y Tăng-già-lê hoặc Uất-đa-latăng hoặc An-đà-hội. Trừ tăng yết ma là Tăng tác pháp yết ma cho lìa y vì nhân duyên. Do Trưởng lão Đại Ca diếp có nhân duyên để lại y Tăng-già-lê trong núi Kỳ-xà-quật, chỉ đắp y thượng hạ vào Trúc viên, lúc đó trời bỗng mưa lớn nên Trưởng lão không thể trở về núi Kỳ-xàquật được. Đại Ca diếp nói với các Tỳ kheo: “Tôi vì có nhân duyên đã để y Tăng-già-le lại trong núi Kỳ-xà-quật, giờ gặp mưa lớn không thể trở về được, phải lìa y Tăng-già-le ngủ lại đây, tôi phải làm sao?” Các Tỳ kheo đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm Tỳ kheo tăng hỏi Đại Ca diếp rõ nguyên do rồi đủ lời khen ngợi giới và người trì giới, Phật bảo các Tỳ kheo: “Từ nay cho đồng một thuyết giới cùng trú xứ kết yết ma không lìa y”. Pháp yết ma lìa y là khi Tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ kheo trong Tăng tác bạch yết ma như sau:

Đại-đức Tăng lắng nghe, đồng một bố tát cùng trú xứ này, trước đây Tăng đã kết giới đồng một bố tát, trong giới này trừ tụ lạc và giới tụ lạc, chỉ lấy chỗ đất trống và trú xứ. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay đồng một bố tát cùng trú xứ kết giới không lìa y. Bạch như vậy.

Đại-đức Tăng lắng nghe, cùng trú xứ đồng một bố tát này, trước đây Tăng đã kết giới đồng một bố tát, trong giới này trừ tụ lạc và giới tụ lạc, chỉ lấy đất trống và trú xứ kết giới không lìa y. Các Trưởng lão nào chấp thuận cùng trú xứ đồng một bố tát kết giới không lìa y thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Tăng đã kết cùng trú đồng một bố tát làm yết ma không lìa y xong rồi, Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy. Đây gọi là trừ Tăng yết ma.

Lại có trường hợp Tăng yết ma như Trưởng lão Xá-lợi-phất bịnh, muốn du hành các nước một tháng nhưng Tăng-già-lê nặng không thể mang theo. Trưởng lão nói với các Tỳ kheo: “Tôi muốn du hành một tháng, tôi có bịnh mà Tăng-già-lê lại nặng không thể mang theo, tôi phải làm sao?” Các Tỳ kheo đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ kheo tăng, hỏi Xá-lợi-phất rõ nguyên do rồi đủ lời khen ngợi giới và người trì giới, Phật bảo các Tỳ kheo: “Từ nay cho các Tỳ kheo già bịnh làm yết ma một tháng không lìa y Tăng-giàlê ngủ qua đêm”. Pháp xin yết ma là khi Tăng nhất tâm hòa hợp, Tỳ kheo già bịnh này trịch bày vai hữu quỳ gối chắp tay bạch Tăng: “Các Trưởng lão nhớ nghĩ, tôi Tỳ kheo …………… già bịnh muốn du hành một tháng mà y Tăng-già-lê nặng, nay theo Tăng xin yết ma một tháng lìa y Tăng-già-lê ngủ qua đêm (3 lần). Lúc đó Tăng nên trù lượng: Nếu Tỳ kheo này nói là già bịnh mà thật không có già bịnh thì không nên cho, nếu thật là già bịnh thì nên cho; nếu nói là y Tăng-già-lê nặng mà thật không có nặng thì không nên cho, nếu là thật nặng thì nên cho. Pháp cho là khi Tăng nhất tâm hòa hợp, một Tỳ kheo trong Tăng tác bạch yết ma như sau:

Đại-đức Tăng lắng nghe, Tỳ kheo …………… già bịnh, muốn du hành một tháng mà y Tăng-già-le nặng. Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng cho Tỳ kheo ………….. già bịnh này yết ma một tháng không lìa y Tăng-già-le ngủ qua đêm. Bạch như vậy.

