THẬP HUYỀN MÔN HOA NGHIÊM NHẤT THỪA

Nước Đại Đường, núi Chung Nam Thái Nhất, chùa Trí Tương, Tổ Trí Nghiêm soạn theo lời của Tổ Đỗ Thuận
Chân Hiền Tâm dịch từ Hán sang Việt

LỜI CỦA CƯ SĨ DƯƠNG VĂN HỘI: Người xiển dương Thập Huyền Môn của Đại giáo này là Sơ Tổ của Hoa Nghiêm. Ngài Hiền Thủ giữ nguyên đưa vào trong Giáo Nghĩa Chương. Đại ý thì như nhau nhưng lời văn có gãy gọn hơn. Đến khi làm ra bộ Thám Huyền Kí thì biến cãi thành hai tên. Lấy Nhất Hoa Diệp Diễn Thuyết làm bản gốc cho Thanh Lương Huyền Đàm. Người sau chẳng biết cho là Thập Huyền của Thanh Lương khác của Hiền Thủ. Đó là vì chưa thấy Thám Huyền Kí vậy. Nay Giáo Nghĩa Chương cùng với Huyền Đàm đều được lưu hành ở đời, nhưng tôi vẫn khắc quyển này là muốn người biết đến cội nguồn của nó (Cư sĩ Dương Văn Hội).