Như thế Bạch-nhị-yết-ma cho đến câu Tăng đã cho Tỳ kheo…… già bịnh này yết ma một tháng không lìa y Tăng-già-lê ngủ qua đêm xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy.

Như thế cho đến xin chín tháng lìa y cũng vậy; giống như xin lìa y Tăng-già-lê, y Uất-đa-la-tăng, y An-đà-hội cũng vậy. Trong trú xứ này nếu chưa kết giới không lìa y thì Tỳ kheo ở tụ lạc, y cũng ở tụ lạc, Tỳ kheo nên đến chỗ y; nếu Tỳ kheo ở A-lan-nhã, y ở tụ lạc thì Tỳ kheo nên đến chỗ y. Nếu đã kết giới không lìa y, Tỳ kheo ở tụ lạc, y cũng ở tụ lạc thì Tỳ kheo nên đến chỗ y; nếu Tỳ kheo ở tụ lạc, y ở A-lan-nhã, Tỳ kheo nên ra khỏi giới tụ lạc; nếu Tỳ kheo ở A-lan-nhã, y ở tụ lạc thì Tỳ kheo nên đến chỗ y; nếu Tỳ kheo ở A-lan-nhã, y cũng ở A-lan-nhã thì không phạm.

Tụ lạc là bao gồm một nhà, hai nhà cho đến nhiều nhà, trong đó cư sĩ cùng vợ con ở chung với nhân dân. Tụ lạc phân biệt có một giới và khác giới, trong một nhà cũng phân biệt có một giới và khác giới:

Giới tụ lạc không nối tiếp nhau là chỗ mà gà bay đến được, chỗ quăng bỏ rác dơ, chỗ mà người có hổ thẹn đi đại tiểu tiện, chỗ mà cung tên bắn đến được. Nếu Tỳ kheo ở một tụ lạc, y lại ở trong một tụ lạc khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Giới tụ lạc nối tiếp nhau là trong khoảng không gian của mười hay năm hai nấc thang hay chỗ đòn xe xoay chuyển được hay tụ lạc có hàng rào bao quanh bên ngoài đến đâu đều thuộc phạm vi trong giới. Giới trong đây bao gồm chỗ làm việc bên ngoài hàng rào, hay tụ lạc có hào bao quanh đến đâu đều thuộc phạm vi trong giới và cả chỗ đổ bỏ rác dơ. Nếu Tỳ kheo ở một tụ lạc, y lại ở trong một tụ lạc khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Đồng một tộc họ cũng phân biệt có một giới và khác giới, khác giới trong đây là cửa phòng, nhà ăn, trong sân, nhà xí, chỗ lấy nước. Nếu Tỳ kheo ở một tộc họ, y lại ở trong một tộc họ khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nhà cũng phân biệt có một giới và khác giới, khác giới trong đây là của phòng, nhà ăn, trong sân, nhà xí và chỗ lấy nước. Nếu Tỳ kheo ở một nhà, y lại ở trong một nhà khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Lầu gác nhiều tầng cũng phân biệt có một giới và khác giới, khác giới trong đây là tầng dưới, tầng giữa là giới của tầng trên vì có một cửa ra vào; tầng giữa, tầng trên là giới của tầng dưới vì có một cửa ra vào; tầng dưới là giới của tầng giữa vì có một cửa ra vào. Nếu Tỳ kheo ở một tầng, y lại ở tầng khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu lầu gác này thuộc của một người chủ thì không phạm.

Nhà ngoại đạo cũng phân biệt có một giới và khác giới, Các ngoại đạo như đệ tử của A-thi-tỳ-ni-kiền-tử, các phạm chí…, trừ năm chúng xuất gia của Phật, những người xuất gia khác đều gọi là ngoại đạo. Khác giới trong đây là cửa phòng, nhà ăn, trong sân, nhà xí và chỗ lấy nước. Nếu Tỳ kheo ở nhà một ngoại đạo, y lại ở trong nhà một ngoại đạo khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu các ngoại đạo này đồng kiến, đồng luận thì không phạm.