Nêu rõ nghĩa TỰ THỂ NHẤT THỪA PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI chẳng đồng với Duyên khởi của Đại thừa và Nhị thừa ( chỉ hay lìa chấp, thường đoạn các lỗi v.v…) Tông này chẳng phải vậy. Một tức tất cả, không có lỗi để lìa, không có pháp chẳng đồng vậy.
Nay theo tông chỉ của kinh Hoa Nghiêm để thấu hiểu PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI. Cũng chẳng ngoài NHÂN và QUẢ của tự thể.
Gọi là NHÂN đó, là phương tiện duyên tu, thể cùng vị mãn. Chính là Phổ Hiền vậy.Gọi là QUẢ đó, là cái quả viên mãn tịch diệt rốt ráo của tự thể. Đó là cảnh giới của Thập Phật. Một tức tất cả. Phẩm Thập Phật Thế Giới Hải và Ly Thế Gian nói rõ nghĩa Thập Phật này.
Hỏi: Văn Thù cũng là nhân, vì sao chỉ nói Phổ Hiền là nhân?
Đáp: Dù đầu tiên là phát khởi diệu tuệ, nhưng viên mãn là ở chỗ đầy khắp. Thế nên, ẩn ở Văn Thù mà chỉ nói đến Phổ Hiền. Cũng có thể, Văn Thù và Phổ Hiền là căn cứ nơi đầu và cuối để thấu suốt Duyên khởi vậy.
Nay biện về 2 môn NHÂN và QUẢ.
QUẢ viên mãn thì dứt tuyệt tướng ngôn thuyết nên chẳng thể dùng ngôn thuyết mà biện. NHÂN thì làm rõ phương tiện duyên tu, nên đây có thể lược sơ qua.
Hỏi: Phẩm Pháp Bất Tư Nghì v.v… cũng làm rõ quả đức,[1] vì sao lại được nói ở môn NHÂN?
Đáp: Những thứ ấy tuy là quả đức, nhưng do đối duyên mà biện quả,[2] chẳng phải là cái quả tịch diệt viên mãn rốt ráo. Nên được nói cùng lần với NHÂN.
Nay ước vào giáo, theo tướng tự thể mà biện Duyên Khởi thì trong đó có hai:
1/ Nêu thí dụ để biện thành pháp.
2/ Biện pháp để hội được lý.
NÊU THÍ DỤ ĐỂ BIỆN THÀNH PHÁP
Phẩm Bồ Tát Dạ Ma Thiên Hội Vân Tập nói “Thí như số 10 thêm 1 cho đến vô lượng đều là từ số căn bản, nhờ trí tuệ mà có sai biệt”. Nay nêu lên 10 số làm thí dụ. Có 2 môn : Một là Dị thể môn. Hai là Đồng thể môn.
1. DỊ THỂ MÔN
Dị thê môn có hai [3]:
1a. Nhiều trong một, một trong nhiều:
Như trong kinh nói “Trong một mà hiểu vô lượng. Trong vô lượng mà hiểu một. Triển chuyển mà sanh chẳng phải thật. Người trí thì không sợ hãi”. Đây là ước trên tướng mà nói.
1b. Một tức nhiều, nhiều tức một :
Như trong kinh Đệ Thất Trụ nói “Một tức là nhiều, nhiều tức là một. Vị tịch diệt thảy bình đẳng, xa lìa tướng điên đảo một – khác. Ấy gọi là Bồ tát Bất Thối Trụ”. Đây là ước trên lý mà nói.
Nay ước vào 10 số để rõ NHIỀU TRONG MỘT, MỘT TRONG NHIỀU. Hoặc là theo chiều thuận đi từ 1 đến 10. Hoặc là theo chiều nghịch đi từ 10 trở lại 1. Như 1, là do duyên mà thành 1. Trong 1 tức có 10 nên 1 được thành. Nếu không có 10 thì 1 chẳng thành. Vì không tánh, do duyên mà thành, nên trong 1 có 10. Vì thế mà 1 thành. 2, 3, 4 … tất cả đều thành. Nếu 1 có tự tánh thì 10 chẳng thành. 10 nếu chẳng thành thì 1 cũng chẳng thành.
Hỏi: Đã nói những thứ ấy không tánh thì MỘT – NHIỀU sao thành được?
Đáp: Đó là do tương ưng với lực dụng của thật đức pháp giới duyên khởi, là cảnh giới Phổ Hiền. Vì thế MỘT – NHIỀU thường thành, chẳng tăng chẳng giảm. Như kinh Duy Ma nói “Từ gốc vô trụ mà lập bày tất cả pháp”. Luận cũng nói “Vì có nghĩa không mà tất cả pháp được thành
Hỏi: Môn này nhiếp trì pháp giới, là tận hay bất tận ?
Đá : Cũng tận cũng bất tận. Vì sao? 1 trong 10 là tận, 10 trong 1 nói đủ thì bất tận. Thì biết, trong 1 v.v… đều đủ nghĩa tận và bất tận vậy.
Sau là làm rõ MỘT TỨC NHIỀU, NHIỀU TỨC MỘT. Vẫn đồng như môn trước, đi từ 1 đến 10 và đi từ 10 trở lại 1. Tương tự, 1 là do duyên 10 mà thành. Nếu 1 chẳng phải 10[4] thì 10 chẳng thành. Theo chiều tới hay ngược trở lại đều như vậy. 10 là do duyên 1 mà thành. Nếu 10 không phải 1, thì 1 chẳng thành.
Hỏi: Vì sao 1 chẳng thành thì 10 cũng chẳng thành?
Đáp: Như cột nhà nếu khác nhà, thì lúc ấy không có nhà. Nếu có nhà thì cũng có cột nhà. Vì cột nhà tức là nhà, nên có nhà thì có cột nhà. 1 tức 10 thì 10 tức 1, nên 1 thành thì 10 cũng thành.
Hỏi: Nếu 1 tức 10 thì sẽ không có 10. Sao lại nói 1 với 10? Sao nói vì “tức” nên “thành”?
Đáp: 1 tức 10 thì chẳng phải 1, là chẳng phải thật 1. Đó là do duyên mà thành 1. Do duyên mà thành 1, nên chẳng phải thật là 1. Thế nên kinh nói “1 cũng chẳng phải 1, chỉ vì muốn phá các số”. Người trí kém hay chấp trước các pháp, thấy 1 cho là 1 vậy.
Hỏi: Trước nói rõ 10 trong 1, đây nói rõ 1 tức 10, có gì sai biệt?
Đáp: Trước làm rõ 10 trong 1 là lìa 1 không có 10 nhưng 10 chẳng phải là 1. Đây làm rõ 1 tức 10 là lìa 1 không có 10 mà 10 chính là duyên để 1 được thành[5].
Hỏi: Nếu MỘT – NHIỀU cần phải đợi duyên mới thành, vậy đồng thời hay có trước sau?
Đáp: Đợi đủ duyên mới thành nên vốn đồng thời mà cũng có trước sau. Đó là vì : 1 tức 10 và 10 tức 1, nên đồng thời. Nhưng theo chiều đi tới và theo chiều ngược lại, nên có trước sau.
Hỏi: Đã có trước, sau, đến, đi rõ ràng, tức là có tăng có giảm, sao gọi là bản tướng bất động?
Đáp: Tuy có trước, sau, đến, đi nhưng thường bất động. Kinh nói “Không tướng đến mà đến vậy”. Như MỘT tức NHIỀU mà tướng MỘT thì bất động. Tướng MỘT này cũng chẳng phải thật là MỘT. NHIỀU cũng như vậy. Tuy NHIỀU tức là MỘT nhưng tướng NHIỀU chẳng hoại, cũng chẳng phải thật là NHIỀU.
Hỏi: Như MỘT – NHIỀU nói đây là do duyên mà thành, chẳng đồng với cái cho là thật. Vậy MỘT – NHIỀU là sẵn như thế hay chỉ mới có?
Đáp: Đây vốn có mà chẳng có. Giờ muốn theo trí mà biện hay là từ nơi tự thể của MỘT – NHIỀU mà biện cái vốn có ấy? Nếu không nói đến trí, chỉ ngay nơi thể mà biện thì thể ấy tuyệt dứt mọi luận đạo,[6] đồng với cái quả viên mãn rốt ráo lìa tướng ngôn thuyết. Nay biện MỘT – NHIỀU là căn cứ ở trí mà biện. Kinh nói “Trí tuệ sai biệt”. Lại nói “Người trí thì không sợ hãi”. Nên MỘT – NHIỀU là căn cứ ở trí mà nói.
Hỏi: Nếu theo trí mà vốn có, thì cái vốn có ấy là nhờ trí soi chiếu?
Đáp: Như hư không trong thất đường. Khi mở cửa ra nhìn thì hư không vốn sẵn đó. Kinh Niết Bàn nói “Thấy Phật tánh rồi thì chẳng phụ thuộc ba thời”.
Hỏi: Cũng là mới có phải không?
Đáp: Như khi thấy thì nói có, khi không thấy thì không nói có, nên cũng gọi là mới có vậy.
Hỏi: Nếu thể của MỘT – NHIỀU là do trí soi chiếu, tức gồm cả vốn có và vốn không có, thì khi trí này chiếu cũng gồm luôn có chiếu và không chiếu ư?
Đáp: Vốn có, nên trí là cái không chiếu. Vốn không có, nên nhờ trí. Vì thế mà biết chiếu thông cả chiếu và không chiếu. Hết thảy pháp đều theo lệ đó.
2. ĐỒNG THỂ MÔN
Môn đồng thể này cũng như môn trước. Tương tự, vẫn là nói rõ NHIỀU TRONG MỘT, MỘT TRONG NHIỀU và MỘT TỨC NHIỀU, NHIỀU TỨC MỘT. Nay ngay nơi môn trong 1 mà nói. Vẫn theo chiều từ 1 đến 10, hoặc chiều ngược lại. Trong đó nghịch hay thuận mỗi thứ đều đủ 10 môn. Nay lược nêu nguồn gốc của nó.
Ước vào 10 và 1 mà nói thì giống như 10 trong 1, do duyên mà thành. Nếu không có 10 thì 1 chẳng thành. 2, 3 cũng vậy. 10 tức 1 cũng vậy.
Hỏi: ĐỒNG THỂ MÔN so với DỊ THỂ MÔN có gì khác?[7]
Đáp: DỊ THỂ MÔN nói 10 trong 1 là do hướng đến 9 số sau, nên nói là 10 trong 1. Còn ĐỒNG THỂ MÔN nói 10 trong 1 là trong 1 có 9, nên nói 10 trong 1 vậy.[8]
Hỏi: Nếu trong 1 có 9 thì cái trong 1 có 9 đó so với 1 tức 10 của DỊ THỂ MÔN trên có gì khác?[9]
Đáp: Đây nói 1 có 9 là có đối với tự thể của 9, còn 1 chẳng phải 9. Theo Dị THỂ MÔN thì 1 khác thể với 10 v.v… nhưng 10 chẳng lìa 1.
Hỏi: Trong 1 đã tự có 9, đâu cần duyên mới thành nghĩa?
Đáp: Nếu không có duyên mà thành, há có 9 sao?
Hỏi: Thể của 1 vì sao có 9?
Đáp: Nếu không có 9 thì không có 1.
Giờ làm rõ về cái 1 tức 10 trong ĐỒNG THỂ MÔN. Cũng nói 1 là do duyên mà thành 1 nên 1 tức là 10. Vì sao? Nếu 10 khác 1 thì 1 chẳng thành. 1 tức là 10 đã vậy, thì 1 tức là 2 là 3 cũng vậy. Thuận, nghịch mỗi thứ 10 môn đều vậy.
Hỏi: Đây nói tự thể 1 tức là 10, so với cái 10 trong 1 của ĐỒNG THỂ MÔN có gì khác?[10]
Đáp: Trước nói rõ trong ĐỒNG THỂ MÔN là 1 có 10, nhưng 1 chẳng phải 10. Đây nói rõ 1 tức 10 mà 1 chính là 10. Đó là chỗ khác nhau vậy[11].
Hỏi: Đây làm rõ thể của 1 tức là 10, là nhiếp hết thảy pháp?[12]
Đáp: Tùy trí sai biệt mà cũng tận cũng vô tận. Vì sao? Như 1 nếu nhiếp 10 thì gọi là tận, nếu nói đầy đủ thì vô tận[13].
Hỏi: Tự ngay môn này vô tận hay nhiếp môn khác cũng vô tận?
Đáp: 1 vô tận thì chỗ khác vô tận. Nếu chỗ khác vô tận, 1 cũng vô tận. Nếu 1 thành thì tất cả liền thành. Nếu 1 chẳng thành thì tất cả chẳng thành. Nên đây nhiếp pháp là vô tận. Lại, nghĩa vô tận thành 1 thì đối với nghĩa 3 và 4 cũng như hư không, chính là tận,hoàn toàn chẳng nhiếp cái khác. Vốn gọi là vô tận nên cũng nhiếp tận và vô tận.
Hỏi: Đã nói 1 nhiếp hết, vậy chỉ nhiếp 10 trong 1 thôi hay cũng nhiếp luôn 10 của những chỗ khác?
Đáp: Nhiếp 10 của những chỗ khác cũng có nghĩa tận và vô tận. Vì sao? Vì lìa tha thì không có tự. 1 nhiếp chỗ khác là vô tận vì nghĩa của 1 thành. Nghĩa 10 của những chỗ khác như hư không nên có tận.
Trên nêu rõ 10 số làm thí dụ đã xong. Dưới làm rõ phần ƯỚC VÀO PHÁP ĐỂ HỘI LÝ.
ỨNG VÀO PHÁP ĐỂ HỘI LÝ
Phàm có 10 môn:
1. Đồng thời cụ túc tương ưng môn. (Đây lấy cái tương ưng không có trước sau mà nói).
2. Nhân Đà La Võng cảnh giới môn (Đây dùng thí dụ mà nói).
3. Bí mật ẩn hiển câu thành môn (Đây lấy duyên mà nói).
4. Vi tế tương tục an vị môn (Đây ứng trên tướng mà nói).
5. Thập thế cách pháp dị thành môn (Đây lấy thế gian mà nói).
6. Chư tạng thuần tạp cụ đức môn (Đây dùng hạnh mà nói).
7. Nhất đa tương dung bất đồng môn (Đây ước trên lý mà nói).
8. Chư pháp tương tức tự tại môn (Đây dùng dụng mà nói).
9. Duy tâm hồi chuyển thiện thành môn (Đây ước trên tâm mà nói).
10. Thác sự hiển pháp sanh giải môn (Đây ứng vào trí mà nói).
10 môn này, từng môn lại đều đủ 10, hội thành 100. Nói 10 là: Giáo nghĩa, lý sự, giải hạnh, nhân quả, nhân pháp, phần tề cảnh vị, pháp trí sư đệ, chủ bạn y chánh, nghịch thuận thể dụng, tùy sanh căn dục tánh.
1. Giáo Nghĩa: GIÁO chính là phần giáo của Tam thừa và Ngũ thừa bao gồm cả thông tướng và biệt tướng. Tức lấy biệt giáo để luận biệt nghĩa. Cho nên được lý mà quên giáo. Nếu nhập đây mà thông cả tông và giáo thì chính là NGHĨA, vì đồng thời tương ưng vậy.
2. Lý Sự: Nếu y nơi phần giáo Tam thừa mà biện thì SỰ riêng hiển LÝ riêng. Như các kinh đưa ra SỰ riêng dụ cho LÝ riêng. Nếu là tông này thì SỰ tức là LÝ. Như Nhập Pháp Giới v.v… thì kinh văn là THỂ, thật chính là LÝ, tướng hiển tức là SỰ.
3. Giải Hạnh: Như thuyết của Tam thừa là GIẢI mà chẳng phải HẠNH. Như nói tên người mà chẳng biết người ấy. Nếu thông cả tông và thuyết thì HẠNH tức là GIẢI. Như nhìn thấy mặt người, chẳng nói tên người ấy mà tự biết. Tướng hiển là HẠNH. Khế hợp với hậu tế là GIẢI.[14]
4. Nhân Quả: Tu tướng là NHÂN. Khế hợp với chỗ tối cùng là QUẢ.
5. Nhân Pháp: Văn Thù hiển diệu tuệ. Phổ Hiền hiển đầy khắp. Làm rõ NHÂN tức là PHÁP.
6. Phần Tề Cảnh Vị: Xen trong nhau mà không lẫn vào nhau,[15] mỗi thứ đều trụ ở phần vị của nó, chính là PHẦN TỀ CẢNH VỊ.
7. Pháp Trí Sư Đệ: Khai phát là SƯ, tướng tướng thành là ĐỆ TỬ.
8. Chủ Bạn Y Chánh: Nêu một làm CHỦ, thứ còn lại làm BẠN. Lấy chủ làm CHÁNH, bạn chính là Y.
9. Nghịch Thuận Thể Dụng: Chính là nghĩa thành – hoại vậy.
10. Sanh Theo Căn Dục Tánh: Tùy duyên mà thường ứng. Như kinh Niết Bàn nói “Phương này thì thấy đầy tròn, phướng khác chỉ thấy một nửa,mà mặt trăng thật không có tròn khuyết”. Nếu là tông này thì hiểu : Thường tăng giảm mà vốn không tăng giảm, vì đồng thời tương ưng. Song thể của 10 môn này không có trước sau. Phần Tương Ưng đủ hết 10 môn. 9 môn còn lại là Nhân Đà La v.v… cũng đều đủ 10 môn. Sao chỉ có 10 môn? Bởi trong đó mỗi môn đều đầy khắp pháp giới. Nêu 10 môn mà thành nghĩa vô tận vậy.
Nay giải thích môn đầu tiên.
1. ĐỒNG THỜI CỤ TÚC TƯƠNG ƯNG MÔN (Môn Tương ưng đồng thời đầy đủ)
Là nói đầy đủ rõ ràng đồng thời 10 môn giáo nghĩa, lý sự v.v… Vì sao được vậy? Do lực dụng của Thật Đức Pháp Tánh Duyên Khởi Hải Ấn Tam Muội mà được như vậy. Chẳng phải do phương tiện duyên tu tạo thành nên được đồng thời.
Căn cứ nơi nhân đồng thời thì, Tiểu thừa nói về nhân quả là chuyển nhân để thành quả, nhân diệt quả mới thành. Đại thừa thì nhân quả được đồng thời nhưng chẳng hiển được nghĩa vô tận của nó. Như những duyên của nhà giúp thành nhà. Nhân quả đồng thời thành mà chẳng thành vật khác. Vì nhân có thân sơ. Vì thế mà thành có tận. Nếu thông tông và rõ nhân quả thì nêu sơ duyên để nhập thân duyên. Cho nên, khi nhà thành thì tất cả pháp đều nhất loạt thành. Nếu có một pháp chẳng thành thì nhà cũng chẳng thành. Như bước đầu nếu đến thì tất cả bước đều đến. Nếu có một bước chẳng đến thì tất cả bước đều chẳng đến. Kinh nói “Tuy thành Đẳng Chánh Giác mà chẳng bỏ sơ phát tâm”. Kinh Đại Phẩm nói “Chẳng phải sơ chẳng lìa sơ, chẳng phải hậu chẳng lìa hậu mà rõ bồ đề vậy”.
Hỏi: Đã nói một bước đến ngay, sao cần phải dùng bước thứ hai?
Đáp: Ông nói một bước đến ngay, vì nhiều tức là một phải không? Lại nói sao dùng bước thứ hai, thì bước thứ hai này là vì một tức là nhiều phải không? Nếu bước đầu là nhiều tức là một, bước hai là một tức là nhiều, sao còn nói bước đầu đến chẳng cần dùng bước thứ hai?