Chỗ người luân hành (đi luân lưu khắp nơi) cũng có một giới và khác giới, người luân hành bao gồm những người ca múa, hát xướng, hề, xiếc…, họ chở đồ vật trên xe to, vợ con trên xe nhỏ đi luân lưu khắp nơi trình diễn để kiếm sống. Khác giới trong đây là cửa ngăn, chỗ ăn uống, trong sân, nhà xí, chỗ lấy nước. Nếu Tỳ kheo ở một chỗ này, y lại ở trong một chỗ khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu chỗ người luân hành thuộc về một người chủ quản thì không phạm.

Chỗ hội trường cũng có một giới và khác giới, khác giới trong đây là chỗ cửa phòng, nhà ăn, trong sân, nhà xí, chỗ lấy nước. Nếu Tỳ kheo ở một hội trường này, y lại ở trong hội trường khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nhà có sân rộng cũng có một giới và khác giới, khác giới trong đây là chỗ cửa phòng, nhà ăn, trong sân, nhà xí, chỗ lấy nước. Nếu Tỳ kheo ở một sân nhà này, y lại ở trong một sân nhà khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nhà có vườn cũng có một giới và khác giới, khác giới trong đây là chỗ cửa phòng, nhà ăn, trong sân, nhà xí, chỗ lấy nước. Nếu Tỳ kheo ở một vườn nhà này, y lại ở trong một vườn nhà khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Giới xe cũng có một giới và khác giới, khác giới trong đây là giới ở trước xe là chỗ mà quơ cây gậy tới được trong xe, giới trong xe là chỗ mà quơ cây gậy ra tới phía trước được, giới sau xe là chỗ mà quơ cây gậy tới được trong xe. Nếu Tỳ kheo ở một giới xe này, y lại ở trong một giới xe khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Giới thuyền cũng có một giới và khác giới, khác giới trong đây là chỗ cột thuyền, neo thuyền, khoang thuyền… Nếu Tỳ kheo ở một giới thuyền này, y lại ở trong một giới thuyền khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Giới cây không nối tiếp nhau là chỗ bóng mát khi mặt trời đứng bóng, chỗ cành lá mà nước mưa không rơi xuống được. Nếu Tỳ kheo ở dưới một cây này, y lại ở dưới một cây khác thì Tỳ kheo nên mang y đến hay đi đến chỗ y hay thọ y khác; nếu không y mang y đến hay không đến chỗ y hay không thọ y khác thì khi trời vừa sáng Tỳ kheo phạm Nitát-kỳ Ba-dật-đề.

Giới cây nối tiếp nhau là chỗ cành lá của các cây giao nhau cho đến một Câu-lô-xa, trong đây tùy ý để y ở chỗ nào đến khi trời sáng 2 đều không phạm. Chỗ tàng cây che phủ phạm vi bốn mươi chín tầm như Tỳ kheo gánh y cho hòa thượng, A-xà-lê đi giữa đường cách nhau trước hay sau khoảng bốn mươi chín tầm không lìa nhau đều không phạm, nếu quá bốn mươi chín tầm thì khi trời vừa sáng đều phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Có các Tỳ kheo mang y bát để một chỗ, nằm ở bên y, nếu có Tỳ kheo nào đứng dậy bỏ đi, lìa chỗ có thể trở lại lấy y, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Có Tỳ kheo nằm giữa hai giới, nếu y lìa thân đến một tấc rơi vào giới khác thì phạm Đột-kiết-la, nếu cheo y con dính trên thân thì không phạm.

3. Giới Chứa Y Phi Thời Một Tháng

Phật tại thành Vương xá, lúc đó Lục quần Tỳ kheo được y phi thời cất chứa nghĩ rằng: “Nếu không được vải tương tợ thì cất để đó, nếu được vải tương tợ sẽ may thành y”. Lục quần Tỳ kheo nếu trước được vải màu xanh sau được vải màu vàng vì không giống màu nên cất để đó; nếu trước được vải vàng sau được vải đỏ hoặc vải trắng, vải gai, vải sô-ma, vải Kiều-xa-da, vải Khâm-bà-la, vải Kiếp-bối… vì không cùng loại giống màu nhau nên cất để đó, đợi khi được vải cùng loại giống màu thì mới may thành y. Có Tỳ kheo thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà thấy rồi tâm không vui liền quở trách Lục quần Tỳ kheo: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại chứa y phi thời, vì không cùng loại giống màu nhau nên cất để đó, đợi khi được cùng loại giống màu nhau mới may thành y. Nếu trước được vải xanh… giống như đoạn văn trên cho đến câu mới may thành y”, quở trách rồi liền đem việc này bạch Phật. các Tỳ kheo đem việc này bạch Phật, Phật do nhân duyên này nhóm họp Tỳ kheo tăng rồi hỏi Lục quần Tỳ kheo: “Các thầy thật đã làm việc này phải không?” Đáp thật vậy Thế tôn, Phật liền quở trách: “Tại sao gọi là Tỳ kheo lại cất chứa y phi thời… giống như đoạn văn trên cho đến câu mới may thành y”, quở trách rồi bảo các Tỳ kheo: “Do mười lợi nên kết giới cho các Tỳ kheo, từ nay giới này nên nói như sau:

Nếu Tỳ kheo may y đã xong, y Ca-hi-na đã xả, nếu được y phi thời, Tỳ kheo nếu cần thì được tự tay nhận rồi mau may thành y để thọ trì. Nếu đủ vải thì tốt, nếu không đủ mong được cúng vải thêm cho đủ thì được cất chứa trong vòng một tháng, quá một tháng thì phạm Ni-tátkỳ Ba-dật-đề.

Y phi thời là trừ vải của phòng khác, vải do gia đình thí, vải thí lúc an cư, những y dư khác đều gọi là y phi thời.

Tự tay nhận rồi mau may thành y tức là may thành y Tăng-già-lê hay y Uất-đa-la-tăng hay y An-đà-hội.

Mong được cúng vải thêm là Tỳ kheo nghĩ sẽ có mẹ hay cha, anh chị em, vợ hay có hội Bàn-xà-bà-sắt (hội năm năm một lần), hội Sa-bà bà-sắt (hội sáu năm một lần), hội hai tháng một lần, hội nhập xá, trong một tháng này chờ cúng thêm cho đủ vải mới may thành y. Không đủ khiến được đủ là Tăng-già-le thiếu hay Uất-đa-la-tăng thiếu hay Anđà-hội thiếu nên may khiến cho đủ.