Hỏi: Nếu MỘT chẳng phải là NHIỀU TỨC LÀ MỘT ; NHIỀU cũng chẳng phải là MỘT TỨC LÀ NHIỀU, vì sao một bước chẳng thể đến?
Đáp: Dù đi nhiều bước rốt cuộc cũng chẳng đến. Nên biết, một bước và nhiều bước vốn có nghĩa đến và chẳng đến. Trong nhân còn như vậy thì trong quả cũng không có nghĩa quả. Kinh Niết Bàn nói “Người trí cần phải nói chắc cũng có cũng không”.
Nay nêu một bước đến, chính là do Định Lực Hải Ấn Pháp Giới Duyên Khởi mà nói đến và chẳng đến. Không đồng với cái nói đến và chẳng đến mà cho là thật. Kinh nói “Chỉ người ứng độ [16]mới có thể thấy mà vẫn không mất nhân quả, không lọt vào đoạn thường. Kinh nói “Thâm nhập duyên khởi đoạn các tà kiến” là đây vậy.
Hỏi: Nếu nhân quả đồng thời thì nhân là quả. Nhân mà thành quả ư? Sao có thể nói chẳng mất nhân quả?[17]
Đáp: Như Địa Luận nói “Y nơi duyên có 2 loại mà thị hiện 2 loại thời. Y nơi nghĩa của nhân gọi là nhân. Y nơi nghĩa của quả gọi là quả”. Há có thể mất nhân quả sao? Đã nói nhân quả đồng thời, sao gọi là mất được? Nếu nó mất sao lại gọi là nhân quả đồng thời? Nhân quả đồng thời đã vậy thì giáo nghĩa, lý sự v.v… đồng thời cũng vậy.
Hỏi: Đã nói đồng thời tương ưng, nay nêu một việc nhân quả là đủ hết 10 môn giáo nghĩa … phải không?
Đáp: Đây chỉ nêu 10 môn là muốn hoàn thành nghĩa vô tận. Nếu luận về 3 thứ thế gian viên dung thì chỉ một sự là đủ 10 môn, cũng đủ vô tận vô lượng pháp giới, hư không, pháp môn, thành vô tận lại vô tận. Nếu y nơi việc riêng lẽ mà luận thì chẳng thành vô tận, chỉ đồng với Đại thừa.
2. NHÂN ĐÀ LA VÕNG CẢNH GIỚI MÔN (Môn Cảnh giới Nhân Đà La Võng)
Đây nương nơi thí dụ để rõ. Cũng vẫn đầy đủ 10 môn giáo nghĩa v.v…
Như kinh Phạm Võng nói “Lấy lưới Nhân Đà La ở Phạn cung làm ví dụ”. Nói lưới Nhân Đà La, là lấy lưới của điện Đế Thích làm ví dụ. Nếu lấy lưới của điện Đế Thích làm ví dụ thì trước cần phải biết qua tướng của lưới này. Tướng đó như thế nào? Như các gương cùng chiếu lẫn nhau, sẽ thấy ảnh của các gương trong một gương. Cũng vậy, trong ảnh lại hiện các ảnh, trong từng ảnh đó lại hiện các ảnh. Ảnh hiện trùng trùng điệp điệp mà thành vô tận vô tận ảnh vậy. Cho nên kinh Đệ Thất Địa Tán Thỉnh nói “Trong mỗi vi trần hiện vô lượng vô biên vô số ức Phật thuyết pháp. Đây chính là trí Chánh giác”. Thế gian lại nói “Trong mỗi vi trần hiện vô lượng Phật quốc có núi Tu Di kim cương bao quanh. Thế gian vẫn không bị chèn lấn”. Đây là căn cứ trên khí thế gian. Lại nói “Trong mỗi một vi trần hiện hữu ba đường ác, trời, người và A tu la. Mỗi mỗi nhận lảnh nghiệp báo”. Đây là căn cứ trên chúng sanh thế gian. Lại nói “Một vi trần được thị hiện, tất cả vi trần cũng như vậy. Nơi một vi trần hiện quốc độ. Vi trần của quốc độ đó lại thị hiện. Nên thành vô tận lại vô tận”. Đây chính là PHÁP GIỚI DUYÊN KHỞI như trí, như lý, thật đức như vậy. Chẳng phải là phương tiện đối duyên biến hóa mà nói. Với chỗ hiểu của Đại thừa thì nói “Do thần lực biến hóa nên Đại Tiểu được tương nhập”. Hoặc nói “Do Bồ Tát lực mà vào”. Hoặc nói “Do bất nhị nên vào”. Chẳng đồng với cái nói của Nhất thừa.
Hỏi: Nếu tông này rõ được sự tương nhập bất kể thần lực, lại nói tự thể thường như vậy, đó là cảnh giới trùm khắp không cùng, không đầu, không cuối , vì sao ở đó lại có thể biện nhân quả, giáo nghĩa v.v…?
Đáp: Vì theo trí sai biệt nên nêu một làm chủ, cái còn lại làm bạn. Như lưới trời Đế Thích nêu một hạt châu làm chủ, các hạt châu còn lại hiện hình trong đó. Một hạt châu đã vậy. Tất cả hạt châu cũng hiện như vậy. Cho nên kinh trước nêu, một Bồ tát làm chủ, tất cả Bồ tát khác nhiễu quanh. Mỗi Bồ Tát đều như vậy. Lại như các phương đều chứng thành cùng một danh hiệu. Tất cả mười phương chứng thành cũng đều như vậy. Vì thế mà thành vô tận lại vô tận nhưng chẳng mất nhân quả thứ lớp trước sau. Vì THỂ không tăng không giảm vậy. Kinh nói “Tất cả chúng sanh đều thành Phật thì Phật giới cũng chẳng tăng, chúng sanh giới cũng chẳng giảm. Nếu không có chúng sanh nào thành Phật thì chúng sanh giới cũng chẳng tăng, Phật giới cũng chẳng giảm”.
3. BÍ MẬT ẨN HIỂN CÂU THÀNH MÔN (Môn Ẩn hiển bí mật đều thành)
Đây là nương theo Duyên Khởi mà nói. Vẫn đủ 10 môn giáo nghĩa v.v… trước.
Nói ẨN – HIỂN là, như chữ KHUYẾT và chữ ĐẦY trong kinh Niết Bàn. Xưa nói chữ KHUYẾT nên chữ KHUYẾT là HIỂN, chữ ĐẦY là ẨN. Nay nói chữ ĐẦY, thì chữ ĐẦY là HIỂN mà chữ KHUYẾT là ẨN. Đây là căn cứ theo duyên mà nói ẨN – HIỂN. Lại như phẩm Nguyệt Dụ nói “Phương này thấy mặt trăng khuyết, phương khác thấy mặt trăng tròn, nhưng tánh mặt trăng kia thật không có tròn khuyết, chỉ tùy duyên mà thấy nên có tăng giảm”. Đây là phần thuyết của Đại thừa. Nếu tâm thông mà biện thì chẳng đợi nói cùng chẳng nói. Thường khuyết thường tròn ẩn hiện không có lúc riêng. Như tánh mặt trăng kia thường đầy mà thường khuyết. Đầy khuyết không khác thời. Thế nên, Như Lai ở trong một niệm, tám tướng thành đạo khi sanh tức là diệt, vì đồng thời đều thành. Bởi vậy mà gọi là bí mật. Như 10 số, 1 tức 10 thì 1 là HIỂN. 2, 3, 4 cho đến 10 là ẨN . Lại, nhãn căn nhập chánh thọ là HIỂN, ở trong sắc pháp khởi tam muội, gọi là ẨN. Song ẨN – HIỂN này, thể của nó không có trước sau. Nên nói BÍ MẬT vậy.
4. VI TẾ TƯƠNG DUNG AN VỊ MÔN (Môn An vị tương dung vi tế)
Đây là ngay nơi tướng mà nói. Như một vi trần là tướng nhỏ. Vô lượng Phật quốc, núi Tu Di Kim Cang v.v… là tướng lớn. Chính là do thật đức vô ngại tự tại duyên khởi làm cho TƯƠNG DUNG, chẳng phải do trời người tạo ra, nên AN VỊ. Như trong một vi trần có quốc độ nhơ mà ngay chính trong vi trần ấy cũng có quốc độ tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đang trong vi trần ấy, tướng quốc độ tịnh này chẳng mất mà đối với quốc độ nhơ kia cũng không trở ngại. Cho đến các quốc độ thanh lương và quốc độ có cờ xí bồn chậu hiện ở ba phương bốn gốc, cũng đang cùng trong một vi trần mà không chướng ngại nhau. Nên phẩm Phổ Hiền nói “Tất cả các thế giới vào trong một vi trần, thế giới chẳng tích tụ cũng chẳng ly tán”. Nên biết, nếu tương ưng cùng khắp thì trong một vi trần có thể thấy vô lượng quốc độ mà chẳng tạp loạn, chẳng tăng, chẳng giảm. Sao có thể cho hạt cải chứa núi Tu Di là việc khó? 10 môn lý sự v.v… an vị, tương dung cũng lại như vậy.
Hỏi: Môn tương dung và môn lưới Nhân Đà La trước có gì sai khác?
Đáp: Các môn ẩn hiện lẫn nhau làm phát khởi trùng trùng điệp điệp mà thành vô tận thì nhiếp vào môn lưới Nhân Đà La. Nếu các môn nhất thời hiện đủ chẳng chướng ngại nhau thì nhiếp vào môn tương dung.