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, Tỳ kheo kể từ ngày được vải nghĩ sẽ đợi trong vòng mười ngày thì đến ngày thứ mười vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ hai nghĩ sẽ đợi thêm chín ngày nữa, đến ngày thứ chín vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ ba nghĩ sẽ đợi thêm tám ngày nữa, đến ngày thứ tám vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ tư nghĩ sẽ đợi thêm bảy ngày nữa, đến ngày thứ bảy vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ năm nghĩ sẽ đợi thêm sáu ngày nữa, đến ngày thứ sáu vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ sáu nghĩ sẽ đợi thêm năm ngày nữa, đến ngày thứ năm vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ bảy nghĩ sẽ đợi thêm bốn ngày nữa, đến ngày thứ tư vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ tám nghĩ sẽ đợi thêm ba ngày nữa, đến ngày thứ ba vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ chín nghĩ sẽ đợi thêm hai ngày nữa, đến ngày thứ hai vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ mười nghĩ sẽ đợi nội trong ngày thứ mười này, nếu không mong được vải nữa thì nội trong ngày thứ mười vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm cho đủ, đến ngày thứ mười một nghĩ là sẽ đợi nội trong ngày thứ mười một này, nếu không mong được vải nữa thì nội trong ngày thứ mười một vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười hai, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Cứ như thế cho đến ngày thứ ba mươi, Tỳ kheo nghĩ là sẽ đợi nội trong ngày thứ ba mươi này, nếu không mong được vải nữa thì nội trong ngày thứ ba mươi vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ ba mươi mốt, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải, ngay ngày cất y không mong được y, không mong mà được thì vải này nội trong mười ngày vải này phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải, ngày thứ hai không mong được y, không mong mà được thì vải này nội trong chín ngày phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải như thế cho đến ngày thứ mười không mong được gì, không mong mà được thì vải này nội trong một ngày phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải đến ngày thứ mười một không mong được gì, không mong mà được thì vải này nội trong ngày thứ mười một phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười hai, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải cứ như thế cho đến ngày thứ ba mươi không mong được gì, không mong mà được thì nội trong ngày thứ ba mươi phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải, ngay ngày được vải tâm đoạn dứt không mong được gì, không mong mà được thì vải này nội trong mười ngày phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải cứ như thế cho đến ngày thứ mười tâm đoạn dứt không mong được gì, không mong mà được thì vải này nội trong một ngày phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải, đến ngày thứ một tâm đoạn dứt không mong được gì, không mong mà được thì vải này nội trong ngày thứ mười một phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười hai, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải cứ như thế cho đến ngày thứ ba mươi, tâm đoạn dứt không mong được gì, không mong mà được thì vải này nội trong ngày thứ ba mươi phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ ba mươi mốt, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải, ngay ngày được y không mong được gì nhưng tâm không đoạn dứt mong cầu, không mong mà được thì vải này nội trong mười ngày phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải cứ như thế cho đến ngày thứ mười không mong được gì, nhưng tâm không đoạn dứt mong cầu, không mong mà được thì vải này nội trong một ngày phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải đến ngày thứ mười một không mong được gì, nhưng tâm không đoạn dứt mong cầu, không mong mà được thì vải này nội trong ngày thứ mười một phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười hai, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải cư như thế cho đến ngày thứ ba mươi không mong được gì, nhưng tâm không đoạn dứt mong cầu, không mong mà được thì vải này nội trong ngày thứ ba mươi phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ ba mươi mốt, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải, ngay ngày được y nghĩ rằng: Ta nội trong ba mươi ngày ắt không được gì, thì vải này nội trong mười ngày phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải cứ như thế cho đến ngày thứ ba mươi nghĩ rằng: Ta nội trong một ngày này ắt không mong được gì, thì vải này nội trong ngày thứ ba mươi phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ ba mươi mốt, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải, ngay ngày được vải tâm không đoạn dứt mong cầu không mong mà được hứa cho, lại tiếp tục hy vọng nhưng hy vọng này cũng đoạn dứt, không mong cầu lại được thì vải này nội trong mười ngày phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải cứ như thế cho đến ngày thứ mười, tâm không đoạn dứt mong cầu không mong mà được hứa cho, lại tiếp tục hy vọng nhưng hy vọng này cũng đoạn dứt, không mong cầu lại được thì vải này nội trong một ngày phải may thành y, hoặc đem cho người hoặc tác tịnh hay thọ trì. Nếu không may thành y, không cho người, không tác tịnh cũng không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, khi trời vừa sáng liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải đến ngày thứ mười một, tâm không đoạn dứt mong cầu không mong mà được hứa cho, lại tiếp tục hy vọng nhưng hy vọng này cũng đoạn dứt, không mong cầu lại được thì vải này nội trong ngày thứ mười một nên may thành y, đủ thì tốt, không đủ thì cất lại. Nếu Tỳ kheo được vải không đủ, cất chờ cúng thêm vải cứ như thế cho đến ngày thứ ba mươi, tâm không đoạn dứt mong cầu không mong mà được hứa cho, lại tiếp tục hy vọng nhưng hy vọng này cũng đoạn dứt, không mong cầu lại được thì vải này nội trong ngày thứ ba mươi nên may thành y, nếu đủ thì tốt, không đủ thì cất lại.

Nếu Tỳ kheo có y phạm Xả đọa chưa xả, tội chưa sám, thứ lớp nối nhau chưa dứt mà được y nữa, thì y được sau do tương tục với y trước nên phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo có y phạm Xả đọa đã xả nhưng tội chưa sám, thứ lớp nối nhau chưa dứt mà được y nữa, thì y được sau do tương tục với tâm trước nên phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu Tỳ kheo có y phạm Xả đọa đã xả, tội cũng đã sám, thứ lớp nối nhau đã dứt; nếu được y nữa thì không phạm.