5. THẬP THẾ CÁCH PHÁP DỊ THÀNH MÔN (Môn thập thế cách pháp riêng thành)
Đây ứng vào tam thế mà nói. Như phẩm Ly Thế Gian nói “Thập thế là, quá khứ nói quá khứ, quá khứ nói vị lai, quá khứ nói hiện tại, hiện tại nói hiện tại, hiện tại nói vị lai, hiện tại nói quá khứ, vị lai nói vị lai, vị lai nói quá khứ, vị lai nói hiện tại. Tam thế là nhất niệm, hợp với chín thứ trước đó làm thành thập (10) vậy”. Như vậy THẬP THẾ nhờ lực duyên khởi nên tương tức lại tương nhập mà chẳng mất tam thế. Như năm ngón tay làm thành bàn tay mà chẳng mất ngón tay. Thập thế tuy đồng thời mà chẳng mất thập thế. Nên kinh nói “Kiếp quá khứ nhập vị lai. Kiếp hiện tại nhập quá khứ. Kiếp vị lai nhập hiện tại”. Lại nói “Trường kiếp nhập đoản kiếp. Đoản kiếp nhập trường kiếp. Hữu kiếp nhập vô kiếp. Vô kiếp nhập hữu kiếp”. Lại nói “Quá khứ là vị lai. Vị lai là quá khứ. Hiện tại là quá khứ. Bồ Tát đều liễu tri”. Lại nói “Vô tận vô số kiếp có thể chỉ là nhất niệm chẳng dài chẳng ngắn. Sở hành của người giải thoát là vậy”. Thập thế tương nhập lại tương tức mà chẳng mất các tướng trước, sau, dài, ngắn nên nói CÁCH PHÁP DỊ THÀNH. 10 môn giáo nghĩa, lý sự … tương tức tương nhập mà chẳng mất tướng sai biệt trước sau nên gọi là DỊ THÀNH vậy.
6. CHƯ TÀNG THUẦN TẠP CỤ ĐỨC MÔN (Môn Thuần tạp ẩn tàng đầy đủ công đức)
Đây dựa trên các độ mà nói. Vì sao? Như lấy ngay môn thí mà nói, thì tất cả vạn pháp đều gọi là thí, thế nên nói là THUẦN. Mà môn thí này thì chứa đủ hạnh của các độ khác nên gọi là TẠP. Như thế, THUẦN và TẠP chẳng chướng ngại nhau nên gọi là CỤ ĐỨC (đầy đủ công đức). Như phẩm Nhất Niệm của kinh Đại Phẩm nói rõ “Từ đầu chí cuối chẳng ngoài nhất niệm, gọi là THUẦN. Mà trong nhất niệm này thì đủ cả vạn hạnh, gọi là TẠP”. Dù vậy, so với đây nghĩa THUẦN – TẠP có khác. Vì sao? Vì nhất niệm trong kinh kia cùng đây không được tương ưng, chẳng rõ được đức dụng của Duyên Khởi. Nếu nắm rõ được THUẦN, ước vào môn thí mà nói thì tất cả đều là thí. Nói môn nhẫn thì tất cả đều là nhẫn. Nói môn nhẫn thì các hạnh như hư không, gọi là THUẦN. Môn nhẫn này đầy đủ các môn, gọi là TẠP. THUẦN – TẠP chẳng loạn nhau nên gọi là CỤ ĐỨC. Nên chẳng đồng với phẩm Nhất Niệm kia.
Hỏi: Nghĩa 6 độ tương nhiếp kia cùng với đây có gì sai khác?
Đáp: Nghĩa tương nhiếp của 6 độ là lấy bố thí nhiếp các độ khác mà các độ khác chẳng phải là bố thí. Còn đây thì biết rằng, lấy thí nhiếp hết các môn mà không có môn nào không phải là thí. Vì lực của Duyên Khởi nên chẳng đồng với 6 độ nhiếp nhau. Nên 1 nhiếp 9 và 10 mà 9 và 10 đều là 1. Thế nên gọi là THUẦN. Trong 1 lại đầy đủ 9 và 10 nên gọi là TẠP. Nên biết, nghĩa tương nhiếp của 2 thứ chẳng đồng vậy.
Hỏi: Đây cùng với nghĩa tương trợ của Đại Phẩm kia có gì sai khác? Cái TRỢ trong Đại Phẩm kia thiếu 1 thì chẳng thành. Đây 10 số thiếu 1 cũng chẳng thành. Cả 2 chưa hiểu có gì sai khác?
Đáp: Đại Phẩm nói tương trợ mà NĂNG chẳng phải là SỞ. Đây nói 10 thành 1 mà 1 tức là 10. Cho nên nghĩa TRỢ chẳng đồng.
7. NHẤT ĐA TƯƠNG DUNG BẤT ĐỒNG MÔN (Môn Một nhiều tương dung chẳng đồng)
Đây là ước trên lý mà nói. Vì một vào nhiều, nhiều vào một nên nói là dung nhau (TƯƠNG DUNG). Thể thì không có trước sau nhưng chẳng mất tướng một – nhiều, nên nói CHẲNG ĐỒNG. Đây chính là Thật Đức Duyên Khởi, chẳng phải là chỗ tu hành của trời người.[18] Nên kinh nói “Vì một Phật độ đầy khắp mười phương, mười phương vào một Phật độ cũng không dư. Bổn tướng của thế giới cũng chẳng hoại. Nguyện lực tự tại nên được vậy”. Như phẩm Phổ Hiền nói “Thân tất cả chúng sanh vào trong thân một chúng sanh. Thân của một chúng sanh vào trong thân của tất cả chúng sanh”. Lại nói “Tất cả các thế giới nếu vào trong một vi trần mà các thế giới chẳng tích tụ cũng chẳng tạp loạn”. Núi Tu Di vào trong một hạt cải thì đây chẳng nói.
9. CHƯ PHÁP TƯƠNG TỨC TỰ TẠI MÔN (Môn vạn pháp tương tức tự tại )
Đây ước trên dụng mà nói. Vẫn đủ 10 môn giáo nghĩa, lý sự v. v…
Được 3 thứ thế gian viên dung, vô ngại, tự tại nên một nhiếp tất cả, thành vô tận lại vô tận. Vì vô tận nên tương tức lại tương nhập. Đây là ước trên dụng mà nói.
Hỏi: Đây làm rõ vô tận lại vô tận, tương tức lại tương nhập, so với môn Lưới Nhân Đà La và môn Vi Tế Tương Dung trước có gì sai biệt?
Đáp: Như đã nói trong ĐỒNG THỂ MÔN “Các môn ẩn hiện lẫn nhau làm phát khởi trùng trùng điệp điệp mà thành vô tận thì nhiếp vào môn lưới Nhân Đà La. Nếu các môn nhất thời hiển đủ chẳng chướng ngại nhau thì nhiếp vào môn Tương Dung”. Nếu tam thế viên dung, vô ngại, tự tại, tương tức lại tương nhập, thành vô tận lại vô tận, thì chính là môn nhiếp này.
Hỏi: Nếu tương tức lại tương nhập thành vô tận lại vô tận như vậy thì đây và cảnh giới vô cùng trùm khắp. Đâu là thủy, là chung, là nhân, là quả?
Đáp: Đây là căn cứ vào thể tánh pháp giới duyên khởi mà thành vô tận lại vô tận. Nên trước, sau, nhân, quả chẳng mất. Tuy chẳng mất trước sau nhưng trước sau tương tức lại tương nhập mà thành vô tận. Vì trước sau tương tức lại tương nhập nên khi mới phát tâm liền thành chánh giác. Như những điều nói ở môn trước, một tức tất cả, vô tận lại vô tận. 2, 3 cũng như vậy. Nên kinh này tán thán công đức của người mới phát tâm “Nhất niệm công đức kia sâu rộng không có ngằn mé. Như Lai phân biệt nói cùng kiếp cũng chẳng thể hết”. Đây để rõ một tức tất cả, thành tất cả vô tận. Lại nói “Hà huống trong vô lượng, vô số, vô biên kiếp, tu đầy đủ các hạnh công đức của các độ và các địa”. Đây chính là từ 2, 3 đến 9, 10 đều thành vô tận. Cho nên, từ địa vị cuối Thập tín đến Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng thảy đều rõ việc thành Phật. Thật là do đầu cuối tương tức lại tương nhập mà thành vô tận.
Hỏi: Trước đã làm rõ quả đức dứt tuyệt tướng ngôn thuyết, vì sao tâm cuối Thập tín lại đầy đủ cái dụng quả đức của Phật? Nếu Thập tín đồng quả đức thì quả đức là tướng có thể nói, sao nói chẳng thể nói?
Đá : Bồ Tát khi còn ở nhân vị mà có quả đức, là muốn nêu bày cái quả đức chẳng thể nói. Cho nên văn tán thán công đức “Bồ Tát ở một địa này thâu nhiếp công đức của tất cả địa khác”.
Hỏi: Nếu một địa thâu nhiếp công đức của tất cả địa, một tức tất cả, sơ lại nhiếp hậu, một môn liền đủ, vì sao còn dùng các môn khác?
Đáp: Nếu không có các môn khác, một môn cũng chẳng thành. Như 1 thăng thuộc 1 đấu.[19] Nếu không có 1 thăng, đấu ấy cũng chẳng thành.
Hỏi: Nếu không có thăng thì không có đấu, nay nêu 1 thăng thì được 1 đấu phải không? Nếu 1 thăng chẳng được 1 đấu thì 1 bước chẳng đủ tất cả bước.
Đáp: 10 thăng họp thành 1 đấu. Khi đã không có thăng làm sao tạo thành đấu? Cho nên, không có thăng thì không có đấu. Có thăng liền có đấu. Đây nêu thăng tức là đấu thì ngoài thăng của đấu không riêng có đấu của thăng.[20] Như lông rùa sừng thỏ chẳng thể có được. Sơ tâm liền thành Phật. Ngoài cái thành Phật ấy không riêng có sự tu hành. Tướng của nó như hư không. Cho nên nói sơ tâm thành Phật không có nghĩa là không đầy đủ các công đức. Như kinh nói “Phổ Trang Nghiêm đồng tử cả đời đều gặp Phật nghe pháp, liền được tam muội, tận hậu tế thì thấy Phật. Sau khi chết lại được tam muội. Qua một đời lại được thấy Phật nghe pháp. Nếu huân tập hai đời thì được hiểu và hành (giải hạnh). Ba đời được nhập quả hải”.[21] Đồng một cây đại thụ Duyên Khởi mà ba đời chỉ trong nhất niệm. Như đi xa mà đến là ở bước đầu. Nhưng bước đầu này đến, không có nghĩa là không nhờ những bước sau. Nói rõ việc đồng tử nhập được quả hải đây không phải là không gieo trồng thiện căn lâu xa.
Hỏi: Đã nói tu lâu mới được, vì sao nói nhất niệm liền được?
Đáp: Nói tu hành thiện căn lâu xa là thuộc về giáo của Tam thừa. Từ Tam thừa nhập Nhất thừa. Chính là nhất niệm, trước sau đầy đủ. Nên kinh nói “Khi mới phát tâm liền thành Chánh giác. Cho đến đầy đủ tuệ thân[22] chẳng do nơi khác mà ngộ. Thí như các dòng chảy vào biển cả. Vừa nhập một giọt, đầy khắp biển cả không đầu không cuối. Như nước ròng của các sông khác không bằng một giọt nhập vào biển cả”. Cho nên, tu Tam thừa nhiều kiếp chẳng bằng nhất niệm của Nhất thừa. Vì thế, dưới nêu rõ Thiện Tài từ chỗ Văn Thù phát tâm cầu Thiện tri thức, trải qua một trăm mười thành rồi mà chẳng bằng nhất niệm được thấy Bồ tát Phổ Hiền. Nên biết, nhập được biển cả nhất niệm duyên khởi này, há chẳng thành Phật sao? Đến như mấy người mới tập dụng tâm, thủ chặt cái tâm tịch tĩnh liền nói Phật thành. Đây cũng nói Phật thành mà chưa được cái thành viên mãn tối cùng. Như các sông ngòi cũng đều là nước nhưng chưa đồng được với nước của biển cả. Sau là biện rõ nghĩa của nhất niệm thành Phật.
1. Nếu là Tiểu thừa thì nói, phải trải qua 3 đại a tăng kỳ kiếp, mãn 100 kiếp tu tướng hảo nữa mới được thành Phật. Tu hành nếu như ý đó thì không muốn thành Phật cũng không được. Nên không mang cái nghĩa nhất niệm thành Phật.
2. Nếu là Đại thừa thì nêu rõ nghĩa nhất niệm thành Phật có 2 thứ:
a. Hội duyên để nhập thật tánh, không có ít nhiều. Là nêu rõ nghĩa nhất niệm thành Phật. Như nghĩa của phẩm Nhất Niệm trong kinh Đại Phẩm vậy.
b. Mọi hạnh đã mãn, tu tối hậu niệm gọi là thành Phật. Như người đi xa lấy bước cuối là đến.
Đây lại phân dụng Duyên Khởi để rõ việc tu đạo trải qua 3 a tăng kỳ kiếp. Trước Thập Địa là một a tăng kỳ kiếp. Sơ Địa đến Thất Địa là một a tăng kỳ kiếp nữa. Bát Địa đến Thập địa là tăng kỳ kiếp thứ 3. Song cũng chẳng nhất định. Vì có nhất niệm thành Phật nên biết rõ chẳng nhất định.
3. Nếu là Nhất thừa, thì nhất niệm thành Phật đó giống như Đại thừa lấy nhất niệm tối hậu thành Phật. Chính là nhập Nhất thừa. Sau đó mới thấy được cái niệm đầu tiên chính là niệm thành. Vì sao? Vì nhân quả tương tức đồng thời ứng. Nên muốn luận về cái thành đó thì thành rồi lại thành, thành rồi lại thành. Chúng sanh muốn sau thành Phật thì sau rồi lại sau, sau rồi lại sau. Nên phẩm Bất Tư Nghì nói “Chư Phật Như Lai trước không phải không giác, chỉ vì chúng sanh nên trên từng niệm từng niệm mà đoạn kiết sử, cũng chẳng trụ nơi học địa mà thành Chánh giác”. Nên nay nêu NHẤT NIỆM THÀNH là được địa vị đồng thời với Phật, nhưng chưa thấy được rốt ráo, thành có cạn sâu sai khác. Như người mới ra khỏi cửa cùng với khi đi chơi chỗ khác đã lâu. Tuy cùng trong hư không mà xa gần có khác. Cho nên, các vị Thập tín, Thập trụ v.v… mỗi thứ đều nói thành Phật mà vẫn biện về chỗ cạn sâu của chúng. Chỗ này nên khéo suy nghĩ!
9. DUY TÂM HỒI CHUYỂN THIỆN THÀNH MÔN (Môn Duy tâm hồi chuyển khéo thành)
Đây ước trên tâm mà nói. Nói DUY TÂM HỒI CHUYỂN là, các môn giáo nghĩa v.v… đều do tánh chân tâm thanh tịnh Như Lai Tạng kiến lập. Hoặc thiện hoặc ác đều theo tâm mà chuyển, nên nói HỒI CHUYỂN THIỆN THÀNH. Ngoài tâm không riêng có cảnh nên nói DUY TÂM. Nếu thuận chuyển, gọi là niết bàn. Nên kinh nói “Tâm tạo ra các Như Lai”. Nếu nghịch chuyển đó là sanh tử. Nên nói “Ba cõi hư vọng chỉ do tâm tạo”. Sanh tử, niết bàn đều chẳng ngoài tâm. Thế nên, chẳng thể khẳng định rằng tánh là tịnh hay bất tịnh. Kinh Niết Bàn nói “Phật tánh không phải tịnh cũng không phải bất tịnh”. Tịnh cùng bất tịnh đều duy tâm. Nếu lìa tâm hoàn toàn không có pháp khác. Kinh Lăng Già nói “Ngoài tâm không có cảnh giới, không có trần, chỉ do hư vọng mà thấy”.
Hỏi: Nếu ngoài tâm không riêng có cảnh, có và không đều do tâm tạo, như có người trước thấy có vật che chắn bên ngoài, khi người lạ mang vật ấy đi, tâm người kia vẫn cho là có, nhưng thật ra vật đã không, sao nói do tâm tạo?
Đáp: Nếu theo tâm hư vọng mà chuyển, thì vật ngăn chướng bên ngoài cũng theo tâm mà thành có hay không. Tâm này lại theo vật có hay không ấy mà chuyển. Nếu theo tánh tâm chân thật thanh tịnh Như Lai Tạng mà luận, thì vật này bản xứ bất động, thể ứng 10 phương, tánh hằng thường chuyển, dù dịch chuyển đến phương khác mà bản xứ thường bất động. Đây chính là lực duyên khởi tự tại. Song chẳng phải là chỗ biến hóa huyễn thuật tạo ra. Cho nên, tuy 7 xứ 9 hội[23] mà chẳng lìa đạo tràng tịch diệt. Duy Ma nói “Văn Thù Sư Lợi, chẳng có tướng đến mà đến, chẳng có tướng thấy mà thấy” là chỗ này vậy.
10. THÁC SỰ HIỂN PHÁP SANH GIẢI MÔN (Môn Nhờ sự hiển pháp sanh giải)
Đây ước trên trí mà nói. Nói THÁC SỰ là, như kinh nêu việc của Kim Sắc Thế Giới[24] chính là hiển bờ mé chân thật đầu tiên sinh ra pháp. Tất cả các việc như cờ lọng là hạnh thể. Lại như phẩm Pháp Giới nói mở cửa lâu quán thấy sở hành, nhân sự cho đến đạo tràng bồ đề của Bồ tát Di Lặc. Vì lâu quán chính là tướng bồ đề. Thế nên nói HIỂN PHÁP CHỦ GIẢI vậy. Theo Đại thừa thì cũng nhờ vào sự mà hiển pháp. Song sự riêng hiển lý pháp riêng. Còn đây, vì sự tức là pháp nên nêu bày theo một sự mà nhiếp pháp vô tận. Vì thế, trước nêu cờ lọng v.v… đều nói tất cả. Cho nên, chẳng đồng với chỗ nói của Đại thừa. Đây nói rõ nhân quả giống như Nhất thừa nói vậy.
Hoa Nghiêm Nhất Thừa Thập Huyền Môn hết.