Phật tại nước Xá-vệ an cư cùng chúng Tỳ kheo, lúc đó các Tỳ kheo được nhiều y bố thí nên cất chứa, Phật vì muốn chế ngăn các Tỳ kheo chứa nhiều y nên nói với các Tỳ kheo an cư: “Ta muốn trong bốn tháng yên tĩnh nên không cho các Tỳ kheo đến chỗ ta, trừ một Tỳ kheo đưa thức ăn đến và vào ngày bố tát”, các Tỳ kheo nghe rồi liền lập chế: “Nếu có Tỳ kheo nào không phải là người đưa thức ăn đến cho Phật và vào ngày bố tát mà đến chỗ Phật thì phạm Ba-dật-đề”, lập chế rồi bạch Phật, Phật im lặng chấp thuận. Lúc đó Trưởng lão Ưu-ba-tư-na cùng năm trăm chúng Tỳ kheo đều là người sống nơi Alan-nhã, mặc nạp y, ngày ăn một bữa, khất thực, ngồi nơi đất trống, đến đi ngồi nằm nhìn ngó tiến thoái… các oai nghi đều thanh tịnh. Tất cà cùng đắp y Tăng-già-lê mang bát du hành từ nước Kiều-tát-la đến nước Xá-vệ, đến nơi thấy có nhiều Tỳ kheo kinh hành bên trong tinh xá Kỳ hoàn liền hỏi Phật ở đâu, đáp là ở trong phòng lớn phía Đông. Trưởng lão Ưu-ba-tư-na liền đi đến phòng lớn đằng hắng rồi gõ cửa, Phật mở cửa, Trưởng lão bước vào trong phòng đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật liền thăm hỏi: “Đồ chúng của thầy rất tốt, do nhân duyên gì mà đồ chúng của thầy oai nghi thanh tịnh như vậy?” Trưởng lão đáp: “Thế tôn, nếu Tỳ kheo đến chỗ con cầu đọc tụng kinh, cầu y chỉ thì con nói với Tỳ kheo này rằng: “Thầy có thể trọn đời tu hạnh A-lan-nhã, mặc y phấn tảo, khất thực, ngày ăn một bữa, ngồi nơi đất trống, thì Ta mới có thể dạy cho thầy đọc tụng kinh và cho thầy y chỉ”. Nếu Tỳ kheo này có thể hành hạnh đầu đà này thì con mới dạy đọc tụng kinh và cho y chỉ, do nhân duyên này “Thưa Thế tôn, đồ chúng của con mới có oai nghi thanh tịnh như thế”. Phật hỏi Trưởng lão Ưu-ba-tư-na: “Cựu Tỳ kheo có lập chế, thầy có biết không?” Đáp: “Không biết thưa Thế tôn, cựu Tỳ kheo lập chế như thế nào?” Phật nói: “Ta muốn trong bốn tháng yên tĩnh nên đã bảo các Tỳ kheo rằng: “Các Tỳ kheo không được đến chỗ ta, trừ người đưa thức ăn và vào ngày bố tát”. Các Tỳ kheo vâng lời ta dạy nên đã lập chế: “Nếu có Tỳ kheo nào không phải là người đưa thức ăn đến cho Phật và vào ngày bố tát mà đến chỗ Phật thì phạm Ba-dậtđề”. Các Tỳ kheo lập chế rồi đến bạch Ta và Ta đã chấp thuận, Trưởng lão Ưu-ba-tư-na nói: “Thế tôn, cựu Tỳ kheo biết ý này không?” Phật nói: “Sao lại không biết, nhưng từ nay Ta cho phép Tỳ kheo hành hạnh đầu đà, sống nơi A-lan-nhã, mặc y phấn tảo dù là người đưa thức ăn hay không phải là người đưa thức ăn; vào ngày bố tát hay không phải vào ngày bố tát đều được tùy ý đến chỗ ta”. Lúc đó cựu Tỳ kheo nghe nói