[1] Quả đức: Chỉ cho vô lượng công đức mà quả Phật có đủ. Như 4 đức thường, lạc, ngã, tịnh, 4 tứ vô úy …

[2] Những gì còn trong vòng đối đãi đều chưa phải là chỗ rốt ráo.

[3] Bản Hán là 3. Nhưng trong quá trình dịch thuật, không tìm thấy 3 mà chỉ thấy 2 nên ghi là 2.

[4] Nếu 1khác 10. Đã nói 1 tức phải có 2 , 3 … 10. Nghĩa là 2,3 …10 là nhân duyên làm nên 1. Cũng như 1 là nhân duyên làm nên 10 v.v… Không có 2,3 … 10 … không đặt vấn đề 1. Do sự dính liền mật thiết đó mà nói 1 không khác 10. KHÁC, nghĩa là không có sự dính líu liên hệ với nhau. Như chiếc ly này tách biệt độc lập với ly kia. Không có chiếc này, chiếc kia vẫn tồn tại. Vì thế thứ gì là nhân duyên của nhau thì những thứ đó luôn luôn có quan hệ với nhau, đều thuộc dạng KHÔNG KHÁC nói đây. Như vải là nhân duyên làm ra áo thì nói vải không khác áo, dù vải không phải là áo.

[5] “Là duyên để 1 được thành” là muốn nhấn mạnh đến mặt duyên khởi của pháp. Khởi thì đồng khởi không có trước sau. 10 trong 1 là nói về mặt SỰ TƯỚNG của pháp. Sự tướng thì thấy có tướng sai biệt nên nói 10 chẳng phải 1. Song sự tướng thì không hề rời LÝ THỂ. Lý thể là chỗ không thể diễn tả bằng ngôn từ hay tri thức. Chỉ có thể dựa vào mặt sự tướng (hiện tượng) để biết sự có mặt của phần lý thể đó. Nó được biểu hiện thành cái “10 tức 1” nói đây. (Phần này sẽ được giải thích rõ ngay phần luận sau). Hàng Tiểu thừa chỉ nhận được mặt hiện tượng “Lìa 1 không có 10 mà 10 không phải 1” – là phần duyên khởi còn có thứ lớp trước sau – mà chưa thấu được mặt duyên khởi đồng thời của vạn pháp. Vì chưa nhận được cội nguồn chân thật nhất tâm.

[6] Luận đạo : Những gì thuộc về ngôn thuyết, điều lý, thứ tự, nghiên cứu, lý lẽ v.v…

[7] So sánh giữa 2 cái TRONG của môn Đồng thể và môn Dị thể.

[8] DỊ THỂ là nói về mặt khác nhau của 10 số. ĐỒNG THỂ là nói đến cái chung của 10 số. Như tướng của con ngài khác tướng con bướm, là mặt dị thể của chúng. Nhưng ngài phải CÓ bản chất bướm thì ngài mới hóa thành bướm được, là mặt đồng thể của chúng. 1 CÓ 9 là nghĩa như vậy.

[9] Đây là do nghe phân tích cái TRONG giữa 2 môn Đồng và Dị, mà người hỏi liên tưởng đến cái TỨC (là mặt đồng hiện) của môn Dị thể với cái TRONG của môn Đồng thể. Cái cùng hiện đó có giống với mặt đồng thể của 1 và 10 không? Căn cứ vào những lý giải đây thì cái CÓ và cái đồng hiện không thể giống nhau. Về mặt hiện tượng, ta thấy con ngài có trước, bướm có sau. Như 1 có trước 10 có sau. Với cái TỨC trong môn Dị thể thì chúng đồng hiện không có trước sau. Nên phần trả lời sau nói “1 khác thể với 10 mà 1 không lìa 10”. THỂ nói đây chỉ cho tướng của 1 và 10. Cái KHÔNG LÌA đó là muốn nói đến mặt đồng thời khởi. Con ngài không giống con bướm. Nhưng không có con ngài thì không có con bướm, không có con bướm thì không có con ngài. Vì thế một khi đã có ngài và bướm thì chúng phải xuất hiện không có trước sau. Thấy có trước sau như hiện nay là do còn mê, chỉ thấy được một mặt của pháp. Rõ ràng mặt đồng khởi không dính gì đến bản chất giữa ngài và bướm. Dù không có bản chất đó thì không có cái đồng thời khởi này. Cái CÓ nói đó được biểu hiện bằng câu “1 có 9 là có đối với tự thể của 9” trong câu trả lời sau. Đó là chỗ vi tế khác nhau giữa cái TỨC của Dị thể môn với cái TRONG của đồng thể môn.

[10] Đây là so sánh giữa cái TRONG và cái TỨC trong cùng một cửa ĐỒNG THỂ.

[11] Phần TRONG của Đồng thể là nói đến bản chất của 1 và 10. Là nói đến bản chất của ngài chính là bướm nhưng ngài chưa phải là bướm, thuộc về nhân. Nên nói “1 có 10 mà 1 chẳng phải là 10”. Còn cái TỨC của Đồng thể môn là nói đến tánh thể rốt ráo của 1 và 10 v.v… Cái thể ấy, 1 hay 10, bướm hay ngài, chúng sanh hay Phật … đều như nhau.

[12] Hết, là nghĩa TẬN.

[13] Nói đầy đủ là nói hết tất cả số … là nói đến vô cực.

[14] Hậu tế : Bờ mé sau cùng, chỉ cho cội nguồn nhất tâm chân như. GIẢI nói đây là muốn chỉ đến phần lý thể chứng được, không còn nằm trên lý thuyết như của Tam thừa.

[15] Mượn hình ảnh ánh sáng hòa với nhau để hình dung chỗ này. Ngôn từ khó diễn tả.

[16]

[17] Bản Hán trg 3

[18] Không phải là chỗ mà việc tu hành thuộc phước báu nhân thiên có thể thấu được.

[19] Dụng cụ đo đếm. 10 thăng bằng 1 đấu.

[20] Đây là muốn hiển bày tính duyên khởi của pháp. Có cái này mới có cái kia. Có quả mới gọi là nhân. Có nhân mới gọi là quả. Không nhân thì không quả. Không quả cũng không nhân. Vì thế nhân là nhân của quả, quả là quả của nhân. Không có nhân riêng quả riêng.

[21] Đây nói đến thuyết ba đời thành Phật của tông Hoa Nghiêm : Lấy ba đời sánh với ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai.

. Quả hải : Chỉ cho trí tuệ và công đức lớn như biển của Phật.

[22] Tuệ thân: Một trong ngũ phần pháp thân, là thân đã được thành tựu từ tuệ vô lậu.

[23] 9 hội : Chin lần pháp hội của kinh Hoa Nghiêm.

[24] Kim Sắc Thế Giới : Chỉ cho cõi tịnh độ của ngài Văn Thù