Trưởng lão Ưu-ba-tư-na không phải là người đưa thức ăn cho Phật và cũng không phải là ngày bố tát mà đi đến chỗ Phật, liền nhóm họp Tỳ kheo tăng gọi Trưởng lão Ưu-ba-tư-na đến, Trưởng lão Ưu-ba-tư-na vào trong Tăng đảnh lễ vị Thượng tọa rồi theo thứ lớp ngồi xuống. Cựu Tỳ kheo liền hỏi Trưởng lão Ưu-ba-tư-na: “Trưởng lão có biết cựu Tỳ kheo đã lập chế hay không?” Đáp: “Không biết, cựu Tỳ kheo lập chế như thế nào?” Thượng tọa nói: “Này Trưởng lão Ưu-ba-tư-na, Phật bảo các Tỳ kheo an cư: “Ta muốn trong bốn tháng yên tĩnh nên không cho các Tỳ kheo đến chỗ ta, trừ một Tỳ kheo đưa thức ăn đến và vào ngày bố tát”, các Tỳ kheo nghe rồi liền lập chế: “Nếu có Tỳ kheo nào không phải là người đưa thức ăn đến cho Phật và vào ngày bố tát mà đến chỗ Phật thì phạm Ba-dật-đề”, lập chế rồi bạch Phật, Phật im lặng chấp thuận. “Nay Trưởng lão không phải là người đưa thức ăn đến cho Phật, cũng không phài là vào ngày bố tát mà đến chỗ Phật thì phạm Ba-dật-đề, Trưởng lão nên như pháp sám hối”, Trưởng lão Ưu-ba-tư-na nói: “Thượng tọa có biết không, khi tôi đến chỗ Phật, đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật đã thăm hỏi tôi rằng: “Do nhân duyên gì mà đồ chúng của thầy oai nghi thanh tịnh như vậy?” Tôi đáp: “Thế tôn, nếu Tỳ kheo đến chỗ con cầu đọc tụng kinh, cầu y chỉ thì con nói với Tỳ kheo này rằng: Thầy có thể trọn đời tu hạnh A-lan-nhã, mặc y phấn tảo, khất thực, ngày ăn một bữa, ngồi nơi đất trống, thì Ta mới có thể dạy cho thầy đọc tụng kinh và cho thầy y chỉ”. Nếu Tỳ kheo này có thể hành hạnh đầu đà này thì con mới dạy đọc tụng kinh và cho y chỉ, do nhân duyên này thưa Thế tôn, đồ chúng của con mới có oai nghi thanh tịnh như thế. Phật hỏi tôi: “Cựu Tỳ kheo có lập chế, thầy có biết không?” Tôi đáp: “Không biết thưa Thế tôn, cựu Tỳ kheo lập chế như thế nào?” Phật nói: “Ta muốn trong bốn tháng yên tĩnh nên đã bảo các Tỳ kheo rằng: các Tỳ kheo không được đến chỗ ta, trừ người đưa thức ăn và vào ngày bố tát. Các Tỳ kheo vâng lời ta dạy nên đã lập chế: Nếu có Tỳ kheo nào không phải là người đưa thức ăn đến cho Phật và vào ngày bố tát mà đến chỗ Phật thì phạm Badật-đề. Các Tỳ kheo lập chế rồi đến bạch Ta và Ta đã chấp thuận, tôi nói: “Thế tôn, cựu Tỳ kheo biết ý này không?” Phật nói: “Sao lại không biết, nhưng từ nay Ta cho phép Tỳ kheo hành hạnh đầu đà, sống nơi A-lan-nhã, mặc y phấn tảo dù là người đưa thức ăn hay không phải là người đưa thức ăn; vào ngày bố tát hay không phải vào ngày bố tát đều được tùy ý đến chỗ ta”. Lúc đó các Tỳ kheo suy nghĩ: “Tại sao chúng ta không xả những y của cư sĩ cúng để mặc y phấn tảo”, nghĩ rồi liền xả tất cả y của cư sĩ đã cúng để mặc y phấn tảo.